Tải bản đầy đủ (.doc) (20 trang)

Tiểu luận một số vấn đề lý luận và thực tiễn về phát triển chế biến nông sản ở nước ta hiện nay

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (190.57 KB, 20 trang )

Mục lục
Lời mở đầu....................................................................................................................................................2
Nội dung........................................................................................................................................................3
1.Khái niệm về công nghiệp chế biến............................................................................................................3
2. Vai trò của chế biến nông sản………........................................................................................................3
2.1. Đáp ứng được nhu cầu đời sống nhân dân ngày càng cao...............................................................4
2.2. Góp phần mở rộng thị trường tiêu thụ nông sản.............................................................................4
2.3. Thúc đẩy chuyển dịch cơ cấu sản xuất nông nghiệp.......................................................................4
2.4. Tạo việc làm và tăng thu nhập cho người lao động.........................................................................5
2.5. Một số vai trò khác..........................................................................................................................5
3. Đặc điểm của ngành chế biến nông sản.....................................................................................................6
3.1. Ngành chế biến nông sản vừa mang tính độc lập vừa mang tính phụ thuộc vào sản xuất nông nghiệp
................................................................................................................................................................6
3.2. Hoạt động của ngành chế biến nông sản thường không hoàn toàn diễn ra trong phạm vi doanh
nghiệp......................................................................................................................................................6
3.3. Ngành chế biến nông sản là một bộ phận cấu thành quan trọng của cơ sở sản xuất kinh doanh nông
nghiệp......................................................................................................................................................7
4. Những nhân tố ảnh hưởng đến công nghiệp chế biến................................................................................7
4.1. Nhóm nhân tố thị trường..................................................................................................................7
4.2. Nhóm nhân tố về cơ sở vật chất- kỹ thuật và công nghệ.................................................................9
4.3. Nhóm nhân tố về chính sách vĩ mô...............................................................................................10
5. Các chỉ tiêu đánh giá trình độ, kết quả và hiệu quả.................................................................................12
5.1. Hệ thống chỉ tiêu các nhân tố.........................................................................................................12
5.1.1. Các chỉ tiêu khái quát.............................................................................................................12
5.1.2. Chỉ tiêu kết quả tổng hợp........................................................................................................12
5.2. Hệ thống chỉ tiêu kết quả...............................................................................................................13
5.2.1. Chỉ tiêu kết quả trực tiếp........................................................................................................13
5.2.2. Chỉ tiêu kết quả tổng hợp........................................................................................................13
5.3. Chỉ tiêu về hiệu quả kinh tế của chế biến nông sản.......................................................................14
5.3.1. Mức doanh lợi.........................................................................................................................14
5.3.2. Mức doanh lợi của đầu tư bổ sung.........................................................................................14


6. Các ngành và các hình thức công nghiệp chế biến nông sản...................................................................15
6.1. Các ngành công nghiệp chế biến nông sản....................................................................................15
6.2. Các hình thức chế biến nông sản...................................................................................................16
7. Kinh nghiệm phát triển chế biến nông sản...............................................................................................19
8. Kết luận....................................................................................................................................................22

1


Lời mở đầu
Nông nghiệp nước ta đang từ tình trạng lạc hậu, tiến lên xây dựng nền nông nghiệp hàng hoá theo
định hướng XHCN không qua giai đoạn phát triển TBCN, với đa phần dân cư sống bằng nghề nông. Chính vì
vậy để nâng cao đời sống nhân dân cũng như góp phần phát triển đất nước cần phải coi trọng vấn đề phát
triển nông nghiệp, trong đó có chế biến nông sản làm tăng giá trị nông sản và tăng thu nhập cho người dân.
Trên con đường hiện đại hoá, công nghiệp hoá, nông nghiệp Việt Nam đang từng bước tiến tới một nền sản
xuất hàng hoá lớn, với sản phẩm ngày càng dồi dào, giá thành ngày càng hạ. Cho đến nay, sản xuất nông
nghiệp đã đáp ứng tốt nhu cầu lương thực, thực phẩm cho 80 triệu dân và một số hàng nông sản xuất khẩu
của nước ta đã đứng hàng thứ 2-3 trên thế giới. Tuy nhiên, thị trường năm qua cũng cho thấy tình trạng thừa
ứ một số mặt hàng nông sản đã làm cho người nông dân được mùa mà không vui, thu hoạch tăng mà vẫn
nghèo túng. Để chặn đứng hậu quả đó, con đường đúng nhất là đẩy mạnh chế biến nông sản thực phẩm hàng
hóa. Chỉ có chế biến nông sản mới làm hạn chế được tình trạng hao phí, thối rữa do không tiêu thụ kịp thời
của mặt hàng nông sản, làm tăng giá trị hàng hoá, nâng cao khả năng cạnh tranh, mở rộng thị trường… Mặc
dù vậy, công nghiệp chế biến ở nước ta có sự phát triển không tương xứng với khả năng sản xuất nông
nghiệp do nhiều nguyên nhân chủ quan và khách quan, làm hạn chế sự phát triển của ngành nông nghiệp
cũng như của cả nước.
Qua bài viết này em xin nêu lên một số ý chính trong vấn đề chế biến nông sản ở nước ta hiện nay, với
đề tài là: “Một số vấn đề lý luận và thực tiễn về phát triển chế biến nông sản ở nước ta hiện nay ”.
Do hạn chế về mặt thời gian cũng như lượng kiến thức nên đề tài của em không tránh khỏi những hạn
chế và thiếu sót. Nhưng với sự giúp đỡ tận tình của các thầy cô trong bộ môn cũng như giáo viên hướng dẫn
đã giúp đỡ em rất nhiều trong việc hoàn thành đề tài này. Em xin chân thành cảm ơn!


2


1. Khái niệm về công nghiệp chế biến:
Trong các tài liệu thống kê quốc tế, công nghiệp chế biến (hay còn gọi là công nghiệp chế tạo,
manufacturing ) được hiểu là toàn bộ khu vực công nghiệp loại trừ những ngành khai khoáng, xây dựng và
những ngành cung cấp những tiện ích sinh hoạt xã hội (điện, nước, ga) thuộc mã ngành 3 trong ISIC (Bảng
mã ngành công nghiệp theo tiêu chuẩn quốc tế ). Công nghiệp chế biến có đặc trưng làm thay đổi về chất của
các đối tượng lao động là nguyên liệu nguyên thủy (sản phẩm của khai thác ) thành các sản phẩm trung gian
và tiếp tục biến thành sản phẩm cuối cùng.
Công nghiệp chế biến còn được hiểu là quá trình làm tăng giá trị của nông sản. Sản phẩm chế biến
có thể cất trữ lâu dài, vận chuyển đi xa mà không bị hư hỏng. Công nghiệp chế biến có vai trò to lớn đối với
nền kinh tế - xã hội. So với nhiều ngành công nghiệp khác thì nó không đòi hỏi vốn quá lớn, chúng ta có thể
xây dựng nhanh công trình và đưa cơ sở mới vào hoạt động, vốn chu chuyển nhanh, nhờ đó mà tạo được
nguồn vốn tich lũy trong nước, thúc đẩy sự nghiệp CNH – HĐH đất nước.
Một trong những sản phẩm đặc biệt quan trọng đối với Việt Nam, do đất nước giàu tiềm năng nông
nghiệp là chế biến nông sản thực phẩm, và đặc biệt là hải sản.

2. Vai trò của chế biến nông sản:
Công nghiệp chế biến có vai trò quyết định trong công nghiệp hóa và phát triển kinh tế. Cồn nghiệp
hòa thường được giải thích là quá trình trong đó tỷ trọng của công nghiệp nói chung và đặc biệt là tỷ trọng
của công nghiệp chế biến tăng lên trong toàn bộ các hoạt động kinh tế. Công nghiệp chế biến là bộ phận năng
động nhất của công nghiệp, giữ vai trò chủ đạo trong chiến lược phát triển. Năng suất lao động cao trong
công nghiệp chế biến là chìa khóa dẫn đến sự gia tăng thu nhập bình quân đầu người, tăng sức mua, mở rộng
thị trường hàng tiêu dùng và dịch vụ. Một nền kinh tế trưởng thành khi nó có tỷ trọng công nghiệp( hay công
nghiệp chế biến ) cao trong GDP, trong cơ cấu việc làm và cơ cấu xuất khẩu. Ta có thể thấy những vai trò cụ
thể của công nghiệp chế biến như sau:

3



2.1. Đáp ứng được nhu cầu đời sống nhân dân ngày càng
cao:
Các sản phẩm nông nghiệp nói chung và nông sản chế biến nói riêng giữ vai trò tối quan trọng đối
với đời sống con người. Nhu cầu xã hội về nông sản ngày càng tăng một mặt do dân số không ngừng tăng,
mặt khác thu nhập đầu người cũng tăng nên yêu cầu về số lượng và chất lượng ngày càng cao. Những năm
trước đây người dân chỉ quen dùng các sản phẩm tươi sống, chế biến thô thì nay đã có sự chuyển biến rõ rệt.
Các sản phẩm chế biến ngày càng giữ vị trí quan trọng trong đời sống của nhân dân như các loại bánh, mì ăn
liền, rau quả hộp, thịt hộp, xúc xích… Rõ ràng sự đa dạng phong phú của sản phẩm cũng như giá trị dinh
dưỡng, sự tiện ích của sản phẩm đã thuyết phục người dân tiêu dùng ngày một nhiều. Nhưng phải phát triển
công nghiệp chế biến mạnh hơn nữa mới đáp ứng được nhu cầu đang tăng nhanh của người tiêu dùng, đặc
biệt là người tiêu dùng có thu nhập cao ở thành phố, khu công nghiệp.

2.2. Góp phần mở rộng thị trường tiêu thụ nông sản:
Nông sản nếu không qua chế biến thì không thể vận chuyển đi xa, thời gian tiêu thụ ngắn, không
đáp ứng được nhu cầu đa dạng của dân cư ở những vùng khác nhau. Nhờ công nghiệp chế biến mà nông sản
được vận chuyển dễ dàng hơn cũng như được cất trữ để bán trên thị trường lúc trái vụ, điều này khắc phục
được điểm yếu của hàng hóa nông nghiệp là mang tính thời vụ cao.
Đồng thời công nghiệp chế biến cũng góp phần làm tăng xuẩt khẩu nông sản. Nếu chỉ xuất khẩu
dưới dạng thô, sơ chế thì không thể cạnh tranh được với các nước khác, nhất là các nước trong khu vực.
Chính vì vậy phát triển công nghiệp chế biến đẻ phục vụ tiêu dùng và xuất khẩu, mở rộng thị trường là rất
cần thiết và cấp bách.

