Tải bản đầy đủ (.pdf) (119 trang)

Nghiên cứu so sánh chiến lược an ninh quốc gia của các chính quyền mỹ giai đoạn 1993 2012

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (1.34 MB, 119 trang )

ĐẠI HỌC QUỐC GIA HÀ NỘI
TRƢỜNG ĐẠI HỌC KHOA HỌC XÃ HỘI VÀ NHÂN VĂN
---------------------

PHẠM THỊ GIANG

NGHIÊN CỨU SO SÁNH CHIẾN LƢỢC AN NINH
QUỐC GIA CỦA CÁC CHÍNH QUYỀN MỸ
GIAI ĐOẠN 1993 - 2012

LUẬN VĂN THẠC SĨ: QUỐC TẾ HỌC

Hà Nội - 2015


ĐẠI HỌC QUỐC GIA HÀ NỘI
TRƢỜNG ĐẠI HỌC KHOA HỌC XÃ HỘI VÀ NHÂN VĂN
---------------------

PHẠM THỊ GIANG

NGHIÊN CỨU SO SÁNH CHIẾN LƢỢC AN NINH
QUỐC GIA CỦA CÁC CHÍNH QUYỀN MỸ
GIAI ĐOẠN 1993 - 2012

Chuyên ngành: Quan hệ Quốc tế
Mã số: 60310206
LUẬN VĂN THẠC SĨ: QUỐC TẾ HỌC

Ngƣời hƣớng dẫn: PGS. TS Nguyễn Thị Thanh Thủy


Hà Nội2 - 2015


LỜI CẢM ƠN
Trong suốt quá trình nghiên cứu và thực hiện luận văn, em đã nhận
được sự hướng dẫn, động viên, giúp đỡ tận tình của PGS.TS Nguyễn Thị
Thanh Thủy. Em xin được bày tỏ lòng biết ơn sâu sắc về sự giúp đỡ quý báu
này.
Em cũng xin chân thành cảm ơn các Thầy, các Cô trong Khoa Quốc tế
học, trường Đại học Khoa học Xã hội và Nhân văn, Đại học Quốc gia Hà Nội,
đã nhiệt tình giảng dạy và cung cấp chúng em những kiến thức hữu ích trong
suốt thời gian Cao học.
Đặc biệt, em muốn gửi lời cảm ơn chân thành nhất tới gia đình, người
thân, bạn bè vì sự trợ giúp, động viên to lớn về mặt tinh thần cũng như vật
chất trong suốt thời gian qua.

Hà Nội, ngày 10 tháng 11 năm 2015
Học viên

Phạm Thị Giang

3


MỤC LỤC
Trang
DANH MỤC CÁC CHỮ VIẾT TẮT

3


MỞ ĐẦU

5

Chƣơng 1. KHÁI NIỆM CHIẾN LƢỢC AN NINH QUỐC GIA VÀ NỘI
DUNG CHÍNH CÁC CHIẾN LƢỢC AN NINH QUỐC GIA CỦA MỸ

11

1.1. Các khái niệm về an ninh quốc gia và khái niệm chiến lƣợc
11

an ninh quốc gia của Mỹ
1.1.1. Các khái niệm về an ninh quốc gia

11

1.1.2. Khái niệm chiến lược an ninh quốc gia của Mỹ

15

1.2. Nội dung chính các chiến lƣợc an ninh quốc gia của Mỹ giai
đoạn 1993 - 2012

18

1.2.1. Chiến lược an ninh quốc gia của chính quyền Bill Clinton

18


1.2.2. Chiến lược an ninh quốc gia của chính quyền George W. Bush

25

1.2.3. Chiến lược an ninh quốc gia năm 2010 của chính quyền
Barack Obama

31

Chƣơng 2: SO SÁNH CÁC BẢN CHIẾN LƢỢC AN NINH QUỐC GIA
CỦA CÁC CHÍNH QUYỀN MỸ GIAI ĐOẠN 1993 - 2012

38

2.1. Trong xác định môi trƣờng chiến lƣợc

38

2.2. Trong xác định mục tiêu chiến lƣợc

46

2.3. Trên các lĩnh vực

47

2.3.1. Lĩnh vực kinh tế

47


2.3.2. Lĩnh vực an ninh - quân sự

52

2.3.3. Lĩnh vực đối ngoại

63

2.3.4. Lĩnh vực dân chủ, nhân quyền

80

4


Chƣơng 3: NHẬN XÉT VỀ CHIẾN LƢỢC AN NINH CỦA MỸ GIAI
ĐOẠN 1993 - 2012 VÀ XU HƢỚNG CHIẾN LƢỢC AN NINH QUỐC
GIA CỦA MỸ TỪ SAU NĂM 2012

