Tải bản đầy đủ (.doc) (38 trang)

Tiểu luận một số giải pháp nhằm thúc đẩy xuất khẩu thuỷ sản vào thị trường EU

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (292.55 KB, 38 trang )

ĐỀ ÁN MÔN HỌC

LỜI NÓI ĐẦU
Đất nước ta được thiên nhiên ưu đãi có một mạng lưới sông ngòi dày
đặc và một bờ biển dài với những loài thuỷ sản phong phú và có giá trị cao.
Chính vì vậy mà ngành thuỷ sản xuất khẩu của nước ta rất phát triển, mỗi
năm đóng góp rất lớn cho nền kinh tế. Do đó, thị trường xuất khẩu là một
vấn đề rất quan trọng, ảnh hưởng rất lớn tới kim ngạch xuất khẩu của
ngành. Trong các thị trường xuất khẩu, EU là một thị trường rất tiềm năng
với kim ngạch xuất khẩu thuỷ sản của Việt Nam hằng năm chỉ đứng thứ hai
sau thị trường Nhật Bản. Nhưng hiện nay, xuất khẩu sang thị trường EU
đang gặp rất nhiều khó khăn do EU là một thị trường khó tính, đòi hỏi cao
về chất lượng, mà vấn đề này đang là một thách thức đối với các doanh
nghiệp xuất khẩu của Việt Nam. Do vậy em đã chọn đề tài “Một số giải
pháp nhằm thúc đẩy xuất khẩu thuỷ sản vào thị trường EU” làm đề tài
cho đề án của mình.
Đề tài gồm 3 chương:
Chương I: Tổng quan về xuất khẩu thuỷ sản của Việt Nam.
Chương II: Thực trạng xuất khẩu thuỷ sản của Việt Nam sang thị trường
EU
Chương III: Một số giải pháp thúc đẩy xuất khẩu thuỷ sản của Việt Nam
sang thị trường EU.

1


ĐỀ ÁN MÔN HỌC

Chương I: TỔNG QUAN VỀ XUẤT KHẨU THUỶ SẢN
CỦA VIỆT NAM
I. Đặc điểm hàng thuỷ sản và xu hướng tiêu dùng của thế giới


1. Đặc điểm hàng thuỷ sản
Thuỷ sản là nguồn thực phẩm quan trọng đối với cuộc sống của
chúng ta bởi hàng thuỷ sản có những đặc điểm sau:
Hàng thuỷ sản được ưa chuộng: Đối với thế giới nói chung và Việt
Nam nói riêng, hàng thuỷ sản là một trong những mặt hàng thực phẩm
được ưa thích tiêu dùng. Ngành thuỷ sản cung cấp những sản phẩm quý
cho tiêu dùng dân cư, là nguyên liệu để phát triển các ngành khác như công
nghiệp chế biến,… Mặt khác, theo kết quả nghiên cứu của các chuyên gia
đã khẳng định: hầu hết các loại sản phẩm thuỷ sản đều là các loại thực
phẩm dễ tiêu hoá, giàu chất đạm, phù hợp với mọi lứa tuổi, ít gây bệnh về
tim mạch, béo phì và ung thư. Về thành phần dinh dưỡng, so với các loại
sản phẩm hàng thuỷ sản có ít chất mỡ, nhiều chất khoáng và chất đạm cũng
cao.
thịt bò
đạm
16,2– 19,2%
mỡ
11 – 28%
chất khoáng 0,8 – 1,0%

Cá thu
18,6%
0,4%
1,2%

Cá mối
16,4%
1,6 – 2,3%
1,2%


Cá Hồng
11,8%
5,9%
1,4%

Hàng thuỷ sản có giá trị xuất khẩu cao: các mặt hàng thuỷ sản, đặc
biệt là sản phẩm đã được chế biến có giá bán cao hơn hàng tươi sống và sơ
chế, đem lại giá trị gia tăng cho các nhà xuất khẩu nhờ vào chất lượng cao
và phù hợp với thị hiếu đa dạng, phong phú của người tiêu dùng trong nước
cũng như thế giới, có ưu thế là giải quyết được nhiều vấn đề về việc làm,
đồng thời thu được nguồn ngoại tệ đáng kể cho đất nước, đặc biệt đối với
các nước có khí hậu nhiệt đới ẩm với mạng lưới sông ngòi dày đặc như