2.3. Thúc đẩy chuyển dịch cơ cấu sản xuất nông nghiệp,
phát triển sản xuất nông sản hàng hóa và hình thành vùng
chuyên canh quy mô lớn:
Nguyên liệu cho công nghiệp chế biến phải tập trung, đồng nhất thì chế biến mới đạt hiệu quả cao.
Việc phát triển chế biến sản phẩm nào là do nắm bắt thị trường cho nên sản xuất nông nghiệp sẽ thay đổi để
đáp ứng nhu cầu nguyên liệu của công nghiệp chế biến. Khi xây dựng nhà máy chế biến thì vấn đề thì vấn đề

đầu tiên là phải xây dựng được vùng nguyên liệu chon chế biến để có quy mô, công nghệ hợp lý. Quy mô,
tốc độ phát triển của chế biến nông sản phụ thuộc vào trình độ, tính chất phát triển của sản xuất nông nghiệp
mặt khác nhờ sự phát triển chế biến nông sản mà xuất khẩu nông nghiệp sẽ phát triển theo hướng chuyên
canh có năng suất cao, tỷ suất hàng hóa lớn, hiệu quả kinh tế cao.
Công nghiệp chế biến còn có vai trò to lớn trong việc chuyển dich cơ cấu kinh tế nông nghiệp nông
thôn theo hướng phát triển mạnh, vững chắc có hiệu quả, công nghiệp-dịch vụ ở nông thôn tăng nhanh ngành
này trong cơ cấu nông nghiệp- công nghiệp- dịch vụ. Trong nội bộ ngành nông nghiệp cũng bố trí lại cơ cấu
cây trồng, vật nuôi gắn với công nghiệp chế biến theo hướng tăng tỷ trọng ngành chăn nuôi, giảm tỷ trọng
ngành trồng trọt và trong nội bộ ngành trồng trọt thì giảm tỷ trọng cây lương thực, tăng tỷ trọng cây công
nghiệp, cây ăn quả…

2.4. Tạo việc làm và tăng thu nhập cho người lao động:
Công nghiệp chế biến tại chỗ trong nông nghiệp nông thôn góp phần giải quyết nhu cầu việc làm
cho lao động nhàn rỗi ở khu vực này. Chính công nghiệp chế biến đã giải quyết tốt nạn di dân ồ ạt từ nông
thôn ra thành phố, đã tạo việc làm cho hàng ngàn lao đông thất nghiệp và bán thất nghiệp ở nông thôn. Chế
biến nông sản vừa làm tăng giá trị vừa tăng giá trị sử dụng và cũng làm tăng thu nhập của người lao động.
Ngành công nghiệp chế biến nếu phát triển tương xứng với tiếm năng, lợi thế của ngành sản xuất nông

4


nghiệp thì sẽ thu hút được rất nhiều lao động nông thôn vốn rất dồi dào, giá lại rẻ mạt…Chủ trương chính
sách của nhà nước là phải tận dụng được ưu thế này bằng cách tạo ra những ngành nghề mới ở nông thôn,
giải quyết việc làm cho người lao động với yêu cầu không cao, đào tạo cơ bản ít tốn kém như các ngành chế
biến nông sản, chế biến hải sản đông lạnh…

2.5. Một số vai trò khác:
Bên cạnh những vai trò đã đề cập ở trên, chế biến nông sản còn có nhiều vai trò quan trọng khác. Nó
tác động mạnh đến sự phát triển của nhiều ngành nghề kinh tế nhất là dịch vụ, nó ảnh hưởng sâu rộng đến đời
sống kinh tế- xã hội của người nông dân. Khi công nghiệp chế biến được chú trọng ở nông thôn thì cơ sở hạ

tầng sẽ được nâng cấp, trình độ dân trí sẽ được cải thiện một cách rõ nét…

3. Đặc điểm của ngành chế biến nông sản:
3.1. Ngành chế biến nông sản vừa mang tính độc lập vừa
mang tính phụ thuộc vào sản xuất nông nghiệp:
Hoạt động chế biến nông sản là hoạt động thuộc lĩnh vực công nghiệp, được tiến hành theo quy
trình công nghệ và dây chuyền sản xuất riêng với những tiêu chuẩn kinh tế- kĩ thuật nghiêm ngặt của công
nghiệp. Đặc điểm đó chứng tỏ nó độc lập so với sản xuất nông nghiệp, cần phát huy lợi thế của ngành độc lập
để phát triển công nghiệp chế biến một cách vững chắc.
Tuy nhiên, nguyên liệu đầu vào cho ngành lại là các sản phẩm của ngành nông nghiệp. Vì thế công
nghiệp chế biến phải phù hợp với đặc điểm của sản phẩm nông nghiệp, bị quy định bởi tính mùa vụ và quy
mô của ngành nông nghiệp, quy cách chất lượng nguyên liệu nông sản phẩm. Đây là mỗi quan hệ hữu cơ lẫn
nhau, sản xuất nông nghiệp phát triển, sản lượng lớn, chất lượng cao, đồng đều sẽ tạo điều kiện thuận lợi cho
chế biến đạt hiệu quả tốt, ngược lại chế biến phát triển sẽ là nơi tiêu nthụ sản phẩn đầu ra tốt nhất cho người
nông dân, giúp nông dân yên tâm sản xuất. Chế biến nông sản phụ thuộc vào sản xuất nông nghiệp nên ta cần
giải quyết tốt mối quan hệ này để cả hai cùng phát triển.

3.2. Hoạt động của ngành chế biến nông sản thường không
hoàn toàn diễn ra trong phạm vi doanh nghiệp:
Đây là đặc điểm nổi bật của công nghiệp chế biến nông sản. Đối tượng phục vụ cho chế biến là các
nông sản hàng hóa vì thế trong phạm vi doanh nghiệp thường không thể đáp ứng được nhu cầu của nhà máy
mà phải thu gom từ nhiều doanh nghiệp khác, các hộ nông dân trên dịa bàn. Đặc điểm này đòi hỏi việc tổ
chức các ngành chế biến nông sản phải gắn với hoạt động của doanh nghiệp với các doanh nghiệp khác và
của các hộ nông dân, hộ dân cư trên địa bàn.
Bên cạnh đó vấn đề thu gom, vận chuyển cũng đóng vai trò hết sức quan trọng, và cũng không ít
khó khăn. Có khi là do nguyên liệu thô thu gom ở các hộ nông dân thường nhỏ lẻ, khó kiểm soát, có khi là
sản phẩm cồng kềnh, tươi sống, khó bảo quản chuyên chở xa…Chính vì vậy doanh nghiệp chế biến nông sản
cần phải chú trọng, không được xem nhẹ vấn đề này.

3.3. Ngành chế biến nông sản là một bộ phận cấu thành

quan trọng của cơ sở sản xuất kinh doanh nông nghiệp:
Chế biến là hoạt động tiếp tục quá trình sản xuất hàng hóa có sự đan xen giữa các thành phần kinh
tế và các tổ chức sản xuất kinh doanh. Phải lựa chọn các sản phẩm có lợi thế so sánh để có chủ trương đầu tư
đúng đắn cho chế biến. Chế biến là một khâu trong chuỗi sản xuất- chế biến- tiêu thụ. Rõ ràng nếu chế biến
tốt sẽ tạo điều kiện tiêu thụ nhanh và sản xuất được nâng lên. Chính vì vậy cần phải có sự phát triển công
nghiệp chế biến sao cho tương xứng với sự phát triển của nền nông nghiệp, có như thế mới đưa nền nông

5


nghiệp phát triển lên một tầm cao mới.

4. Những nhân tố ảnh hưởng đến công nghiệp chế
biến:
4.1. Nhóm nhân tố thị trường:
Thị trường là nhân tố quan trọng tác động lớn đến hầu hết các lĩnh vực của chế biến và tiêu thụ sản
phẩm. Hiện nay các cơ sở sản xuất kinh doanh nông nghiệp tiến hành các hoạt động sản xuất kinh doanh theo
cơ chế thị trường có sự quản lý của Nhà nước. Tùy theo quy mô, trình độ chuyên môn hóa, trình độ công
nghệ… của từng loại cơ sở sản xuất kinh doanh mà ảnh hưởng của thị trường có khác nhau. Mặc dù vậy,
nhân tố thị trường có ảnh hưởng rất lứn chi phối quá trình sản xuất kinh doanh của các cơ sở chế biến nông
sản nói riêng và kinh doanh nông nghiệp nói riêng. Có thể xét trên 3 yếu tố sau đây của thị trường:
- Nhu cầu thị trường: Nhu cầu thị trường là yếu tố hang đầu cần tính đến trong cư sở kinh doanh chế
biến nông sản, nhu cầu thị trường chính là động lực cho các cơ sở kinh doanh ra đời và phát triển. Cầu về
nông sản chế biến phụ thuộc vào thu nhập, cơ cấu dân cư ở các vùng, các khu vực. Về nguyên lý, thu nhập
của dân cư tăng lên thì cầu cũng tăng lên, song đối với sản phẩm nông nghiệp, khi thu nhập của dân cư tăng
lên thì cầu về hàng nông sản có thể diễn ra theo chiều hướng tăng lên đối với các sản phẩm có nhu cầu thiết
yếu hàng ngày của dân cư và các sản phẩm cao cấp, đồng thời giảm đối với các sản phẩm kém phẩm chất và
cấp thấp. Trong giai đoạn hiện nay, khi dân số ngay một gia tăng về số lượng cũng như sự tăng thêm thu
nhập của mỗi người dân đòi hỏi một lượng lớn hơn số lượng hàng hóa nông sản đã qua chế biến. Cơ cấu dân
cư ở các vùng cũng có ảnh hưởng lớn đến cầu. Đối với vùng nông thôn mà cư dân nông thôn là chủ yếu,

