Tải bản đầy đủ (.doc) (70 trang)

Luận văn xuất khẩu lao động sang thị trường trung đông tại công ty CP tiến bộ quốc tế (AIC) thực trạng và giải pháp

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (362.62 KB, 70 trang )

MỤC LỤC


DANH MỤC SƠ ĐỒ, BẢNG BIỂU


3

LỜI MỞ ĐẦU
Cuộc khủng hoảng tài chính thế giới diễn ra và đang để lại những hậu quả rất nghiêm
trọng. Dư luận thế giới hiện nay có những đánh giá khác nhau về diễn biến, mức độ của
cuộc khủng hoảng và những ảnh hưởng đối với những lĩnh vực khác. Ngày 8-3-2009, ngân
hàng Thế giới (WB) đưa ra báo cáo nhận định về cuộc khủng hoảng tài chính – kinh tế
toàn cầu hiện nay, đã khẳng định: “ GDP toàn cầu trong năm 2009 sẽ giảm mạnh nhất
trong vòng 60 năm qua “.Theo WB, sản lượng công nghiệp toàn cầu 6 tháng đầu năm 2009
sẽ ít hơn 15% so với cùng kỳ năm 2008. Giá trị trao đổi thương mại toàn cầu ở mức thấp
nhất trong 80 năm qua. Cuộc khủng hoảng lần này gây thiệt hại cho cả các nước phát triển
và đang phát triển.
Cũng như hầu hết các nước đang phát triển khác trên thế giới, nền kinh tế Việt Nam
cũng chịu những hậu quả nặng nề của cuộc khủng hoàng tài chính thế giới, trong đó vấn đề
việc làm và xuất khẩu lao động (XKLĐ) của Việt Nam trong năm 2009 cũng là một vấn đề
sẽ gặp rất nhiều khó khăn. Điều này đặt các doanh nghiệp và người lao động vào thế bị
động. Bà Nguyễn Thị Thanh Nhàn – Tổng GĐ Công ty Cổ Phần Tiến Bộ Quốc Tế (AIC)
đã cho biết: “ Một số đối tác đã dừng tiếp nhận lao động mặc dù đã ký hợp đồng. Khu vực
bị ảnh hưởng nhiều nhất là các công xưởng ở Đài Loan, Malaysia…Hiện khoảng 200 lao
động có khả năng bị về nước trước thời hạn hợp đồng và AIC đang tìm mọi cách để đảm
bảo quyền lợi cho người lao động”. Các doanh nghiệp xuất khẩu lao động khác cũng
không tránh khỏi tình trạng trên. Số đơn hàng mới đề nghị cung ứng lao động Việt Nam
bắt đầu giảm, thậm chí có doanh nghiệp đã tuyển xong lao động nhưng đối tác lại yêu cầu
lùi thời gian đưa lao động sang.
Ông Vũ Đình Toàn – Trưởng ban Quản lý lao động Việt Nam (LĐVN) ở Malaysia


cũng cho biết: “ Không chỉ ở các doanh nghiệp sản xuất có quy mô nhỏ, một số nhà máy
lớn ở Malaysia cũng bắt đầu bị ảnh hưởng, LĐVN bắt đầu gặp khó khăn về việc làm. Mới
đây nhà máy điện tử Sharp ( có 170 LĐVN) cũng đã thông báo dãn công nhân”…
Thị trường Đài Loan ảnh hưởng rõ nét hơn. Ông Nguyễn Bá Hải - Trưởng ban quản
lý LĐVN tại Đài Loan cho hay: "Đã xuất hiện tình trạng người lao động mất việc, một bộ
phận thiếu việc làm, nghỉ việc dài ngày. Chưa có thống kê chính xác nhưng có khoảng 200
LĐVN sẽ bị chấm dứt hợp đồng về nước trước hạn". Theo ông Hải, ngành chịu tác động


4

mạnh nhất là công nghiệp điện tử vì các sản phẩm này chủ yếu xuất sang Nhật và Mỹ- hai
nước bị suy thoái nghiêm trọng (khoảng 30% trong tổng số 81.000 LĐVN tại Đài Loan
đang làm việc trong lĩnh vực này).
Thị trường Hàn Quốc và Nhật Bản cũng rơi vào cảnh tương tự. Một số chủ sử dụng
lao động ở Nhật Bản, nhất là ở ngành điện tử đã hoãn tiếp nhận tu nghiệp sinh Việt Nam.
Một số lao động là chuyên gia tại thị trường Nhật Bản cũng phải về nước do mất việc. Thị
trường Qatar, Singapore cũng đã có lao động về nước do chủ sử dụng lao động cắt giảm
nhân công.
Tuy nhiên, bên cạnh những thị trường XKLĐ truyền thống như Nhật Bản, Đài Loan,
Hàn Quốc đang bị thu hẹp vẫn còn có những thị trường tiềm năng, với nhiều cơ hội lớn
như thị trường Trung Đông. Thị trường này có ưu điểm là thu nhập của lao động khá ổn
định, khoảng 7-9 triệu đồng, chi phí đi không cao mà người lao động lại được miễn phí
tiền ăn, ở, đi lại, không phải nộp thuế, phí trong thời gian làm việc. Hiện tại, các chủ sử
dụng lao động ở UAE ( các Tiểu Vương quốc Arab Thống Nhất), Saudi Arabia…vẫn có
nhu cầu tiếp nhận số lượng lớn LĐVN trong các lĩnh vực xây dựng, cơ khí, thợ hàn và giúp
việc gia đình… Có thể nói, thị trường Trung Đông đang là thị trường tiềm năng của rất
nhiều doanh nghiệp kinh doanh XKLĐ Việt Nam trong đó có công ty AIC. Chính vì vậy,
việc phát triển thị trường XKLĐ Trung Đông có ý nghĩa rất quan trọng đối với sự phát
triển của công ty AIC. Đây cũng chính là lý do em lựa chọn đề tài “ Xuất khẩu lao động

sang thị trường Trung Đông tại công ty Cổ Phần Tiến Bộ Quốc Tế (AIC) – Thực trạng
và giải pháp” làm đề tài thực tập chuyên đề của mình.
Mục tiêu nghiên cứu:
Phân tích được thực trạng và tìm ra các khó khăn của AIC trong vấn đề phát triển thị
trường xuất khẩu lao động ở Trung Đông trong điều kiện hiện nay. Từ đó đề ra các giải
pháp để phát triển thị trường xuất khẩu lao động tại Trung Đông.
Câu hỏi nghiên cứu:
Đề tài nghiên cứu nhằm trả lời các câu hỏi sau:
1. Các vấn đề còn tồn tại của công ty AIC trong quá trình XKLĐ sang Trung
Đông là gì?
2. Tại sao lại tập trung vào phát triển thị trường Trung Đông? Thị trường này có
ý nghĩa chiến lược như thế nào đối với sự phát triển của công ty?


5

3. Để phát triển thị trường Trung Đông, AIC cần đưa ra những biện pháp cụ thể
như thế nào?
Số liệu và phương pháp phân tích:

 Số liệu: Số liệu trong bài chủ yếu là lấy từ nguồn thứ cấp tại công ty AIC. Được
thu thập từ các phòng ban của công ty. Ngoài ra, còn có các số liệu được thu thập từ các
nguồn thông tin như báo chí, mạng internet, các bài nghiên cứu…

 Phương pháp nghiên cứu: Về mặt phương pháp, bài viết sử dụng phương pháp
phân tích thống kê mô tả, kết hợp lý luận với thực tiễn.
Kết cấu của chuyên đề:
Ngoài lời mở đầu, kết luận và danh mục tài liệu tham khảo chuyên đề được chia
thành 3 chương:
Chương I. Những vấn đề chung về phát triển thị trường xuất khẩu lao động và

vai trò của xuất khẩu lao động đối với nền kinh tế quốc dân.
Chương II. Thực trạng XKLĐ sang thị trường Trung Đông trong thời gian qua
tại công ty Cổ Phần Tiến Bộ Quốc Tế (AIC).
Chương III. Phương hướng và giải pháp nhằm phát triển thị trường XKLĐ ở
Trung Đông trong thời gian tới tại công ty AIC.
Do thời gian có hạn và trình độ của người nghiên cứu còn hạn chế, chuyên đề khó
tránh khỏi những thiếu sót. Em rất mong nhận được sự đóng góp ý kiến và sửa chữa của
các thầy cô giáo để bài viết của em được hoàn chỉnh hơn, qua đó em có thể hoàn thiện hơn
nữa kiến thức của mình.
Để hoàn thành chuyên đề này, em xin gửi lời cảm ơn sâu sắc đến các thầy cô giáo
trường Đại học Kinh Tế Quốc Dân, những người đã nhiệt tình giảng dạy, truyền đạt cho
em những kiến thức quý báu. Đặc biệt là TS Phạm Thái Hưng người đã trực tiếp hướng
dẫn em trong suốt thời gian thực tập tại công ty Cổ Phần Tiến Bộ Quốc Tế (AIC). Cuối
cùng, em xin chân thành cảm ơn toàn thể cán bộ, công nhân viên tại công ty AIC đã nhiệt
tình giúp đỡ em trong quá trình thực tập và thu thập tài liệu cần thiết để hoàn thành chuyên
đề thực tập tốt nghiệp.