2


ĐỀ ÁN MÔN HỌC
Việt Nam. Như vậy, thúc đẩy xuất khẩu hàng thuỷ sản sẽ có những đóng
góp quan trọng vào sự tăng trưởng của toàn ngành nông, ngư nhiệp.
Quá trình sản xuất hàng thuỷ sản phải gắn liền với khâu chế biến và
hàng tiêu thụ: thuỷ sản là hàng tươi sống, trong thời gian ngắn nhanh hư
hỏng, như vậy cần bảo quản tốt việc sơ chế và chế biến. Như vậy, các
thuyền đánh bắt xa bờ phải trang bị công nghệ hiện đại phù hợp với hàng
thuỷ sản để đảm bảo độ tươi của hàng thuỷ sản thực sự là vấn đề cấp bách
để hàng thuỷ sản có đủ điều kiện xuất khẩu, đảm bảo chất lượng và vệ sinh
an toàn thực phẩm cho hàng xuất khẩu.
Việc khai thác và nuôi trồng thuỷ sản phân tán: việc điều kiện địa lý,
khí hậu phù hợp, tiềm năng về biển. Việt Nam có 3260 km bờ biển từ
Móng Cái đến Hà Tiên, trải qua 13 vĩ độ, từ 8 o23' bắc đến 21o39' bắc. Diện
tích vùng nội thuỷ và lãnh hải của Việt Nam rộng 226.000 km 2, độ sâu

trung bình 1.140 m và vùng biển đặc quyền kinh tế trên 1 triệu km 2, rộng
gấp 3 lần diện tích đất liền. Việt Nam còn có một mạng lưới sông ngòi dày
đặc trong đất liền và ngoài bờ biển có trên 4000 hòn đảo lớn nhỏ trong đó
có những hòn đảo có nhiều dân cư như Vân Đồn, Cát Bà, Phú Quốc... Bên
cạnh đó khí hậu của Việt Nam là khí hậu nhiệt đới, ẩm ướt quanh năm
thích hợp cho nhiều nguồn sinh vật nói chung và nhiều loài thủy sản nói
riêng tồn tại và phát triển. Vì vậy, nhà nước cần quan tâm đến việc xây
dựng và thực hiện việc quy hoạch phát triển ngành thuỷ sản từ khâu khai
thác, nuôi trồng, khai thác đến việc chế biến và tiêu thụ, kể cả tiêu thụ trong
nước và xuất khẩu.
Sản phẩm thuỷ sản có tính thời vụ: tính thời vụ là đặc trưng của việc
nuôi trồng thuỷ sản, bởi nước ta nằm trong vành đai nhiệt đới Bắc bán cầu
và chịu ảnh hưởng của gió mùa châu Á, nên về mùa đông, nhiệt độ trung
bình tháng lạnh nhất ở Bắc Bộ từ 13 – 17 oC, ở Nam Bộ nhiệt độ từ 25 –
27oC. Ngược lại trong thời kỳ gió mùa xích đạo, nhiệt độ cao và phân bổ

3


ĐỀ ÁN MÔN HỌC
đồng đều trong cả nước. Biên độ nhiệt trong năm chênh lệch nhiều giữa hai
miền Nam - Bắc, ảnh hưởng nhiều đến việc nuôi trồng thuỷ sản và đánh bắt
thuỷ hải sản. Vì thế mùa đông lạnh của miền Bắc không thể nuôi trồng thuỷ
sản nên hàng trái vụ thì giá cao còn hàng chính vụ không tiêu thụ được do
đặc điểm của khâu chế biến thuỷ sản đánh bắt được phải chế biến nhanh.
2. Xu hướng tiêu dùng của thế giới
Thuỷ sản được đánh giá là nguồn thực phẩm quan trọng đối với con
người. Hàng thuỷ sản chứa nhiều khoáng chất và ít lượng chất béo, rất tốt
cho sức khoẻ. Ngày nay, trước sự bận rộn của công việc và vai trò ngoài xã
hội, việc giảm thời gian dành cho nấu nướng là xu hướng tất yếu của người

phụ nữ. Xu hướng tiêu thụ hiện nay là loại thực phẩm không tốn nhiều thời
gian chế biến. Thuỷ sản cũng là một trong các sản phẩm đó. Thuỷ sản tươi
sống rất dễ bị hư hỏng và thời gian bảo quản cũng không dài, gây bất lợi
cho xuất khẩu. Bên cạnh đó, việc chế biến thuỷ sản tươi sống mất rất nhiều
thời gian, không còn phù hợp với những người quá bận rộn. Rất nhiều
người nội trợ đã chọn mua những loại thực phẩm chế biến sẵn. Hiện nay,
chỉ tính riêng mặt hàng mực, tính sơ sơ đã có: mực hấp, mực cắt khoanh,
râu mực, mực ống nguyên con, mực nhồi thịt, chả mực thìa là... Ngay như
cá, nếu trước kia các nhà sản xuất thường để cả con, bán cân, thì nay cá
được cắt thành từng khúc, chế biến theo nhu cầu, mục đích của người mua,
như các loại: đầu cá hồi làm sạch, basa cắt khúc, basa filê, basa cuộn lá
chanh, basa kho tộ, điêu hồng filê, cá thu cắt khúc…
Do quá trình công nghiệp hoá - hiện đại hoá con người luôn tất bật
với công việc nên thời gian vào bếp rất ít, cộng với việc thuỷ sản dễ bị hư
hỏng. Vì vậy xu hướng tiêu dùng hàng thuỷ sản đã chế biến tăng lên. Chính
việc đưa ra nhiều mặt hàng tiện dụng có giá trị gia tăng cao, giúp cho người
phụ nữ ngày nay bớt dần áp lực, vất vả trong việc bếp núc, đang và sẽ tạo
nên nhu cầu tiêu thụ rất lớn.

