Tải bản đầy đủ (.doc) (50 trang)

skkn nâng cao hiệu quả thực hiện quy chế dân chủ cơ sở ở trường trung học phổ thông xuân mỹ, huyện cẩm mỹ, tỉnh đồng nai giai đoạn 2016 – 2020

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (270.63 KB, 50 trang )

BM 01-Bia SKKN

SỞ GIÁO DỤC VÀ ĐÀO TẠO ĐỒNG NAI
Đơn vị Trường THPT Xuân Mỹ
Mã số: ................................
(Do HĐKH Sở GD&ĐT ghi)

SÁNG KIẾN KINH NGHIỆM
Nâng cao hiệu quả thực hiện quy chế dân chủ cơ sở
ở trường Trung học phổ thông Xuân Mỹ, huyện
Cẩm Mỹ, tỉnh Đồng Nai giai đoạn 2016 – 2020

Người thực hiện: Đỗ Huy Khánh
Lĩnh vực nghiên cứu:
- Quản lý giáo dục



- Phương pháp dạy học bộ môn: ............................. 
(Ghi rõ tên bộ môn)

- Lĩnh vực khác: ....................................................... 
(Ghi rõ tên lĩnh vực)

Có đính kèm: Các sản phẩm không thể hiện trong bản in SKKN
 Mô hình
 Đĩa CD (DVD)
 Phim ảnh  Hiện vật khác
(các phim, ảnh, sản phẩm phần mềm)

Năm học: 2015 - 2016




BM02-LLKHSKKN

SƠ LƯỢC LÝ LỊCH KHOA HỌC
––––––––––––––––––
I. THÔNG TIN CHUNG VỀ CÁ NHÂN
1. Họ và tên:

Đỗ Huy Khánh

2. Năm sinh:

30 - 05 -1977

3. Nam, nữ:

Nam

4. Địa chỉ:

Xã Long Giao - Cẩm Mỹ - Đồng Nai

5. Điện thoại:

(CQ)/0613 790113

6. Fax:

E-mail:


7. Chức vụ:

Hiệu trưởng

ĐTDĐ:

0975.167.225

8. Nhiệm vụ được giao: Quản lý giáo dục
9. Đơn vị công tác:

Trường THPT Xuân Mỹ

II. TRÌNH ĐỘ ĐÀO TẠO
- Học vị (hoặc trình độ chuyên môn, nghiệp vụ) cao nhất: Thạc sỹ
- Năm nhận bằng: 2002, 2011, 2013, 2016.
- Chuyên ngành đào tạo: Thạc sỹ Quản lý giáo dục, Cử nhân Ngữ Văn, Cử
nhân Giáo dục chính trị, Cao cấp lý luận chính trị.
III.KINH NGHIỆM KHOA HỌC
- Lĩnh vực chuyên môn có kinh nghiệm: Giảng dạy, quản lý
- Số năm có kinh nghiệm: 14 năm
- Các sáng kiến kinh nghiệm đã có trong 5 năm gần đây:
1. Một số giải pháp quản lý để đổi mới, phát triển giáo dục – đào tạo tại trường
THPT Xuân Mỹ.
2. Nâng cao hiệu quả giảng dạy trong một tiết văn học sử”.
3. Thực trạng về công tác kiểm tra nội bộ tại trường THPT Xuân Mỹ, nguyên
nhân và các giải pháp khắc phục.
4. Hiệu trưởng quản lý trang thiết bị giáo dục tại trường THPT Xuân Mỹ,
huyện cẩm Mỹ, tỉnh Đồng Nai.

4. Bài báo: Đổi mới công tác quản lý thiết bị giáo dục ở các trường THPT
Huyện Cẩm Mỹ, tỉnh Đồng Nai.

2


5. Đề tài nghiên cứu khoa học: Một số giải pháp quản lý trang thiết bị dạy học ở
các trường THPT huyện Cẩm Mỹ, tỉnh Đồng Nai (luận văn Thạc sỹ).
I. LÝ DO CHỌN ĐỀ TÀI
Từ bao đời nay, dân chủ luôn là nỗi khát vọng sâu xa của mỗi dân tộc, của
mỗi con người. Nó gắn liền với tiến trình phát triển lịch sử của xã hội loài người.
Mỗi thời đại khác nhau, dân chủ lại mang những nội dung mới mẻ hơn, phát triển
hơn. Trong đó, dân chủ xã hội chủ nghĩa chính là thành quả của quá trình đấu tranh
cách mạng, của giai cấp công nhân và nhân dân lao động dưới sự lãnh đạo của
Đảng Cộng sản.
Trong công cuộc đổi mới, Đảng ta rất coi trọng và phát huy quyền làm chủ
của nhân dân, dựa vào dân. Ngày 18/02/1998, Bộ Chính trị đã ra Chỉ thị số 30T/TW về xây dựng quy chế dân chủ ở cơ sở. Để cụ thể hoá Chỉ thị này, ngày
15/05/1998, Chính phủ ra Nghị định 29 NĐ/CP về ban hành Quy chế thực hiện dân
chủ ở xã (được thay thế bằng Nghị định số 79/2003/NĐ-CP ngày 07/7/2003 Ban
hành quy chế thực hiện dân chủ ở xã, Pháp lệnh thực hiện dân chủ ở xã, phường,
thị trấn của Ủy Ban Thường Vụ Quốc Hội số 34/2007/PL-UBTVQH11 ngày
20/4/2007) và Nghị định 71/1998/NĐ-CP ngày 08/9/1998 về ban hành Quy chế
thực hiện dân chủ trong hoạt động của cơ quan (được thay thế bằng Nghị định số
04/2015/NĐ-CP ngày 09/01/2015 về thực hiện dân chủ trong hoạt động của cơ
quan hành chính Nhà nước và đơn vị sự nghiệp công lập). Nghị định số
60/2013/NĐ-CP ngày 19/6/2013 quy định chi tiết Khoản 3 Điều 63 của Bộ luật
Lao động về thực hiện quy chế dân chủ ở cơ sở tại nơi làm việc.
Cụ thể hóa qui chế dân chủ ở các trường học, ngày 01/3/2000, Bộ trưởng Bộ
Giáo dục và Đào tạo đã ban hành Quyết định số 04/2000/QĐ-BGDĐT về việc ban
hành “Quy chế thực hiện dân chủ trong hoạt động của nhà trường". Trong quy chế

nêu rõ trách nhiệm của hiệu trưởng, của giáo viên, cán bộ, công chức; những việc
người học được biết và tham gia ý kiến; trách nhiệm của nhà trường; trách nhiệm
của đơn vị, các đoàn thể, tổ chức trong nhà trường. Quy chế đã đáp ứng được
nguyện vọng của cán bộ, giáo viên, công nhân viên trong các nhà trường theo
3


phương châm: được biết, được bàn, được tham gia ý kiến, được giám sát, kiểm tra
và mở ra một cuộc vận động thực hiện dân chủ hoá trong các trường học.
Từ lãnh đạo Ngành giáo dục đến các cơ sở giáo dục đều nhận thức đúng tầm
quan trọng của việc xây dựng và thực hiện quy chế dân chủ trong các hoạt động
giáo dục và đào tạo. Từ đó đã phát huy quyền làm chủ của cán bộ, giáo viên, công
nhân viên, góp phần xây dựng nhà trường văn hoá, nhà giáo mẫu mực, học sinh
chăm ngoan thanh lịch. Hơn nữa, tăng cường trách nhiệm của Hiệu trưởng nhà
trường cũng như trách nhiệm của mỗi cán bộ, giáo viên trong việc thực hiện công
tác quản lý giáo dục, công tác giảng dạy và phục vụ giảng dạy. Mỗi người của
ngành giáo dục đều hiểu rõ, thực hiện quy chế dân chủ ở trường học là quyền lợi,
trách nhiệm của bản thân, góp phần làm cho sự nghiệp giáo dục của đất nước ngày
càng ổn định và phát triển bền vững. luận và báo giới rất quan tâm tới chất lượng
giáo dục và đào tạo.
Phương châm chung cho sự phát triển đất nước là “phát huy nội lực". Một
trong những giải pháp kích thích sự phát huy nội lực là thực hiện quy chế dân chủ.
Như vậy, chỉ có thực hiện quy chế dân chủ trong nhà trường mới có thể kích thích
và tạo tâm lý tốt cho cán bộ nhân viên cùng học sinh của nhà trường hăng hái công
tác và học tập.
Từ yêu cầu thực tiễn giáo dục của trường Trung học phổ thông Xuân Mỹ,
huyện Cẩm Mỹ, tỉnh Đồng Nai, tôi thấy rằng: dựa trên cơ sở nghiên cứu lý luận về
thực hiện dân chủ trong trường phổ thông và tìm hiểu thực trạng việc thực hiện dân
chủ trong trường phổ thông sẽ giúp cho việc đề ra những biện pháp nhằm tăng
cường thực hiện dân chủ trong đơn vị. Do đó, tôi chọn chủ đề: “Nâng cao hiệu

quả thực hiện quy chế dân chủ cơ sở ở trường Trung học phổ thông Xuân Mỹ,
huyện Cẩm Mỹ, tỉnh Đồng Nai giai đoạn 2016 - 2020" làm đề tài sáng kiến kinh
nghiệm của mình.