6

CHƯƠNG I
NHỮNG VẤN ĐỀ CHUNG VỀ PHÁT TRIỂN THỊ TRƯỜNG
XUẤT KHẨU LAO ĐỘNG VÀ VAI TRÒ CỦA XUẤT KHẨU
LAO ĐỘNG ĐỐI VỚI NỀN KINH TẾ QUỐC DÂN
I. CƠ SỞ LÝ LUẬN.
1. Khái niệm về thị trường.
Thị trường là một phạm trù kinh tế khách quan, gắn bó chặt chẽ với khái niệm phân
công lao động xã hội. Ở đâu và khi nào có phân công lao động xã hội và sản xuất hàng hóa
thì ở đó và khi ấy có thị trường. Cùng với sự phát triển của sản xuất và lưu thông hàng hóa,
khái niệm thị trường ngày càng biến đổi và ngày càng được bổ sung hoàn thiện hơn.

Ban đầu thị trường được quan niệm đơn giản là nơi diễn ra các hoạt động trao đổi,
mua bán hàng hóa của các chủ thể kinh tế. Thị trường có tính không gian, thời gian, có mặt
cả người mua, người bán và đối tượng được đem trao đổi. Theo quan niệm này thì khi sản
xuất và lưu thông hàng hóa phát triển, các mặt hàng trở nên phong phú, đa dạng với nhiều
hình thức trao đổi phức tạp hơn đã không phản ánh một cách đầy đủ bản chất của thị
trường. Điều này đòi hỏi phải có quan niệm phù hợp hơn.
Philip Kotler quan niệm: “ Thị trường bao gồm tất cả những khách hàng tiềm ẩn cùng
có một nhu cầu hay mong muốn cụ thế, sẵn sàng và có khả năng tham gia trao đổi để thỏa
mãn nhu cầu hay mong muốn đó”.
Ở Việt Nam có nhà kinh tế quan niệm: “Thị trường là lĩnh vực trao đổi mà ở đó
người mua và người bán cạnh tranh với nhau để xác định giá cả hàng hóa và dịch vụ”…
Ở phạm vi của doanh nghiệp thương mại, thị trường được mô tả là một hay nhiều
nhóm khách hàng tiềm năng với những nhu cầu tương tự nhau và những người bán cụ thể
nào đó mà doanh nghiệp với tiềm năng của mình có thể mua hàng hóa dịch vụ để thỏa mãn
nhu cầu trên của khách hàng.
Thị trường của doanh nghiệp thương mại có thể phân chia theo các tiêu thức khác
nhau, có các loại thị trường như: thị trường hàng hóa, thị trường dịch vụ, thị trường sức lao
động, thị trường đầu vào, thị trường đầu ra, thị trường trong nước, thị trường ngoài nước
( thị trường khu vực, thị trường quốc tế)…


7

2. Khái niệm về phát triển thị trường của doanh nghiệp.
Phát triển thị trường là tổng hợp cách thức biện pháp của doanh nghiệp nhằm đưa
khối lượng sản phẩm kinh doanh đạt được mức tối đa, mở rộng quy mô kinh doanh, tăng
them lợi nhuận và nâng cao uy tín của doanh nghiệp trên thị trường. Phát triển thị trường
vừa là mục tiêu, vừa là phương thức quan trọng để doanh nghiệp có thể tồn tại và phát
triển. Chỉ có mở rộng và phát triển thị trường, mới duy trì được mối quan hệ thường xuyên,
gắn bó với khách hàng, củng cố và tạo dựng uy tín của doanh nghiệp trước người tiêu

dung. Phát triển thị trường còn tạo ra những cơ hội đầu tư kinh doanh, nâng cao hiệu quả
kinh doanh, tăng thu nhập cho cán bộ công nhân viên, thực hiện những mục tiêu đã vạch
ra, giúp doanh nghiệp tồn tại và phát triển một cách bền vững trong cơ chế thị trường cạnh
tranh gay gắt.
3. Nội dung phát triển thị trường của doanh nghiệp.
3.1. Phát triển thị trường về sản phẩm.
Phát triển thị trường về sản phẩm là đưa thêm ngày càng nhiều dạng sản phẩm, hàng
hóa, dịch vụ nhằm thỏa mãn nhu cầu, thị hiếu của thị trường, đặc biệt là sản phẩm mới có
chất lượng cao. Đó chính là phương thức kinh doanh có hiệu quả và cũng là phương thức
thỏa mãn nhu cầu của người tiêu dung.
Có thể phát triển sản phẩm theo hai hướng sau:


Phát triển sản phẩm mới hoàn toàn.



Cải tiến, hoàn thiện sản phẩm, thay thế sản phẩm hiện có.

3.2. Phát triển thị trường về khách hàng.
Thị trường của doanh nghiệp thường là tập hợp các khách hàng rất đa dạng khác
nhau về lứa tuổi, giới tính, thu nhập,…nhưng có thể phân chia thành các nhóm khác nhau.
Có thể phân chia thành các nhóm sau:
3.2.1. Căn cứ vào hành vi tiêu thụ.
Khách hàng là người tiêu dùng cuối cùng và người tiêu thụ trung gian. Trong đó,
người tiêu thụ cuối cùng mua sản phẩm để thỏa mãn nhu cầu của chính bản thân, còn
người tiêu thụ trung gian mua sản phẩm không phải để tiêu dung mà để bán lại nhằm mục
đích kiếm lời.



8

3.2.2. Căn cứ vào khối lượng hàng hóa mua.
Khách hàng mua với khối lượng lớn và khách hàng mua với khối lượng nhỏ. Xét về
mặt kinh tế, cần khuyến khích những người mua với khối lượng lớn, về mặt hình thức quan
hệ không được phân biệt đối xử giữa hai loại khách hàng này.
3.2.3. Căn cứ vào mối quan hệ khách hàng – doanh nghiệp.
Khách hàng truyền thống và khách hàng mới. Khách hàng truyền thống là những
khách hàng có mối quan hệ thường xuyên, liên tục với doanh nghiệp. Họ có vị trí đặc biệt
quan trọng trong sự phát triển ổn định của doanh nghiệp. Khách hàng mời là khách hàng
lần đầu tiên đến với doanh nghiệp, nếu gây được niềm tin họ sẽ trở thành khách hàng
truyền thống.
Có thể phát triển khách hàng theo hai hướng:


Phát triển về mặt số lượng khách hàng.



Phát triển khách hàng về mặt chất lượng.

Tuy nhiên, phát triển thị trường của doanh nghiệp trên góc độ khách hàng là phát
triển khách hàng cả về số lượng, chất lượng, phạm vi, không gian, thời gian, địa điểm,…
3.3. Phát triển thị trường về phạm vi địa lý.
Phát triển thị trường về mặt địa lý là mở rộng và phát triển thị trường theo lãnh thổ
bằng các biện pháp khác nhau.


Mở rộng mạng lưới bán hàng của doanh nghiệp: các đại lý, văn phòng giao
dịch …Cần phát triển mạng lưới bán hàng cả chiều rộng lẫn chiều sâu. Việc

phân bổ mạng lưới cần tính đến hiệu quả chung của cả hệ thống tức là đảm
bảo nâng cao năng lực tiêu thụ của từng điểm cũng như của toàn hệ thống,
tránh sự loại trừ tiêu diệt nhau, bảo đảm sự vận động hợp lý cảu sản phẩm,
giảm chi phí…



Tạo đầu mối giao thông, thành lập trung tâm giao dịch, chi nhánh của doanh
nghiệp nhằm phát triển thị trường.