4


ĐỀ ÁN MÔN HỌC
Các doanh nghiệp hiện nay cũng đang chuyển sang chế biến sẵn các
mặt hàng thuỷ sản phục vụ cho người tiêu dùng. Chỉ tính với Việt Nam thị
trường thực phẩm chế biến, sơ chế vài năm gần đây đang có tốc độ phát
triển từ 20- 40% mỗi năm. Do vậy ngành công nghiệp chế biến lại có cơ
hội phát triển, giải quyết được nhiều vấn đề về lao động, tận dụng được hết
giá trị sử dụng của mặt hàng, lợi nhuận cao.
Bên cạnh việc xu hướng tiêu dùng các loại sản phẩm chế biến sẵn,

người tiêu cùng cũng có xu hướng mua các loại sản phẩm đã qua sơ chế
như các loại cắt khúc, mực làm sẵn để giảm thời gian vào bếp. Chính vì
vậy các loại thuỷ sản đã qua sơ chế cũng rất được ưa chuộng.
Các loại thuỷ sản có mùi vị trung tính, dễ dàng kết hợp với các món
ăn khác cũng được tiêu thụ nhiều như các loại tôm, các động vật thân mềm.
II. Xuất khẩu thuỷ sản và cơ cấu sản phẩm thuỷ sản xuất khẩu
của Việt Nam
1. Hoạt động xuất khẩu thuỷ sản
• Đặc điểm của thị trường sản phẩm thuỷ sản
- Là một thị trường đa dạng và đa cấp thị trường
Thuỷ sản là một ngành sản xuất nông nghiệp chuyên môn hoá hẹp,
sản xuất nhiều loại thuỷ sản như: các loại cá, tôm các loại, nhuyễn thể các
loại và các loại thuỷ hải sản. Mặt khác, nhờ môi trường điều kiện rất thuận
lợi cho việc phát triển ngành thuỷ sản với nhiều loại phong phú trên các
thuỷ vực nước ngọt, nước lợ, nước mặn bao gồm cả việc nuôi trồng, khai
thác và đánh bắt. Các loại sản phẩm thuỷ sản đa dạng về số lượng cũng như
hình thức chế biến.
-

Cũng giống như các thị trường hàng hoá khác, thị trường thuỷ sản

bao gồm nhiều cấp: cấp cơ sở, cấp địa phương, cấp trong nước và cấp nước
ngoài.

5


ĐỀ ÁN MÔN HỌC
-


Thị trường sản phẩm thuỷ sản xuất khẩu nước ta những năm gần đây

rất phát triển và sôi động. Các sản phẩm thuỷ sản chiếm được vị thế cao
trên thị trường thế giới, nhất là EU, Mỹ, Nhật… và kim ngạch tăng liên tục.
Như vậy thuỷ sản của Việt Nam có vị thế khá cao trong thương mại thuỷ
sản thế giới. Tuy nhiên, bên cạnh việc tạo được chỗ đứng trên các thị
trường tiềm năng thì thuỷ sản xuất khẩu Việt Nam cũng gặp phải rất nhiều
khó khăn mà khó khăn lớn nhất là đáp ứng được chất lượng của sản phẩm
khi xuất khẩu. Thị trường Nhật Bản và EU là hai thị trường khó tính nhất
của thuỷ sản Việt Nam. Đối với thị trường EU, tỷ lệ Thị trường sản phẩm
thuỷ sản nước ta vừa mang tính phân tán rộng lại vừa có tính tập trung quy
mô lớn.
-

Thị trường sản phẩm thuỷ sản phát triển không đồng đều giữa các

vùng và giữa các khu vực trong cả nước.
-

Quan hệ cung - cầu sản phẩm thuỷ sản trên thị trường từng bước ổn

định hơn.
2. Cơ cấu sản phẩm thuỷ sản xuất khẩu

(nguồn: trung tâm tin học, Bộ Thuỷ Sản)