85

3.1. Những đặc điểm chính trong chiến lƣợc an ninh quốc gia của
Mỹ giai đoạn 1993 - 2012

85

3.1.1. Được định hướng bởi Đạo luật Goldwater-Nichols

85


3.1.2. Xuất phát từ bối cảnh chủ quan, khách quan

86

3.1.3. Mục tiêu chiến lược là bất biến

90

3.1.4. Biện pháp triển khai là vạn biến

91

3.2. Xu hƣớng chiến lƣợc an ninh quốc gia của Mỹ từ sau năm 2012
3.2.1. Chiến lược An ninh Quốc gia Mỹ năm 2015

94
94

3.2.2. Những yếu tố chính tác động đến xây dựng chiến lược an
ninh quốc gia Mỹ

97

3.2.3. Xu hướng chiến lược an ninh quốc gia của Mỹ

101

KẾT LUẬN

106


TÀI LIỆU THAM KHẢO

108

PHỤ LỤC

5


DANH MỤC CÁC CHỮ VIẾT TẮT

CHỮ VIẾT TẮT

TIẾNG ANH

TIẾNG VIỆT

ABM

Anti-Ballistic Missile Treaty Hiệp ước Chống tên lửa đạn đạo

ADB

Asia Development Bank

Ngân hàng Phát triển Châu Á

AGOA


African Growth and
Opportunity Act

Đạo luật Tăng trưởng và Cơ hội
Châu Phi

AIIB

Asian Infrastructure
Investment Bank

Ngân hàng Đầu tư Cơ sở Hạ tầng
châu Á

APEC

Asia Pacific Economic
Cooperation

Diễn đàn Hợp tác Kinh tế châu Á
- Thái Bình Dương

ARF

ASEAN Regional Forum

Diễn đàn Khu vực ASEAN

ASEAN


Association of Southeast
Asian Nations

Hiệp hội các quốc gia Đông Nam
Á

CTBT

Comprehensive Nuclear
Test-Ban Treaty

Hiệp ước Cấm thử vũ khí hạt
nhân toàn diện

EAS

East Asia Summit

Hội nghị Cấp cao Đông Á

EU

European Union

Liên minh Châu Âu

FTAA

Free Trade Area of
Americas


Khu vực thương mại tự do Châu
Mỹ

GATT

Genaral Agreement Tax
Trade

Hiệp định Chung về Thuế quan
và Thương mại

GCC

Gulf Cooperation Council

Hội đồng Hợp tác vùng Vịnh

GDP

Gross Domestic Product

Tổng sản phẩm quốc nội

IMF

International Monetary Fund Quỹ Tiền tệ Quốc tế

NAFTA


North American Free Trade
Agreement

Hiệp định Thương mại Tự do Bắc
Mỹ

NATO

North Atlantic Treaty

Tổ chức Hiệp ước Bắc Đại Tây
6


Organization

Dương

NGO

Non-governmental
organization

Tổ chức phi chính phủ

NPT

Treaty of Non-Proliferation
of Nuclear Weapons


Hiệp ước không phổ biến vũ khí
hạt nhân

OAS

Organization of American
States

Tổ chức các quốc gia châu Mỹ

OSCE

Organization for Security
and Co-operation in Europe

Tổ chức An ninh và Hợp tác châu
Âu

PSI

Proliferation Security
Initiative

Sáng kiến An ninh chống phổ
biến vũ khí hủy diệt hàng loạt

RCEP

Regional Comprehensive
Economic Partnership


Hiệp định Đối tác Kinh tế Toàn
diện Khu vực

START

Strategic Arms Reduction
Treaty

Hiệp ước Cắt giảm Vũ khí Chiến
lược

TPP

Trans-Pacific Partnership

Hiệp định Đối tác xuyên Thái
Bình Dương

T-TIP

Transatlantic Trade and
Investment Partnership

Hiệp định Đầu tư và Thương mại
xuyên Đại Tây Dương

WB

World Bank


Ngân hàng Thế giới

WTO

World Trade Organization

Tổ chức Thương mại Thế giới

7


MỞ ĐẦU
1. Tính cấp thiết của đề tài
Sau Chiến tranh Lạnh, với sự sụp đổ của Liên Xô và các nước xã hội chủ
nghĩa ở Đông Âu, trật tự thế giới hai cực không còn, thay vào đó là sự hình
thành của trật tự thế giới đơn cực với Mỹ là siêu cường số một thế giới trên
các lĩnh vực chính trị, kinh tế, ngoại giao, quân sự. Mỹ có vai trò quan trọng
trong các tổ chức chính trị quốc tế như Tổ chức Hiệp ước Bắc Đại Tây Dương
(NATO), Hiệp định Thương mại Tự do Bắc Mỹ (NAFTA), Diễn đàn Hợp tác
Kinh tế châu Á-Thái Bình Dương (APEC). Mỹ giữ vai trò là người ra “luật
chơi” trong các tổ chức kinh tế, tài chính và tiền tệ quốc tế, như Quỹ Tiền tệ
Quốc tế (IMF), Ngân hàng Thế giới (WB), Tổ chức Thương mại Thế giới
(WTO). Tuy nhiên, trong giai đoạn từ sau Chiến tranh Lạnh cho đến những
năm đầu thế kỷ 21, Mỹ cũng phải đối mặt với nhiều thách thức đe dọa đến lợi
ích và an ninh quốc gia của Mỹ. Đó là những thách thức đến từ các vấn đề an
ninh truyền thống, phi truyền thống, chủ nghĩa khủng bố, suy thoái kinh tế,
những bất cập trong chiến lược phát triển kinh tế, đối ngoại. Những thách
thức cùng với những biến động lớn của tình hình thế giới tác động đến lợi ích
toàn cầu của Mỹ. Vì vậy, các chính quyền Mỹ luôn điều chỉnh chiến lược an

ninh quốc gia để phù hợp với tình hình thực tế, đáp ứng các mục tiêu an ninh
quốc gia và các mục tiêu đối ngoại của Mỹ.
Là một siêu cường thế giới, những chiến lược an ninh quốc gia của Mỹ
có sự tác động mạnh mẽ đến các khu vực, các nước trên thế giới, trong đó có
Việt Nam. Chính vì thế, việc lựa chọn và thực hiện đề tài “Nghiên cứu so
sánh Chiến lược an ninh quốc gia của các chính quyền Mỹ giai đoạn 1993
- 2012” sẽ góp phần làm sáng tỏ bản chất chiến lược an ninh quốc gia của
Mỹ, sự điều chỉnh trong các chiến lược an ninh quốc gia của Mỹ trong giai
8


đoạn này, phục vụ công tác nghiên cứu chiến lược toàn cầu của Mỹ nói chung
và chính sách đối ngoại của Mỹ nói riêng.
2. Lịch sử nghiên cứu vấn đề
Do tầm quan trọng và phạm vi ảnh hưởng của chiến lược an ninh quốc
gia của Mỹ, nên đây là một trong những chủ đề được các nhà nghiên cứu, học
giả trong nước và trên thế giới rất quan tâm.
Ở nước ngoài, một số công trình xuất bản thành sách tiêu biểu là: Our
New National Security Strategy: America Promises to Come Back, của James
John Tritten, Nxb Greenwood Publishing Group, 1992; U.S. National Security
Strategy in Southeast Asia: A Reappraisal, của Douglas D. Freeseman, Nxb
D.D. Freeseman, 1995; U.S. National Security: Beyond The Cold War, của
các tác giả David Jablonsky, Ronald Steel, Lawrence Korb, Morton H.
Halperin, Robert Ellsworth, 1997; U.S. National Security Strategy: A New
Era, Nxb DIANE Publishing, 2002; A New National Security Strategy in an
Age of Terrorists, Tyrants, and Weapons of Mass Destruction: Three Options
Presented as Presidential Speeches, của Lawrence J. Korb, Council on
Foreign Relations, 2003; Ideas for America's Future: Core Elements of a New
National Security Strategy, của Jeffrey P. Bialos, Johns Hopkins University,
2008; American National Security, của các tác giả Amos A. Jordan, William