Bên cạnh đó, phát triển thị trường về địa lý còn được thực hiện thông qua lựa chọn
kênh phân phối thích hợp.


9

II. LÝ LUẬN CHUNG VỀ XUẤT KHẨU LAO ĐỘNG (XKLĐ) VIỆT NAM.
1. Khái niệm.
XKLĐ là một vẫn đề có nội dung kinh tế xã hôi sâu sắc, có mối quan hệ chặt chẽ với
các yếu tố kinh tế xã hội khác. Làm rõ mối quan hệ này sẽ cho phép chúng ta nhìn nhận
vấn đề này trong chiến lược phát triển kinh tế xã hội một cách khách quan và thực tế hơn.
Để có cái nhìn tổng thể và rõ ràng về vấn đề nghiên cứu, một số khái niệm có liên
quan đến lĩnh vực lao động và việc làm được hệ thống lại như sau:
1.1. Nguồn lao động.
Nguồn lao động là một bộ phận của dân cư bao gồm những người trong độ tuổi lao
động (không kể những người mất khả năng lao động), và những người ngoài độ tuổi lao
động (trên, dưới độ tuổi lao động) thực tế có tham gia lao động.
Ở Việt Nam, độ tuổi lao động theo quy định là từ 15 đến 55 tuổi đối với nữ giới và từ
15 đến 60 tuổi đối với nam giới. Thực chất những người dưới độ tuổi lao động thực tế có
tham gia lao động ở Việt Nam hiện nay hơi khó xác định về phạm vi. Thông thường trẻ em

từ 10 tuổi (thậm chí từ 7 – 8 tuổi) ở nông thôn đã tham gia vào lao động. Tuy nhiên để
thống nhất với các số liệu thống kê được công bố thì việc độ tuổi nhóm này chỉ tính người
từ dưới 15 tuổi.
1.2. Lao động.
Lao động là hoạt động có mục đích, có ý thức của con người nhằm thay đổi những
vật thể tự nhiên để phù hợp với lợi ích của mình. Lao động là sự vận động của sức lao
động trong quá trình tạo ra của cải vật chất cho xã hội, là quá trình kết hợp sức lao động và
tư liệu sản xuất.
1.3. Sức lao động.
Sức lao động là tổng thể lực và trí lực của con người trong quá trình tạo ra của cải xã
hội, nó phản ánh khả năng lao động của con người, là điều kiện đầu tiên cần thiết trong
quá trình lao động xã hội. Trên thị trường lao động, sức lao động được coi là hàng hóa – đó
là loại hàng hóa đặc biệt vì con người có tư duy, tự làm chủ bản thân mình hay nói cách
khác con người là chủ thể lao động. Thông qua thị trường lao động, sức lao động được xác
định là giá cả, hàng hóa lao động cũng tuân theo quy luật cung cầu của thị trường


10

1.4. Thị trường lao động.
Trong mỗi xã hội, ở nơi nào xuất hiện nhu cầu sử dụng lao động và có nguồn lao
động cung cấp ở đó sẽ hình thành nên thị trường cho lao động. Có thể hiểu thị trường lao
động là một lĩnh vực của nền kinh tế mà ở đó diễn ra quá trình mua bán, trao đổi, thuê,
mướn sức lao động.
Khi cung và cầu lao động chỉ nảy sinh trong phạm vi biên giới một quốc gia thì ta có
thị trường lao động nội địa (thị trường lao động trong nước). Khi cung và cầu lao động nảy
sinh ngoài biên giới quốc gia một nước thì có thị trường lao động quốc tế.
Trên thị trường lao động quốc tế, XKLĐ được thực hiện chủ yếu trên cơ sở quan hệ
cung cầu lao động. Nó chịu sự tác động, điều tiết của các quy luật kinh tế thị trường. Bên
cầu phải tính toán kỹ hiệu quả của việc nhập khẩu lao động nên cần phải xác định một cách

chặt chẽ số lượng, cơ cấu, chất lượng lao động hợp lý. Bên cung có mong muốn xuất khẩu
càng nhiều lao động càng tốt. Do vậy, muốn loại hàng hóa đặc biệt này chiếm được ưu thế
trên thị trường bên cung cấp lao động cần phải có sự chuẩn bị và đầu tư để được thị trường
chấp nhận, phải đáp ứng kịp thời về số lượng lao động có chất lượng cao. Chất lượng lao
động càng cao càng đem lại hiệu quả kinh tế lớn và càng được thị trường nước ngoài dễ
chấp nhận.
Chất lượng lao động cao được thể hiện ở trình độ tay nghề phù hợp với công nghệ
của nước tiếp nhận lao động, thể lực tốt, có ngoại ngữ, được trang bị đầy đủ kiến thức làm
việc theo tác phong công nghiệp, am hiểu luật pháp và phong tục tập quán của nước sử
dụng lao động, có thể thích ứng nhanh với môi trường làm việc mới.
Song đối với hàng hóa sức lao động, thị trường thế giới không phải là vô hạn và có
rất nhiều đòi hỏi khắt khe với những quy định riêng. Hiện nay, có thể kể đến một số thị
trường có nhu cầu về lao động như các nước sản xuất dầu lửa ở Trung Đông, thị trường loa
động Đông Bắc Á, Đông Nam Á, nơi tập trung nhiều nước có sự tăng trường kinh tế cao
như Nhật Bản, Hàn Quốc, Malaysia, Singapore.
1.5 Xuất khẩu lao động.
Dưới góc độ dân số học, việc di chuyển lao động giữa các quốc gia đã được hầu hết
các chuyên gia dân số học của thế giới nghiên cứu và đưa ra khái niệm “Di dân quốc tế”.
Có thể nói hoạt động này vài thập kỷ gần đây đã diễn ra sôi động và thu hút được sự chú ý


11

nghiên cứu của nhiều nhà kinh tế. Nhưng đây không phải là một hiện tượng kinh tế xã hội
có tính mới mẻ mà nó đã xuất hiện ngay từ cuối thế kỷ 19. Ngày nay, XKLĐ đã trở nên rất
phổ biến và trở thành xu thế chung của thế giới.
Ở Việt Nam, ngay từ những năm 1980 đã xuất hiện thuật ngữ “Hợp tác quốc tế lao
động”, lúc đó được hiểu là sự trao đổi lao động giữa các quốc gia thông qua các hiệp định
được thỏa thuận và ký kết giữa các quốc gia đó, là sự di chuyển lao động có thời hạn giữa
các quốc gia một cách hợp pháp và có tổ chức. Trong hành vi trao đổi này nước đưa lao

động đi được coi là nước XKLĐ, còn nước tiếp nhận sử dụng lao động được coi là nước
nhập khẩu lao động.
Có một cách hiểu khác về XKLĐ: XKLĐ là sự hợp tác sử dụng lao động giữa nước
thừa và thiếu lao động, là việc di chuyển lao động có kế hoạch và có thời hạn từ nước thừa
lao động sang nước thiếu lao động. Theo khái niệm này có thể đưa ra các dẫn suất như
“nước đưa lao động đi, nước tiếp nhận lao động, người đi hợp tác quốc tế về lao động…”.
Trên thực tế cũng có xuất hiện vai trò của nước thứ ba làm nhiệm vụ trung gian môi giới
có tính chất kinh doanh. Ví dụ như năm 1980 hai công ty của Nhật Bản thuê lao động của
Trung Quốc đi xây dựng bệnh viện và đường cao tốc tại Irac.
Trước đây, khi nước ta còn mối quan hệ mật thiết với hệ thống các nước xã hội chủ
nghĩa thì khái niệm “hợp tác quốc tế về lao động” có nội dung lớn, bao hàm nhiều lĩnh vực
trong quan hệ quốc tế và lao động. Trong quan hệ đó, hiệu quả kinh tế chưa được coi trọng.
Do đó, việc sử dụng khái niệm này ở nước ta chỉ còn nguyên nghĩa trong phạm vi hợp tác
giữa các nước xã hội chủ nghĩa trước kia. Ngày nay nước ta thống nhất sử dụng thuật ngữ
XKLĐ để nhấn mạnh hơn đến tính hiệu quả kinh tế của hoạt động này.
Vì vậy chúng ta có thể hiểu XKLĐ là hoạt động kinh tế của một quốc gia thực hiện
việc cung ứng lao động cho một quốc gia khác trên cơ sở những hiệp định hoặc những hợp
đồng có tính chất pháp quy được thống nhất giữa các quốc gia đưa và nhận lao động.
2. Đặc điểm.
XKLĐ là một đặc thù của xuất khẩu nói chung và là một bộ phận của kinh tế đối
ngoại, hàng hóa đem xuất khẩu là sức lao động, bên cầu là chủ thể người nước ngoài.
XKLĐ là một hoạt động tất yếu khách quan của quá trình chuyên môn hóa và hợp tác quốc
tế giữa các nước trong sản xuất.
XKLĐ ở Việt Nam là một hoạt động được sự chỉ đạo thống nhất của Nhà nước, được
Nhà nước xem đó là một lĩnh vực hoạt động kinh doanh đối ngoại quan trọng, đã ban hành