6


ĐỀ ÁN MÔN HỌC

Từ nhiều năm nay, các mặt hàng thủy sản xuất khẩu chủ lực của Việt
Nam vẫn là tôm, cá tra, cá biển, nhuyễn thể, các loại thủy sản đông lạnh và
các loại thủy sản khô. Cơ cấu các mặt hàng xuất khẩu của nước ta ngày
càng bổ sung thêm các mặt hàng có giá trị như cá ngừ, nghêu và một số đặc
sản khác.
Con tôm đang được phát triển nuôi rất rầm rộ trên toàn thế giới, sản
lượng tôm ngày càng tăng, đến nay theo ước tính có thể đạt gần 3 triệu tấn,
thỏa mãn tương đối tốt nhu cầu tiêu thụ chung của thế giới.
Trong bối cảnh nguồn cung dồi dào, con tôm có thể nói là mặt hàng
cạnh tranh gay gắt nhất trong các mặt hàng thuỷ sản thương mại trên thế
giới, con tôm Việt Nam đã phải nỗ lực rất nhiều để duy trì tiềm năng xuất
khẩu. 9 tháng đầu năm 2007, xuất khẩu tôm đạt gần 112 nghìn tấn, trị giá
trên 1,067 tỷ USD, chỉ tăng rất nhẹ 1,2% về giá trị so với cùng kỳ năm
2006. Xuất khẩu tôm vẫn giữ vị trí là mặt hàng xuất khẩu số một, chiếm
39,4% tổng giá trị xuất khẩu thuỷ sản của nước ta. Xuất khẩu tôm tăng
trưởng nhẹ là kết quả của nhiều yếu tố như sản lượng tôm nguyên liệu
trong nước không tăng, giá tôm nguyên liệu luôn giữ mức cao so với nhiều
nước sản xuất tôm trong khu vực và giá thành sản xuất nói chung tăng. Xu
hướng của nhiều doanh nghiệp chế biến hiện nay là tăng tỷ trọng sản phẩm
tôm giá trị gia tăng, phù hợp với nhu cầu của các thị trường lớn như Nhật
và Mỹ.
Vị trí mặt hàng xuất khẩu lớn thứ 2 là cá tra. Mấy năm gần đây con
cá tra thể hiện rõ tiềm năng to lớn trên vùng sông nước Đồng bằng sông
Cửu Long, tạo nên sức tăng trưởng nhảy vọt của xuất khẩu thủy sản Việt
Nam. 9 tháng đầu năm 2007, xuất khẩu cá tra đạt trên 272,7 nghìn tấn, trị
giá trên trên 709 triệu USD, tăng khá mạnh 37,2 % về giá trị so với cùng kỳ
năm 2006. xuất khẩu cá tra chiếm 26,2% tổng giá trị xuất khẩu thuỷ sản.
Hiện nay, EU, Đông Âu và một số nước Bắc Mỹ vẫn có nhu cầu cao đối

7



ĐỀ ÁN MÔN HỌC
với philê cá tra đông lạnh, đây là sự thay thế thích hợp cho philê cá thịt
trắng hiện đang sụt giảm dần sản lượng trên phạm vi toàn thế giới. Vì vậy,
kết hợp với tiềm năng công suất nuôi đang tăng mạnh trong nước, giá
nguyên liệu đang ở mức vừa hợp lý, xuất khẩu cá tra sẽ tiếp tục lập kỷ lục
mới trong những năm tiếp theo.
Xuất khẩu cá ngừ cũng đạt được tiến bộ lớn, đạt trên 39,2 nghìn tấn,
trị giá trên trên 111 triệu USD, với sức tăng trưởng khá cao 27,8% so với
cùng kỳ năm 2006. Đơn giá của cá ngừ đại dương khá cao, vì vậy đây cũng
là đối tượng sản phẩm thu hút sự đầu tư phát triển của các ngư dân và
doanh nghiệp chế biến xuất khẩu.
Một điểm đáng chú ý và lạc quan trong tình hình thuỷ sản xuất khẩu
của Việt Nam là mặt hàng mực và bạch tuộc đông lạnh đạt mức tăng
trưởng có thể nói là cao nhất trong mấy năm gần đây với 35,5% cao hơn về
giá trị so với cùng năm ngoái, đạt 60,4 nghìn tấn, trị giá 205,5 triệu USD,
chiếm 7,7% tổng xuất khẩu thuỷ sản của nước ta. Xuất khẩu mặt hàng này
đạt được kết quả khả quan một phần là nhờ sản lượng khai thác trong vài
năm gần đây đã cải thiện lên khá nhiều.
Xuất khẩu cá các loại là mảng hàng hóa quan trọng luôn giữ mức
tăng trưởng khá. Tính đến tháng 9 năm 2007, xuất khẩu cá đạt trên 85
nghìn tấn, trị giá gần 249,1 triệu USD, tăng 17,3% về giá trị so với cùng kỳ
năm 2006. Dự đoán, xuất khẩu cá các loại sẽ tiếp tục nhịp độ tiến triển như
trong thời gian qua.
Bên cạnh các mặt hàng chủ lực, xuất khẩu hàng khô và hải sản khác
chỉ tăng ở mức khiêm tốn về giá trị và có giảm nhẹ về khối lượng. Tuy
nhiên, tổng xuất khẩu của các mặt hàng này cũng chiếm một phần đáng kể
trong toàn bộ giá trị xuất khẩu của thuỷ sản Việt Nam với giá trị trên 365,6
triệu USD.