J. Taylor, Jr., Michael J. Meese, Suzanne C. Nielsen, Nxb JHU Press, 2009;
New Directions in U.S. National Security; Strategy, Defense Plans, and
Diplomacy: A Review of Official Strategic Documents, của Richard L. Kugler,
Nxb NDU Press, 2011; US National Security Concerns in Latin America and
the Caribbean: The Concept of Ungoverned Spaces and Failed States, của các
tác giả Gary Prevost, Harry E. Vanden, Carlos Oliva Campos, Luis Fernando
Ayerbe, Nxb Palgrave Macmillan, 2014… Nhìn chung, các công trình nghiên
cứu này đã tập trung đề cập đến những nhân tố tác động đến chiến lược an
9


ninh quốc gia của Mỹ; phân tích những nội dung cơ bản của chiến lược an
ninh quốc gia của Mỹ ở từng thời điểm; chiến lược an ninh quốc gia của Mỹ
đối với từng lĩnh vực, từng khu vực trên thế giới.
Ở trong nước, chiến lược an ninh quốc gia của Mỹ cũng là một chủ đề
thu hút sự quan tâm của các nhà nghiên cứu, vì thế, đã có nhiều công trình
khoa học đề cập đến chủ đề này ở những mức độ khác nhau. Một số công
trình được xuất bản thành sách tiêu biểu là: Hoa Kỳ can dự và mở rộng của
Lê Bá Thuyên, Nxb Khoa học Xã hội, Hà Nội, 1997; Về chiến lược an ninh
của Mỹ hiện nay, Nxb Chính trị Quốc gia, Hà Nội, 2004 của Lê Linh Lan
(chủ biên. Bên cạnh đó, còn có nhiều bài viết đăng trên các tạp chí trong
nước, tiêu biểu là “Sự điều chỉnh chiến lược toàn cầu sau chiến tranh lạnh
của Mỹ: từ George Bush (cha) đến Bill Clinton”, Tạp chí châu Mỹ ngày nay,
số 1/2001 của tác giả Hà Mỹ Hương; “Chiến lược an ninh Đông Á - Thái
Bình Dương của Mỹ: từ Clinton đến Bush”, Tạp chí Nghiên cứu Quốc tế, Số
8/2003, của Lê Linh Lan; “Sự điều chỉnh chiến lược của Mỹ và tác động của
nó đến khu vực Đông Nam Á”, Tạp chí châu Mỹ ngày nay, Số 11/2003, của
Phạm Đức Thành; “Bàn về chiến lược an ninh quốc gia mới của Mỹ”, Tạp
chí Nghiên cứu quốc tế, Số 6/2003, của Hoàng Anh Tuấn; “Mỹ và an ninh
Đông Nam Á hiện nay”, Tạp chí Nghiên cứu quốc tế, số 6/2005 của tác giả Lê

Đình Tĩnh; “Chiến lược an ninh quốc gia mới của Mỹ trong một thế giới đang
thay đổi”, Tạp chí Cộng sản, Số 5/2010 của Lê Thế Mẫu. Các công trình này
đã tập trung làm rõ sự điều chỉnh chiến lược của Mỹ qua từng thời kỳ, từ
chính quyền này đến chính quyền khác, những điểm mới của một chiến lược
an ninh quốc gia so với bản trước đó.
Nhìn chung, trong các công trình nghiên cứu và ấn phẩm khoa học kể
trên, chiến lược an ninh quốc gia của Mỹ được phản ánh trên nhiều khía cạnh,
tập trung vào các chủ đề như quá trình hình thành chiến lược an ninh quốc gia
10


Mỹ, những yếu tố tác động đến xây dựng chiến lược an ninh quốc gia Mỹ,
phân tích những nội dung cơ bản trong một chiến lược an ninh quốc gia sau
khi được ban hành, nghiên cứu về một số lĩnh vực cụ thể và nội dung chiến
lược an ninh quốc gia của Mỹ đối với một số khu vực. Tuy nhiên, chưa có
một công trình nghiên cứu mang tính tổng thể, so sánh các chiến lược an ninh
quốc gia của Mỹ, nhất là trong giai đoạn 1993 - 2012. Vì vậy, luận văn lấy
chủ đề “Nghiên cứu so sánh chiến lược an ninh quốc gia của các chính quyền
Mỹ giai đoạn 1993 - 2012” nhằm mục đích đánh giá một cách tổng quan, hệ
thống hóa những điều chỉnh cơ bản trong các bản chiến lược an ninh quốc gia
của Mỹ trong một giai đoạn lịch sử nhất định.
3. Mục đích và nhiệm vụ nghiên cứu
Thông qua nghiên cứu một cách tổng thể chiến lược an ninh của Mỹ
trong giai đoạn 1993 - 2012, luận văn tập trung so sánh các bản chiến lược an
ninh quốc gia của các chính quyền Mỹ. Từ đó, luận văn đưa ra những đánh
giá về những đặc điểm nổi bật trong chiến lược an ninh quốc gia của Mỹ
trong hai thập kỷ sau Chiến tranh Lạnh và dự báo khuynh hướng trong chiến
lược an ninh quốc gia của Mỹ trong thời gian tới.
Để đạt được mục tiêu tổng thể trên, luận văn xác định những nhiệm vụ
nghiên cứu cụ thể sau:

- Nghiên cứu khái niệm an ninh quốc gia nói chung và chiến lược an
ninh quốc gia của Mỹ nói riêng;
- Nghiên cứu những nội dung cơ bản của năm bản Chiến lược an ninh
quốc gia của các chính quyền Mỹ từ năm 1993 đến năm 2012.
- So sánh nội dung của các Chiến lược an ninh quốc gia để thấy được
những điểm giống nhau và khác nhau cơ bản trong ưu tiên chiến lược của các
chính quyền Mỹ trong giai đoạn này, đồng thời lý giải những tương đồng và
khác biệt đó.
11


- Cuối cùng, luận văn đánh giá những đặc điểm nổi bật trong chiến lược
an ninh quốc gia của Mỹ trong giai đoạn 1993 - 2012 và xu hướng Chiến lược
an ninh quốc gia của Mỹ từ sau năm 2012.
4. Đối tƣợng và phạm vi nghiên cứu
- Đối tượng nghiên cứu: Các chiến lược an ninh quốc gia của Mỹ được
các Tổng thống Mỹ công bố vào đầu mỗi nhiệm kỳ.
- Phạm vi nghiên cứu: Về thời gian, các chiến lược an ninh quốc gia của
Mỹ trong giai đoạn 1993 - 2012. Về nội dung, tập trung nghiên cứu năm bản
Chiến lược an ninh quốc gia của ba đời Tổng thống Mỹ (Bill Clinton, George.
W. Bush và nhiệm kỳ đầu của Barack Obama). Do khuôn khổ hạn chế của
một luận văn cao học, luận văn không đi sâu phân tích quá trình triển khai
chiến lược an ninh quốc gia qua các đời Tổng thống mà chủ yếu nghiên cứu
làm rõ những tương đồng và khác biệt về nội dung và ưu tiên chiến lược trong
các bản Chiến lược an ninh quốc gia của các chính quyền Mỹ và lý giải tại
sao lại có những tương đồng và khác biệt đó trên cơ sở phân tích những yếu
tố khách quan và chủ quan tác động tới việc hoạch định chiến lược an ninh
quốc gia của các chính quyền Mỹ.
5. Phƣơng pháp nghiên cứu
Luận văn được thực hiện dựa trên phương pháp nghiên cứu quan hệ quốc

tế, nhằm đánh giá và phân tích một cách khái quát và toàn diện chính sách đối
ngoại của Mỹ dưới sự tác động của các nhân tố trong nước và quốc tế. Ngoài
ra, luận văn sử dụng các phương pháp khác như so sánh - đối chiếu, phân tích
- tổng hợp và dự báo.