12

một hệ thống luật và các văn bản dưới luật để điều chỉnh các mối quan hệ phát sinh xung

quanh vấn đề XKLĐ, cho phép các tổ chức kinh tế Nhà nước, các doanh nghiệp cổ phần
hóa được tổ chức và thực hiện XKLĐ trên cơ sở tuân thủ hệ thống và các văn bản pháp
quy đó.
Tại Việt Nam, các hợp đồng đưa người đi lao động có thời hạn ở nước ngoài được ký
kết trên cơ sở pháp luật Việt Nam, pháp luật nước sở tại và các điều ước quốc tế mà Việt
Nam ký kết hoặc tham gia.
XKLĐ là một phương thức để thực hiện phân công lao động quốc tế, đưa Việt Nam
hòa nhập vào nền kinh tế khu vực và thế giới. Ngoài ra, XKLĐ còn là một hướng sử dụng
lao động có hiệu quả phù hợp với điều kiện kinh tế của mỗi nước, tận dụng được lợi thế so
sánh của cả nước xuất và nhập khẩu lao động.
3. Nguyên nhân.
Bất cứ một hiện tượng kinh tế xã hội nào cũng có điều kiện và tiền đề nảy sinh. Để đi
đến hoạt động XKLĐ mang tính chiến lược và cạnh tranh gay gắt như hiện nay, bản thân
nó cũng có một quá trình tiến triển. Bắt đầu từ sự di cư quốc tế do tính tất yếu và tác dụng
tiến bộ của lịch sử: từ buổi bình minh của loài người đã xuất hiện sự di cư này để đi tới
những miền đất tốt đẹp hơn. Ngày nay chính sự phân bố không đều về dân cư, điều kiện tự
nhiên (tài nguyên) cùng với sự bùng nổ dân số trên thế giới đã hình thành luồng di cư: lao
động (dân cư) ở những nước kinh tế chậm phát triển di cư đến những nước có nền kinh tế
khá hơn, lao động ở nước nghèo tài nguyên di chuyển đến những nước có điều kiện thiên
nhiên thuận lợi, dân cư ở những nước có mật độ dân số cao di chuyển đến những nước có
mật độ dân số thấp…Như vậy, việc di chuyển lao động trước hết là một hiện tượng khách
quan trong quá trình hoạt động kinh tế của bản thân người lao động.
Ứng với mỗi nước, với một trình độ sản xuất, điều kiện tự nhiên và dân cư nhất định
thường có sự mất cân đối về lao động trên các mặt:


Mức nhu cầu lao động thường lớn hơn (nhỏ hơn) mức cầu về số lượng lao
động.




Cơ cấu nhu cầu lao động thường lớn hơn (nhỏ hơn) khả năng cung cấp lao
động.

Trình độ phát triển kinh tế và tiến bộ khoa học kỹ thuật của mỗi quốc gia không thể
giải quyết hết sự mất cân đối này, đòi hỏi phải có sự trao đổi lao động trực tiếp với quốc
gia khác. Việc trao đổi này dẫn đến XKLĐ.


13

Trong lịch sử phát triển kinh tế thế giới sau khi xuất hiện hình thức XKLĐ, người lao
động được đưa ra nước ngoài làm việc đã trở thành đối tượng để Nhà nước và các cơ quan
chức năng, các tổ chức lao động quốc tế nghiên cứu, qua đó đã ban hành nhiều văn bản
pháp quy để bảo vệ quyền lợi của người lao động, ví dụ như quyền được đối xử bình đẳng
như công nhân của nước chủ nhà, chế độ về nhà, đào tạo nghề nghiệp chuyên môn, về bảo
vệ thành quả lao động, vấn đề nhập và xuất cảnh, về biện pháp giải quyết việc làm của Tổ
chức Lao động thế giới (ILO). Tổ chức này cũng đã coi di dân quốc tế là một biện pháp
quan trọng góp phần giải quyết việc làm, tạo thu nhập cho người lao động.
Khoảng 70 – 80 năm về trước, nhiều quốc gia nhận thấy không thể tạo được đầy đủ
việc làm trong nước cho người lao động, mặt khác do nền kinh tế quá thấp kém và mức
sống của người lao động quá thấp trong khi nhiều vùng, nhiều quốc gia trên thế giới lại có
nhu cầu về lao động mà số lượng lao động nước mình không đáp ứng nổi hoặc rẻ hơn nếu
thuê lao động nước ngoài, kể cả việc thuê lao động chuyên môn để tận dụng chất xám từ
bên ngoài. Nhìn thấy mối lợi này mà nhiều nước trong khu vực như Philipin, Đài Loan,
Hàn Quốc, Malaysia, Thái Lan….đã có chủ trương khuyến khích người lao động nước
mình ra nước ngoài làm việc.
Trong khoảng 40 năm trở lại đây, việc đưa lao động đi làm việc ở nước ngoài đã
nâng lên một bước về chất do sự gia tăng cung cầu lao động trên thị trường thế giới, sự
phát triển kinh tế trong phạm vi toàn cầu đang có sự biến đổi về chất và không đồng đều

giữa các nước dựa trên cơ sở phát triển mạnh của khoa học kỹ thuật. Nhóm các nước phát
triển vẫn cần nhu cầu lao động giản đơn trong các ngành dịch vụ, nông nghiệp, ngư nghiệp
và một số ngành sản xuất nặng nhọc khác như Pháp, Hà Lan, Đức, Anh,…thường tiếp
nhận lao động truyền thống từ Châu Phi, Thổ Nhĩ Kỳ, Mêhicô và một số người Nam Mỹ
khác. Tuy nhiên, bản thân bản thân các nước này lại đưa lao động kỹ thuật và các chuyên
viên bậc cao (lao động chất xám) đi làm việc ở các nước phát triển có hai xu hướng: Một là
tiếp nhận lao động kỹ thuật và lao động giản đơn từ các nước khác để khai thác tài nguyên
của chính nước mình nhằm thúc đẩy nhanh nhịp độ phát triển kinh tế, điển hình là các
nước khu vực Trung Đông. Hai là đơn thuần cung cấp lao động sang các nước phát triển và
đang phát triển đang có nhu cầu thuê mướn lao động để giảm sức ép việc làm trong nước
và để tăng nguồn ngoại tệ. Ngoài ra, ngay ở trong các nước này cũng có nhu cầu trao đổi
lao động theo tưng thời kỳ như Malaysia một mặt vẫn gửi lao động đi làm việc ở Trung
Đông nhưng một mặt vẫn tiếp nhận lao động từ Thái Lan sang làm việc ở các đồn điền,


14

khai thác mỏ, đánh cá.
4. Phân loại.
4.1. Căn cứ vào cơ cấu người lao động đưa đi.
4.1.1. Lao động có nghề:
Lao động có nghề là loại lao động khi sang nước ngoài làm việc đã được đào tạo
thành thạo một loại nghề nào đó, khi số lao động này snag nước ngoài làm việc có thể bắt
tay ngay vào công việc mà không cần bỏ thời gian và chi phí để đào tạo nữa.
4.1.2. Lao động không có nghề.
Lao động không có nghề là loại lao động mà khi ra nước ngoài làm việc chưa được
đào tạo một loại nghề nghiệp nào. Loại lao động này thích hợp với các công việc giản đơn,
không cần trình độ chuyên môn hoặc phía tiếp nhận cần tiến hành đào tạo cho mục đích
của mình trước khi đưa vào sử dụng.
4.2. Căn cứ vào nước XKLĐ