phần lớn nhu cầu lương thực là tịa chỗ, tự cung ứng, chính vì vậy các sản phẩm nông sản chế biến không
được tiêu dùng phổ biến. Còn đối với các vùng thành thị, nhu cầu về nông sản chế biến ngày càng đòi hỏi số
lượng lớn và chất lượng cao…
- Nguyên liệu chế biến: cũng là một vấn đề quan trọng cần quan tâm. Khi xây dựng nhà máy chế
biến một loại nông sản nào đó thì trước hết phải xác định được vùng nguyên liệu cho nhà máy, khả năng
cung cấp nguyên liệu cho nhà máy. Những năm qua có những doanh nghiệp vì xem nhẹ yếu tố này nên khi đi
vào hoạt động thiếu nguyên liệu hoặc nguyên liệu không đảm bảo yêu cầu dẫn đến tình trạng công suất nhà
máy đạt rất thấp, hiệu quả kém, một số nhà máy phải đóng cửa vì thiếu nguyên liệu. Việc xây dựng các vùng
nguyên liệu tập trung cho chế biến công nghiệp vẫn tiến hành chậm. Hiệu quả của một số ngành công nghiệp
chế biến nông sản còn thấp (mía đường, rau quả). Nhiều nhà máy chưa chủ động xây dựng vùng nguyên liệu
đảm bảo đủ cho chế biến. Việc xây dựng nhà máy chế biến và phát triển vùng nguyên liệu còn chưa đồng bộ.
Việc đầu tư cơ sở hạ tầng (đường xá, thủy lợi...) chưa theo kịp với việc xây dựng nhà máy chế biến. Sản xuất
nông nghiệp lệ thuộc vào điều kiện tự nhiên nên nguyên liệu không phải bao giờ cũng như ý muốn mà phải
dự kiến đến những rủi ro do yếu tố khách quan mang lại. Trong một số trường hợp còn xảy ra hiện tượng
phát triển ngành chế biến nông-lâm-thuỷ sản theo phong trào (đường, tôm, cà phê, tinh bột sắn...), nên hiệu
quả không những thấp, mà đôi khi còn gây nên những thiệt hại lớn đối với bà con nông dân và Nhà nước.
Tính mùa vụ của sản xuất nông nghiệp dẫn đến tính mùa vụ trong chế biến nông sản. Để khắc phục những
nhược điểm đó ta cần xây dựng nhà máy chế biến một số loại nông sản xen kẽ nhau hoặc sử dụng máy móc
đa chức năng, chẳng hạn nhà máy đường lúc trái vụ có thể chế biến xen kẽ một số sản rau quả khác.
Chất lượng nguyên liệu ảnh hưởng lớn đến chất lượng sản phẩm chế biến, nguyên liệu tốt sẽ có điều
kiện tạo ra sản phẩm tốt, còn nguyên liệu kém thì không thể tạo ra được sản phẩm chất lượng cao. Để có
nguyên liệu tốt cần có giống, vật tư kỹ thuật tốt, nhà máy chế biến cần cung cấp cho người sản xuất nông
nghiệp những yếu tố đó để họ yên tâm sản xuất vì đã có nơi tiêu thụ đầu ra ổn định.
- Giá cả là một yếu tố quan trọng, là thước đo sự cân bằng cung- cầu trong nền kinh tế thị trường. Giá
cả tăng cho thấy sản phẩm đó đang khan hiếm, cầu lớn hơn cung và ngược lại. Đối với nông sản chế biến thì

6


khi thu nhập tăng sẽ có mức cầu càng tăng, đồng thời nông sản qua chế biến thường tăng về giá trị, chính vì

vậy phải có mức giá hợp lý để có thị trường tiêu thụ rộng hơn, với số lượng ngày càng tăng.
- Ngoài ra khi xem xét yêu cầu sản phẩm cũng phải tính đến những thị hiếu, tập quán và thói quen
tiêu dùng của cư dân.

4.2. Nhóm nhân tố về cơ sở vật chất- kỹ thuật và công nghệ:
- Các nhân tố về cơ sở vật chất- kỹ thuật bao gồm hệ thống cơ sở hạ tầng như đường sá giao thông,
phương tiện vận tải, hệ thống bến cảng kho bãi, hệ thống thông tin liên lạc… Hệ thống này đóng vai trò quan
trọng trong việc lưu thông nhanh chóng kịp thời, đảm bảo an toàn cho việc tiêu thụ sản phẩm, cũng như việc
vận chuyển nguyên liệu kịp thời cho dây chuyền chế biến.
- Các nhân tố về kĩ thuật và công nghệ và thiết bị chế biến: Tuỳ từng loại đối tượng chế biến mà lựa
chọn công nghệ và thiết bị cho phù hợp. Công nghệ và thiết bị tốt sẽ cho ra sản phẩm có chất lượng cao, phế
phẩm ít, mẫu mã đẹp đáp ứng được nhu cầu đa dạng và ngày càng cao của người tiêu dùng. Nếu không sẽ
dẫn đến tình trạng chất lượng sản phẩm không đảm bảo, năng suất thấp, hiệu quả kinh tế không cao. Cần dựa
vào yêu cầu, sự đòi hỏi của người tiêu dùng về sản phẩm để trang bị những công nghệ phù hợp, những sản
phẩm xuất khẩu thì cần đầu tư công nghệ thiết bị hiện đại hơn. Khi lắp đặt công nghệ phải đánh giá được
công nghệ của nó, tránh tình trạng vừa đưa vào sử dụng đã hỏng hóc hoặc lạc hậu gây tổn thất lớn. Công
nghệ, thiết bị chế biến không chỉ ảnh hưởng tới chất lượng sản phẩm mà nó còn ảnh hưởng đến giá thành sản
xuất do đó cần có kế hoạch khấu hao hợp lý, giảm hao mòn vô hình. Công nghệ thiết bị được xem là tối ưu
khi nó có tuổi thọ cao, công suất lớn, cho ra sản phẩm có chất lượng tốt, ít hư hao và giá thành vừa phải. Để
có được những điều đó cần chú ý những điểm sau:
+ Thiết bị phải đồng bộ, đủ phụ tùng thay thế. Yêu cầu người đi mua phải có hiểu biết về máy móc
thiết bị.
+ Thuê chuyên gia để hướng dẫn cách sử dụng, sửa chữa đồng thời đào tạo công nhân kỹ thuật để
vận hành, bảo dưỡng và quản lý thiết bị để kéo dài tuổi thọ, phát huy công suất tối đa với hiệu quả kinh tế
cao nhất.
+ Có sự liên doanh liên kết hợp tác với nước ngoài để thu hút vốn đầu tư, thiết bị công nghệ,
phương pháp sản xuất tiên tiến vào việc phát triển mạnh công nghệ chế biến nông sản ở nước ta.
+ Phải đánh giá, xem xét một cách toàn diện, sâu sắc để lựa chọn công nghệ, thiết bị thích hợp nhất.

4.3. Nhóm nhân tố về chính sách vĩ mô:

Một trong những nhân tố quan trọng ảnh hưởng đến phát triển công nghiệp chế biến đó là nhân tố
chính sách. Nếu chính sách đúng đắn, hợp lý sẽ khuyến khích sản xuất phát triển, ngược lại chính sách sai
lệch sẽ kìm hãm sản xuất dẫn đến trì trệ. Chính sách ở đây bao gồm nhiều chính sách ảnh hưởng trực tiếp đến
công nghiệp chế biến và những chính sách ảnh hưởng đến sản xuất nông nghiệp, đến thị trường… Có nhiều
loại chính sách, thời gian ban hành khác nhau nên dễ gây ra sự mâu thuẫn, chồng chéo và không đồng bộ.
Cho nên khi ban hành chính sách nhà nước phải xem xét, cân nhắc kỹ để tránh gây ra hậu quả không mong
muốn.
Những chính sách quan trọng ảnh hưởng tới công nghiệp chế biến:
- Chính sách đầu tư và tín dụng: Chính sách này sẽ định hướng, khuyến khích phát triển ngành nào.
Cần căn cứ vào chế biến loại nông sản gì để quy định thời gian hoàn vốn, lãi xuất vay hợp lý. Chính sách này
tạo điều kiện cho người nông dân có điều kiên mở rộng vùng nguyên liệu, áp dụng những giống cây con có
năng suất cao, phẩm chất tốt vào sản xuất. Còn nhà máy chế biến thì còn có điều kiện để tiếp cận công nghệ
hiên đại, nâng cao năng suất chế biến.
- Chính sách khoa học công nghệ: Việc thất thoát các sản phẩm nông-lâm-nghiệp sau khi thu hoạch ở
nước ta hiện chiếm tỉ lệ khá lớn, khoảng 10% tống sản lượng thu hoạch, và thường do các khâu: Thu hoạch,
vận chuyển và công nghệ bảo quản. Chính vì vậy, chính sách khoa học công nghệ ưu tiên nghiên cứu công

7


nghệ chế biến và quy mô thích hợp đối với cả hai sản phẩm thô và tinh có giá trị sử dụng trong nước và xuất
khấu. Đồng thời nghiên cứu vấn đề vệ sinh công nghiệp và mẫu mã bao bì. Nhanh chóng đưa các công nghệ
chế biến mới, thiết bị tiên tiến để đa dạng hoá sản phẩm, mở rộng đầu ra cho sản xuất nông nghiệp như: chiên
chân không, sấy tầng sôi, sấy thăng hoa, đóng gói chân không, nạp khí trơ, thực phẩm chế biến sẵn, thực
phẩm ăn liền… Thiết kế bổ sung một số khâu trong dây chuyền chế biến đường, đánh bóng gạo, tách tấm,
hoàn thiện công nghệ xay xát đã lạc hậu,nhập thiết bị phân loại màu nhằm nâng cao chất lượng gạo xuất
khẩu; dây chuyền chế biến thức ăn gia súc, dây chuyền chế biến chè, cà phê…Hiện đại hoá hệ thống kiểm tra
chất lượng nông sản, thực phẩm chế biến theo công nghệ tương hợp với tiêu chuẩn quốc tế và khu vực nhằm
đáp ứng nhu cầu chất lượng hàng xuất khẩu và bảo vệ quyền lợi người tiêu dùng trong nước.
- Chính sách giá cả và vấn đề trợ giá: Giữa giá mua nguyên liệu và giá sản phẩm chế biến có mối

quan hệ với nhau. Nếu giá nguyên liệu rẻ thì giá bán sản phẩm cơ bản sẽ không cao và ngược lại, thế nhưng
nếu giá nguyên liệu quá thấp người sản xuất nông nghiệp sẽ bị thua thiệt dẫn đến tình trạng nhà máy thiếu
nguyên liệu mà người nông dân không muốn thu hoạch vì không dủ bù đắp chi phí. Nhà nước cần có chính
sách để vừa khuyến khích người sản xuất nông nghiệp vừa tạo điều kiện cho công nghiệp chế biến phát triển.
- Chính sách thuế, chính sách xuất khẩu: Xuất khẩu là con đường mang lại ngoại tệ để phục vụ sự
nghiệp CNH – HĐH đất nước, nếu như chỉ xuất thô thì hiệu quả không cao. Nhà nước cần đánh thuế cao vào
những sản phẩm xuất thô và quy định mức thuế thấp đối với sản phẩm tinh chế. Đó là điều kiện thuận lợi cho
các nhà sản xuất phải đầu tư phát triển công nghiệp chế biến nông sản, vừa giải quyết tốt cho lao động trong
nước vừa mang lại hiệu quả kinh tế cao.