12


6. Kết cấu của luận văn
Ngoài phần mở đầu, kết luận, tài liệu tham khảo, nội dung chính của
luận văn được chia làm ba chương:
Chương 1: Khái niệm chiến lược an ninh quốc gia và nội dung chính các
Chiến lược an ninh quốc gia của Mỹ: Nêu khái quát các quan niệm về an ninh
quốc gia trên thế giới; tìm hiểu khái niệm an ninh quốc gia của Mỹ và tóm
lược các nội dung chính trong năm bản Chiến lược an ninh quốc gia giai đoạn
1993 - 2012.
Chương 2: So sánh các bản Chiến lược an ninh quốc gia của các chính
quyền Mỹ giai đoạn 1993 - 2012: So sánh những tương đồng và khác biệt
trong các chiến lược an ninh quốc gia của chính quyền Bill Clinton, George.
W. Bush và nhiệm kỳ đầu của Barack Obama xét trên các yếu tố chính như
xác định môi trường chiến lược, mục tiêu chiến lược, biện pháp triển khai
chiến lược.
Chương 3: Nhận xét về chiến lược an ninh của Mỹ giai đoạn 1993 2012 và xu hướng chiến lược an ninh quốc gia của Mỹ từ sau năm 2012.
Khái quát những đặc điểm chính trong các bản chiến lược an ninh quốc gia
Mỹ giai đoạn 1993 - 2012 và xu hướng chiến lược an ninh quốc gia của Mỹ từ
sau năm 2012.

13



CHƢƠNG 1
KHÁI NIỆM CHIẾN LƢỢC AN NINH QUỐC GIA VÀ NỘI DUNG
CHÍNH CÁC CHIẾN LƢỢC AN NINH QUỐC GIA CỦA MỸ

1.1. CÁC KHÁI NIỆM VỀ AN NINH QUỐC GIA VÀ KHÁI NIỆM CHIẾN
LƯỢC AN NINH QUỐC GIA CỦA MỸ

1.1.1. Các khái niệm về an ninh quốc gia
Có nhiều khái niệm về an ninh quốc gia đã được nhiều nhà hoạch định
chính sách, học giả, nhà nghiên cứu trên thế giới nghiên cứu và đúc kết lại.
Sau khi Chiến tranh Lạnh kết thúc, những nhận thức về an ninh cũng thay đổi
rất nhanh chóng. Dưới đây là một số khái niệm chủ yếu.
An ninh toàn diện: Theo khái niệm này, an ninh được nhận thức không
chỉ từ khía cạnh quân sự, mà còn bao gồm cả kinh tế, chính trị, xã hội. Thuật
ngữ này được chính thức đưa ra ở Nhật Bản dưới thời chính phủ Ohira
Masaharu vào năm 19781 và được các quốc gia Đông Nam Á, đặc biệt là
Indonesia, Malaysia và Singapore ủng hộ. Tiền đề cơ bản của nó là an ninh
phải được hiểu một cách toàn diện, bao gồm cả các mối đe dọa quân sự và phi
quân sự đối với toàn bộ đời sống của một quốc gia. Nó đã thể hiện sự chuyển
hướng trong chính sách của nhiều nước trong khu vực châu Á - Thái Bình
Dương, từ nhấn mạnh các mối quan hệ an ninh tập thể (tham gia hiệp ước,
liên minh quân sự để chống lại mối đe dọa hữu hình) và củng cố sức mạnh
quân sự, sang phát triển sức mạnh kinh tế và tăng cường hợp tác chính trị và
kinh tế, tạo môi trường hoà bình, ổn định và xây dựng năng lực trong nước
cũng như các cơ chế quốc tế để đối phó và ngăn ngừa những bất ổn tiềm tàng.
Khái niệm an ninh toàn diện bao gồm: (i) An ninh quốc gia bao gồm an

David Dewitt (1994), “Common, Comprehensive and Cooperative Security”, Pacific Review 7:
trang 1-15.
1


14


ninh đối với chủ quyền quốc gia, toàn vẹn lãnh thổ và an ninh của nhà nước
và nhân dân; (ii) Những vấn đề an ninh phi truyền thống như môi trường và
sinh thái, căng thẳng sắc tộc, hoạt động tội ác xuyên quốc gia, an ninh năng
lượng và lương thực, an ninh con người, v.v... ngày càng tăng lên; (iii) Không
hình thành liên minh quân sự; loại bỏ sự can thiệp từ bên ngoài; thúc đẩy các
biện pháp xây dựng lòng tin và kiểm soát vũ khí2.
An ninh hợp tác: Cùng với an ninh toàn diện, an ninh hợp tác là một
quan niệm ngày càng phổ biến. Đề cập sớm nhất thuật ngữ này là tại Hội thảo
Lòng chảo Thái Bình Dương năm 1988, trong đó thuật ngữ này được sử dụng
đồng nghĩa với hợp tác an ninh. Theo cựu Ngoại trưởng Canada Joe Clark, an
ninh hợp tác là sự thay thế nhận thức về an ninh trong Chiến tranh Lạnh dựa
trên cơ sở hai cực, răn đe và cân bằng quyền lực bằng một tiến trình và khuôn
khổ đa phương trên cơ sở tham khảo ý kiến lẫn nhau3. Còn cựu Ngoại trưởng
Australia G. Evans cho rằng, an ninh hợp tác là một cách tiếp cận nhấn mạnh
việc đảm bảo an ninh cho nhau chứ không phải là răn đe, đề cao chủ nghĩa đa
phương và việc hình thành thói quen đối thoại4. Quan điểm an ninh hợp tác
nhấn mạnh sự tham gia của các chủ thể nhà nước và phi nhà nước như các tổ
chức phi chính phủ (NGO), giới kinh doanh và các thực thể xuyên quốc gia
khác. Ngoài ra, an ninh hợp tác không chỉ giới hạn trong các vấn đề quân sự
mà bao gồm cả các vấn đề an ninh phi truyền thống như môi trường, dân số
và các hoạt động tội phạm xuyên quốc gia. Tóm lại, những người chủ trương
an ninh hợp tác nhấn mạnh cách tiếp cận từng bước, tiệm tiến tiến tới việc