4.2.1. Nhóm các nước đã phát triển:
Đối với nhóm các nước đã phát triển thì có xu hướng gửi lao động kỹ thuật cao sang
các nước nghèo, đang phát triển để lấy them ngoại tệ. Trường hợp này không phải là chảy
máu chất xám mà là đầu tư chất xám có mục đích. Việc đầu tư nhằm một phần thu lại kinh
phí đào tạo cho đội ngũ chuyên môn trong nhiều năm, một phần khác lớn hơn là phát huy
năng lực trình độ đội ngũ chuyên gia, công nhân kỹ thuật bậc cao ở nước ngoài…để thu
ngoại tệ.
4.2.2. Nhóm các nước đang và chậm phát triển:
Các nước này có xu hướng gửi lao động bậc trung hoặc bậc thấp sang các nước có
nhu cầu để lấy tiền công và tích lũy ngoại tệ, giảm bớt khó khăn kinh tế và sức ép việc làm
trong nước.
Tại Việt Nam hoạt động XKLĐ chủ yếu được thực hiện dưới hai hình thức:
4.2.2.1. Đưa lao động đi làm việc có thời hạn ở nước ngoài. Gồm có các hình thức sau:
Đi theo Hiệp định Chính phủ giữa hai Nhà nước (ở nước ta thực hiện phổ biến ở giai
đoạn 1980 – 1990). Lao động của nước ta ở các nước được sống, sinh hoạt theo đoàn đội,


15

có sự quản lý thống nhất từ trên xuống dưới, lao động của nước ta được sắp xếp làm việc
xen ghép với lao động của các nước khác. Hình thức này thường tiếp nhận cả hai đối tượng
là lao động có nghề và lao động không có nghề.
Đưa lao động đi làm các công trình bao thầu ở nước ngoài, chủ yếu là trong lĩnh vực
xây dựng. Hình thức này đòi hỏi phải đưa đi đồng bộ các đối tượng lao động (kỹ thuật,
quản lý, chỉ đạo thi công và lao động trực tiếp).
Cung ứng lao động trực tiếp theo các yêu cầu của các công ty nước ngoài thông qua
các hợp đồng lao động. Đây là hình thức XKLĐ phổ biến nhất ở nước ta hiện nay. Hình
thức này đòi hỏi đối tượng lao động đa dạng (tùy theo yêu cầu và mức độ phức tạp của
công việc). Có những yêu cầu của nước ngoài đòi hỏi người có trình độ kỹ thuật, kinh
nghiệm sản xuất, kinh nghiệm tổ chức quản lý. Ngược lại, có yêu cầu chỉ cần lao động giản

đơn.
4.2.2.2. XKLĐ tại chỗ.
Đây là hình thức các tổ chức kinh tế của ta cung ứng lao động cho các tổ chức kinh tế
nước ngoài ở Việt Nam bao gồm:


Các xí nghiệp có vốn đầu tư nước ngoài.



Các khu chế xuất, khu công nghiệp, khu công nghệ cao.



Các tổ chức cơ quan ngoại giao của nước ngoài tại Việt Nam.

III. VAI TRÒ CỦA XKLĐ ĐỐI VỚI NỀN KINH TẾ QUỐC DÂN.
1. Nhận định chung.
1.1. Đối với Việt Nam – nước XKLĐ.
Về kinh tế: Giảm sức ép về việc làm trong nước, tăng thu ngoại tệ, tăng thêm tri thức
kinh nghiệm làm ăn kinh tế (qua học hỏi ở nước tiếp nhận lao động), góp phần làm cân
bằng thương mại trong nước, mang lại sự thịnh vượng không chỉ cho bộ phận lao động mà
chung cho đất nước.
Về xã hội: Giảm tệ nạn xã hội do thất nghiệp gây ra, tạo một hướng lao động tích cực
cho người lao động, học tập được phong cách lao động mới do tổ chức lao động ở nước
ngoài trang bị…
Về đối ngoại: Mở rộng quan hệ đối ngoại hợp tác đôi bên cùng có lợi, giao lưu với
các nước, tăng cường hiểu biết lẫn nhau, giời thiệu con người và đất nước của mình cho



16

các nước khác.
Bên cạnh các tác động tích cực, XKLĐ cũng dễ dàng gánh phải các hậu quả xấu như
sau:
Về kinh tế: Giảm bớt một bộ phận lao động trẻ, khỏe, có trình độ văn hóa chuyên
môn tương đối cao, gây biến động về sức mua trong nước (giảm khi xuất khẩu lao động,
tăng đột ngột khi lao động trở về nước),…
Về chính trị xã hội: Dễ để lại những hậu quả xấu ở nước nhận lao động nếu lao động
sang đó có các hành động sai trái như vi phạm pháp luật và phong tục tập quán của nước
tiếp nhận lao động. Người lao động còn dễ dàng mang theo những nếp sống không phù
hợp, các bệnh xã hội từ nước ngoài về sau thời gian đi xuất khẩu.
1.2. Đối với các nước nhận lao động.
Đối với các nước nhận lao động sẽ thu được những lợi ích đáng kể trong việc đáp
ứng đủ nhu cầu cung cấp số lao động bù đắp vào các ngành thiếu hụt, khai thác có hiệu quả
hơn tiềm năng cảu đất nước, mở rộng quan hệ và nâng cao uy tín với nước lao động, khai
thác kinh nghiệm, kiến thức, tác phong lao động và cung cách quản lý của nước khác, mở
rộng nhu cầu thị trường trong nước.
Tất nhiên nước nhận lao động có thể đồng thời phải chịu những ảnh hưởng và tác
động xấu của người lao động đến làm việc ở nước mình ( du nhập lối sống và bệnh tật xã
hội bên ngoài vào, phải lo cung ứng một khối lượng lương thực, thực phẩm và hàng hóa
tiêu dùng…)
Nhìn chung bên cạnh những hạn chế không thể tránh khỏi, chúng ta có thể thấy đưa
người lao động đi làm việc ở nước ngoài là một hướng giải quyết việc làm, tạo thu nhập
cho người lao động, góp phần tăng nguồn ngoại tệ cho đất nước và tăng cường quan hệ
hợp tác kinh tế, văn hóa, khoa học kỹ thuật giữa Việt Nam với nước ngoài theo nguyên tắc
bình đẳng, cùng có lợi, tôn trọng pháp luật và phong tục tập quán của nhau.
2. Vai trò của XKLĐ trong chương trình việc làm quốc gia và một số định hướng của
nhà nước trong việc giải quyết việc làm.
2.1. Khái quát về Chương trình việc làm quốc gia.

Chương trình việc làm quốc gia được xác định là chương trình do Nhà nước hoạch
định, là một bộ phận quan trọng của chương trình phát triển kinh tế xã hội của đất nước


17

nhằm hoạch định một hệ thống chính sách tạo mở việc làm. Chống thất nghiệp, nhằm giảm
đói nghèo, đem lại thịnh vượng chung cho xã hội.
Theo quyết định số 101/2007/QĐ-TTG, quyết định của Thủ Tướng Chính Phủ phê
duyệt mục tiêu quốc gia về việc làm đến năm 2010, Chương trình đã đưa ra các mục tiêu
sau:
Mục tiêu chung: Góp phần thực hiện mục tiêu chung của nền kinh tế về bảo đảm việc
làm cho khoảng 49,5 triệu lao động, tạo việc làm mới cho 8 triệu lao động trong 5 năm
2006 - 2010 (trong đó, trực tiếp từ chương trình này là 2 - 2,2 triệu lao động) và giảm tỷ lệ
thất nghiệp ở thành thị xuống dưới 5% vào năm 2010.
Mục tiêu cụ thể đến năm 2010:
+ Tạo việc làm cho 2 - 2,2 triệu lao động thông qua Chương trình mục tiêu quốc
gia về việc làm trong 5 năm 2006 - 2010, trong đó:


Tạo việc làm trong nước cho 1,7 - 1,8 triệu lao động theo các dự án vay
vốn tạo việc làm từ Quỹ quốc gia về việc làm;



Tạo việc làm ngoài nước cho 40 - 50 vạn lao động từ hoạt động của các
doanh nghiệp xuất khẩu lao động và Quỹ hỗ trợ việc làm ngoài nước.