8


5. Các chỉ tiêu đánh giá trình độ, kết quả và hiệu quả
chế biến nông sản:
5.1. Hệ thống chỉ tiêu các nhân tố:
5.1.1. Các chỉ tiêu khái quát:
- Tổng số vốn sản xuất (bao gồm vốn cố định và vốn lưu động). Chỉ tiêu này phản ánh đầy đủ nhất
tư liệu sản xuất và lao động ứng trước. Ưu việt của vốn sản xuất biểu hiện chủ yếu ở sự tập trung hoá đầy đủ
nhất các nhân tố và điều kiện vào quá trình sản xuất. Khuynh hướng chunh trong việc thay đổi các nhân tố
của vốn sản xuất thông thường là sự tăng lên của vốn lưu động trên với việc hạ thấp chi phí lao động sống và
thù lao lao động. Nhưng do các yếu tố khác nhau cấu thành vốn sản xuất có chức năng khác nhau trong quá
trình sản xuất và tham gia không giống nhau trong việc tạo thành giá trị sản phẩm, nên khi sử dụng chỉ tiêu
này cần kèm theo chỉ tiêu khác để đảm bảo tính chất toàn diện của quá trình chế biến nông sản.
- Tổng chi phí sản xuất (bao gồm chi phí thực tế về tư liệu sản xuất và lao động). Chỉ tiêu này phản
ánh đầy đủ nhất chi phí thực tế và nó có ý nghĩa trực tiếp để tăng khối lượng sản phẩm. Thông qua chỉ tiêu
này có thể so sánh chính xác hơn kết quả thu được với chi phí đã tiêu hao, từ đó xác định được lượng tuyệt
đối của kết quả sản xuất và hiệu quả kinh tế trong quá trình sản xuất chế biến nông sản. Tuy nhiên chỉ tiêu
này không phản ánh được toàn bộ lượng vốn sản xuất ứng trước mà thiếu khoản này không thể nhận được kết
quả sản xuất. Vì thế khi sử dụng chỉ tiêu này phải đồng thới sử dụng chỉ tiêu vốn sản xuất trên đơn vị diện

tích.
5.1.2. Các chỉ tiêu bộ phận bao gồm:
- Tổng số vốn cố định: Nó biểu hiện dưới hình thức máy móc, công cụ, các phương tiện giao
thông… có vai trò quan trọng đặc biệt trong việc tăng sản phẩm trên đơn vị diẹn tích và hạ thấp chi phí sản
xuất. Chỉ tiêu này có ý nghĩa trực tiếp đến việc nâng cao vốn trang bị lao động, năng suất sống và hiệu quả
sản xuất.
- Giá trị công cụ máy móc: Là bộ phận cấu thành trong vốn cố định, máy móc có tác động trực tiếp
đến việc hạ thấp chi phí lao động, đồng thời có ảnh hưởng gián tiếp đến việc tăng khối lượng sản phẩm,
thông qua việc tạo điều kiện để thực hiện các biện pháp kỹ thuật hợp lý trong thời hạn thuận lợi nhất cho sự
phát triển của công nghệ chế biến.
- Trình độ phát triển của ngành nông nghiệp: phản ánh mối quan hệ và sự phối hợp giữa ngành sản
xuất, chăn nuôi, trồng trọt với công nghệ chế biến. Phản ánh chỉ tiêu chất lượng thông qua số lượng và chất
lượng nguyên liệu của chế biến nông sản.

5.2. Hệ thống chỉ tiêu kết quả:
5.2.1. Chỉ tiêu kết quả trực tiếp:
- Giá trị sản xuất: phản ánh mục tiêu sản xuất cũng như giá trị sản xuất đạt được của công nghệ chế
biến, nhắm đưa lại giá trị sản xuất cao hơn. Do giá trị sản xuất trên đơn vị sản xuất chứa đựng đồng thời giá
trị chuyển vào và giá trị mới sáng tạo ra với tỷ lệ khác nhau, vì thế khi sử dụng chỉ tiêu này đòi hiurtphải kết
hợp với các chỉ tiêu khác để xác định trình độ sản xuất chế biến.
- Năng suất sản xuất chế biến: là chỉ tiêu trực tiếp phản ánh trình độ sản xuất chế biến, phản ánh
hiệu quả trên một đơn vị lao động. Chỉ tiêu là cơ sở chính xác hơn và đánh giá sự hợp lý về kết quả đầu tư đã
thực hiện và trình độ sử dụng tư liệu sản xuất để phát triển sản xuất.
5.2.2. Chỉ tiêu kết quả tổng hợp:
Nhằm đánh giá tính chất hợp lý và lợi ích kinh tế của quy mô và cơ cấu đầu tư về tư liệu sản xuất và
lao động trong những điều kiện nhất định của sản xuất. Các chỉ tiêu kết quả tổng hợp bao gồm:
- Giá trị mới tạo ra trên đơn vị diện tích: Đây là chỉ tiêu đặc biệt quan trọng đặc trưng cho sự phát
triển kinh tế nói chung cung như của sản xuất chế biến nói riêng. Sự tăng lên của giá trị mới sáng tạo ra trên

9



đơn vị diện tích với nhịp độ lớn hơn so với giá trị sản lượng khi các điều kiện khác khi các điều kiện khác
không thay đổi thể hiện sử dụng tốt hơn tư liệu vật chất.
- Lợi nhuận: Là chỉ tiêu kết quả kinh tế cuối cùng của sản xuất. Lợi nhuận biểu hiện đầy đủ nhất
những khả năng tái sản xuất mở rộng trong nông nghiệp là tham gia vào tích luỹ xã hội. Lợi nhuận là chỉ tiêu
cơ sở để thu hút các nhà đầu tư cũng như các doanh nghiệp bước đầu quan tâm đến lĩnh vực kinh doanh này.

10


5.3. Chỉ tiêu về hiệu quả kinh tế của chế biến nông sản:
Hiệu quả sản xuất đem lại là kết quả tác động tổng hợp của tư liệu sản xuất sẵn có và tư liệu sản
xuất đầu tư bổ sung, thông thường tư liệu sản xuất bổ sung được hoàn thiện hơn cho phép nâng cao hiệu quả
của những tư liệu sản xuất đã đầu tư và sử dụng trước đó. Sự tác động này có thể tác động trực tiếp thông qua
việc nâng cao chất lượng những tư liệu sản xuất tương tự được sử dụng, có thể gián tiếp thông qua cơ cấu số
lượng hợp lý hơn giữa đầu tư công nghệ mới và cũ nhằm đảm bảo ảnh hưởng tổng hợp để tăng hiệu suất của
ruộng đất, cây trồng và gia súc. Chỉ tiêu hiệu quả kinh tế của chế biến nông sản bao gồm:
5.3.1. Mức doanh lợi: Là chỉ tiêu khái quát nhất về hiệu quả sản xuất. Mức doanh lợi có thể biểu hiện
bằng mối quan hệ so sánh về lượng của thu nhập và chi phí sản xuất, hoặc của thu nhập với tổng số vốn sản
xuất (vốn cố định và vốn lưu động, trừ phần khấu hao). Thu nhập tính bằng cách lấy tổng giá trị sản xuất trừ
đi tổng chi phí sản xuất. (Thu nhập và giá trị mới sáng tạo ra là hai cách gọi khác nhau của cùng một chỉ
tiêu).
Mặc dù mức doanh lợi là chỉ tiêu quan trọng nhất để đo lường hiệu quả kinh tế của chế biến nông
sản nhưng không phải bao giờ mức doanh lợi cao cũng đảm bảo thu nhập nhiều hơn trên đơn vị lao động và
tư liệu sản xuất.
Doanh thu của công nghiệp chế biến được tính theo phương pháp công xưởng bao gồm:
+ Doanh thu của công nghiệp chế biến ( Doanh thu sản phẩm, dịch vụ công nghiệp, bán phế liệu,
phế phẩm và doanh thu cho thuê máy móc, thiết bị có kèm theo người điều khiển).
+ Chênh lệch cuối kỳ, đầu kỳ, thành phẩm tồn kho, hàng gửi bán, sản phẩm dở dang.

5.3.2. Mức doanh lợi của đầu tư bổ sung:
Là quan hệ so sánh giữa phần tăng lên của thu nhập với đầu tư bổ sung. Chỉ tiêu này có thể biểu
hiện bằng mối quan hệ so sánh về lượng giữa phần tăng lên của thu nhập với phần chi phí sản xuất bổ sung,
hoặc giữa phần tăng lên của thu nhập với phần vốn sản xuất bổ sung.
Ngoài 2 chỉ tiêu trên có sử dụng thêm: giá trị sản phẩm hàng hoá sản xuất ra trên đơn vị diện tích và
trên một lao động; năng suất lao động; dung lượng vốn cố định và chi phí vật chất trên 100 đồng giá trị sản
xuất.