Lê Linh Lan, "Châu Âu trong Chiến lược toàn cầu của Mỹ thập kỷ đầu thế kỷ XXI", Luận án Tiến
sĩ, Học viện Ngoại giao, 2015, tr. 18.
3

Ted Gallen Carpenter (2005), America‟s coming war with China, Palgrave MacMillan, New
York, p.106.
4
Hà Hồng Hải, “Giới thiệu một số khái niệm an ninh”, Tạp chí Nghiên cứu Quốc tế, số 33/2000.
2

15


thành lập các thể chế đa phương. Theo cách tiếp cận trên, an ninh hợp tác cho
phép sử dụng các biện pháp chính thức và không chính thức, song phương và
đa phương để đối phó với các vấn đề an ninh.
An ninh tập thể: An ninh tập thể là một “liên minh tiềm tàng thường
trực chống lại kẻ thù vô hình”5, nhằm đảm bảo an ninh cho tất cả các quốc gia
chống lại những quốc gia nào có thể thách thức trật tự hiện hành. Cơ sở của
an ninh tập thể là “tất cả chống lại một”6. Các quốc gia tham gia hệ thống an
ninh tập thể cam kết: nếu một quốc gia nào đó trong liên minh bị tấn công, thì
các thành viên khác cũng coi là bị tấn công và phải có nghĩa vụ tham gia các
biện pháp trừng phạt, cấm vận về kinh tế hay quân sự để chống lại kẻ xâm
lược đó. Tuy nhiên, đó chỉ là về lý thuyết. Trên thực tế, các thành viên thường
bị chia rẽ và có lập trường khác nhau về “hành động xâm lược”7 do khác biệt
về lợi ích quốc gia.
Trên thực tế, an ninh tập thể thường bị nhầm lẫn với khái niệm “phòng
thủ tập thể”. Phòng thủ tập thể là hình thức các quốc gia hợp tác để loại trừ
mối đe dọa từ một kẻ thù đã được xác định, dù là hiện thực hay tiềm tàng. Sự
hợp tác này thường dưới hình thức quan hệ liên minh, liên hiệp hay hiệp ước
hỗ tương nhằm răn đe kẻ âm mưu xâm lược. Một loạt các cơ chế phòng thủ
tập thể được hình thành từ sau Chiến tranh Thế giới thứ II như NATO ở châu
Âu và “hệ thống San Francisco” của Mỹ ở châu Á bao gồm Hiệp ước Hợp tác
Phòng thủ với Nhật Bản, Australia, New Zealand và Philippines. Về nội dung,

hai khái niệm này giống nhau ở chỗ: các quốc gia cam kết giúp đỡ nhau khi
một quốc gia bị tấn công; sức mạnh của nước bị xâm lược được bổ sung và

John Gerard Ruggie (Summer 1992), “Multilateralism: The Anatomy of an Institution”,
International Organization 46, No.3, p.569.
6
George W. Down (1994), Collective Security beyond the Cold War, University of
Michigan, p.43.
7
Collective Security beyond the Cold War, sđd, p.44.
5

16


trợ giúp bởi sức mạnh của các quốc gia khác trong một dàn xếp an ninh. Tuy
nhiên, hai khái niệm này khác nhau cơ bản ở cách nhận dạng kẻ thù. Các quốc
gia tham gia phòng thủ tập thể để đối phó với các mối đe doạ đối với an ninh
của họ từ một nước hoặc một nhóm nước cụ thể, được coi là kẻ thù nào đó,
chưa xác định từ bên ngoài. Còn các quốc gia tham gia an ninh tập thể để đối
phó với các mối đe doạ từ bất kỳ quốc gia nào khi có hành động xâm lược, dù
là đồng minh hay bạn bè, tức là đối phó với mối đe dọa cả bên trong.
An ninh chung: xuất hiện trong thời kỳ Chiến tranh lạnh và được cụ thể
hoá trong báo cáo 1982 của Ủy ban về các vấn đề giải trừ quân bị và an ninh
do cố Thủ tướng Thụy Điển, Olof Palme, làm Chủ tịch. Theo báo cáo này,
“An ninh chung là một tiến trình lâu dài và thực tế cuối cùng sẽ dẫn đến hoà
bình và giải trừ quân bị bằng cách thay đổi tư duy đã gây ra cuộc chạy đua vũ
trang giữa hai siêu cường, ngăn cản kiểm soát vũ khí và giải trừ quân bị và
được xem như là gây ra xung đột ở mức độ cao”8. An ninh chung được bảo
đảm tốt nhất thông qua hợp tác chứ không phải đấu tranh và cân bằng quyền

lực, bao gồm 6 nguyên tắc: (i) Tất cả các dân tộc đều có quyền chính đáng
được bảo đảm an ninh; (ii) Sức mạnh quân sự không phải là công cụ chính
đáng để giải quyết tranh chấp giữa các quốc gia; (iii) Cần phải kiềm chế trong
việc thực hiện chính sách quốc gia; (iv) Không thể đạt được an ninh bằng ưu
thế về quân sự; (v) Giảm và hạn chế chất lượng vũ khí cần thiết cho an ninh
chung; (vi) Tránh gắn thương lượng về vũ khí với các vấn đề chính trị9.
An ninh chung có mối quan hệ chặt chẽ với sự phát triển của các biện
pháp xây dựng lòng tin, cụ thể là nhằm giảm căng thẳng Đông-Tây. Các biện
pháp này bao gồm sự có mặt của các quan sát viên của cả hai bên tại các cuộc
tập trận lớn, tăng tính công khai và chia sẻ thông tin, giảm nguy cơ tấn công

8
9

Collective Security beyond the Cold War, sđd, p.59.
Hà Hồng Hải, Giới thiệu một số khái niệm an ninh, Tạp chí Nghiên cứu Quốc tế, số 33, 2000.
17


quân sự. Ủy ban Palme cũng coi an ninh là một khái niệm toàn diện mà trước
đây mặt này thường bị bỏ qua khi nói tới khái niệm này. Báo cáo của Ủy ban
cho rằng an ninh cần được nhận thức theo nghĩa rộng hơn, bao gồm cả về
kinh tế, quân sự và thịnh vượng chung10.
1.1.2. Khái niệm chiến lƣợc an ninh quốc gia của Mỹ
Chiến lược an ninh quốc gia của Mỹ là cụm từ thường xuyên được đề
cập trong quá trình nghiên cứu chính sách của Mỹ. Tuy nhiên, chiến lược an
ninh quốc gia của Mỹ cần được hiểu theo một cách mang tính tổng thể, toàn
diện hơn, chứ không chỉ là chiến lược về an ninh như cách hiểu thông thường.
Qua nghiên cứu cho thấy các bản Chiến lược an ninh của Mỹ mang tính toàn
diện, nó bao hàm tất cả khái niệm an ninh chủ chốt quốc tế. Bởi vì, Mỹ là siêu