+ Nâng cao năng lực và hiện đại hoá 30 - 40 trung tâm giới thiệu việc làm và hoàn
thiện hệ thống thông tin thị trường lao động; nâng số người được tư vấn và giới thiệu việc

làm lên 4 triệu người trong 5 năm; xây dựng và đưa vào sử dụng trang Web về thị trường
lao động vào năm 2008;
+ Tập huấn nghiệp vụ cho 75 nghìn cán bộ làm công tác lao động - việc làm từ
Trung ương đến địa phương.
Chương trình việc làm quốc gia được hoạt động với 3 dự án (dự án vay vốn tạo việc
làm; dự án hỗ trợ đưa người lao động đi làm việc ở nước ngoài; dự án hỗ trợ phát triển thị
trường lao động) và 2 hoạt động (hoạt động giám sát, đánh giá; hoạt động nâng cao năng
lực quản lý – việc làm). Tổng nguồn vốn cho Chương trình là 5.985 tỷ đồng (không kể
nguồn vốn hỗ trợ việc làm ngoài nước). Trong đó, phân theo nguồn vốn như sau:
+ Ngân sách Trung ương: 4.895 tỷ đồng (trong đó, 2.600 tỷ đồng là nguồn vốn
vay giải quyết việc làm từ năm 2005 chuyển sang);
+ Ngân sách địa phương: 560 tỷ đồng (trong đó, 164 tỷ đồng là nguồn vốn vay
giải quyết việc làm của các địa phương từ năm 2005 chuyển sang);


18

+ Huy động cộng đồng: 500 tỷ đồng;
+ Huy động quốc tế: 30 tỷ đồng.
Ngân sách Trung ương cấp mới cho Chương trình là 2.295 tỷ đồng, trong đó:
+ Dự án cho vay tạo việc làm: 2.000 tỷ đồng;
+ Dự án hỗ trợ phát triển thị trường lao động: 225 tỷ đồng;
+ Hoạt động giám sát, đánh giá: 40 tỷ đồng;
+ Hoạt động nâng cao năng lực quản lý lao động - việc làm: 30 tỷ đồng.
2.2. Vị trí của XKLĐ trong chương trình việc làm quốc gia.
Để thực hiện được mục tiêu tạo việc làm cho một bộ phận lớn dân cư và giảm sự đói
nghèo, chương trình việc làm quốc gia đã đưa ra một số định hướng cụ thể để giải quyết
vấn đề việc làm như đẩy mạnh và hoàn thiện chương trình đi xây dựng các vùng kinh tế xã
hội phát triển; mở rộng chương trình đưa lao động đi làm việc ở nước ngoài; phát triển các
xí nghiệp vừa và nhỏ, phát triển hình thức gia công tạo việc làm và sản xuất sản phẩm tiêu

dùng xuất khẩu, khôi phục và phát triển các làng nghề cổ truyền,…Trong đó, việc đưa lao
động đi làm việc ở nước ngoài (XKLĐ) có một vị trí vô cùng quan trọng.
Chương trình việc làm quốc gia đã và đang được thực thi nhằm mục tiêu tới năm
2010 xóa hết đói nghèo. Hàng tỷ đồng đã chi cho chương trình này nhằm giúp đỡ người
lao động vay vốn để sản xuất, kinh doanh tạo việc làm. Điểm mạnh của XKLĐ trong
chương trình này đó là đây là một biện pháp xóa đối giảm nghèo có hiệu quả rất cao, đồng
thời tạo ra việc làm và vốn cho người lao động. Đầu tư vào XKLĐ hiện nay không cần có
chi phí lớn mà người lao động lại nhanh chóng có được việc làm thu nhập cao. Người đi
XKLĐ vừa có điều kiện giúp gia đình họ thoát đói nghèo, lại vừa có vốn và tay nghề để tự
tạo việc làm sau khi về nước. Ví dụ như một ngư dân đánh cá ở Nghệ An thu nhập hàng
tháng khoảng 400 nghìn đồng, nếu đi làm cùng công việc trên tàu đánh cá của Hàn Quốc
thì mỗi tháng gửi về nhà ít nhất 3 - 4 triệu đồng.
3. Một số kết quả đạt được của XKLĐ Việt Nam trong thời gian qua.
3.1. Giải quyết việc làm cho hàng chục vạn lao động.
Tính từ năm 1992 đến cuối năm 2007chúng ta đưa gần 580 ngàn người đi làm việc ở
40 nước và vùng lãnh thổ, mở rộng không gian làm việc và tạo thu nhập khá cho bản thân


19

họ và gia đình, ngoài tạo việc làm trực tiếp cho người lao động còn tạo việc làm gián tiếp
cho những người ở trong nước (như may mặc trang phục, valy, vận chuyển đường bộ, hàng
không, cán bộ lãnh sự làm hộ chiếu, ngân hàng...). Nếu giải quyết việc làm cho 58 vạn
người này ở trong nước thì bình quân một chỗ làm việc là 10 - 15 triệu đồng thì ngân sách
Nhà nước phải chi khoảng 5.800 đến 8.700 tỷ đồng. Theo tính toán của Bộ Lao động
Thương binh và Xã hội thì hàng năm người lao động ở nước ngoài gửi về trong nước
khoảng 1,5 - 1,6 tỷ USD. Nhiều địa phương tổ chức tốt hoạt động XKLĐ nên có tác động
tích cực đến công tác xoá đói giảm nghèo. Tỉnh Nghệ An có khoảng 3 vạn người đi
XKLĐ, hàng năm họ gửi về nước khoảng 40 triệu USD; Số lao động làm việc ở nước
ngoài của tỉnh Phú Thọ hàng năm chuyển về khoảng 600 tỷ đồng, gần bằng với số thu ngân

sách của tỉnh; Công ty VINACONEX tính đến giữa năm 2008 đã đưa trên 6 vạn lượt người
đi làm việc ở nước ngoài, thu về mỗi năm 25 - 50 triệu USD... xuất khẩu lao động tạo việc
làm ở ngoài nước có tác động tích cực đem lại công ăn việc làm cho số lao động ở các
vùng chuyển đổi mục đích sử dụng đất, vùng đông dân cư, dư thừa lao động và đặc biệt là
sự gắn kết giữa chương trình XKLĐ với giải quyết chính sách cho bộ đội xuất ngũ và hoàn
thành nghĩa vụ quân sự hàng năm..
3.2. Hình thành một lực lượng lao động có kỹ năng, tay nghề và lối sống công nghiệp.
Chúng ta có thể hy vọng ở mức thấp là 60 - 70% số người đã qua thời gian làm việc ở
nước ngoài tiếp thu và nâng cao trình độ tay nghề, thì số lao động có trình độ này lên tới 35
- 40 vạn người đã hoàn thành hợp đồng về nước và hàng năm con số đó là 4 - 5 vạn người
tiếp tục trở về. Đây là số lượng lao động có nghề, có kỹ năng rất quý giá. Nếu ta đào tạo số
lượng lao động này ở trong nước thì ngân sách phải chi một khoản khá lớn. Vấn đề đặt ra
là cần có chính sách hướng dẫn và thu hút họ vào làm việc phù hợp với ngành nghề mà họ
đã làm việc ở nước ngoài để họ được cống hiến tốt hơn và nhiều hơn cho đất nước.
3.3. Thị trường lao động Việt Nam ngày càng mở rộng, phong phú và đa dạng.
Trước đây chúng ta chỉ đưa lao động đi làm việc ở 10 - 15 nước và vùng lãnh thổ
nhưng tính đến thời điểm hiện nay lao động Việt Nam đã có mặt ở gần 40 nước và vùng
lãnh thổ. Vấn đề không chỉ dừng ở số lượng thị trường tăng lên mà quan trọng hơn là
chúng ta đã tìm hiểu cặn kẽ mỗi thị trường khi đưa lao động Việt Nam đến làm việc, từ
nhu cầu, chất lượng, tiêu chuẩn lao động, loại hình việc làm, thu nhập, điều kiện sống của
người lao động, phong tục tập quán, cơ chế nhập cảnh.....Từ đó tạo thuận lợi cho người lao


20

động dễ hoà nhập và có cơ chế quản lý phù hợp với từng thị trường.
3.4. Chúng ta đã có một hệ thống văn bản pháp quy khá đầy đủ.
Hiện tại chúng ta đã tạo được hành lang pháp lý để các cơ quan, doanh nghiệp và
người lao động thực hiện việc tổ chức, tuyển chọn và quản lý người lao động một cách
công khai, dân chủ và minh bạch.Và thực hiện theo cơ chế thị trường, luật pháp đã quy

định 5 loại hình đưa lao động Việt Nam đi làm việc ở nước ngoài, trong đó doanh nghiệp
hoạt động dịch vụ đưa người lao động đi làm việc ở nước ngoài là loại hình quan trọng
nhất. Hiện nay đã có khoảng 140 doanh nghiệp được cấp giấy phép hành nghề về XKLĐ,
với hàng nghìn cán bộ nhân viên hoạt động ngày một chuyên nghiệp hơn có trụ sở ở 25
tỉnh, thành phố trên cả nước.