6. Các ngành và các hình thức công nghiệp chế biến
nông sản:
6.1. Các ngành công nghiệp chế biến nông sản:
Ngành công nghiệp thời gian qua tập trung đầu tư phát triển các ngành nghề khai thác nhằm khai
thác nguồn nguyên liệu phong phú tại chỗ, tay nghề lao động, thị trường trong và ngoài nước. Cụ thể là:
- Ngành Công nghiệp chế biến lương thực- thực phẩm
- Ngành Công nghiệp cơ khí chế tạo và sửa chữa
- Ngành Công nghiệp khai khoáng và sản xuất vật liệu xây dựng
- Ngành Công nghiệp dệt- may- giầy
- Ngành Công nghiệp sản xuất và phân phối điện nước
- Một số ngành công nghiệp khác
- Công
nghiệp
nông
thôn(
tiểu
thủ
công
nghiệp

làng
nghề

truyền
thống)
Trong đó công nghiệp chế biến lương thực- thực phẩm được xem là một trong các ngành chủ lực của
nước ta hiện nay. Điều đó tạo động lực to lớn thúc đẩy công nghiệp chế biến lương thực- thực phẩm phát
triển đồng thời với những chính sách thích hợp thu hút đầu tư nước ngoài cũng như trong nước vào lĩnh vực
này.
Với một đất nước có trên 74% dân số sống ở nông thôn và 59% lực lượng lao động làm nông nghiệp,
11


sản xuất nông nghiệp hiện còn chiếm tỷ trọng cao trong GDP như Việt Nam, thì phát triển công nghiệp chế
biến nông, lâm, thủy sản cần phải được ưu tiên hàng đầu trong giai đoạn hiện nay. Theo phân loại của Tổng
cục Thống kê, ngành công nghiệp chế biến nông lâm thuỷ sản được chia thành 4 phân ngành, gồm:
- Chế biến lương thực- thực phẩm và đồ uống
- Chế biến thuốc lá, thuốc lào
- Chế biến gỗ và lâm sản
- Sản xuất giấy và các sản phẩm về giấy
Trong những năm gần đây, ngành chế biến nông-lâm-thuỷ sản đạt tốc độ tăng trưởng cao và khá ổn
định, chiếm tỷ trọng lớn nhất trong ngành công nghiệp chế biến. Theo sơ bộ ước tính, năm 2005, giá trị sản
xuất công nghiệp của ngành chế biến nông-lâm-thuỷ sản(bao gồm 4 phân ngành nêu trên, không kể ngành
chế biến xay xát gạo) đạt 114.447,2 tỷ đồng, chiếm 32% giá trị sản xuất công nghiệp của toàn ngành công
nghiệp chế biến. Trong số đó, phân ngành thực phẩm và đồ uống chiếm tỷ trọng cao nhất, trên 3/4 tổng giá trị
sản xuất công nghiệp của ngành; 3 nhóm còn lại chỉ chiếm xấp xỉ 1/4. Với gần 7 tỷ USD, kim ngạch xuất
khẩu của ngành chế biến nông-lâm-thuỷ sản chiếm hơn 40% kim ngạch xuất khẩu của ngành công nghiệp
chế biến và khoảng 30% tổng giá trị xuất khẩu hàng hoá cả nước. Phát triển chế biến nông-lâm-thuỷ sản còn
kéo theo sự phát triển các ngành công nghiệp - dịch vụ khác gắn liền với nông nghiệp, thúc đẩy quá trình
CNH, HĐH nông nghiệp, nông thôn.
Hiện nay, với gần 400.000 cơ sở, đơn vị sản xuất, toàn ngành chế biến nông-lâm-thuỷ sản đã thu hút
khoảng trên 1,75 triệu lao động (chiếm 41,68% tổng số lao động ngành công nghiệp chế biến); trong đó,
ngành thực phẩm và đồ uống thu hút 50,04% lao động ngành, sau đó là chế biến lâm sản và đồ gỗ 39,74%,

còn lại là công nghiệp giấy 9,15% và thuốc lá 1,07%.
Đạt được kết quả trên trước hết là do Nhà nước có chủ trương đúng đắn về đầu tư xây dựng một số
ngành mũi nhọn, có lợi thế như: lúa, gạo, cafe, cao su, đường, thủy sản đông lạnh, sữa... ; đồng thời, chủ
trương đẩy mạnh CNH, HĐH nông nghiệp, nông thôn đã tạo điều kiện cho các doanh nghiệp trong và ngoài
nước thuộc mọi thành phần kinh tế tham gia tích cực vào phát triển công nghiệp chế biến. Một số doanh
nghiệp đã chủ động đầu tư xây dựng vùng nguyên liệu hoặc đầu tư chế biến các sản phẩm bên cạnh sản phẩm
chính, nâng cao hiệu quả sản xuất, kinh doanh, tiêu biểu như Công ty Mía đường Lam Sơn, Công ty liên
doanh Mía đường Nghệ An Tate & Ly… .

6.2. Các hình thức chế biến nông sản
Có thể nói, trong những năm qua, ngành công nghiệp chế biến ở nước ta đã được Nhà nước quan
tâm chỉ đạo, đạt được một sự phát triển đáng kể. Bằng chứng là có tới gần 30 phân ngành công nghiệp chế
biến khác nhau bao trùm hầu hết sản phẩm nông nghiệp như lúa gạo, cao su, cà phê, hạt điều, thủy hải sản,
mía đường, bột ngọt, thức ăn chăn nuôi, hạt tiêu, các sản phẩm lâm nghiệp... Tổng số lao động làm việc ở
ngành công nghiệp chế biến hiện nay là gần 3,5 triệu người. Một số cơ sở công nghiệp chế biến đã có công
nghệ đạt trình độ quốc tế và khu vực. Nhìn chung công nghiệp chế biến bao gồm các hình thức chính như
sau:
- Xay xát- lau bóng gạo: Đây là ngành thế mạnh và chủ yếu của nước ta để đáp ứng với sản xuất
nông nghiệp lúa nước đang ngày càng phát triển và đem lại năng suất ngày càng cao, công nghiệp chế biến
xay xát- lau bóng gạo góp phần làm tăng giá trị gạo tiêu dùng trong nước cũng như xuất khẩu, khuyến khích
nông nghiệp phát triển. Năng lực chế biến gạo theo quy mô công nghiệp ở cả ba công đoạn: xay xát, đánh
bóng, phân chia chủng loại sản phẩm, được hơn 22 triệu tấn. Cần nâng cao năng suất chế biến xay xát- lau
bong gạo hơn nữa để bắt kịp với trình độ phát triển của nông nghiệp như: nâng cao chất lượng hạt gạo tương
đương của Mỹ, Thái Lan, bảo đảm chế độ phơi sấy, bảo quản, vận chuyển, xay xát, hạ tỷ lệ tấm, tỷ lệ rạn vỡ,
thời gian lại cám, tỷ lệ tạp chất, hạt bầu, độ trắng đục v.v...; hạ giá thành gạo xuất khẩu đến mức thấp nhất; sử
dụng thiết bị sấy hiện đại; các kho chứa có thể đảo hạt, bảo đảm tiêu chuẩn về nhiệt và độ ẩm, các thiết bị
vận chuyển bốc dỡ bằng sức gió.

12



- Chế biến thuỷ- hải- sản đông lạnh: Cả nước đã có tổng số hơn 470 cơ sở - doanh nghiệp chế biến
thủy sản. Trong đó, 248 cơ sở - doanh nghiệp (chiếm gần 53%) đã đạt tiêu chuẩn của thị trường EU - một thị
trường khó tính vào bậc nhất thế giới; trên 300 cơ sở - doanh nghiệp được Hàn Quốc công nhận tiêu chuẩn
chất lượng… Theo Bộ Thủy sản, hiện nay hàng thủy sản Việt Nam đã có mặt trên 140 nước và vùng lãnh thổ
trên thế giới, có chỗ đứng vững chắc ở các thị trường lớn như Nhật Bản, EU và Bắc Mỹ. Về giá trị kim ngạch
xuất khẩu, thủy sản Việt Nam hiện đã vươn lên đứng hàng thứ 7 trên thế giới. Năm 2006, sản lượng thuỷ sản
Việt Nam đạt 3,75 triệu tấn, giá trị kim ngạch xuất khẩu đạt 3,75 tỷ USD. Thuỷ sản đông lạnh đang là lĩnh
vực đầu tư có hiệu quả, xuất khẩu mặt hàng thuỷ sản đông lạnh sang các nước phát triển như Mỹ, Nhật
Bản… là những thị trường tiềm tàng cần khai thác. Chính vì vậy cần phải đầu tư phát triển hợp lý, đồng thời
phải chú ý hơn nữa vấn đề an toàn vệ sinh thực phẩm, tiêu chuẩn chất lượng sản phẩm qua những bài học đắt
giá về bán phá giá cá basa, dư lượng kháng sinh trong tôm xuất khẩu…
- Chế biến nước mắm: Cả nước có 104 cơ sở chế biến nước mắm quốc doanh và hàng chục cơ sở chế
biến tư nhân với tổng công suất khoảng 180 triệu lít/năm, ngoài ra còn có trên 10 cơ sở sản xuất bột cá, chế
biến mỗi năm khoảng 10.000 tấn cá bột các loại. Đây là lĩnh vực rất cần sự quan tâm về vệ sinh an toàn thực
phẩm trong chế biến tiêu dùng cũng như xuất khẩu.
- Chế biến mía đường: Theo Hiệp hội Mía đường Việt Nam, niên vụ 2007-2008, cả nước có 37 nhà
máy đường đang hoạt động, tổng công suất chế biến 96.300 tấn mía/ngày. Sản lượng chế biến cả vụ sẽ đạt
khoảng 13,8 triệu tấn mía, tương đương 1,42 triệu tấn đường. Trên thế giới, niên vụ 2007-2008, sản lượng
đường cũng đạt con số kỷ lục từ trước đến nay, khoảng 169 triệu tấn (niên vụ trước là 167 triệu tấn). Sản
lượng mía đường rất cao nhưng vẫn xảy ra nhiều bất cập, nguyên liệu mía vẫn còn thừa rất nhiều, đến mùa
thu hoạch bà con nông dân vẫn còn “mang nỗi lo khi được mùa”. Mặc dù được mùa nhưng việc thu mua của
nhà máy mía đường vẫn còn hạn chế, dẫn đến tình trạng dư thừa nguyên liệu, giá rẻ mạt, chính vì vậy rất cần
sự quan tâm, đầu tư đầy đủ về công nghệ cũng như sự quy hoạch về cùng nguyên liệu phù hợp với năng lực
sản xuất.
- Chế biến rau quả: do nhu cầu tiêu thụ nội địa hiện rất lớn nên phần lớn sản lượng rau quả thu
hoạch vẫn đang tập trung đáp ứng cho thị trường này. Sản lượng rau quả được đưa vào chế biến và phục vụ
xuất khẩu mới chiếm một sản lượng nhỏ. Ngành rau-quả năm 2005, dù xuất khẩu tới 6,5 triệu tấn nhưng
tổng công suất chế biến cả nước chỉ đạt khoảng 290.000 tấn/năm. Hơn nữa, công nghệ bảo quản trái cây tươi
kém khiến các nhà máy chỉ hoạt động được 20-30% công suất. Do vậy, hiện mới chỉ có khoảng 12% sản