8


ĐỀ ÁN MÔN HỌC

Chương II: THỰC TRẠNG XUẤT KHẨU THUỶ SẢN CỦA
VIỆT NAM SANG THỊ TRƯỜNG EU
I. Thị trường thuỷ sản EU
1. Xu hướng tiêu dùng ở EU
Hiện nay EU là thị trường rộng lớn, gồm 27 quốc gia. Thị trường EU
tổng hợp nhiều đặc điểm tiêu dùng của mỗi quốc gia làm cho nhu cầu tiêu
dùng hết sức phong phú mang đặc điểm của từng vùng lãnh thổ.
• Về mặt hàng tiêu thụ
Các sản phẩm chế biến được tiêu thụ phổ biến ở EU gồm các mặt
hàng tươi, cắt khúc, luộc, tẩm bột, đóng hộp hay hun khói. Thị trường EU
chia thành hai khu vực chính: Các nước Tây Bắc Âu và các nước Địa
Trung Hải. Các nước Tây Bắc Âu ưa chuộng các loài nước lạnh (cá trích,
cá thu, cá minh thái, cá bơn, cá hồi). Khu vực Địa Trung Hải ưa chuộng
nhuyễn thể chân đầu, nhuyễn thể hai mảnh vỏ và cá tuyết. Cá ngừ, cá hồi,
cá bơn và tôm là loài thủy sản được ưa chuộng ở khắp châu Âu.


Về xu hướng tiêu thụ
EU là khu vực chủ yếu nhập khẩu ròng thủy hải sản do sản lượng sản

xuất không đáp ứng đủ nhu cầu. Tiêu thụ thủy hải sản bình quân đầu người
ở EU rất cao, đứng thứ hai thế giới sau Nhật Bản. Tổng mức tiêu thụ ở thị
trường EU mỗi năm vào khoảng 10 triệu tấn, bằng 12% tổng mức tiêu thụ
của thế giới. Tây Ban Nha, Pháp, Italia là những thị trường tiêu thụ hải sản

lớn nhất ở châu Âu.
Nếu như ở Pháp loại cá tươi và cá phi lê được bán nhiều hơn cá
nguyên con thì ở Ba Lan lại chuộng loại mặt hàng này hơn. Đặc biệt người
Pháp còn ưa chuộng các loại động vật thân mềm, đặc biệt là hến. Ở thị
trường Đức, đến 90% các sản phẩm thủy hải sản tiêu thụ lại là cá. Những
động vật có vỏ (trai, sò, tôm, cua…) lại không được tiêu thụ mạnh. Không
giống như các nước ở khu vực Địa Trung Hải, hầu hết người tiêu dùng ở
9


ĐỀ ÁN MÔN HỌC
Đức quan tâm đến những sản phẩm thủy hải sản được bảo quản và chế biến
sẵn. Ở Tây Ban Nha, cá tươi là mặt hàng tiêu thụ nhiều nhất. Tuy nhiên
động vật thân mềm, loài giáp xác (tôm, cua) và đặc biệt là mực ống cũng
được người tiêu dùng ưa chuộng. Ở Italia, phần lớn hải sản được bán dưới
dạng tươi hoặc ướp lạnh, động vật thân mềm đặc biệt phổ biến. Italia cũng
là một thị trường quan trọng đối với mực phủ, hiện nay sức tiêu thụ tôm
càng và hến có mức tăng trưởng đáng kể.
Người tiêu dùng châu Âu đang chuyển hướng mạnh sang tiêu thụ
tôm biển loại nhỏ và tôm pandan nước ấm. Xu hướng này có thể nhận thấy
ở hầu hết các nước châu Âu, ngoại trừ Đức. Hiện nay một số loài cá đang
được tiêu thụ rất mạnh ở châu Âu như cá tra, cá basa của Việt Nam và cá rô
Sông Nile với khối lượng tăng lên nhanh chóng. Những loài thủy hải sản
mới này được người tiêu dùng châu Âu ưa chuộng do có mùi vị trung tính
và giá thấp.
Hướng tới các sản phẩm có lợi cho sức khoẻ: Người tiêu dùng ngày
càng thích ứng với dạng sản phẩm an toàn. Họ thích các sản phẩm ít béo và
có giá trị dinh dưỡng cao. Thuỷ sản có hàm lượng prôtêin, các vitamin và
chất khoáng cao thích hợp cho nhu cầu này. Ngoài ra, các sản phẩm thuỷ
sản có chất lượng thường đóng vai trò chống lại các nguy cơ về sức khoẻ.