4


II. CƠ SỞ LÝ LUẬN, CƠ SỞ THỰC TIỄN
2.1. Cơ sở lý luận
2.1.1. Sự phát triển của dân chủ trong lịch sử
Phạm trù “dân chủ” bắt nguồn từ tiếng Hi Lạp cổ đại là “Demokratia”,
trong đó “Demos” mang nghĩa là nhân dân và “Kratos” mang nghĩa là chính
quyền, quyền lực. Theo nguyên nghĩa, dân chủ có nghĩa là quyền lực của nhân dân.
Dân chủ là một phạm trù lịch sử, đồng thời cũng là một phạm trù chính trị.
Dân chủ xuất hiện ngay từ buổi đầu sơ khai của lịch sử xã hội loài người.
Trong xã hội công xã nguyên thủy, do yêu cầu của cuộc sống, con người đã biết
hợp lực với nhau để tạo nên sức mạnh cộng đồng trong quá trình lao động sản
xuất, để chống chọi với kẻ thù, với thiên nhiên khắc nghiệt… Chính những yêu cầu
đó đòi hỏi họ phải bầu ra những người đứng đầu để thực thi những quy định,
những công việc chung của cộng đồng. Vì vậy, một hình thức dân chủ đã xuất hiện
– dân chủ nguyên thủy. Ph. Ăngghen gọi đây là nền “dân chủ quân sự”. Thông
qua “đại hội nhân dân”, nhân dân bầu ra hội đồng thị tộc và thủ lĩnh quân sự của
mình để quyết định mọi công việc chung quan trọng của thị tộc, bộ lạc. Những thủ
lĩnh quân sự này không có bất kì một đặc quyền, đặc lợi cá nhân nào. Họ thực hiện
vai trò của mình theo ý chí và nguyện vọng của nhân dân. Những thủ lĩnh quân sự
- người đứng đầu này sẽ bị phế bỏ nếu họ không thực hiện được những quy định
chung theo ý nguyện và lợi ích chung của toàn thể cộng đồng.
Có thể nói, trong “nền dân chủ quân sự” quyền lực của nhân dân được xem
là quyền thiêng liêng, quyền lực tối cao và bất khả xâm phạm, được tự nhiên ban
cho mà con người phải phục tùng nó. Dân chủ trong xã hội công xã nguyên thủy,

quyền lực của nhân dân mang đậm tính tự quản, dựa trên những điều kiện kinh tế xã hội còn thấp kém. Đó là hình thức dân chủ đầu tiên trong lịch sử xã hội loài
người – hình thức dân chủ mang tính sơ khai, chất phác, tự nhiên như Ph. Ăngghen
nhận xét: “ Với tất cả tính ngây thơ và giản dị của nó, chế độ thị tộc đó quả là một
tổ chức tốt đẹp biết bao! Không có quân đội, hiến binh và cảnh sát, không có quý
tộc, vua chúa, tổng đốc, trưởng quan và quan tòa, không có nhà tù, không có
5


những vụ xử án, thế mà mọi việc đều trôi chảy… Ở đây, không thể có người nghèo
khổ và thiếu thốn,… Tất cả bình đẳng và tự do, kể cả phụ nữ”. Như vậy, trong chế
độ công xã nguyên thủy với những sinh hoạt cộng đồng sơ khai đã chứa đựng
những yếu tố dân chủ. Đây là hình thái tiền dân chủ, là hình thái dân chủ phi chính
trị.
Nhà nước chủ nô – nhà nước dân chủ đầu tiên ở Hi Lạp cổ đại là Nhà nước
Aten (từ thế kỉ thứ VIII đến thế kỉ thứ V trước công nguyên). Trong nền dân chủ
chủ nô, quyền lực chính trị về cơ bản là bảo vệ lợi ích của giai cấp chủ nô và một
số ít quyền lợi nào đó thuộc về các công dân tự do. So với thời kì công xã nguyên
thủy, dân chủ thời kì này đã trở thành quyền lực của giai cấp thống trị. Các quyền
lợi của giai cấp thống trị và các công dân tự do được thể chế hóa thành luật. Đương
nhiên, pháp luật ấy được duy trì, bảo vệ và thực hiện bởi nhà nước chủ nô; đồng
thời nó mang tính cưỡng bức đối với mọi thành viên trong xã hội. Trong nền dân
chủ chủ nô này, thân phận của người dân lao động, đặc biệt là những người nô lệ
không được coi trọng. Họ chỉ là những “công cụ biết nói”, “những công cụ đặc
biệt”, là vật sở hữu của giai cấp chủ nô, là thứ hàng hóa có thể bị chủ nô đem mua,
bán, trao đổi như những đồ vật.
Bước sang thời kì phong kiến, với tính độc đoán, chuyên quyền của giai cấp
địa chủ, phong kiến, dân chủ thời kì này thực chất là chế độ chuyên chính, độc tài
của giai cấp thống trị. Nếu như ở phương Tây, quyền lực chính trị nằm trong tay
chúa đất và nhà thờ, thì ở phương Đông, quyền lực trong xã hội đều do vua nắm
giữ. Trong xã hội phong kiến, quyền lực tập trung trong tay vua, thần dân không có

quyền lực gì về chính trị
Cuộc đấu tranh cho dân chủ được mở đầu bằng các cuộc đấu tranh, vận động
tư tưởng – văn hóa sôi nổi, rộng lớn mà điển hình là phong trào Phục hưng ở Châu
Âu (từ thế kỉ XIV đến thế kỉ XVI). Phong trào này gắn với những tên tuổi vĩ đại,
“những con người khổng lồ” như Côpecnic, Sếchxpia, Lêôna Đơvanhxi… Nó đã
khẳng định vị trí của con người thực sự với tư cách là chủ thể sáng tạo của xã hội.
Đồng thời, thể hiện những yêu cầu đòi tự do trong tư tưởng và dân chủ trong văn
hóa, trong khoa học, chống lại sự ảnh hưởng chi phối của chủ nghĩa kinh viên, chủ
nghĩa thầy tu và thần học. Các nhà triết học khai sáng với những tên tuổi như:
6


Vonte (1694-1778), Rútxô (1712-1778), Điđơrô (1713-1784) đã đưa ra những tư
tưởng về xây dựng một nhà nước cộng hòa dân chủ.
Tiếp nối truyền thống đấu tranh đó, giai cấp tư sản – một giai cấp tiến bộ
đang lên lúc bấy giờ đã giương cao ngọn cờ “tự do, bình đẳng, bác ái”, tập hợp lực
lượng đông đảo để lật đổ chế độ phong kiến hà khắc, thiết lập quyền lực chính trị
của giai cấp tư sản. Cuộc cách mạng tư sản thắng lợi (tiêu biểu là cuộc Cách mạng
tư sản Pháp, năm 1789) đã thiết lập một chế độ dân chủ mới – dân chủ tư sản.
Dân chủ tư sản ra đời đánh dấu bước tiến mới trong lịch sử phát triển của
chế độ dân chủ. Giai cấp tư sản, trong buổi ban đầu của mình có vai trò to lớn
trong việc xóa bỏ tất cả những chuẩn mực hà khắc trói buộc con người trong xã hội
phong kiến, “đã tạo ra những lực lượng sản xuất nhiều hơn và đồ sộ hơn những lực
lượng sản xuất của tất cả các thế hệ trước kia gộp lại”.
Song về thực chất, nền dân chủ tư sản mang bản chất của giai cấp tư sản. Nó
bảo vệ địa vị chính trị và lợi ích kinh tế của giai cấp tư sản; đồng thời nó chống lại
những tư tưởng tự do, bình đẳng của giai cấp vô sản và toàn thể nhân dân lao động.
Dân chủ tư sản chỉ là dân chủ cho thiểu số, cho giai cấp tư sản mà thôi. Vì vậy, nó
không phải là nền dân chủ của nhân dân, do nhân dân và vì nhân dân. V.I. Lênin đã
vạch trần sự giả dối của nền dân chủ tư sản: “chế độ dân chủ tư sản, tuy là một

bước tiến bộ trong lịch sử vĩ đại so với thời trung cổ, song trước sau nó vẫn là – và
dưới chế độ tư bản nó không thể không là – một chế độ dân chủ chật hẹp, bị cắt
xén, giả hiệu, giả dối, một thiên đường cho bọn giàu có, một cái cạm bẫy và một
cái mồi giả dối đối với những người bị bóc lột, đối với những người nghèo”.
Dân chủ xã hội chủ nghĩa xuất hiện khi giai cấp công nhân cùng với liên
minh của nó thực hiện cuộc cách mạng lật đổ giai cấp tư sản, thiết lập chính quyền
mới. Công xã Pari năm 1871 được xem là thắng lợi chính trị đầu tiên của giai cấp
công nhân. Khi cuộc cách mạng Tháng Mười Nga vĩ đại (năm 1917) giành thắng
lợi đã mở ra một thời đại mới trong lịch sử, giai cấp công nhân và nhân dân lao
động giành được chính quyền, giành lại quyền lực thực sự thuộc về tay nhân dân.
Nhà nước xã hội chủ nghĩa ra đời, thiết lập một nền dân chủ mới để thực hiện
quyền lực của đông đảo quần chúng nhân dân lao động – nền dân chủ xã hội chủ
nghĩa.
7