lượng hoa quả được sử dụng cho xuất khẩu tươi và làm nguyên liệu cho chế biến xuất khẩu. Lĩnh vực chế
biến hoa quả đòi hỏi sự quy hoạch hợp lý về vùng nguyên liệu cũng như việc đầu tư xây dựng các nhà máy
chế biến một cách hợp lý, tránh đầu tư dàn trải, thiếu quy hoạch, phô trương gây lãng phí mà hiệu quả dạt
được không cao.
- Chế biến thức ăn chăn nuôi: Theo số liệu thống kê, hiện cả nước có 241 nhà máy chế biến TACN
(13,7% của nước ngoài, 4,1% liên doanh và 82,2% trong nước). Chính phủ Việt Nam đang khuyến khích các
công ty đầu tư vào ngành thức ăn chăn nuôi trong nước. Bộ Nông Nghiệp và Phát triển nông thôn cho biết,
hiện nay, nguồn nguyên liệu thức ăn chăn nuôi trong nước chỉ đáp ứng được khoảng 70% so với nhu cầu, còn
lại phải nhập khẩu để bổ sung. Nguyên nhân chủ yếu của do hiện nay ngành nông nghiệp vẫn thiếu khả năng
thực hiện quy hoạch phát triển các nguồn nguyên liệu thô cũng như công nghiệp phụ trợ cho chế biến thức ăn
chăn nuôi. Với trên 1 triệu ha ngô, năng suất bình quân 3,6 tấn/ha, sản lượng trên 3,6 triệu tấn ngô/năm
nhưng các doanh nghiệp chế biến thức ăn chăn nuôi vẫn phải nhập khẩu hàng trăm ngàn tấn/năm (riêng năm
2006 là khoảng 500.000 tấn). Các nguyên liệu khác như: bột cá 60% đạm, vi khoáng, amino acid… cũng
phải nhập khẩu do trong nước không thể tự sản xuất hoặc nguồn cung ứng hạn chế. Đây cũng là nguyên nhân
khiến giá thức ăn chăn nuôi của Việt Nam luôn cao hơn so với các nước trong khu vực từ 10-20%. Chính vì
vậy cần quan tâm hơn nữa để đầu tư vào những ngành công nghiệp phụ trợ đó, hỗ trợ phát triển để thúc đẩy

13


chế biến thức ăn gia súc nước ta tiến thêm một bước.
- Các ngành nghề chế biến thành phẩm khác như: Ép dầu dừa, làm bột, làm bánh phồng tôm, bánh
đa, trứng vịt muối, cá mắm, cá kho… Các ngành nghề chế biến này chủ yếu là các cơ sở chế biến vừa và nhỏ,
trình độ còn thấp kém nên năng suất thường thấp, chất lượng không đảm bảo. Cần có sự đầu tư và quản lý
đúng mức của các cấp chính quyền để đảm bảo vấn đề an toàn vệ sinh thực phẩm trong các ngành chế biến
này. Đồng thời cũng cần có những chính sách khuyến khích các ngành nghề chế biến này phát triển.

7. Kinh nghiệm phát triển chế biến nông sản ở một
số nước:
Công nghiệp chế biến nông sản thực phẩm ở Châu Á được dự đoán sẽ tăng trưởng 12-15%/năm trong

5 năm tới Song hành cùng với tốc độ công nghiệp hóa và đô thị hóa nhanh chóng trên toàn cầu, thói quen tiêu
dùng của người châu á cũng thay đổi, đòi hỏi ngày càng cao về chất lượng thực phẩm. Vì vậy, các nhà sản
xuất và chế biến thực phẩm đang tập trung chế biến ra những loại sản phẩm mới để đáp ứng nhu cầu “tiện
ích” của người tiêu dùng và như thế cũng đòi hỏi các hãng chế biến, đóng gói sản phẩm khắp khu vực ngày
càng phải quan tâm nâng cao công nghệ chế biến hơn nữa.
Để cung cấp thực phẩm cho dân số xấp xỉ 3,6 tỷ người châu á và một thị trường xuất khẩu lớn cho thế
giới phương Tây, các hãng chế biến thực phẩm đang thu hút rất nhiều các nhà đầu tư. Các nguồn thống kê
độc lập ước tính rằng, thị trường cho ngành công nghiệp chế biến thực phẩm châu á sẽ tăng trưởng mạnh với
tỷ lệ từ 12 – 15% mỗi năm trong 5 năm tới. Thị trường xuất khẩu trong khu vực cũng hứu hẹn sẽ cung cấp
cho nhiều nhà máy sản xuất chế biến thực phẩm và rượu bia ngày càng nhiều cơ hội, tăng 13% vào cuối năm
2007.
Cùng với những thay đổi lớn trong điều chỉnh thương mại và nhận thức ngày càng cao về các
sản phẩm tiêu dùng, nhu cầu về thực phẩm chế biến vì sức khoẻ, nước đóng chai, nước hoa quả, trà thảo
dược, thực phẩm hữu cơ, các sản phẩm sữa ít chất béo và những đồ uống có ga đang hướng dòng đầu tư trực
tiếp nước ngoài (FDI) vào châu á - Thái Bình Dương. Thêm vào đó, môi trường thương mại mở khắp các
nước châu á - Thái Bình Dương trong những năm gần đây đã khuyến khích ngành công nghiệp chế biến thực
phẩm sử dụng các thiết bị nhập khẩu và công nghệ tốt hơn, đầu tư nhiều hơn cho thí nghiệm và giới thiệu
nhiều loại sản phẩm chế biến mới cho thị trường, như các thực phẩm đông lạnh, thịt, cá, đã chế biến sẵn và
bia. Theo ANTARA, Bộ trưởng Biển và Đánh cá Indonesia Freddy Numbery cho biết, các doanh nghiệp
Trung Quốc đã bày tỏ sẵn sàng đầu tư khoảng 800 triệu USD vào ngành công nghiệp chế biến cá ở nước này.
Nói đến ngành công nghiệp chế biến thực phẩm khu vực, không thể không nhắc đến Australia.
Australia là nước nổi tiếng nhất khu vực về sản xuất những sản phẩm chế biến chất lượng cao và an toàn thực
phẩm. Nước này đã cam kết đảm bảo tiêu chuẩn quốc tế về quản lý chất lượng chế biến thực phẩm. Theo
thống kê của bản tin nghiên cứu thị trường “Food Processing Industry – Asia Pacific (2005)”, năm ngoái, các
hãng công nghệ sinh học trong khu vực đã thu lợi 65,9 tỷ USD từ thị trường chế biến thực phẩm ở Australia.
Ngoài ra, còn phải kể tới 2 thị trường tiêu dùng lớn nhất là Trung Quốc và ấn Độ. Hai thị trường này
hứu hẹn sẽ tăng trưởng rất mạnh, vì sự thay đổi đa dạng các loại hình thực phẩm và thu nhập của người dân
cũng tăng cao. Một ví dụ điển hình là ngành công nghiệp chế biến sữa của Trung Quốc. Sữa và các sản phẩm
chế biến từ sữa ngày nay đã trở thành thực phẩm có trong bữa ăn hàng ngày của người dân Trung Quốc. Năm
2004, sản lượng sữa của Trung Quốc đạt 23,68 triệu tấn, gấp 2,5 lần năm 1995. Tổng giá trị sản của ngành

công nghiệp chế biến sữa là 66,3 tỷ NDT, tăng 7,5 lần so với năm 1995. Sản phẩm chế biến sẵn của các tập
đoàn thực phẩm đa quốc gia nổi tiếng thế giới như Nestle, SmithKline Becheern, Britannia, Glaxo, Hindustan
Lever, Kraft... đang ngày càng trở nên quen thuộc với người dân châu á những năm gần đây. Là hai nước lớn
và đông dân nhất thế giới, Trung Quốc và ấn Độ rất cần thúc đẩy ngành công nghiệp chế biến thực phẩm,
không chỉ để đáp ứng nhu cầu tiêu dùng trong nước mà còn phục vụ xuất khẩu. Theo ông Walter Spiess, Chủ

14


tịch Hội Khoa học và Công nghệ Thực phẩm Quốc tế, Trung Quốc có rất nhiều sản phẩm nông nghiệp và là
một thị trường lớn tiềm tàng. Các số liệu thống kê chính thức cho thấy, Trung Quốc hiện là nhà sản xuất lúa
gạo, hoa quả, đậu thịt, trứng và hải sản lớn nhất thế giới. Tuy nhiên, ngành công nghiệp chế biến của Trung
Quốc vẫn còn “non trẻ” – chỉ 30% trong tổng số sản phẩm được chế biến trước khi tung ra thị trường, so với
80% ở các nước công nghiệp hóa.
Ngoài các chính sách để phát triển nông nghiệp khác, Thái Lan còn chú trọng phát triển một trong các
ngành mũi nhọn là hàng nông, hải sản phục vụ xuất khẩu, thúc đẩy mạnh mẽ công nghiệp chế biến nông sản
cho tiêu dùng trong nước và xuất khẩu sang các nước khác như, nhất là các nước công nghiệp phát triển.
Hiện nay, ngoài mặt hàng xuất khẩu truyền thống như gạo, ngô, cao su, đường, nông nghiệp Thái Lan còn có
nhiều mặt hàng xuất khẩu mới như hải sản đông lạnh, gia cầm, hoa quả tươi và chế biến rau xanh và sắn củ.
Nhờ có chính sách khuyến khích nông nghiệp phát triển mạnh, Thái Lan đã đứng đầu thế giới về xuất khẩu
gạo (khoảng 5 triệu tấn/năm), là nước xuất khẩu thực phẩm mạnh nhất khu vực Đông - Nam Á. Những
phương pháp nhằm thúc đẩy phát triển chế biến nông sản thực phẩm ở các nước này đã đạt được những kết
quả rất đáng khích lệ, chính vì vậy nước ta rất cần tìm hiểu và học hỏi các kinh nghiệm quý báu của các nước
bạn.