IV. THỰC TRẠNG VỀ XKLĐ CỦA VIỆT NAM VÀ SỰ ẢNH HƯỞNG TIÊU
CỰC CỦA NỀN KINH TẾ HIỆN NAY TỚI CẦU XKLĐ.
1. Thực trạng về XKLĐ của Việt Nam.
Việt Nam hiện nay có trên 46 triệu người trong độ tuổi lao động, chiếm gần 55% dân
số cả nước, Đảng và Nhà nước ta luôn xác định phải đẩy mạnh việc phát triển kinh tế xã
hội để tạo ra nhiều việc làm ở trong nước là chính, nhưng đồng thời cũng tạo chính sách và
cơ chế để một bộ phận lao động và chuyên gia Việt Nam chưa có việc làm ra nước ngoài
làm việc. Tại chỉ thị số 41CT ngày 22-09-1998 của Bộ chính trị đã khẳng định “xuất khẩu
lao động và chuyên gia là một hoạt động kinh tế - xã hội góp phần phát triển nguồn nhân
lực, giải quyết việc làm, tạo thu nhập và nâng cao trình độ tay nghề cho người lao động,
tăng nguồn thu ngoại tệ cho đất nước ... cùng với việc giải quyết việc làm trong nước là
chính, xuất khẩu lao động và chuyên gia là một chiến lược quan trọng, lâu dài góp phần
xây dựng đội ngũ lao động trong công cuộc xây dựng đất nước trong thời kỳ công nghiệp
hoá - hiện đại hoá...”.Đến Đại hội Đảng toàn quốc lần thứ X (năm 2006) về xuất khẩu lao
động lại tiếp tục được khẳng định trong Nghị quyết của Đại hội: “Đẩy mạnh xuất khẩu lao
động. Xây dựng và thực hiện đồng bộ, chặt chẽ cơ chế chính sách về tạo nguồn lao động,
đưa lao động ra nước ngoài, bảo vệ quyền lợi và tăng uy tín của người lao động Việt Nam
ở nước ngoài”.
Trên cơ sở chủ trương mang tính chiến lược lâu dài của Đảng, công tác xuất khẩu lao
động đã từng bước được luật hoá theo trình độ phát triển ở mỗi giai đoạn. Từ Nghị quyết


21


của Chính phủ rồi được nâng lên thành Luật Lao động năm 2002 và cuối cùng là Luật
Người lao động Việt Nam đi làm việc ở nước ngoài theo hợp đồng năm 2006. Điều đó đã
tạo hành lang pháp lý đầy đủ, chặt chẽ cho việc phát triển công tác XKLĐ của Việt Nam.
Bảng số 1: SỐ LƯỢNG LAO ĐỘNG VIỆT NAM RA NƯỚC NGOÀI LÀM VIỆC
Đơn vị tính: 1000 người
Năm

2001

2002

2003

2004

2005

2006

2007

2008

Số lượng

36

46

75


67,5

71

78,8

85

80

(Nguồn: Theo số liệu của Cục Quản lý lao động ngoài nước)
Trong 3 tháng đầu năm 2009, mặc dù thị trường nhận lao động Việt Nam có nhiều
khó khăn do tình hình phát triền kinh tế ở những nước này chậm lại hoặc đi xuống, công
tác tạo nguồn lao động trong nước không được thuận lợi, sự cạnh tranh gay gắt của nhiều
công ty ở nhiều nước cung ứng lao động vào một thị trường…nhưng với sự cố gắng chung,
Việt Nam đã đưa được gần 20 nghìn lao động đi làm việc ở nhiều nước và vùng lãnh thổ.
Trong đó vẫn chủ yếu là Nhật Bản, Đài Loan, Macao và các nước ở khu vực Trung Đông.
2. Sự ảnh hưởng tiêu cực của nền kinh tế hiện nay đến cầu XKLĐ.
Từ cuộc khủng hoảng tài chính tại Mỹ, thế giới giờ đây đang rơi vào một giai đoạn
khó khăn chưa từng thấy khi các nền kinh tế với mức độ khác nhau đều suy thoái. Hiện
tượng đồng hành với suy thoái kinh tế là giảm khả năng đầu tư và nhu cầu tiêu dùng, kéo
theo là hàng loạt doanh nghiệp phá sản hoặc thu hẹp sản xuất kinh doanh . Theo dự báo của
Tổ chức lao động Quốc tế (ILO), trong năm 2009, toàn thế giới sẽ cắt giảm khoảng 210 triệu chỗ
làm. Đáng chú ý nhất là các lĩnh vực cắt giảm lao động chủ yếu tập trung trong các lĩnh vực xây
dựng, sản xuất, chế tạo, dịch vụ, những lĩnh vực lâu nay vốn là thế mạnh của lao động xuất khẩu
Việt Nam. Với thực trạng của nền kinh tế hiện nay, nhu cầu về lao động nước ngoài của các nước
đã bị giảm một cách nghiêm trọng. Hầu hết các nước nhập khẩu lao động với số lượng lớn trước
kia đều đưa ra chính sách hạn chế tiếp nhận, thậm chí là dừng tiếp nhận lao động từ các nước khác
để phần nào đảm bảo việc làm cho công nhân của nước mình.


Tại Nhật bản, theo Bloomberg ngày 3/10/2008, dưới tác động của cuộc khủng hoảng
tài chính thế giới, tập đoàn ô tô Toyota đã cắt giảm 23% lao động trong vòng 6 tháng, kể từ
tháng 3 đến tháng 9 cùng năm do nhu cầu mua xe hơi ở Mỹ và Nhật giảm sút. Kể từ tháng
6/2008 tập đoàn này đã dừng hẳn việc tuyển dụng mới. Số lao động của tập đoàn giảm từ


22

8.800 người trong tháng 3/2008 xuống còn 6.800 người trong tháng 9/2008. Cũng theo
Bloomberg công ty Daikyo, công ty xây dựng căn hộ lớn nhất của Nhật Bản thuộc tập
đoàn Orix cũng cắt giảm 15% trong tổng số 4.000 lao động của mình. Ngày 30/10/2008
theo AFP Nissan Motor - nhà sản xuất ô tô lớn nhất Nhật Bản sẽ cắt giảm 780 lao động,
tương ứng với 40 % tổng số lao động của công ty.
Một vài con số trên cho thấy các doanh nghiệp Nhật Bản đang chịu ảnh hưởng nặng
nề của sự suy thoái kinh tế thế giới và sự tăng giá của đồng Yên Nhật và sự suy giảm ngoại
hối.
Tuy chưa có thống kê về số lao động Việt Nam bị ảnh hưởng bởi suy thoái kinh tế tại
thị trường này, nhưng theo phản ảnh của một số lãnh đạo doanh nghiệp XKLĐ thì trong
các chuyến khảo sát để nắm bắt nhu cấu cung ứng lao động trong năm 2009 các Công ty
của Nhật Bản đều dè dặt hơn trong việc nêu số lượng lao động định tiếp nhận.
Tại Đài Loan, theo China Post ngày 16/10/2008, các chuyên gia kinh tế cho biết nước
này phải đối mặt với tình trạng thất nghiệp nghiêm trọng nhất là vào Tết nguyên đán năm
2008. Tổng cục ngân sách, kế toán và thống kê cho biết tỷ lệ thất nghiệp tăng lên mức
4,27% vào tháng 9/2008, mức cao nhất trong cùng kỳ 4 năm gần đây. Khoảng nửa triệu
người không có việc làm, trong đó 145 nghìn người mất việc do các Công ty thu hẹp quy
mô sản xuất, tăng 145 nghìn người so với tháng 8/2008. Theo báo điện tử Trung Quốc thời
báo, ngày 27/10/2008 và thông tin trên mạng của Cục huấn luyện nghề thuộc Uỷ ban lao
động, để giảm gấp tỷ lệ thất nghiệp đang tăng cao, Viện hành chính giao cho Uỷ ban lao
động nâng “ Kế hoạch có việc làm lập tức” lên mức trên 15 nghìn người, những nhà máy