2.1.2. Quan điểm của chủ nghĩa Mác – Lênin về dân chủ

Trong tác phẩm “Phê phán cương lĩnh Gô – ta”, Mác khẳng định, dân chủ
tức là chính quyền của nhân dân. Con người là điểm xuất phát và cũng là điểm
cuối cùng để đánh giá một chế độ dân chủ hay chuyên chế. Chính vì vậy, dân chủ
phải thực sự “xuất phát từ con người và biến nhà nước thành con người được
khách thể hóa. Cũng giống như tôn giáo, ở đây cũng vậy: không phải chế độ nhà
nước tạo ra nhân dân, mà nhân dân tạo ra chế độ nhà nước… dưới chế độ dân chủ,
không phải con người tồn tại vì pháp luật, mà pháp luật tồn tại vì con người…”.
Từ đó, Mác đem chế độ quân chủ chuyên chế so sánh với chế độ dân chủ.
Nếu như, chế độ quân chủ chuyên chế coi khinh con người, chà đạp lên con người
thì chế độ dân chủ coi trọng con người, hướng tới con người và vì con người.
Nếu như, cuộc cách mạng tư sản giải phóng con người ra khỏi sự ràng buộc,
khỏi xiềng xích của xã hội phong kiến, thì giờ đây, giai cấp tư sản lại tạo ra một

xiềng xích mới khắc nghiệt hơn: một bên là máy móc của các nhà tư bản còn một
bên là dạ dày của người công nhân. Mác và Ăngghen còn chỉ rõ bản chất của giai
cấp tư sản và phương thức sản xuất tư bản chủ nghĩa đã “không để lại giữa người
và người một mối quan hệ nào khác, ngoài lợi ích trần trụi và lối “tiền trao cháo
múc” không tình nghĩa. Do đó, điều kiện tất yếu của giai cấp vô sản là phải thực
hiện một cuộc cách mạng, để giành lấy chính quyền trong giai đoạn thứ nhất của
cuộc cách mạng.
Dân chủ là sản phẩm của quyền tự quyết của nhân dân: Nó phản ánh sự tồn
tại của con người với ý chí, tài năng và lợi ích của họ. Theo Mác và Ăngghen thì
dân chủ phải hướng đến một cơ sở hiện thực, với những con người hiện thực chứ
không chỉ dừng lại ở những lời tuyên bố, dân chủ hình thức.
Sau này Lênin là người kế thừa xuất sắc những giá trị tư tưởng của Mác và
Ăngghen trong đó có tư tưởng về dân chủ. Theo Lênin, dân chủ có nghĩa là tự do
bình đẳng, là quyền quyết định của đa số. Ở đâu có áp bức, bất công thì ở đó không
thể có tự do, không thể có bình đẳng và càng không thể có dân chủ. Lênin cho
rằng, Cách mạng tư sản thành công là một bước tiến mới về dân chủ, nhưng với
bản chất kinh tế là chế độ tư hữu về tư liệu sản xuất nên đã dẫn tới một xã hội
ngày càng mất dân chủ. Do đó, giai cấp vô sản cần phải làm một cuộc cách mạng
8


nhằm lật đổ giai cấp tư sản, thực hiện quyền lực của nhân dân, xây dựng một nền
dân chủ thực sự tốt đẹp cho toàn thể nhân dân lao động.
2.1.3. Tư tưởng Hồ Chí Minh và quan điểm của Đảng ta về dân chủ
Tư tưởng Hồ Chí Minh về dân chủ
Tư tưởng về dân chủ là một trong những nội dung quan trọng trong hệ thống
tư tưởng Hồ Chí Minh. Người nghiên cứu nhiều cuộc cách mạng trên thế giới, đặc
biệt từ nghiên cứu cách mạng tư sản Pháp và cách mạng tư sản Mỹ, Người đi đến
kết luận: “Cách mệnh Pháp cũng như cách mệnh Mỹ, nghĩa là cách mệnh tư bản,
cách mệnh không đến nơi, tiếng là cộng hòa và dân chủ, kỳ thực trong thì nó tước

lục công nông, ngoài thì nó áp bức thuộc địa”. Cho đến nay “Chỉ có cách mệnh
Nga là đã thành công, và thành công đến nơi, nghĩa là dân chúng được hưởng cái
hạnh phúc tự do, bình đẳng thật, không phải tự do và bình đẳng giả dối như đế
quốc chủ nghĩa Pháp khoe khoang như ở bên An Nam”. Người khẳng định, cách
mạng Việt Nam phải đi theo con đường cách mạng xã hội chủ nghĩa, xây dựng nhà
nước chuyên chính vô sản, dưới sự lãnh đạo của Đảng cộng sản Việt Nam.
Cách mạng Tháng Tám năm 1945 thành công, nhà nước Việt Nam dân chủ
cộng hòa ra đời – nhà nước dân chủ nhân dân đầu tiên ở Đông Nam Á. Ngay trong
phiên họp đầu tiên của Chính phủ ngày 3 tháng 9 năm 1945) chủ tịch Hồ Chí Minh
đã nêu lên những nhiệm vụ cấp bách cần giải quyết là chống giặc đói, giặc dốt cho
nhân dân. Hồ Chí Minh nhấn mạnh bản chất nhà nước dân chủ nhân dân mà nhân
dân ta xây dựng đó là:
“Nhà nước ta là nhà nước dân chủ
Bao nhiêu lợi ích đều vì dân
Bao nhiêu quyền hạn đều của dân
Công việc đổi mới, xây dựng là trách nhiệm của dân
Sự nghiệp kháng chiến, kiến quốc là công việc của dân
Chính quyền từ xã đến Chính phủ trung ương do dân cử ra
Đoàn thể từ Trung ương đến xã do dân tổ chức nên
Nói tóm lại, quyền hành và lực lượng đều ở nơi dân”.
Ở Hồ Chí Minh, dân chủ nghĩa là “dân là chủ và dân làm chủ”. Người nói:
“Nước ta là nước dân chủ, địa vị cao nhất là dân, vì dân là chủ”. “Nước ta là nước
9


dân chủ, nghĩa là nước nhà do dân làm chủ” . Hay “chế độ ta là chế độ dân chủ.
Tức là nhân dân làm chủ”. Ở đây, chữ dân theo quan niệm của Người đồng nghĩa
với nhân dân, với quần chúng, dân chúng, đồng bào. Đó là toàn bộ những người
lao động, những người cùng khổ, những người bị áp bức, bóc lột, là con Lạc, cháu
Hồng…trừ bọn việt gian bán nước, làm tay sai cho phát xít, thực dân phản bội Tổ

quốc.
Dân chủ là mục tiêu, là động lực to lớn trong cuộc đấu tranh giành độc lập,
tự do cho dân tộc, cho nhân dân lao động.
Hồ Chí Minh luôn hướng tới việc xây dựng một chế độ dân chủ tiến bộ, xây
dựng nhà nước thực sự của dân, do dân và vì dân, để nhân dân được thể hiện quyền
dân chủ mọi lúc, mọi nơi, mọi lĩnh vực của đời sống xã hội. Người luôn nhắc nhở
rằng, khi cách mạng thành công thì phải giao quyền lực cho “dân chúng số nhiều”
và không nên để trong tay “một bọn ít người”, có như thế mới tránh khỏi hi sinh
nhiều lần, dân chúng mới thực sự được hạnh phúc. Dân chủ gắn liền với thực hiện
bình đẳng, công bằng và tự do nên cũng đồng thời gắn liền với nhà nước. Do đó,
xây dựng nhà nước của dân, do dân và vì dân cũng chính là xây dựng nền dân chủ
xã hội chủ nghĩa.
Người cũng cho rằng thực hành dân chủ cũng là yếu tố quan trọng không thể
thiếu. Mục đích của việc thực hành dân chủ là làm cho dân chúng ai cũng được
hưởng quyền tự do, dân chủ. Theo Chủ tịch Hồ Chí Minh: “Làm sao biết hưởng
quyền dân chủ, biết dùng quyền dân chủ, dám nói dám làm”, là vấn đề cần thiết và
quan trọng. Do đó, cần phải giáo dục cho nhân dân hiểu quyền làm chủ của mình
mọi lúc, mọi nơi. Khi dân biết và dám phê bình người lãnh đạo, khi ấy dân đã biết
nắm quyền dân chủ của mình, đã biết thực hành dân chủ. Hồ Chí Minh khẳng định:
“Thực hành dân chủ là cái chìa khóa vạn năng có thế giải quyết mọi khó khăn”.
Đây là tư tưởng thể hiện tinh thần dân chủ của Hồ Chí Minh.
2.1.4.Quan điểm của Đảng về dân chủ
Phát huy dân chủ, quyền làm chủ của nhân dân là một trong những nội dung
quan trọng và nhất quán trong đường lối cách mạng của Đảng Cộng sản Việt Nam.
Quyền làm chủ của nhân dân không phải chỉ nêu một cách chung chung, trừu
tượng mà được khẳng định trên thực tế, thể hiện trong Hiến pháp và Pháp luật,
10