cường có lợi ích toàn cầu cho nên tất cả những vấn đề an ninh của Mỹ đều
liên quan đến vấn đề an ninh toàn cầu.
Chiến lược an ninh quốc gia của Mỹ là một văn kiện mang tính chiến
lược, do Tổng thống, đại diện cho nhánh hành pháp (chính phủ), định kỳ trình
bày trước Quốc hội, trong đó định hình những mối quan tâm an ninh quốc gia
chính của Mỹ và đưa ra cách thức, biện pháp mà chính quyền sẽ triển khai để
đạt được các mục tiêu trong chính sách đối nội và đối ngoại.
Trước năm 1986, việc ban hành Chiến lược an ninh quốc gia chưa được
“luật hóa” hay nói cách khác, nó không được thực hiện một cách bắt buộc,
mặc dù nhiều chiến lược quốc gia đã được ban hành, nhưng chủ yếu dưới
dạng tài liệu mật. Đáng chú ý nhất là tài liệu có mã số NSC-68: “Mục tiêu và
kế hoạch của Mỹ vì an ninh quốc gia”. Đây là tài liệu được đóng dấu “Tuyệt
mật” (đã được giải mật) được Hội đồng An ninh Quốc gia Mỹ dưới thời Tổng
thống Truman đưa ra vào ngày 14/04/1950. NSC-68 trình bày chi tiết bối

10

Hà Hồng Hải, Giới thiệu một số khái niệm an ninh, Tạp chí Nghiên cứu Quốc tế, số 33, 2000.
18


cảnh chiến lược của thời kỳ Chiến tranh Lạnh, nhấn mạnh đến những ý định
và khả năng của Mỹ và Liên Xô, đồng thời đề xuất các kế hoạch hành động
của Mỹ11.
Tuy nhiên, phải đến năm 1986, cơ sở pháp lý của văn kiện này mới được
quy định trong Đạo luật Tái cơ cấu Bộ Quốc phòng Goldwater-Nichols (gọi
tắt là Đạo luật Goldwater-Nichols). Đạo luật này quy định, Chiến lược an
ninh quốc gia Mỹ cần trình bày được năm nội dung chủ yếu sau:
(1) Lợi ích, mục tiêu trên phạm vi toàn thế giới có liên quan đến an ninh
quốc gia Mỹ.

(2) Chính sách đối ngoại, cam kết quốc tế và khả năng quốc phòng của
Mỹ nhằm ngăn chặn các hành động gây hấn, xâm lược và nhằm triển khai
Chiến lược an ninh quốc gia Mỹ.
(3) Đề xuất việc sử dụng trong ngắn hạn và dài hạn các yếu tố về chính
trị, kinh tế, quân sự và các yếu tố khác trong sức mạnh quốc gia Mỹ để bảo vệ
hoặc thúc đẩy lợi ích và mục tiêu đã được xác định.
(4) Sử dụng một cách thích hợp các khả năng của sức mạnh quốc gia để
triển khai Chiến lược an ninh quốc gia Mỹ.
(5) Cung cấp đầy đủ thông tin trước Quốc hội về những vấn đề liên quan
đến Chiến lược an ninh quốc gia Mỹ.12
Có thể thấy, Chiến lược an ninh quốc gia là văn kiện xác định nhiệm vụ
đối nội, nhiệm vụ đối ngoại và phương hướng phát triển đất nước theo nghĩa
rộng nhất (khác với Chiến lược Quân sự quốc gia chỉ tập trung vào những vấn
đề xây dựng và hiện đại hoá các lực lượng vũ trang Mỹ phù hợp với sự phát
triển tình hình). Việc triển khai Chiến lược an ninh quốc gia được cụ thể hóa

“NSC 68: United States Objectives and Programs for National Security”, Naval War College
Review, Vol. XXVII (May-June, 1975), pp. 51-108.
12
Goldwater-Nichols Department of Defense Reorganization Act of 1986 (Public Law 102-496,
Stat. 3190, U.S.C. 50).
11

19


bởi các văn kiện mang tính bổ trợ khác, trong đó có Chiến lược quân sự quốc
gia, Báo cáo Quốc phòng 4 năm một lần. Với nghĩa đó, Chiến lược an ninh
quốc gia được ví như “chiến lược mẹ”, trong khi đó các chiến lược khác là
“chiến lược con”.13

Theo Đạo luật Goldwater-Nichols, Tổng thống Mỹ được yêu cầu công
bố trước Quốc hội Chiến lược an ninh quốc gia vào ngày đệ trình dự thảo
ngân sách cho năm tài khóa tiếp theo. Ngoài văn kiện mang tính hàng năm
này, một Tổng thống mới đắc cử phải đệ trình Chiến lược an ninh quốc gia
trong vòng 150 ngày sau khi nhậm chức. Các báo cáo này có thể được đệ
trình theo dạng tài liệu mật hoặc tuyên bố công khai. Sau khi đạo luật này ra
đời, không phải Tổng thống nào cũng thực hiện “nghiêm” quy định này, nhất
là từ khi Tổng thống George W. Bush lên cầm quyền năm 2001. Vị tổng
thống thứ 43 của nước Mỹ đã tạo một “tiền lệ” mới là chỉ đệ trình Chiến lược
an ninh quốc gia ở đầu nhiệm kỳ, sau khi đắc cử hoặc tái cử. Vì thế, về cơ
bản, Chiến lược an ninh quốc gia Mỹ chỉ được công bố bốn năm một lần, thay
vì định kỳ hàng năm như luật định.
Những đặc điểm trên cho thấy, chiến lược an ninh quốc gia của Mỹ là
văn kiện chiến lược do chính phủ soạn thảo, báo cáo Quốc hội định kỳ theo
luật định, trong đó xác định rõ lợi ích, mục tiêu của Mỹ trên phạm vi toàn cầu
có liên quan đến an ninh quốc gia Mỹ, đồng thời đề ra chủ trương, biện pháp
huy động sức mạnh tổng hợp quốc gia nhằm bảo vệ an ninh, lợi ích và thúc
đẩy các mục tiêu chiến lược của Mỹ.