15


8. K


ết luận:

Qua phân tích cơ sở lý luận và thực tiễn có thể thấy tầm quan trọng của công nghiệp chế biến nông
sản trong phát triển kinh tế nói chung cũng như phát triển kinh tế và phát triển nông thôn nói riêng. Trong
những năm gần đây ngành chế biến nông sản thực phẩm đã có những bước tiến đáng kể, thể hiện ở các mặt
sau:
- Giá trị sản xuất liên tục tăng, tốc độ tăng trưởng bình quân hàng năm giai đoạn 1996-2000 là 9,44%,
năm 2001 tiếp tục tăng 13,45% và năm 2002 tăng 13,3% so với năm trước. Tỷ trọng công nghiệp chế biến
nông - lâm - thủy sản - thực phẩm - đồ uống năm 2002 trong công nghiệp chế biến là 35,08% và trong toàn
ngành công nghiệp năm là 28,11%.
- Các sản phẩm chế biến hàng năm đều gia tăng về số lượng và chất lượng.
- Đã hình thành một số cơ sở công nghiệp chế biến có công nghệ và thiết bị tương đối hiện đại (xay
xát, chế biến mủ cao su, đường sữa, dầu thực vật...).
- Công nghiệp chế biến đã làm thay đổi cơ cấu hàng xuất khẩu và làm tăng kim ngạch xuất khẩu các
sản phẩm nông -lâm - thủy sản.
- Chất lượng sản phẩm, mẫu mã, bao bì của nhiều mặt hàng chế biến đã được cải tiến từng bước, đang
chiếm lĩnh thị trường trong nước và một số mặt hàng bước đầu được thị trường nước ngoài chấp nhận.
- Góp phần đáng kể trong chuyển dịch cơ cấu kinh tế, cơ cấu lao động trong cả nước.
Tuy nhiên, công nghiệp chế biến nông-lâm-thuỷ sản cũng còn có một số tồn tại như:
- Công tác quy hoạch, cả quy hoạch vùng nguyên liệu lẫn quy hoạch đầu tư phát triển chế biến nônglâm-thuỷ sản, còn kém. Một mặt, do công tác điều tra cơ bản vừa yếu lại vừa chậm, trình độ năng lực cán bộ
làm công tác quy hoạch còn hạn chế... nhưng mặt khác, cũng do chủ quan của các cơ quan chủ quản xây
dựng và thực hiện quy hoạch.
- Sự phối hợp giữa các địa phương và vùng miền chưa tốt, trong một số trường hợp còn xảy ra hiện
tượng phát triển ngành chế biến nông-lâm-thuỷ sản theo phong trào (đường mía, tôm, cà phê...) nên không
những hiệu quả thấp, mà đôi khi còn gây những thiệt hại lớn đối với bà con nông dân và Nhà nước.
- Tỷ trọng công nghiệp chế biến một số nông, lâm sản còn thấp so với nguyên liệu hiện có như mía
đường 30%, chè 55%, rau quả 5%, thuỷ sản thịt xuất khẩu 1%... Riêng chế biến thuỷ sản có giá trị khá hơn
(65,8%) nhưng vẫn chưa tương xứng với tiềm năng của Ngành. Tác động của công nghiệp chế biến, nhất là
chế biến đồ uống từ hoa quả để tiêu thụ nông sản, đến việc thay đổi cơ cấu và phát triển cây trồng, vật nuôi
chưa mạnh; Tuy nhiên, ngành chế biến nông-lâm-thuỷ sản còn một số hạn chế. Đó là công tác quy hoạch

vùng nguyên liệu và quy hoạch đầu tư phát triển chế biến nông-lâm-thuỷ sản còn nhiều yếu kém và thiếu
đồng bộ. Trong một số trường hợp còn xảy ra hiện tượng phát triển ngành chế biến nông-lâm-thuỷ sản theo
phong trào (đường, tôm, cà phê, tinh bột sắn...), nên hiệu quả không những thấp, mà đôi khi còn gây nên
những thiệt hại lớn đối với bà con nông dân và Nhà nước. Chất lượng một số sản phẩm chưa cao, mặt hàng
đơn điệu, tính cạnh tranh kém, giá trị thấp, giá xuất khẩu thường thấp hơn giá thị trường thế giới cùng loại 10
- 15%. Phần lớn các doanh nghiệp chế biến chưa xây dựng được thương hiệu hàng hoá cho các sản phẩm chế
biến nông, lâm, thuỷ sản. Bên cạnh đó, năng suất vật nuôi, cây trồng còn thấp, làm cho sản phẩm công
nghiệp chế biến kém sức cạnh tranh. Còn nhiều thiết bị cũ, trình độ công nghệ còn thấp so với khu vực và
trên thế giới, hiệu suất sử dụng thiết bị còn chưa cao.
- Chất lượng sản phẩm chưa cao, mặt hàng đơn điệu, tính cạnh tranh kém, giá trị thấp, giá xuất khẩu
thường thấp hơn giá thị trường thế giới cùng loại 10 - 15%;
- Việc đa dạng hóa và tận dụng trong chế biến còn thấp. Sản phẩm xuất khẩu chủ yếu là dạng sơ chế.
- Tỷ lệ thất thoát ở các khâu thu hoạch và sau thu hoạch còn lớn, như lương thực 8 - 10% (thậm chí vụ
lúa hè thu ở Đồng bằng Sông Cửu Long đến 15%), rau quả 7 - 8%.
- Còn sử dụng nhiều thiết bị cũ, trình độ công nghệ còn thấp so với khu vực và trên thế giới, hiệu suất
sử dụng thiết bị còn chưa cao.

16


Nguyên nhân của các tồn tại là:
- Đầu tư cho công nghiệp chế biến chưa tương xứng với tốc độ phát triển của nông, lâm, thủy sản. Hệ
số đổi mới thiết bị trong những năm qua mới đạt ở mức 7%/năm (bằng 1/2 đến 1/3 mức tối thiểu của các
nước khác).
- Chưa quan tâm đúng mức đến xây dựng vùng nguyên liệu cho công nghiệp chế biến như thiếu quy
hoạch và chính sách phù hợp cho vùng nguyên liệu tập trung, việc đưa giống mới, cải tạo giống, áp dụng quy
trình công nghệ tiên tiến thích hợp còn chậm... Nhiều nhà máy chưa chủ động xây dựng vùng nguyên liệu
đảm bảo đủ cho chế biến. Giữa xây dựng nhà máy chế biến và phát triển vùng nguyên liệu còn chưa đồng bộ.
- Công tác tiếp thị còn yếu kém, chưa có chiến lược về thị trường tiêu thụ nông, lâm, thủy sản. Chưa
có thị trường xuất khẩu ổn định, đồng thời chưa quan tâm đúng mức đến thị trường nội địa.

- Việc đầu tư cơ sở hạ tầng (đường sá, thủy lợi...) chưa theo kịp với việc xây dựng nhà máy chế biến,
mức độ đầu tư cũng chưa hợp lý, có lúc còn xem nhẹ.
- Các chính sách tuy đã có một số khuyến khích, nhưng vẫn chưa vận động được mọi thành phần kinh
tế tham gia tích cực vào phát triển công nghiệp chế biến.
- Công tác đào tạo cán bộ quản lý, cán bộ công nhân kỹ thuật cho công nghiệp chế biến chưa tương
xứng và đồng bộ với quy mô và tốc độ phát triển. Công tác nghiên cứu thiếu tập trung, đặc biệt là việc nghiên
cứu về giống để có vùng nguyên liệu năng suất cao, chất lượng tốt phục vụ cho chế biến còn bị xem nhẹ.
Định hướng phát triển:
Trong quá trình phát triển kinh tế của đất nước, ngành chế biến nông-lâm-thuỷ sản được xác định là
có lợi thế cạnh trạnh hàng đầu trong các ngành công nghiệp cả nước.
Trong quá trình hội nhập với nền kinh tế thế giới và khu vực, ngành công nghiệp nói chung và ngành
chế biến nông-lâm-thuỷ sản của nước ta có điều kiện thuận lợi để tranh thủ sự giúp đỡ và học tập kinh
nghiệm từ các nước trong việc lựa chọn các bước đi thích hợp, trên con đường công nghiệp hóa, hiện đại hóa.
Sự phát triển vượt bậc của ngành Nông nghiệp Việt Nam trong thời gian qua đã tạo điều kiện quan trọng về
nông sản hàng hóa cho tiêu dùng, xuất khẩu và phục vụ cho ngành chế biến nông-lâm-thuỷ sản. Nhiều chủ
trương của Đảng và Nhà nước được ban hành và thực hiện có kết quả, đang tiếp tục được hoàn thiện, sẽ tạo
điều kiện thuận lợi cho hoạt động sản xuất công nghiệp nói chung, trong đó có ngành chế biến nông-lâm-thuỷ
sản. Lực lượng lao động dồi dào, trình độ học vấn trương đối khá, cần cù, chịu khó và có khả năng tốt trong
tiếp thu chuyển giao công nghệ, nhất là lao động đã qua đào tạo… Đó là những tiềm năng to lớn cho phát
triển kinh tế nói chung và phát triển chế biến nông-lâm-thuỷ sản nói riêng.
Để khai thác triệt để và phát huy những tiềm năng vốn có của ngành Công nghiệp chế biến nông, lâm,
thủy sản, Ngành cần tập trung phát triển theo những định hướng chủ yếu sau:
- Tập trung phát triển công nghiệp chế biến nông - lâm - thủy sản - và thực phẩm đồ uống vào những
ngành có lợi thế cạnh tranh và nguồn nguyên liệu dồi dào của nền nông - lâm - ngư nghiệp nhiệt đới, sản
phẩm có thị trường tiêu thụ lớn trong nước và xuất khẩu.
- Nhanh chóng giảm dần các sản phẩm sơ chế, tích cực nhập khẩu, đầu tư các công nghệ chế biến sâu
để chế biến ra những sản phẩm tiêu dùng cuối cùng, nhằm tăng nhanh giá trị của hàng hóa tiêu dùng trong
nước và xuất khẩu.
- Phát triển chế biến gắn với chuyển dịch cơ cấu cây trồng, vật nuôi, giải quyết nguồn nhân lực dư
thừa ở khu vực nông thôn, phù hợp với quá trình công nghiệp hoá, hiện đại hoá nông nghiệp, nông thôn.

- Phát triển công nghiệp chế biến nông - lâm - thủy sản - thực phẩm trên cơ sở quy hoạch chung của
quốc gia, với phương châm phát triển công nghiệp chế biến phải gắn liền với phát triển vùng nguyên liệu,
gắn liền với việc CNH phát triển nông thôn, nhanh chóng thu hẹp khoảng cách chênh lệch giữa thành thị và
nông thôn.
- Huy động mọi nguồn lực để phát triển công nghiệp chế biến, trong đó thành phần kinh tế quốc doanh
nắm vai trò chi phối.