trong các văn kiện Đại hội Đảng. Hiến pháp nước Việt Nam dân chủ cộng hòa

(1946) đã ghi rõ: “Tất cả binh quyền trong nước là của toàn thể nhân dân Việt Nam
không phân biệt nòi giống, gái trai, giàu nghèo, giai cấp, tôn giáo…”.
Trong Cương lĩnh xây dựng đất nước trong thời kỳ quá độ lên chủ nghĩa xã
hội, Đảng ta đã nhấn mạnh: “Toàn bộ tổ chức và hoạt động của hệ thống chính trị
nước ta trong giai đoạn mới là nhằm xây dựng và từng bước hoàn thiện nền dân
chủ xã hội chủ nghĩa, bảo đảm quyền lực thuộc về nhân dân…”. Báo cáo chính trị
của Đại hội lần thứ VII, Đảng ta cũng đã chỉ rõ: “Thực hiện dân chủ xã hội chủ
nghĩa là thực chất của việc đổi mới và kiện toàn hệ thống chính trị”.
Đến Đại hội đại biểu lần VIII, Đảng ta khẳng định: “Xây dựng nền dân chủ
xã hội chủ nghĩa là một nội dung cơ bản của đổi mới hệ thống chính trị ở nước ta.
Phải có cơ chế và cách làm cụ thể để thực hiện phương châm “dân biết, dân bàn,
dân làm, dân kiểm tra” đối với các chủ trương, chính sách lớn của Đảng và Nhà
nước. Thực hiện tốt cơ chế làm chủ của nhân dân: làm chủ thông qua đại diện, làm
chủ trực tiếp cùng các hình thức tự quản tại cơ sở”.
Đại hội đại biểu toàn quốc lần thứ IX của Đảng được xem là đại hội của trí
tuệ, dân chủ, đoàn kết và đổi mới. Đảng ta tiếp tục khẳng định con đường đi lên
chủ nghĩa xã hội ở nước ta với mục tiêu chung là “độc lập dân tộc gắn liền với chủ
nghĩa xã hội, dân giàu, nước mạnh, xã hội công bằng, dân chủ, văn minh”. Nhà
nước ta là công cụ chủ yếu để thực hiện quyền làm chủ của nhân dân.
Trong Báo cáo chính trị của Ban Chấp hành Trung ương Đảng tại Đại hội
đại biểu toàn quốc lần thứ X, Đảng ta nhấn mạnh: “Dân chủ xã hội chủ nghĩa vừa
là mục tiêu vừa là động lực của công cuộc đổi mới, xây dựng và bảo vệ Tổ quốc,
thể hiện mối quan hệ gắn bó giữa Đảng, Nhà nước và nhân dân. Nhà nước là đại
diện quyền làm chủ của nhân dân, đồng thời là người tổ chức và thực hiện đường
lối chính trị của Đảng”. Để thực hiện quyền lực của nhân dân, Đảng ta nhấn mạnh,
mọi chủ trương, chính sách của Đảng và Nhà nước đều phản ánh lợi ích của đa số
nhân dân lao động.
Đại hội XI của Đảng (2011) chủ trương: Mở rộng dân chủ, phát huy tối đa
nhân tố con người, coi con người là chủ thể, nguồn lực chủ yếu và là mục tiêu của
sự phát triển. Phải bảo đảm quyền con người, quyền công dân và các điều kiện để

11


mọi người phát triển toàn diện. Nâng cao năng lực và tạo cơ chế để nhân dân thực
hiện quyền làm chủ, nhất là dân chủ trực tiếp để phát huy mạnh mẽ mọi khả năng
sáng tạo và bảo đảm đồng thuận cao trong xã hội, tạo động lực phát triển đất nước.

2.1.5. Quy chế dân chủ ở cơ sở nói chung và ở các trường học nói riêng
Đất nước ta trong thời kỳ đổi mới đã có những bước chuyển mình mạnh mẽ,
từ một nền kinh tế kế hoạch hoá, tập trung - bao cấp, chuyển sang nền kinh tế thị
trường. Bên cạnh những thành công về phát triển kinh tế, đổi mới xã hội, chúng ta
vẫn còn những tồn tại và hạn chế, yếu kém, tình trạng tham ô, tham nhũng xảy ra
ngày càng phức tạp, làm suy yếu nền kinh tế, làm nghèo đất nước. Đối với xã hội
thì việc thực hiện pháp luật còn chưa nghiêm, kỷ cương xã hội bị buông lỏng kéo
dài, gây ảnh hưởng nghiêm trọng đến trật tự xã hội. Ở một số nơi cán bộ ở cơ sở đã
lợi dụng chức quyền, nhũng nhiễu nhân dân, do đó đã gây mất lòng tin trong nhân
dân; phát sinh ra mâu thuẫn nội bộ, gây mất đoàn kết trong một số địa phương, gây
ra tình trạng khiếu kiện tập thể ngày càng gia tăng; Quyền làm chủ của nhân dân bị
vi phạm ở nhiều địa phương; nhiều lĩnh vực; tệ quan liêu, sách nhiễu, gây phiền hà
cho dân vẫn đang diễn ra phổ biến.... Đứng trước thực trạng mất dân chủ ở một số
nơi, Đảng ta đã nhận thức được vai trò của việc thực hiện dân chủ ở cơ sở trong sự
ổn định kinh tế, chính trị, xã hội đối với sự phát triển đất nước. Tại Hội nghị Ban
chấp hành Trung ương lần thứ 3 (khoáVIII) Đảng đã yêu cầu phát huy mạnh mẽ
quyền làm chủ của nhân dân trong việc tham gia quản lý nhà nước, quản lý xã hội;
Đảng nhận định: phương châm “dân biết, dân bàn, dân làm, dân kiểm tra” chưa
được thể chế hoá thành pháp luật, cho nên phương châm đó đã chậm đi vào cuộc
sống, quyền làm chủ của nhân dân chưa được thực hiện, thậm chí bị xâm phạm.
Để triển khai đồng bộ, toàn diện và cụ thể việc phát huy quyền làm chủ của
nhân dân, ngày 18/2/1998, Ban chấp hành Trung ương Đảng ra Chỉ thị 30-CT/TW
về xây dựng và thực hiện quy chế dân chủ ở cơ sở được xác định bao gồm 3 loại

hình: xã, phường, thị trấn; cơ quan hành chính Nhà nước và đơn vị sự nghiệp công
lập; doanh nghiệp.

12


Đối với xã, phường, thị trấn, ngày 11/05/1998, Chính phủ ra Nghị định
29/1998/NĐ-CP về ban hành Quy chế thực hiện dân chủ ở xã, đến ngày 07/7/2003
được thay thế bằng Nghị định số 79/2003/NĐ-CP, tiếp đó được thay thế bằng Pháp
lệnh Thực hiện dân chủ ở xã, phường, thị trấn (số 34/2007/PL-UBTVQH11 ngày
20/4/2007 của Ủy Ban Thường Vụ Quốc Hội Khóa 11).
Đối với cơ quan hành chính Nhà nước và đơn vị sự nghiệp công lập, ngày
08/9/1998 Chính phủ đã ban hành Nghị định số 79/2003/NĐ-CP ngày 07/7/2003
Ban hành quy chế thực hiện dân chủ ở xã, Pháp lệnh thực hiện dân chủ ở xã,
phường, thị trấn của Ủy Ban Thường Vụ Quốc Hội số 34/2007/PL-UBTVQH11
ngày 20/4/2007) và Nghị định 71/1998/NĐ-CP ngày 08/9/1998 về ban hành Quy
chế thực hiện dân chủ trong hoạt động của cơ quan (được thay thế bằng Nghị định
số 04/2015/NĐ-CP ngày 09/01/2015 về thực hiện dân chủ trong hoạt động của cơ
quan hành chính Nhà nước và đơn vị sự nghiệp công lập)..
Đối với các doanh nghiệp, Chính phủ ra Nghị định số 60/2013/NĐ-CP ngày
19/6/2013 quy định chi tiết Khoản 3 Điều 63 của Bộ luật Lao động về thực hiện
quy chế dân chủ ở cơ sở tại nơi làm việc.
Cụ thể hóa qui chế dân chủ ở các đơn vị sự nghiệp công lập, cụ thể là ở các
trường học thì ngày 01/3/2000 Bộ trưởng Bộ Giáo dục và Đào tạo đã ban hành
Quyết định số 04/2000/QĐ-BGDĐT về việc ban hành “Quy chế thực hiện dân chủ
trong hoạt động của nhà trường".
Dân chủ hoá nhà trường có hai nội dung cơ bản là: dân chủ hoá quá trình
đào tạo và dân chủ hoá quản lý nhà trường. Để thực hiện được dân chủ hoá nhà
trường, trước tiên phải thực hiện được dân chủ hoá quản lý nhà trường. Vì quản lý
theo tinh thần dân chủ mới đảm bảo tạo nên được những quan hệ xã hội trong nhà