Lê Thế Mẫu, Chiến lược an ninh quốc gia mới của Mỹ trong một thế giới đang thay đổi, Tạp chí
Cộng sản, 5/2010
13

20


1.2. NỘI DUNG CHÍNH CÁC CHIẾN LƯỢC AN NINH QUỐC GIA
CỦA MỸ GIAI ĐOẠN 1993 - 2012
1.2.1. Chiến lƣợc an ninh quốc gia của Chính quyền Bill Clinton
Bill Clinton là Tổng thống thứ 42 của Mỹ với hai nhiệm kỳ từ năm 1993

đến 2001. Tổng thống Bill Clinton bước vào Nhà Trắng trong bối cảnh Liên
Xô đã sụp đổ, Mỹ trở thành siêu cường duy nhất trên thế giới và xác lập vị trí
thế giới một cực trong quan hệ quốc tế. Sự tan rã của Liên Bang Xô Viết, sự
sụp đổ của các nước XHCN ở Đông Âu và sự suy yếu của nước Nga đã làm
cho bản đồ chính trị thế giới bị thay đổi và cán cân quyền lực nghiêng về có
lợi cho Mỹ. Sau Chiến tranh Lạnh, nguy cơ chiến tranh thế giới bị đẩy lùi,
nền hòa bình được củng cố. Tuy nhiên, các vấn đề quốc tế và khu vực trước
đây bị chi phối bởi trật tự hai cực Xô - Mỹ, đến giai đoạn này được phát triển
với nhiều biến động mới: đó là sự nổi lên của chủ nghĩa khủng bố, chủ nghĩa
ly khai, chủ nghĩa dân tộc cực đoan, chiến tranh cục bộ, khu vực ngày càng
phát triển. Sự nổi lên của các cường quốc như Ấn Độ, Trung Quốc, Brazil và
các nước thế giới thứ ba làm cho bản đồ chính trị thế giới có nhiều thay đổi và
nước Mỹ đứng trước những thách thức mới. Mặc dù vậy, sau khi Chiến tranh
Lạnh kết thúc, Mỹ bước ra với tư thế là một siêu cường về kinh tế, chính trị,
quân sự, duy nhất trên thế giới. Đây là động lực để Mỹ triển khai chiến lược
nhằm duy trì và củng cố vị thế siêu cường số một thế giới.
Trong bối cảnh đó, sau khi vào Nhà Trắng, Tổng thống Bill Clinton đã
công bố “Chiến lược an ninh quốc gia về can dự và mở rộng” vào năm 1994.
Đến đầu nhiệm kỳ hai, Tổng thống Bill Clinton công bố “Chiến lược an ninh
quốc gia cho thế kỷ mới” vào năm 1997. Nội dung chính của hai bản chiến
lược an ninh quốc gia Mỹ dưới thời Bill Clinton như sau:
- “Chiến lược an ninh quốc gia về can dự và mở rộng” (tháng 7/1994),
còn gọi là “Chiến lược can dự và mở rộng”, mở đầu với tuyên bố về nhiệm vụ
21


và vai trò của chính phủ trong bảo vệ an ninh quốc gia, trong đó có bảo vệ
người dân, lãnh thổ và giá trị Mỹ. Phần mở đầu nhấn mạnh đến sự nổi lên của
các cuộc xung đột sắc tộc và các quốc gia bất hảo (rogue state); chỉ ra rằng,
“sự phổ biến của các loạt vũ khí hủy diệt hàng loạt tạo ra một thách thức lớn

đối với an ninh của chúng ta”14. Sự phổ biến của các loại vũ khí hủy diệt
hàng loạt đặt ra những thách thức xuyên quốc gia mới, nhất là loại vũ khí đó
lọt vào tay các tổ chức khủng bố. Văn kiện này nhấn mạnh, chiến lược an
ninh quốc gia của Mỹ thể hiện được cả lợi ích và giá trị Mỹ, sự cần thiết phải
duy trì sự lãnh đạo của Mỹ trên thế giới, nhấn mạnh đến ngoại giao phòng
ngừa thông qua các biện pháp như ủng hộ dân chủ, viện trợ kinh tế, hiện diện
quân sự ở nước ngoài, đối thoại quân sự và tham gia vào các cuộc đàm phán
đa phương; tích cực xây dựng nhận thức chung trong công chúng Mỹ về việc
chủ động can dự vào các vấn đề quốc tế. Tuy nhiên, sự can dự của Mỹ cũng
có sự chọn lựa, tập trung vào các thách thức có liên quan trực tiếp đến lợi ích
nước Mỹ.
Đánh giá nước Mỹ đang bước vào một kỷ nguyên mới sau Chiến tranh
Lạnh, khi sự sụp đổ của Liên Xô đã làm thay đổi sâu sắc môi trường an ninh
đối với Mỹ và các đồng minh, chiến lược an ninh quốc gia năm 1994 xác định
ba mục tiêu chính: (1) Bảo đảm an ninh nước Mỹ; (2) Thúc đẩy sự thịnh
vượng ở trong nước; (3) Thúc đẩy dân chủ trên toàn thế giới15. Tuy nhiên, dù
có mạnh đến đâu, thì một mình nước Mỹ cũng không thể đảm bảo những mục
tiêu cơ bản đó.
Để thúc đẩy mục tiêu an ninh nước Mỹ, chiến lược an ninh quốc gia
1994 nhấn mạnh tầm quan trọng của chiến lược can dự của Mỹ. Theo đó, Mỹ

14

The National Security Strategy of the United of America, The White House, July 1994,
tr. i
15
National Security Strategy 1994,tlđd tr. 5
22



sẽ tăng cường hợp tác với các đồng minh, duy trì và điều chỉnh các mối quan
hệ an ninh với các đồng minh chủ chốt; đưa ra những biện pháp thích hợp để
đối phó với các mối đe dọa hậu Chiến tranh Lạnh, như ngăn chặn sự phổ biến
vũ khí hủy diệt hàng loạt, kiểm soát vũ trang và các hoạt động tình báo; xây
dựng khả năng quốc phòng đủ mạnh để hoàn thành các nhiệm vụ sau: (1) Đối
phó với những biến cố lớn ở khu vực, trong đó chỉ rõ CHDCND Triều Tiên,
Iran và Iraq là các quốc gia thù địch cần đối phó; (2) Gia tăng hiện diện ở
nước ngoài; (3) Ngăn chặn vũ khí hủy diệt hàng loạt, nhất là khi loại vũ khí
này lọt vào tay khủng bố; (4) Đóng góp vào hoạt động gìn giữ hòa bình đa
phương; (5) Ủng hộ các nỗ lực chống chủ nghĩa khủng bố và thực hiện các
nhiệm vụ an ninh khác. Để thực hiện nhiệm vụ, các lực lượng quân sự phải có
khả năng phản ứng nhanh và tác chiến hiệu quả; sẵn sàng chiến đấu và chiến
thắng trong bất cứ hoàn cảnh nào. Văn kiện xác định thời điểm và cách thức
triển khai các lực lượng quân sự: (1) Các lợi ích quốc gia quyết định mức độ
và phạm vi can dự; (2) Tìm kiếm sự hỗ trợ của đồng minh hoặc các định chế
đa phương có liên quan; (3) Xem xét mức độ quan trọng của các vấn đề trước
khi sử dụng lực lượng quân sự; (4) Sự can dự phải có tính khả thi và sử dụng
ngân sách hợp lý. Văn kiện xác định mục tiêu ngăn chặn sự phổ biến vũ khí
hủy diệt hàng loạt và kiểm soát các loại tên lửa chiến lược…
Để thúc đẩy sự thịnh vượng ở trong nước, chiến lược an ninh quốc gia
1994 đòi hỏi phải có sự kết hợp những nỗ lực ở trong nước và bên ngoài. Nói
cách khác, sự thịnh vượng ở trong nước phụ thuộc vào sự tích cực can dự ở
nước ngoài. Sức mạnh ngoại giao, khả năng duy trì quân đội không có đối
thủ, sự hấp dẫn của giá trị Mỹ ra bên ngoài đều dựa vào sức mạnh của nền
kinh tế. Để thúc đẩy mục tiêu này, Mỹ cần: (1) Tăng cường tính cạnh tranh
của nền kinh tế Mỹ; (2) Phát huy vai trò động lực của kinh tế tư nhân, gia tăng
năng xuất và tăng cường xuất khẩu; (3) Tăng cường tiếp cận các thị trường
23