Một trong những trường hợp rõ nét nhất là dầu cá, được biết đến như axít
béo Ômega - 3 có tác dụng tích cực trong việc phòng tránh các bệnh tim
mạch. Tuy nhiên, thuỷ sản không chỉ hoàn toàn có lợi cho sức khoẻ. Chẳng
hạn, một số cảnh báo chính thức đã được đưa ra cho người tiêu dùng, đặc
biệt là phụ nữ mang thai cần phải hạn chế một số loài thuỷ sản như cá ngừ
và cá kiếm vì hàm lượng thuỷ ngân quá cao. Bên cạnh đó, việc sử dụng các
chất kháng sinh trong nuôi tôm và cá đã dẫn đến hàm lượng các chất này
trong các sản phẩm cao, ảnh hưởng xấu đến hình ảnh của thuỷ sản.

10


ĐỀ ÁN MÔN HỌC
Hướng tới sự thuận tiện: Trong những thập kỷ gần đây, thời gian
dành cho mua sắm và chế biến món ăn đã bị rút ngắn. Vai trò của phụ nữ
trong xã hội ngày càng tăng, nhiều hộ gia đình bận rộn với công việc. Vì
vậy, nhu cầu về các sản phẩm tiêu dùng và dễ chế biến sẵn cũng tăng lên.
Với xu hướng này thì các sản phẩm thuỷ sản dường như phù hợp hơn cả vì
chúng được chế biến dễ dàng và nhanh chóng. Một số dạng sản phẩm thích
nghi với xu hướng này như :
- Phi lê cá: nhiều người tiêu dùng muốn mua sản phẩm làm sẵn.
- Ðóng gói theo khẩu phần ăn: tiện lợi hơn khi chia khẩu phần.
- Ðã qua sơ chế: để giảm thời gian nấu.
- Dễ dàng chế biến và nấu: giảm thời gian nấu.
- Mùi vị trung tính: dễ dàng kết hợp với các món khác.
• Về mức tiêu thụ.
Tiêu thụ thuỷ sản theo đầu người của EU-15 rất cao với 26,3
kg/người năm 2002, cao hơn 10 kg so với mức trung bình của thế giới
(16,3 kg/người) và cao hơn mức tiêu thụ thuỷ sản bình quân ở Mỹ (21,3
kg /người), Song tiêu thụ thuỷ sản của các nước trong khối EU rất khác

nhau. Các nước vùng Ðịa Trung Hải và Xcăngđinavơ là những nước tiêu
thụ thuỷ sản chính. Tây Ban Nha và đặc biệt là Bồ Ðào Nha có mức tiêu
thụ theo đầu người cao nhất. Tây Ban Nha là nước đông dân cư và cũng là
một thị trường quan trọng đối với các sản phẩm thuỷ sản. Tiêu thụ thuỷ sản
ở Pháp đạt trên mức trung bình của EU, đứng sau Tây Ban Nha. Ðức và Áo
là hai nước xếp sau cùng về mức tiêu thụ thuỷ sản với 14,9 kg và 14,7 kg.
Các nước khu vực trung tâm châu Âu có truyền thống tiêu thụ ít thuỷ sản
hơn.
Đối với yếu tố giá: khoảng 2 năm trở lại đây, một số nước (Hà Lan,
Anh và Pháp) đã trải qua thời kỳ gọi là chiến tranh về giá giữa các nhà bán
lẻ. Ðức luôn được xem là thị trường quan tâm tới giá cả. Giá cả tăng khiến
11


ĐỀ ÁN MÔN HỌC
người tiêu dùng chuyển sang tiêu thụ các sản phẩm có giá thấp hơn. Trong
môi trường cạnh tranh, nhu cầu cho các sản phẩm đơn giản và giá rẻ được
thể hiện rõ nét và thành công của các sản phẩm cá vược sông Nile, cá rô
phi và cá tra, ba sa của Việt Nam. Những loài này thường có giá rất hấp
dẫn
Bên cạnh đó, người tiêu dùng EU có xu hướng tiêu dùng có trách
nhiệm với xã hội: Với tư cách là những công dân, người tiêu dùng ở những
nước châu Âu thể hiện mối quan tâm của mình về các hoạt động liên quan
đến môi trường và xã hội của các công ty sản xuất thực phẩm. Những
người này thường thúc ép chính phủ và các công ty quan tâm đến các vấn
đề này. Một số vấn đề họ quan tâm đến nhiều nhất là:
- Sự khai thác quá mức các ngư trường, sự suy thoái trữ lượng thuỷ
sản và sự cạnh tranh giữa các hoạt động khai thác và bảo tồn
thiên nhiên.
- Các vấn đề về vệ sinh và môi trường khi nuôi như sử dụng kháng