trường có tính dân chủ. Dân chủ hoá quản lý nhà trường là việc tạo môi trường dân
chủ để nhà giáo, cán bộ, người học, gia đình và cộng đồng đều có thể tham gia
quản lý nhà trường và cùng nhau giải quyết tại chỗ mọi vấn đề phát sinh trên cơ sở
công khai, công bằng, tạo điều kiện để mọi người được kiểm tra, đánh giá và tự
kiểm tra, đánh giá. Dân chủ hoá quản lý nhà trường gắn liền với việc tăng cường
quyền chủ động của nhà trường, triển khai các biện pháp nhằm huy động tối đa các
13


mối liên hệ bên trong và bên ngoài nhà trường tham gia vào các hoạt động và quản
lý các công việc của nhà trường.
Dân chủ trong nhà trường hay dân chủ trong quản lý nhà trường chính là
phát huy các mối quan hệ bên trong nhà trường, huy động cán bộ, giáo viên, học
sinh, phụ huynh tham gia quản lý nhà trường. Dân chủ hoá quản lý nhà trường gắn
liền với sự hình thành và hoạt động tích cực của các tổ chức tự quản của cán bộ,
giáo viên, học sinh, đó là việc giải quyết tốt mối quan hệ giữa chế độ thủ trưởng và
nguyên tắc tập trung dân chủ trong quản lý nhà trường, đó cũng là việc tạo điều
kiện cho các tổ chức Đảng, Công đoàn phát huy vai trò của mình đối với việc lãnh
đạo và tổ chức cho quần chúng tham gia quản lý nhà trường.
Trách nhiệm của người đứng đầu cơ quan, đơn vị: Thực hiện dân chủ trong
quản lý và điều hành hoạt động của cơ quan, đơn vị; tổ chức các cuộc họp để đánh
giá kết quả thực hiện các nhiệm vụ được giao và đề ra các nhiệm vụ, giải pháp;
lắng nghe ý kiến phản ánh, phê bình của cán bộ, công chức, viên chức…
Trách nhiệm của cán bộ, công chức, viên chức: chấp hành nội quy, quy chế
làm việc của cơ quan, đơn vị; thực hiện các quy định về nghĩa vụ, đạo đức, văn hóa
giao tiếp, quy tắc ứng xử; trách nhiệm về việc thi hành nhiệm vụ của mình…
Những việc phải công khai để cán bộ, công chức, viên chức biết: chủ trương,
chính sách của Đảng và pháp luật của Nhà nước liên quan đến công việc của cơ
quan, đơn vị, kế hoạch công tác, kinh phí hoạt động, tuyển dụng, đào tạo, bổ
nhiệm, các vụ việc tiêu cực, tham nhũng trong cơ quan các nội quy, quy chế của cơ

quan, đơn vị….
Những việc cán bộ, công chức, viên chức tham gia ý kiến: Chủ trương, giải
pháp thực hiện nghị quyết của Đảng, pháp luật của Nhà nước liên quan đến công
việc của cơ quan, đơn vị; kế hoạch công tác hàng năm, tổ chức phong trào thi đua,
báo cáo sơ kết, tổng kết của cơ quan, đơn vị; các biện pháp cải tiến tổ chức, hoạt
động và lề lối làm việc; phòng, chống tham nhũng, thực hành tiết kiệm, chống lãng
phí, chống quan liêu, phiền hà, sách nhiễu nhân dân; kế hoạch tuyển dụng, đào tạo,
bồi dưỡng cán bộ, công chức, viên chức; bầu cử, bổ nhiệm cán bộ, công chức, viên
chức; các chế độ, chính sách liên quan đến quyền và lợi ích của cán bộ, công chức,
viên chức; các nội quy, quy chế của cơ quan, đơn vị.
14


Những việc cán bộ, công chức, viên chức giám sát, kiểm tra: Thực hiện chủ
trương, chính sách của Đảng và pháp luật của Nhà nước, kế hoạch công tác hàng
năm của cơ quan, đơn vị; sử dụng kinh phí hoạt động, chấp hành chính sách, chế
độ quản lý và sử dụng tài sản, thực hiện các nội quy, quy chế của cơ quan, đơn vị,
các chế độ, chính sách của Nhà nước về quyền và lợi ích của cán bộ, công chức,
viên chức; giải quyết khiếu nại, tố cáo trong nội bộ cơ quan, đơn vị.
Ngoài ra còn có các quy định về trách nhiệm của người đứng đầu cơ quan,
đơn vị, trách nhiệm của cán bộ, công chức, viên chức trong quan hệ và giải quyết
công việc với công dân, cơ quan, tổ chức có liên quan
2.2. Cơ sở chính trị, pháp lý
2.2.1. Cơ sở chính trị
- Văn kiện Đại hội Đại biểu toàn quốc lần thứ XI của Đảng Cộng sản Việt Nam
năm 2011.
- Chỉ thị số 30- CT/TW ngày 18/02/1998 "Về xây dựng và thực hiện quy chế
dân chủ ở cơ sở" của Bộ Chính trị.
- Chỉ thị số 10-CT/TW, ngày 30 tháng 3 năm 2007 của Ban Bí Thư Trung ương
về nâng cao chất lượng sinh hoạt chi bộ.

- Thông báo số 159 – TB/TW, ngày 15 tháng 11 năm 2004 của Ban Bí thư về
kết quả 6 năm thực hiện Chỉ thị số 30 – CT/TW của Bộ Chính trị (khóa VIII) và
tiếp tục chỉ đạo xây dựng và thực hiện quy chế dân chủ.
- Văn kiện Đại Hội Đại biểu Đảng bộ tỉnh Đồng Nai lần thứ X năm 2015.
- Văn kiện Đại Hội Đại biểu Đảng bộ huyện Cẩm Mỹ, tỉnh Đồng Nai lần thứ III
năm 2015.
2.2.2. Cơ sở pháp lý
- Hiến pháp nước Cộng hòa xã hội chủ nghĩa Việt Nam năm 2013.
- Pháp lệnh số 34/2007/PL-UBTVQH11, Pháp lệnh thực hiện dân chủ ở xã,
phường, thị trấn của Ủy Ban Thường Vụ Quốc Hội.
- Nghị định 29/1998/NĐ-CP về ban hành Quy chế thực hiện dân chủ ở xã, đến
ngày 07/7/2003 được thay thế bằng Nghị định số 79/2003/NĐ-CP
- Nghị định số 04/2015/NĐ-CP ngày 09/01/2015 về thực hiện dân chủ trong
hoạt động của cơ quan hành chính Nhà nước và đơn vị sự nghiệp công lập).
- Nghị định số 60/2013/NĐ-CP ngày 19/6/2013 quy định chi tiết Khoản 3 Điều
63 của Bộ luật Lao động về thực hiện quy chế dân chủ ở cơ sở tại nơi làm việc.
- Quyết định số 04/2000/QĐ-BGDĐT, của Bộ Giáo dục và Đào tạo về việc ban
hành “Quy chế thực hiện dân chủ trong hoạt động của nhà trường".
15


- Quyết định số 04/2000/QĐ-BGD-ĐT ngày 01/3/2000 của Bộ giáo dục-Đào
tạo về việc thực hiện qui chế dân chủ trong hoạt động của nhà trường,
- Công văn số 3869/UBND-VX ngày 19/5/2010 của Ủy ban nhân dân tỉnh
Đồng Nai về việc thực hiện văn bản số 81-HD/BCĐ ngày 07/5/2010 của Ban
chỉ đạo thực hiện qui chế dân chủ và công văn số 3965/UBND-VX ngày
24/5/2010 về việc thực hiện công văn số 6576-CV/TU ngày 13/5/2010 của
Tỉnh ủy,
- Công văn số 205/SGD-ĐT-TCCB ngày 12/02/2009 của Sở Giáo dục-Đào tạo
Đồng Nai về việc thực hiện qui chế dân chủ trong hoạt động của nhà trường.