nước ngoài, thông qua các hiệp định thương mại song phương và đa phương;
(4) Tăng cường hợp tác kinh tế vĩ mô với các cường quốc kinh tế; (5) Đảm
bảo an ninh năng lượng; (6) Thúc đẩy sự phát triển bền vững ở nước ngoài.
Để thực hiện mục tiêu thúc đẩy dân chủ trên thế giới, Mỹ sẽ ủng hộ nền
dân chủ và các thị trường tự do ở các nơi có liên quan đến lợi ích của Mỹ. Mỹ
sẽ tập trung nỗ lực hỗ trợ các quốc gia, khu vực có ảnh hưởng đến lợi ích
chiến lược của Mỹ như các nước có nền kinh tế lớn, có vị trí trọng yếu, có vũ
khí hạt nhân hoặc có nguy cơ tạo ra làn sóng di cư vào nước Mỹ hoặc các
đồng minh của Mỹ. Trong số các quốc gia đó, nổi lên là Nga, Ukraine, Nam
Phi, Nigeria.
Về quan hệ đối ngoại, Chiến lược an ninh quốc gia 1994 nhấn mạnh đến
các mối quan hệ song phương và đa phương ở các khu vực. Với châu Âu và
Á-Âu, Mỹ xác định ba nhân tố quan trọng nhằm thúc đẩy chiến lược can dự
và mở rộng của Mỹ ở khu vực này: (1) Tăng cường sức mạnh quân sự và tăng
cường liên minh quân sự trong giải quyết các điểm nóng, các vấn đề khu vực
và toàn cầu; (2) Thúc đẩy quan hệ kinh tế với Liên minh châu Âu, hỗ trợ cải
cách kinh tế thị trường ở các nước Đông Âu; (3) Ủng hộ sự phát triển của nền
dân chủ ở Nga, các nước thuộc Liên Xô trước đây. Với Đông Á và Thái Bình
Dương, tiếp tục tích cực gia tăng hiện diện tại châu Á - Thái Bình Dương để
đảm bảo vai trò dẫn dắt của Mỹ tại khu vực bằng cách làm sâu sắc hơn mối
quan hệ với các đồng minh như Nhật Bản, Hàn Quốc, Australia, Thái Lan và
Phillipines. Để thúc đẩy xây dựng một Cộng đồng Thái Bình Dương mới, Mỹ
cần tập trung vào ba trụ cột chính: (1) Tăng cường nỗ lực ngăn chặn sự phổ
biến vũ khí hủy diệt hàng loạt ở bán đảo Triều Tiên và Nam Á; (2) Thúc đẩy
hình thành nhiều tổ chức đa phương mới nhằm đẩy lùi các mối đe dọa và tận
dụng thời cơ; (3) Hỗ trợ làn sóng cải cách dân chủ ở khu vực. Với Tây Bán

24



Cầu16, tập trung cải thiện tình hình an ninh, trong đó nhấn mạnh đến tìm giải
pháp cho những căng thẳng biên giới, kiểm soát lực lượng nổi dậy, ngăn chặn
buôn bán vũ khí. Với Trung Đông, Tây Á và Nam Á, Mỹ cam kết bảo đảm an
ninh cho Israel và các bạn bè Arab, đảm bảo sự lưu thông dầu khí; duy trì sự
hiện diện lâu dài ở Tây Nam Á, chống lại chế độc độc tài ở Iraq, ngăn chặn
Iran phát triển vũ khí hạt nhân và tên lửa đạn đạo; tăng cường hợp tác với Hội
đồng Hợp tác Vùng Vịnh… Với châu Phi, được xác định là một trong những
thách thức lớn nhất đối với chiến lược can dự và mở rộng, chính sách của Mỹ
là hỗ trợ nền dân chủ, duy trì phát triển kinh tế, giải quyết xung đột thông qua
đàm phán, ngoại giao và hoạt động gìn giữ hòa bình.
- “Chiến lược an ninh quốc gia cho thế kỷ mới” (tháng 5/1997) khẳng
định sự lãnh đạo của nước Mỹ ngày nay là vì một tương lai an toàn hơn, thịnh
vượng hơn trong tương lai. Văn kiện này xác định bối cảnh an ninh nước Mỹ
đang đối mặt rất phức tạp và chưa có tiền lệ. Xung đột sắc tộc, các quốc gia
bất hảo đe dọa ổng định khu vực; chủ nghĩa khủng bố, các tổ chức tội phạm
và sự phổ biến vũ khí hủy diệt hàng loạt là những mối lo ngại xuyên quốc gia;
sự hủy hoại môi trường và tốc độ tăng trưởng dân số nhanh gây cản trở sự
phát triển của nền kinh tế và ổn định chính trị ở nhiều nước trên thế giới. Văn
kiện này xác định ba mục tiêu chủ chốt, gồm: (1) Tăng cường an ninh quốc
gia với việc triển khai chính sách ngoại giao và lực lượng quân sự hiệu quả,
sẵn sàng chiến đấu và chiến thắng; (2) Thúc đẩy sự thịnh vượng kinh tế của
nước Mỹ; (3) Thúc đẩy nền dân chủ trên thế giới17. Để thúc đẩy các mục tiêu
an ninh quốc gia nói trên, văn kiện xác định sáu ưu tiên chiến lược sau: (1)

Tây Bán Cầu: Thuật ngữ địa chính trị để chỉ châu Mỹ (Bắc Mỹ, Trung Mỹ và Nam Mỹ) và các
đảo vùng Caribbean.
16

17


The National Security Strategy of the United of America, The White House, May 1997,
tr. ii
25


×