17


- Đa dạng hóa về quy mô và loại hình sản xuất, song song với xây dựng các cơ sở chế biến tập trung
tại các vùng nguyên liệu lớn, đồng thời khuyến khích phát triển tiểu thủ công nghiệp, làng nghề truyền thống
và công nghiệp gia đình...
- Đi đôi với phát triển công nghiệp chế biến, cần quan tâm bảo vệ môi trường sinh thái để đảm bảo
cho công nghiệp chế biến phát triển bền vững và hiệu quả.
Căn cứ nhu cầu thị trường trong nước và quốc tế, kết hợp với năng lực hiện có và kế hoạch đầu tư mới
trong các phân ngành chế biến nông-lâm-thuỷ sản, mục tiêu phát triển một số sản phẩm chính của ngành chế
biến nông-lâm-thuỷ sản được đặt ra là:
Về xuất khẩu: Phấn đấu đến năm 2005, kim ngạch xuất khẩu nông - lâm sản chế biến đạt từ 5 - 6 tỷ
USD, tỷ trọng chiếm khoảng 30% tổng kim ngạch xuất khẩu cả nước.
Trên cơ sở các dự báo và mục tiêu phát triển đã nêu trên, căn cứ vào điều kiện phát triển của từng
vùng kinh tế, có thể định hướng phát triển CB NLTS trên các vùng như sau:
- Vùng 1 (Vùng núi phía Bắc): Chủ yếu sản xuất và chế biến chè, cà phê, rau quả, giấy, thuốc lá.
- Vùng 2 (Đồng bằng Bắc bộ và Bắc Trung bộ): Chủ yếu là chế biến thịt xuất khẩu, rau quả, gạo, chè,
mía đường, sữa, dầu thực vật, giấy...
- Vùng 3 (Duyên hải miền Trung): Chủ yếu là mía đường, chế biến gỗ, điều, thuỷ sản...
- Vùng 4 (Tây Nguyên): Chủ yếu là sản xuất chế biến cà phê, cao su, điều...
- Vùng 5 ( Đông Nam bộ): Tập trung vào chế biến mủ cao su, giấy, thịt, dầu thực vật, điều, gạo...
- Vùng 6 (Đồng bằng Sông Cửu Long): Chủ yếu là chế biến gạo, thuỷ sản, mía đường, dầu thực vật...
Một số giải pháp nhằm nâng cao khả năng cạnh tranh, phát triển các ngành công nghiệp chế biến

Để đạt được các mục tiêu trên, một số giải pháp chính được đề xuất là:
- Quy hoạch và xây dựng các vùng nguyên liệu tập trung
- Quy hoạch từng ngành và từng vùng phát triển công nghiệp chế biến phải gắn liền với vùng nguyên
liệu.
- Tiếp tục hình thành các vùng sản xuất nông nghiệp tập trung quy mô lớn, phục vụ cho công nghiệp
chế biến và xuất khẩu như:
+ Các vùng tập trung trồng lúa xuất khẩu ở đồng bằng Sông Cửu Long và đồng bằng Sông Hồng với
tổng diện tích khoảng 1,3 triệu ha, để hàng năm sản xuất ra khoảng 70% lượng gạo xuất khẩu chất lượng cao.
+ Các vùng cà phê thâm canh cao ở Tây Nguyên, miền núi phía Bắc; các vùng chè xuất khẩu, nhất là
vùng chè ở độ cao trên 1.000 mét để chế biến chè xanh đặc sản. Vùng sản xuất tập trung cây ăn quả đặc sản,
vùng rau và chăn nuôi xuất khẩu...
- Việc quy hoạch xây dựng các vùng nguyên liệu tập trung gắn với việc xây dựng cơ sở chế biến công
nghiệp phải đáp ứng yêu cầu:
+ Có điều kiện sinh thái thích hợp với sinh trưởng cây trồng, vật nuôi; diện tích, sản lượng phải đáp
ứng đủ cho các nhà máy hoạt động liên tục trong thời gian chế biến quy định.
Chọn lọc giống tốt cho sản phẩm có năng suất cao, chất lượng tốt, đồng đều theo nhu cầu thị trường
xuất khẩu và yêu cầu của chế biến nông-lâm-thuỷ sản.
+ Hướng dẫn nông dân kỹ thuật thu hái, sơ chế, bảo quản, vận chuyển để không làm tổn thất về số
lượng cũng như chất lượng nông - lâm - thủy sản phục vụ chế biến.
+ Tổ chức tốt việc thu mua nguyên liệu. Tiếp tục đẩy mạnh thực hiện Quyết định số 80/QĐ-TTg ngày
24/6/2002 của Thủ tướng Chính phủ về chính sách tiêu thụ nông sản hàng hoá thông qua hợp đồng. Tạo mối
liên hệ giữa nông dân, ngư dân và công nhân nhà máy, giữa nuôi trồng, đánh bắt và chế biến trong các tổ
chức hợp tác, nhằm điều hòa lợi ích hợp lý giữa các phía, khuyến khích người sản xuất nguyên liệu góp vốn
(hoặc đóng cổ phần) với nhà máy.
- Tiếp tục đổi mới về tổ chức quản lý trong chế biến nông - lâm - thủy sản - thực phẩm
+ Nghiên cứu việc chuyển đổi các cơ sở chế biến gắn liền với sản xuất nguyên liệu và thị trường thành

18



một tổ chức quản lý. Phát triển các loại hình doanh nghiệp và các tổ chức khác nhau để liên kết giữa người
sản xuất nguyên liệu với nhà máy chế biến như công ty cổ phần, xí nghiệp hợp tác, hiệp hội...
+ Củng cố, tăng cường lực lượng và cơ sở vật chất cho bộ máy quản lý chế biến nông - lâm sản tại các
tỉnh, các vùng làm nhiệm vụ chuyển giao công nghệ, tư vấn, thị trường, hỗ trợ tiêu thụ sản phẩm, huấn luyện
đào tạo. Mỗi tỉnh có từ 1 - 2 trung tâm, toàn quốc có khoảng 70 trung tâm.
+ Các địa phương có kế hoạch cụ thể về công nghiệp hoá, hiện đại hoá nông nghiệp và phát triển nông
thôn, thông qua chương trình chế biến nông - lâm - thuỷ sản, xây dựng các khu công nghiệp chế biến tập
trung để tận dụng cơ sở hạ tầng, tiết kiệm đầu tư, đa dạng hóa sản phẩm... Từ đó hình thành các liên hiệp sản
xuất hoặc các Tổng công ty sản xuất, kinh doanh thực sự có mối quan hệ hữu cơ và đem lại hiệu quả.
- Đầu tư phát triển cơ sở chế tạo thiết bị phục vụ công nghiệp chế biến
+ Xây dựng lực lượng tư vấn, thiết kế và chế tạo đủ năng lực thực hiện các dự án xây dựng các nhà
máy chế biến nông - lâm sản.
+ Mỗi nhà máy chế biến phải có xưởng cơ khí để sửa chữa, bảo dưỡng máy thường xuyên, định kỳ.
+ Tổ chức các lực lượng cơ khí chế tạo theo nguyên tắc chuyên môn hóa, hợp tác hóa, liên doanh hợp
tác với nước ngoài để từng bước chế tạo từng phần, tiến tới chế tạo toàn bộ các dây chuyền thiết bị cho các
ngành chế biến nông - lâm sản chủ yếu. Trước hết là dây chuyền thiết bị cỡ nhỏ và vừa để phục vụ mục tiêu
CNH nông nghiệp và nông thôn nói chung.
- Xây dựng các cụm công nghiệp, làng nghề phục vụ sơ chế, tinh chế nông - lâm - thủy sản.
+ Đẩy mạnh đầu tư các cơ sở chế biến quy mô phù hợp, phát triển một số ngành nghề phục vụ sơ chế,
tinh chế nông-lâm-thuỷ sản có trên địa bàn.
+ Phục hồi, duy trì và phát triển các ngành nghề truyền thống, nhất là trong lĩnh vực thủ công mỹ nghệ
xuất khẩu, tận dụng nguồn nguyên liệu ở địa phương (mây tre đan, thêu ren, chạm khắc mỹ nghệ...).
+ Phát triển thị trường và dịch vụ ở nông thôn.
- Huy động mọi nguồn vốn, mọi thành phần kinh tế trong nước và nước ngoài tham gia chế biến nônglâm- thuỷ sản.
+ Cần đề ra chính sách để các doanh nghiệp nhà nước, nhất là các Tổng công ty nhà nước, phát triển
đầu tư về các vùng nông thôn nhằm phát triển ngành chế biến nông-lâm-thuỷ sản.
+ Nhà nước hỗ trợ tích cực và có hiệu quả cho phát triển kinh tế tập thể và kinh tế tư nhân để góp
phần ngày càng nhiều vào việc chuyển dịch cơ cấu kinh tế ở khu vực nông thôn, góp phần thực hiện chuyển
dịch cơ cấu kinh tế cả nước.
- Một số giải pháp khác

+ Phát huy vai trò của các hiệp hội ngành hàng trong việc khai thác các thị trường mới; điều hoà sản
xuất, kinh doanh giữa các thành viên, tránh gây khủng hoảng thừa, thiếu, sốt giá.
+ Đẩy mạnh công tác xúc tiến thương mại, thông qua việc cung cấp đầy đủ, kịp thời cho nông dân,
ngư dân, các doanh nghiệp và các hiệp hội ngành hàng những thông tin về thị trường, pháp luật, tập quán
kinh doanh ở các nước và các tổ chức quốc tế. Đồng thời hỗ trợ doanh nghiệp thiết lập quan hệ, tìm hiểu thị
trường, thực hiện các hoạt động xúc tiến thương mại, đầu tư, khoa học, công nghệ và đào tạo với các đối tác
nước ngoài.

19


Tài liệu tham khảo:
1.Giáo trình Kinh tế Nông nghiệp, NXB Đại học Kinh tế Quốc dân Hà Nội-2006
2.Giáo trình Quản trị Kinh doanh nông nghiệp, NXB Lao động- Xã hội Hà Nội-2005
3.Giáo trình Kinh tế Nông thôn, NXB Thống kê-2002
4.Giáo trình Phân tích Chính sách nông nghiệp nông thôn, NXB Đại học Kinh tế Quốc dân-2007
5.Tạp chí Nông nghiệp và phát triển nông thôn
6.Tạp chí Kinh tế và Phát triển
7.Tạp chí Hoạt động khoa học
8.Tạp chí Công nghiệp, tháng 9/2003 và tháng10/2006
9.Báo điện tử Công nghiệp và tiếp thị, tháng10/2005
10.
Báo Nhân dân – Báo Quân đội nhân dân, ngày 03/10/2007
11.
Tạp chí Cộng sản điện tử, Số 12 (132) năm 2007
12.
Tạp chí Khoa học công nghệ
13.
Website Bộ kế hoạch và đầu tư, ngày 25 tháng 9 năm 2007
14.

Website: Điểm bưu điện văn hoá xã, ngày 16/09/2007

20



×