2.3. Cơ sở thực tiễn
Cơ sở thực tiễn của đề án là thực trạng thực hiện quy chế dân chủ cơ sở ở
trường Trung học phổ thông Xuân Mỹ qua các số liệu báo cáo, đánh giá của các
cấp, các ngành trên địa bàn huyện Cẩm Mỹ, tỉnh Đồng Nai.
2.4. Nội dung thực hiện đề tài
2.4.1. Bối cảnh thực hiện đề tài
Trường Trung học phổ thông Xuân Mỹ được thành lập vào năm 2004 trên cơ
sở tách ra từ trường Trung học Cơ sở, Trung học phổ thông Xuân Mỹ. Diện
tích đất: 9535 m2 , trường đóng chân trên địa bàn xã Xuân Mỹ, một xã vùng sâu
vùng xa của huyện Cẩm Mỹ, tỉnh Đồng Nai.
Tổng số cán bộ, giáo viên, công nhân viên nhà trường là: 74 người, trong đó:
Ban giám hiệu: 04 người (trong đó có 02 cán bộ quản lý đạt trình độ thạc sỹ).
Giáo viên: 65 người, trong đó có 8 giáo viên đạt trình độ thạc sĩ (đạt tỷ lệ
12.3%), 2 giáo viên đang theo học thạc sỹ. Công nhân viên: 10 người. Tổng số
tổ chuyên môn: 9. Tổng số phòng học: 17; phòng thực hành: 01, thí nghiệm 01,
máy tính 02, trình chiếu 01, 01 phòng đa chức năng, thư viện đạt chuẩn 1. Tổng
số lớp: 31 lớp (Tổng số học sinh: 1117 học sinh)
Quy mô học sinh các khối lớp
Quy mô học sinh các khối lớp
Tổng số

K10

K11

K12

Năm học 2014 - 2015

1018


376

297

345

KH năm học 2015 2016

1016

382

354

280

2.4.2. Thực trạng triển khai, thực hiện quy chế dân chủ cơ sở ở trường
Trung học phổ thông Xuân Mỹ
2.2.1. Công tác lãnh đạo, chỉ đạo của Chi bộ, Hiệu trưởng nhà trường
Sau khi có Chỉ thị số 30-CT/TW, Chi ủy, Hiệu trưởng nhà trường đã tổ chức
triển khai thực hiện đến toàn thể cán bộ, đảng viên, công chức, viên chức và đến
16


toàn thể phụ huynh học sinh cũng như các em học sinh trong trường các văn bản
có liên quan, gồm: Nghị định số 71/1998/NĐ-CP của chính phủ ban hành Quy chế
thực hiện dân chủ trong hoạt động của cơ quan nay là Nghị định số 04/2015/NĐCP ngày 09/01/2015 của Chính phủ về thực hiện dân chủ trong hoạt động của cơ
quan hành chính Nhà nước và đơn vị sự nghiệp công lập. Quyết định số
04/2000/QĐ-BGDĐT ngày 01/3/2000 của Bộ trưởng Bộ Giáo dục và Đào tạo về

việc ban hành “Quy chế thực hiện dân chủ trong hoạt động của nhà trường".
Để đảm bảo tính thiết thực và hiệu quả thực hiện dân chủ, Chi bộ nhà trường
chỉ đạo Hiệu trưởng nhà trường ra quyết định thành lập Ban Chỉ đạo thực hiện quy
chế dân chủ tại trường Trung học phổ thông Xuân Mỹ; kịp thời kiện toàn, củng cố
Ban chỉ đạo khi có thay đổi về thành viên.
Để thực hiện quy chế dân chủ cơ sở, các nội dung mà lãnh đạo nhà trường
phải công khai và lấy ý kiến đóng góp trong quá trình thực hiện qui chế dân chủ tại
trường gồm:
- Kế hoạch phát triển, tổ chức hoạt động của nhà trường, tháng, học kỳ, năm.
Kế hoạch, chỉ tiêu, tổ chức tuyển sinh hàng năm. Quá trình quản lý, đào tạo những
vấn đề về chức năng, nhiệm vụ lề lối làm việc của cá tổ chức bộ máy trong nhà
trường (Đầu năm học khi có thay đổi phân công, nhân sự).
- Kế hoạch tuyển dụng, đào tạo, bồi dưỡng trình độ chuyên môn, nghiệp vụ
của giáo viên, cán bộ công chức. Kế hoạch xây dựng, sửa chữa, bổ sung cơ sở vật
chất của nhà trường hàng năm. Tổ chức các phong trào thi đua khen thưởng hàng
năm.
- Xây dựng các nội quy, quy định, quy chế trong nhà trường. Báo cáo sơ kết,
tổng kết các hoạt động của trường hàng tháng, học kỳ, năm học.
- Mức độ khen thưởng, kỉ luật cán bộ, giáo viên, công nhân viên và học sinh
trong nhà trường.
- Những việc nhà giáo, cán bộ công chức được biết, tham gia ý kiến, giám
sát thông qua các hình thức dân chủ trực tiếp, hoặc thông qua các tổ chức đoàn thể
trong nhà trường

17


- Những chủ trương, chính sách, chế độ của Đảng, nhà nước đối với nhà
giáo, cán bộ công chức và học sinh. Những quy định về sử dụng tài sản, xây dựng
cơ sở vật chất của nhà trường.

- Việc giải quyết đơn thư khiếu nại, tố cáo theo quy định của luật khiếu nại –
tố cáo.
- Công khai các khoản đóng góp của học sinh, việc sử dụng kinh phí và chấp
hành chế độ thu chi quyết toán theo quy định hiện hành.
- Giải quyết các chế độ quyền lợi, đời sống vật chất, tinh thần cho nhà giáo,
cán bộ, công chức, cho học sinh.
- Việc thực hiện nâng bậc lương, thuyên chuyển, điều động, đề bạt khen
thưởng, kỷ luật. Những vấn đề tuyển sinh, và thực hiện quy chế từng năm học. Báo
cáo sơ kết, tổng kết đánh giá công chức hàng năm.
- Những việc học sinh được biết: Chủ trương chế độ chính sách của nhà
nước, của ngành và những quy định của trường đối với học sinh (nhất là tiêu chuẩn
đánh giá xếp loại, hình thức khen thưởng và kỷ luật). Kế hoạch tuyển sinh, kế
hoạch đào tạo của Trường hàng năm. Những thông tin có liên quan tới việc học
tập, rèn luyện sinh hoạt và các khoản đóng góp theo quy định.
- Những việc học sinh tham gia ý kiến: Nội quy, quy định của nhà trường có
liên quan đến học sinh. Tổ chức phong trào thi đua và các hoạt động khác trong
nhà trường có liên quan đến học sinh. Việc tổ chức giảng dạy, học tập trong nhà
trường có liên quan đến quyền lợi học tập của học sinh.
2.4.3. Kết quả xây dựng và thực hiện quy chế dân chủ
Về trách nhiệm của người đứng đầu
Hiệu trưởng nhà trường đã thực hiện dân chủ trong quản lý, điều hành hoạt
động của trường. Trong các hoạt động của nhà trường luôn đưa ra lấy ý kiến tập
thể. Điển hình như việc lựa chọn điển hình tiên tiến của đơn vị giai đoạn 2010 –
2015, Hiệu trưởng đã tổ chức họp hội đồng, nêu thành tích của những cá nhân ưu
tú, sau đó tiến hành bỏ phiếu kín để chọn ra cá nhân xứng đáng là điển hình tiên
tiến của đơn vị được nhận giấy khen của Sở giáo dục vào tháng 5 năm 2015. Trong
quản lý, sử dụng, đào tạo, bồi dưỡng, thực hiện chế độ, chính sách đối với cán bộ,
công chức, viên chức cũng thể hiện rõ sự dân chủ. Ví dụ như giáo viên đi học nâng
18



cao trình độ, có thể lựa chọn học tập trung không tham gia giảng dạy, vẫn được
hưởng lương nhưng không có phụ cấp đứng lớp; hoặc là tham gia dạy một số tiết
theo quy định của nhà trường thì sẽ được hưởng phụ cấp đứng lớp.
Hàng tháng, Hiệu trưởng nhà trường đều tổ chức họp hội đồng, họp chuyên
môn để đánh giá hoạt động của trường trong tháng vừa qua, đồng thời nêu kế
hoạch hoạt động trong tháng tới. Giáo viên mạnh dạn có ý kiến về các nhận xét của
Hiệu trưởng đối với tập thể hội đồng sư phạm thời gian qua, cũng như đưa ra các ý
kiến đóng góp về kế hoạch hoạt động trong thời gian sắp tới. Không tổ chức họp
tổng kết theo quý, nhưng có tổ chức họp sơ kết học kỳ và tổng kết năm học theo
đặc thù của ngành giáo dục.
Vào cuối tháng 5 hàng năm, Hiệu trưởng có tổ chức đánh giá giáo viên, bình
xét thi đua theo đúng quy định.
Hiệu trưởng luôn lắng nghe ý kiến đóng góp của giáo viên, tuy nhiên việc ý
kiến phản ánh, phê bình của giáo viên, nhân viên đối với Hiệu trưởng nói riêng và
Ban giám hiệu nói chung vẫn chưa nhiều vì còn e ngại, cả nể . Tại đơn vị trường
học, thì giáo viên có thể gặp Hiệu trưởng lúc nào có việc cần, không cần đăng ký.
Do đó việc trao đổi thông tin giữa hiệu trưởng và cấp dưới được thực hiện thường
xuyên, mật thiết.
Hiệu trưởng đã thông báo công khai những việc mà giáo viên, công nhân
viên được biết thông qua cuộc họp, qua việc niêm yết tại bảng tin của trường, qua
trang thông tin điện tử của nhà trường.
Hiệu trưởng ban hành quy chế quản lý trang thiết bị làm việc trong cơ quan
đơn vị vào đầu mỗi năm học. Kinh phí hoạt động hàng năm của trường đã được
công khai rõ ràng bằng cách báo cáo thu chi hàng tháng niêm yết tại bản tin tài
chính của trường. Việc mua sắm thiết bị, phương tiện và các tài sản của nhà trường
thực hiện đúng theo quy định của pháp luật.
Hiệu trưởng đã xây dựng được Kế hoạch phòng chống tham nhũng tại đơn
vị. Tuy nhiên, trong các năm vừa qua nhà trường chưa phát hiện trường hợp nào có
hành vi tham nhũng.