có chế độ làm ba ca giảm bớt lao động nước ngoài, tăng thuê lao động bản địa, phần chi
phí phụ trội sẽ được chính phủ trợ cấp. Ngoài ra, những công trình xây dựng công cộng và
những đơn vị có thuê người giúp việc và chăm sóc người bệnh lâu dài cần giảm thuê lao
động nước ngoài để dành việc cho lao động bản địa và phụ nữ trung cao niên. Dự tính khả
năng sẽ cắt bớt 3,5 đến 5 vạn lao động nước ngoài. Các xí nghiệp thuê lao động bản địa,
sau khi được phê duyệt, cứ mỗi lao động bản địa thất nghiệp được trợ cấp 800 Đài tệ, mỗi
tháng tính 22 ngày nên trợ cấp mỗi tháng là 17.600 Đài tệ, với thời gian trợ cấp là 6 tháng.
Do khủng hoảng kinh tế cộng thêm các chính sách ưu tiên việc làm cho người bản địa, lao
động nước ngoài bị ảnh hưởng nghiêm trọng. Theo thông tin từ một Công ty môi giới Đài
Loan thì Công ty này đã phải đưa hàng trăm lao động Philipin, Thái Lan trong ngành điện
tử về nước và dự báo số lao động nước ngoài phải về nước sẽ còn diễn ra trầm trọng hơn


23

trong thời gian tới.Một bộ phận lao động Việt Nam cũng rơi vào hoàn cảnh thiếu việc làm,
nghỉ việc dài ngày. Thậm chí một vài doanh nghiệp đã phải phối hợp với đối tác xử lý
quyền lợi của người lao động để đưa họ về nước trước hạn.
Theo thông tin của Ban Quản lý lao động tại Malaysia, trước bối cảnh kinh tế chung
đang rơi vào suy thoái hiện nay, chính phủ Malaysia cũng đang phải thực hiện chính sách
tiết kiệm, cắt giảm đầu tư vào các dự án liên quan đến nhà ở và quốc phòng. Dự báo mức
tăng GDP từ 5,3% năm 2008 sẽ giảm xuống mức 3,4% năm 2009. Sự sụt giảm kinh tế sẽ
làm cho tỷ lệ thất nghiệp, trong đó có lao động nước ngoài, tăng lên. Chính phủ Malaysia
đang tìm cách giảm số lượng lao động nước ngoài vào từ nay cho đến năm 2010, mỗi năm
400 nghìn người.
Tại Australia, Chính phủ Australia tỏ ý sẽ giảm thiểu đến mức tối đa số lượng nhập
cư kể từ 2009 vì mức tăng trưởng kinh tế đang trên đà tụt dốc và không cung cấp đủ việc
làm cho người dân trong nước. Hồi tháng 5/2008 Chính phủ cho phép thêm 31 nghìn lao
động có tay nghề nhập cư hàng năm, nhưng đã đến lúc phải xét lại chính sách này.Nước
này đang tìm cách sa thải bớt nhân viên của họ, ngoài ra, để bảo đảm việc làm cho dân Úc,

di dân có tay nghề phải tạm thời hạn chế tối đa hay được trả lương thấp hơn so với công
dân Úc hoặc người thường trú.
Năm 2008, ngoài việc CH Sec tuyên bố ngừng cấp visa cho lao động Việt Nam, các
liên doanh sản xuất ô tô tại CH Sec cũng bắt đầu thu hẹp sản xuất và cắt giảm lao động.
Theo thông tin ban đầu cũng đã có lao động Việt Nam bị ảnh hưởng bởi việc đình đốn sản
xuất này.
Suy thoái kinh tế cộng thêm giá dầu giảm liên tục cũng sẽ làm ảnh hưởng đến dòng
tiền đầu tư vào các dự án tại khu vực Trung Đông kéo theo sự giảm sút nhu cầu nhân công,
trong đó có lao động nước ngoài…
Theo nhận định của Hội nghị các nhà lãnh đạo APEC 16, diễn ra tại Lima Peru, đến
giữa năm 2010 thế giới mới có thể khắc phục được tình trạng khủng hoảng tài chính hiện
nay.
Với tình hình nền kinh tế hiện nay có thể nói các thị trường nhận nhiều lao động
nước ngoài, trong đó có lao động Việt Nam thời gian tới chắc chắn sẽ giảm nhu cầu về lao
động. Hơn nữa một bộ phận người lao động Việt Nam sẽ bị ảnh hưởng qua việc thu hẹp
sản xuất kinh doanh, thậm chí phá sản của các công ty nước ngoài. Sẽ có một số lượng lao
động mất việc làm và phải kết thúc hợp đồng lao động trước hạn để về nước.


24

CHƯƠNG II
THỰC TRẠNG XKLĐ SANG THỊ TRƯỜNG TRUNG ĐÔNG
TRONG THỜI

GIAN QUA TẠI CÔNG TY CỔ PHẦN
TIẾN BỘ QUỐC TẾ (AIC)

I. SƠ LƯỢC VỀ CÔNG TY CỔ PHẦN TIẾN BỘ QUỐC TẾ (AIC).
1. Quá trình hình thành và phát triển của công ty.

1.1. Sự ra đời và phát triển của công ty.
Công ty Cổ Phần Tiến Bộ Quốc Tế (viết tắt là AIC) có địa điểm trụ sở chính tại 75
Âu Cơ - Tây Hồ - Hà Nội, tiền thân là Trung tâm Xuất khẩu Lao động (Tralacen) trực thuộc
Traenco, đơn vị trực thuộc Bộ Giao Thông Vận Tải được thành lập theo Quyết định số 1938/
QĐ- BGTVT ngày 6 tháng 08 năm 1999 về việc thành lập Trung tâm xuất khẩu lao động trực
thuộc công ty xây dựng thương mại thuộc Bộ Giao Thông Vận Tải. Công ty tách ra khỏi công
ty Traenco và hoạt động theo giấy chứng nhận đăng ký kinh doanh số 0103009889 của Sở kế
hoạch và Đầu tư Hà Nội cấp ngày 04/11/2005. Từ khi thành lập đến nay, công ty không ngừng
lớn mạnh, mở rộng lĩnh vực sản xuất kinh doanh, được thể hiện qua các con số và các giải
thưởng cao quý của Chính phủ, các Bộ, các cơ quản quản lý trao tặng. Lĩnh vực kinh doanh
của công ty không ngừng mở rộng được thể hiện qua sự thay đổi giấy phép đăng ký kinh
doanh qua các thời kỳ: Giấy chứng nhận đăng ký kinh doanh thay đổi lần thứ nhất ngày
01/02/2007, thay đổi lần thứ hai ngày 18/01/2008, thay đổi lần thứ ba ngày 26/2/2008, thay đổi
lần thứ tư ngày 27/3/2008, thay đổi lần thứ năm ngày 29/8/2008 và thay đổi lần thứ sáu ngày
15/12/2008. Khi mới thành lập, lĩnh vực hoạt động chủ yếu của công ty là xuất khẩu lao động.
Nhưng đến nay, với sự nhạy bén, năng động của Ban giám đốc cũng như đội ngũ cán bộ quản
lý đã tìm ra nhiều cơ hội hợp tác mới, mở rộng thêm nhiều lĩnh vực phát triển mới cho công ty
(… ngành nghề kinh doanh) như: kinh doanh bất động sản, tài chính, buôn bán vàng bạc, đá
quý, cung cấp các thiết bị y tế, máy nông nghiệp …
1.2. Các lĩnh vực hoạt động kinh doanh của công ty.
Ngành nghề kinh doanh chính của công ty đó là xuất khẩu lao động. Bên cạnh đó


25

công ty còn mở rộng kinh doanh sang các lĩnh vực khác như:
 Tài chính
 Quản lý quỹ
 Quỹ đầu tư
 Thương mại, xuất nhập khẩu hàng hóa

 Sản xuất, chế tạo
 Du lịch
 Du học
 Tư vấn đầu tư
 Điện lực
 Khai thác khoáng sản
 Kinh doanh hạ tầng khu công nghiệp
 Kinh doanh bất động sản
 Đào tạo và giáo dục
 Dịch vụ cung ứng nguồn nhân lực cho các doanh nghiệp Việt Nam và nước ngoài
đầu tư vào Việt Nam.
2. Cơ cấu tổ chức bộ máy công ty và chức năng nhiệm vụ của các phòng ban.


×