sinh, ô nhiễm nguồn nước, sử dụng cá làm thức ăn động vật.
- Các khía cạnh xã hội trong nuôi trồng và khai thác như vấn đề về
giới, vị thế của các nhà sản xuất thủ công.
• Phân đoạn thị trường
Trên thị trường EU hình thành 3 nhóm tiêu dùng chính. Nhóm có
khả năng thanh toán cao chiếm 20% dân số nên xu hướng tiêu dùng của
nhóm này là thích những hàng hoá có chất lượng tốt, hiếm. nhóm có khả
năng thanh toán trung bình chiếm 68% dân số nên xu hướng tiêu dùng
những sản phẩm có chất lượng thấp hơn. Nhóm còn lại có khả năng thanh
toán thấp nên xu hướng tiêu thụ những mặt hàng có chất lượng thấp nhất.
Bên cạnh đó, Thị trường thuỷ sản châu Âu được phân chia thành 3 vùng
chính: Bắc Âu bao gồm Anh, các nước vùng Xcăngđinavơ và Hà Lan;
Trung Âu bao gồm Ðức, áo, Ba Lan và Cộng hoà Séc; và các nước vùng
12


ĐỀ ÁN MÔN HỌC
Ðịa Trung Hải. ở khu vực Bắc Âu, người tiêu dùng thích các loài thuỷ sản
nước lạnh như cá trích, cá ngừ, cá tuyết, cá hồi trong khi đó cá melúc, mực,
bạch tuộc và nhiều loài giáp xác khác được ưa chuộng hơn cả ở khu vực
Ðịa Trung Hải. Ðộ tuổi của người tiêu dùng cũng là một yếu tố quan trọng
trong hành vi mua bán các sản phẩm thuỷ sản. ở nhiều nước châu Âu,
những người ở độ tuổi trên 50 tiêu thụ thuỷ sản nhiều nhất. Nhóm người
này cũng mua nhiều sản phẩm tươi và nguyên con hơn so với nhóm người
trẻ tuổi hơn.
II. Thực trạng xuất khẩu thuỷ sản của Việt Nam vào thị trường
EU
1. Thực trạng xuất khẩu thuỷ sản của Việt Nam vào thị
trường EU
Từ năm 1996 – 1999, kim ngạch xuất khẩu thủy sản của Việt Nam

sang EU tăng rất nhanh với tốc độ trung bình hàng năm 54,92%. Theo số
liệu thống kê của EU, năm 1996 kim ngạch nhập khẩu thuỷ sản từ Việt
Nam đạt 26,9 triệu USD, năm 1997 - 65,0 triệu USD, năm 1998 tăng lên
92,5 triệu USD. Theo số liệu thống kê của Trung tâm Tin học Bộ Thuỷ sản,
kim ngạch xuất khẩu thủy sản của Việt Nam sang EU năm 1999 đạt 89,1
triệu. Trong những năm 2000 – 2002, hoạt động xuất khẩu bị chững lại và
có xu hướng giảm sút, sau khi EU tăng cường kiểm tra dư lượng các chất
kháng sinh và hạ thấp ngưỡng phát hiện dư lượng các chất này trong sản
phẩm. Nhờ những nỗ lực khắc phục của các cơ quan quản lý, nhờ sự nỗ lực
cải tiến và quản lý chất lượng, quy trình và điều kiện sản xuất thuỷ sản của
các doanh nghiệp và nông ngư dân Việt Nam, từ năm 2003, kim ngạch xuất
khẩu thủy sản của Việt Nam đã tăng trưởng nhanh chóng trở lại. Năm
2003, kim ngạch xuất khẩu thuỷ sản Việt Nam sang EU đạt 116, 7 triệu
đôla, năm 2004 - 231,5 triệu đôla, năm 2005 - 367,3 triệu đôla. Hàng thủy
sản hiện là mặt hàng có kim ngạch đứng thứ tư trong số các mặt hàng Việt