Hiệu trưởng có chỉ đạo niêm yết, hoặc đăng tải những nội dung phải công
khai để giáo viên, công nhân viên nhà trường biết. Hiệu trưởng cũng đã tổ chức lấy
19


ý kiến đối với những việc mà công chức, viên chức tham gia đóng góp ý kiến. Ví
dụ như việc xây dựng quy chế chi tiêu nội bộ được đưa ra thảo luận tại Hội nghị
công chức, viên chức đầu năm học.
Tổ chức Hội nghị cán bộ, công chức, viên chức: đối với cơ sở giáo dục, Hội
nghị cán bộ, công chức, viên chức thường được tổ chức vào thời điểm giữa tháng
10. Hàng năm, trường THPT Xuân Mỹ đều tổ chức hội nghị cán bộ công chức,
viên chức theo đúng quy định mà Nghị định đã hướng dẫn. Năm 2015, trường đã
xây dựng kế hoạch tổ chức hội nghị vào ngày 12 tháng 10 năm 2015.

Về trách nhiệm của giáo viên, công nhân viên nhà trường
Hầu hết giáo viên, công nhân viên nhà trường chấp hành nội quy, quy chế
làm việc của cơ quan. Về vấn đề thực hành tiết kiệm, chống lãng phí vẫn chưa
được thực hiện tốt. Ví dụ như việc tiết kiệm điện, giáo viên và học sinh vẫn chưa
có ý thức tự giác tắt hết các thiết bị điện khi ra khỏi phòng. Nhà trường chưa giáo
dục tốt cho học sinh về ý thức bảo vệ tài sản công.
Về vấn đề thực hiện các quy định về nghĩa vụ, đạo đức, văn hoá giao tiếp,
quy tắc ứng xử, nguyên tắc trong hoạt động nghề nghiệp đa số thực hiện tốt, tuy
nhiên vẫn còn một vài giáo viên cư xử chưa đúng mực, xưng hô không đúng với
học sinh, trang phục khi đến cơ quan không phù hợp.
Việc thực hiện phê bình và tự phê bình chưa nghiêm túc và có hiệu quả. Vào
cuối năm học, nhà trường có tổ chức cuộc họp đánh giá cuối năm, trong đó từng
thành viên sẽ tự nêu những ưu, khuyết điểm của mình và được các thành viên khác
đóng góp vào bản nhận xét. Tuy nhiên việc làm này chỉ mang tính hình thức. Mọi
người e ngại mất lòng, cả nể nhau nên không phê bình thẳng thắn, đồng thời người
tự phê bình cũng chưa nêu rõ được những ưu điểm cũng như khuyết điểm của

mình. Các bản nhận xét đều chỉ mang tính chung chung có nội dung gần giống
nhau.
Tập thể giáo viên, công nhân viên chưa chú trọng việc đóng góp ý kiến vào
việc xây dựng các văn bản, đề án của nhà trường. Hầu hết các văn bản, đề án của
trường đều do cán bộ quản lý làm, một số văn bản như kế hoạch năm học, kế
20


hoạch ứng dụng công nghệ thông tin năm học…có thông qua để lấy ý kiến của tập
thể, nhưng hầu như không có ai góp ý, một số văn bản cũng không thông qua mà
chỉ báo cáo lên cấp trên như đề án dạy và học ngoại ngữ, đề án xây dựng trường
chuẩn quốc gia giai đoạn 2015-2020…
Từ năm 2010 đến năm 2015, trường Trung học phổ thông Xuân Mỹ không
có giáo viên nào vi phạm quy chuẩn đạo đức nhà giáo cũng như vi phạm pháp luật.
Về những việc phải công khai để cán bộ, công chức, viên chức biết
Chủ trương, chính sách của Đảng và pháp luật của Nhà nước liên quan đến
hoạt động của đơn vị đều được Hiệu trưởng công khai trong các cuộc họp, có ghi
biên bản, một số văn bản được niêm yết tại đơn vị, và đăng tải trên trang Thông tin
điện tử của đơn vị. Đối với các văn bản hướng dẫn cụ thể về hoạt động của nhà
trường, hiệu trưởng còn gửi trực tiếp cho các Tổ trưởng để họ nắm rõ và phổ biến
cho giáo viên. Kế hoạch công tác năm và tháng cũng được công khai bằng hình
thức niêm yết.
Kinh phí hoạt động hàng năm của trường đã được công khai rõ ràng bằng
cách báo cáo thu chi hàng tháng, hàng quý và có niêm yết tại bản tin tài chính của
trường, tuy nhiên giáo viên, công nhân viên của trường thường ít quan tâm. Chỉ có
thanh tra nhân dân và một số rất ít giáo viên quan tâm.
Ban giám hiệu nhà trường cũng thực hiện tốt việc công khai về tuyển dụng,
đào tạo, bồi dưỡng, bằng cách thông báo tuyển dụng công khai trên các phương
tiện thông tin đại chúng, tổ chức thi tuyển đúng quy chế. Vì vậy đơn vị
chưa xảy ra vụ việc tiêu cực, tham nhũng nào tại đơn vị. Bản kê khai tài sản thu

nhập của cán bộ quản lý, kế toán được niêm yết công khai tại bản tin nhà trường.
Kết quả thanh tra, kiểm tra, giải quyết khiếu nại, tố cáo được niêm yết tại
bản tin của nhà trường. Các nội quy, quy chế của nhà trường đều được đem ra lấy
ý kiến tập thể và niêm yết tại trường, đồng thời đưa lên trang thông tin điện tử của
trường cũng như gửi văn bản cho từng thành viên.
Trong quá trình thực hiện qui chế dân chủ tại đơn vị, Hiệu trưởng nhà
trường luôn tiếp thu ý kiến đóng góp của tập thể cán bộ, công chức, viên chức
21


trong những vấn đề thuộc thẩm quyền quyết định của người đứng đầu cơ quan để
từ đó có những điều chỉnh cho phù hợp.
Về những việc viên chức tham gia ý kiến
Hầu hết giáo viên, công nhân viên của trường thờ ơ, không tham gia đóng
góp ý kiến với những nội dung được yêu cầu. Hiệu trưởng cũng chỉ đưa ra lấy ý
kiến một số nội dung một cách hình thức, làm chiếu lệ. Một số nội dung không hề
đưa ra lấy ý kiến như báo cáo sơ kết, tổng kết, kế hoạch tuyển dụng… Hầu như
nhà trường chỉ tổ chức lấy ý kiến thông qua hội nghị cán bộ, công chức, viên chức
nhưng giáo viên rất ít đóng góp ý kiến, hầu hết là đồng ý với những nội dung cấp
trên nêu ra.
Về những việc cán bộ, công chức, viên chức giám sát, kiểm tra
Vấn đề này được thực hiện khá tốt. Thanh tra nhân dân của nhà trường làm
việc tích cực, phối hợp cùng với Công đoàn để kiểm tra việc thực hiện quy chế
chuyên môn, nội quy cơ quan. Có báo cáo tổng kết hàng tháng để chấm thi đua.
Định kỳ kiểm tra việc sử dụng kinh phí hoạt động, chấp hành chính sách, chế độ
quản lý và sử dụng tài sản của cơ quan…báo cáo kết quả sau đợt kiểm tra trong
cuộc họp hội đồng, niêm yết tại bảng tin và tổng kết các nội dung kiểm tra trong
hội nghị cán bộ, công chức, viên chức.
Về dân chủ trong quan hệ và giải quyết công việc với công dân, cơ quan,
đơn vị, tổ chức có liên quan

Hiệu trưởng đã chỉ đạo niêm yết tại đơn vị quy chế tiếp công dân và các thủ
tục hành chính thuộc thẩm quyền giải quyết của trường trung học phổ thông. Trong
các thủ tục hành chính nêu đầy đủ nội dung mẫu đơn, lệ phí giải quyết, thời gian
giải quyết.
Hiệu trưởng thường xuyên theo dõi, đôn đốc văn thư trong việc giải quyết
các yêu cầu của người dân, chủ yếu là giải quyết hồ sơ xin chuyển trường, hồ sơ
nhập học của phụ huynh học sinh…văn thư nhà trường thực hiện tốt nhiệm vụ, hầu
hết hoàn thành hồ sơ trong ngày để người dân không phải chờ đợi hoặc đi lại nhiều
lần.
Hiệu trưởng đã bố trí một phòng tiếp dân và phân công các thành viên Ban
giám hiệu trực tiếp công dân để kịp thời giải quyết các yêu cầu, thắc mắc của
22


người dân. Hòm thư góp ý của đơn vị được treo trước cửa phòng tiếp dân, vào cuối
tuần Thanh tra nhân dân sẽ cùng với Hiệu trưởng mở hòm thư góp ý. Tuy nhiên,
cho đến thời điểm hiện tại, nhà trường vẫn chưa nhận được thư góp ý.
Về quan hệ giữa người đứng đầu cơ quan với cơ quan, đơn vị cấp trên
Hiệu trưởng nhà trường đã thực hiện đúng các văn bản chỉ đạo, hướng dẫn
của Bộ Giáo dục và Đào tạo, Sở Giáo dục và Đào tạo Đồng Nai cũng như của Ủy
ban nhân dân tỉnh Đồng Nai.
Hiệu trưởng đã có văn bản xin ý kiến của Sở Giáo dục và Đào tạo đối với
những khó khăn xảy ra trong quá trình điều hành tại đơn vị. Ban giám hiệu luôn
thực hiện tốt việc tham gia đóng góp ý kiến đối với việc xây dựng các đề án, dự án,
kế hoạch của Sở Giáo dục và Đào tạo, nhất là việc đóng góp ý kiến xây dựng kế
hoạch năm học.
Định kỳ, Ban giám hiệu báo cáo hoạt động của nhà trường về Sở Giáo dục
và Đào tạo, như báo cáo tổng kết năm học, báo cáo việc thực hiện các chỉ thị, đề án
theo từng giai đoạn. Hiệu trưởng nhà trường thực hiện tốt công tác báo cáo và
được Sở Giáo dục và Đào tạo tỉnh Đồng Nai tặng giấy khen, là đơn vị xuất sắc

nhất cụm thi đua năm học 2014 – 2015.
Về quan hệ giữa người đứng đầu cơ quan với cơ quan, đơn vị cấp dưới
Hiệu trưởng luôn thông báo bằng văn bản đến các bộ phận các chủ trương,
chính sách, pháp luật liên quan đến hoạt động của đơn vị. Thường xuyên kiểm tra
hoạt động của các bộ phận trong nhà trường.
Luôn giải quyết kịp thời những khó khăn, vướng mắc và các đề xuất của các
bộ phận.
2.4.4. Nhận xét, đánh giá
Ưu điểm
Trường Trung học phổ thông Xuân Mỹ đã quan tâm kết hợp triển khai thực
hiện quy chế dân chủ ở cơ sở gắn với thực hiện nhiệm vụ chính trị, các phong trào
thi đua; đẩy mạnh cải cách hành chính, cải tiến nội dung, phương pháp làm việc,
giáo dục nâng cao tinh thần trách nhiệm và thái độ phục vụ nhân dân của cán bộ,
công chức; xây dựng và ban hành Quy chế thực hiện dân chủ trong nội bộ cơ quan,
23


đồng thời tổ chức quán triệt, phổ biến đầy đủ nội dung quy chế đến tất cả cán bộ,
công chức, viên chức để triển khai thực hiện.
Những nội dung cán bộ, công chức, viên chức được biết, được bàn và tham
gia ý kiến trước khi cấp có thẩm quyền quyết định được triển khai thực hiện
nghiêm túc, công khai, dân chủ; quyền làm chủ của cán bộ, công chức, viên chức
được phát huy tích cực; đồng thời thông qua đó, cán bộ, công chức, viên chức đã
thể hiện đầy đủ trách nhiệm của mình trong việc tham gia xây dựng và thực hiện
các nội quy, quy chế của cơ quan cũng như nghĩa vụ đối với Nhà nước, tích cực
phòng chống tham nhũng, tiêu cực, chống lãng phí.
Hiệu trưởng nhà trường đã thực hiện đúng trách nhiệm của người đứng đầu
trong việc triển khai thực hiện quy chế dân chủ ở cơ quan. Các chế độ, chính sách
đối với cán bộ, công chức được thực hiện khá tốt, khách quan, công bằng; tôn
trọng, lắng nghe ý kiến của cán bộ, công chức và không có hành vi trù dập đối với

cán bộ, công chức đã góp ý, phê bình; giải quyết kịp thời các khiếu nại và thực
hiện việc công khai kết quả giải quyết theo quy định của pháp luật.
Đối với cán bộ, công chức, viên chức luôn có ý thức thực hiện nghiêm quy
chế dân chủ; thực hiện đúng chức năng, nhiệm vụ; chấp hành sự phân công của
lãnh đạo trong thực hiện chức trách, nhiệm vụ được giao; thường xuyên tu dưỡng,
rèn luyện, học tập và làm theo tấm gương đạo đức Hồ Chí Minh. Thông qua thực
hiện qui chế dân chủ ở cơ sở, nhận thức của cán bộ, công chức tiếp tục có chuyển
biến nâng lên, đề cao trách nhiệm, thực hiện nội quy, quy chế của cơ quan, nội bộ
đoàn kết, ít xảy ra tiêu cực.
Việc tổ chức Hội nghị cán bộ, công chức, viên chức hằng năm của nhà
trường đã được thực hiện nghiêm túc. Nhà trường đã xây dựng quy chế làm việc;
quy chế phối hợp giữa cấp ủy, lãnh đạo cơ quan và tổ chức công đoàn; quy chế chi
tiêu nội bộ... khá đầy đủ, đã tạo điều kiện cho cán bộ công chức, viên chức thực
hiện dân chủ trực tiếp trong hoạt động của cơ quan, đơn vị.
Việc quản lý tài sản được công khai theo từng thời gian, công chức, viên
chức được tham gia ý kiến, bàn bạc, đề xuất, chi tiêu ngân sách mua sắm tài sản;
việc quy hoach, đánh giá cán bộ, đề bạt, bổ nhiệm cán bộ công chức được thực
hiện đúng quy trình.
24


Trong quan hệ giải quyết công việc với công dân, các tổ chức, hầu hết công
chức, viên chức của nhà trường đều thực hiện nghiêm quy tắc ứng xử, có mối quan
hệ tốt với học sinh và phụ huynh học sinh, với nhân dân, giải quyết công việc theo
đúng thẩm quyền. Công tác giải quyết khiếu nại, tố cáo được nhà trường giải quyết
kịp thời, đạt hiệu quả.
Hạn chế
Công tác triển khai, tuyên truyền các văn bản về thực hiện quy chế dân chủ
ở cơ sở tuy được tập trung chỉ đạo nhưng chưa được thường xuyên, chưa tạo được
sự chuyển biến mạnh mẽ từ nội bộ của cơ quan, đơn vị. Nhận thức về thực hiện

Quy chế dân chủ trong hoạt động của nhà trường từ người học, cán bộ, giáo viên
cũng như từ phía lãnh đạo mặc dù có nhiều chuyển biến nhưng chưa thật sâu sắc,
đầy đủ, đồng bộ. Do đó, giữa Quy chế thực hiện dân chủ ở cơ sở và yêu cầu thực tế
của quá trình dân chủ hóa vẫn còn khoảng cách lớn.
Việc thực hiện quy chế dân chủ ở trường Trung học phổ thông Xuân Mỹ vẫn
còn biểu hiện thiếu dân chủ, hoặc còn có tình trạng thiếu trách nhiệm trong giải
quyết công việc.
Hiện nay, ở trường có hòm thư góp ý nhưng rất hình thức, chỉ là làm cho
có, chẳng có ý nghĩa, tác dụng gì nhiều. Tâm lý người góp ý e ngại sẽ chẳng ai giải
quyết. Hình thức góp ý trực tiếp với người có thẩm quyền giải quyết cũng không
có tác dụng nhiều lắm, xuất phát từ tâm lý lo ngại hoặc sợ bị trù dập.
Việc giải đáp các ý kiến và giải quyết các đơn thư khiếu nại, tố cáo theo luật
định cũng chưa được quan tâm đúng mức. Định kỳ mỗi năm ít nhất một lần nhà
trường gặp gỡ đại diện của người học để nghe và trao đổi giải quyết những vấn đề
về giảng dạy, học tập, rèn luyện, chế độ, chính sách, về đời sống vật chất, tinh thần
và những vấn đề khác trong nhà trường. Tất cả những nội dung này được quy định
cụ thể, rõ ràng trong Quyết định số 04/2000/QĐ-BGD & ĐT nhưng việc tổ chức
thực hiện còn khá hình thức.
Trong phương châm “dân biết, dân bàn, dân làm, dân kiểm tra” thì kiểm tra
là khâu yếu nhất. Thực tế kiểm tra, giám sát của người học, của cán bộ, giáo viên
chỉ phát huy tác dụng trong phạm vi những chương trình, chế độ, chính sách liên
quan trực tiếp, thiết thực đến quyền lợi, nghĩa vụ của họ. Hoạt động của ban thanh
25


×