13


ĐỀ ÁN MÔN HỌC
Nam xuất khẩu vào thị trường EU. Tuy nhiên, cho đến nay, tỷ trọng nhập
khẩu thủy sản từ Việt Nam hàng năm chỉ bằng 0,3 - 0,4% trị giá nhập khẩu
thủy sản của toàn EU. Khối lượng thuỷ sản xuất khẩu của Việt Nam vào
EU năm 2005 mới đạt gần 120 nghìn tấn, trị giá 367,3 triệu USD, chiếm
7% kim ngạch xuất khẩu thủy sản cả nước.
Năm 2006 thuỷ sản xuất khẩu của Việt Nam chiếm 2,05% nhu cầu
nhập khẩu thuỷ sản của EU. Đầu năm 2006, EU đưa ra luật mới đối với
mặt hàng thủy sản nhập khẩu. Luật này quy định về tiêu chuẩn vệ sinh an
toàn thực phẩm, với phương châm là an toàn từ nông trại đến bàn ăn. Điều
này có nghĩa an toàn vệ sinh phải được bảo đảm từ khi bắt đầu của qui trình

tạo ra sản phẩm đến bàn ăn của người tiêu dụng. Để thực hiện phương
châm này EU đưa ra qui định về truy xuất xuất xứ, tức là mọi đầu vào tạo
nên thành phẩm phải có xuất xứ rõ ràng và phải được thể hiện trên những
chứng từ thuộc qui trình. Truy xuất xuất xứ nguồn gốc được yêu cầu đối
với các doanh nghiệp có mặt hàng thủy sản xuất khẩu vào EU từ đầu năm
nay. Tuy nhiên, do Việt Nam có tính chất đặc thù về qui trình sản xuất nên
qui định này được bắt đầu trễ hơn, sau năm 2008. Mặc dù việc cải tiến chất
lượng đối với hàng thuỷ sản xuất khẩu đang gặp nhiều khó khăn nhưng các
doanh nghiệp của Việt Nam đang được các nhà nhập khẩu EU đánh giá cao
về chất lượng sản phẩm.
10 tháng đầu năm 2007, xuất khẩu thuỷ sản của cả nước tới EU đạt
226,8 nghìn tấn với kim ngạch đạt 761 triệu USD, tăng 25,63% về lượng và
27% về kim ngạch so với cùng kỳ năm 2006, chiếm 30,20% về lượng và
23,69% về kim ngạch xuất khẩu thuỷ sản của Việt Nam.
Trong đó, những nhóm hàng sau là có lượng và kim ngạch tăng so
với cùng kỳ năm 2006:
Cá đông lạnh tăng 41,38% về lượng và 41,92% về kim ngạch.
Mực đông lạnh tăng 43,49% về lượng và 70,65% về kim ngạch.

14


ĐỀ ÁN MÔN HỌC
Chả cá tăng 81,33% về lượng và 83,32% về kim ngạch.
Cá khô tăng 164,65% về lượng và 102,19% về kim ngạch.
Các mặt hàng có lượng và kim ngạch giảm so với cùng kỳ năm 2006
là:
Nghêu đông lạnh giảm 21,80% về lượng và 28,28% về kim ngạch.
Sò đông lạnh giảm 26,66% về lượng và 29,15% về kim ngạch.
Cồi điệp giảm 79,72% về lượng và 77,36% về kim ngạch.

Như vậy, cá đông lạnh vẫn là mặt hàng thuỷ sản của Việt Nam được
EU nhập khẩu lớn nhất. Lượng nhập khẩu đạt 166 nghìn tấn với kim ngạch
đạt 477,5 triệu USD, tăng 41,4% về lượng và 41,9% về kim ngạch so với
cùng kỳ năm 2006, chiếm 73,17% về lượng và 63,49% về kim ngạch xuất
khẩu thuỷ sản của Việt Nam tới EU.
Tiếp theo là tôm đông lạnh với lượng xuất khẩu đạt 17,6 nghìn tấn
với trị giá đạt 133 triệu USD, giảm 2,1% về lượng và 1,24% về kim ngạch
so với cùng kỳ năm 2006, chiếm 7,8% về lượng và 17,68% về kim ngạch.
Mực đông lạnh chiếm 6,93% về lượng và 7,36% về kim ngạch, nghêu đông
lạnh chiếm 3,04% về lượng và 2,03% về kim ngạch. Sau đó là bạch tuộc
đông lạnh, chả cá, cá đóng hộp… là những mặt hàng xuất khẩu lớn nhất
của Việt Nam tới EU 10 tháng năm 2007.
Khối lượng xuất khẩu thuỷ sản của Việt Nam tới EU trong năm 2007
đạt 274,7 nghìn tấn với kim ngạch đạt 912,24 triệu USD, tăng 26,53% về
lượng và 27,88% về kim ngạch so với năm 2006.
EU đang là khu vực nhập khẩu thuỷ sản lớn nhất của thế giới, năm
2006 EU (25 quốc gia) nhập khẩu khoảng 38,9 tỉ USD, tăng 10,7% so với
năm 2005. Ba nhà cung cấp thuỷ sản lớn nhất của thị trường EU hiện nay là
Nauy chiếm 9,57%, Trung Quốc chiếm 3,9%, Aixơlen chiếm gần 3,9%…,
Việt Nam chiếm 2,05%. Ngoài Mỹ, Marốc, Achentina là những đối thủ
cạnh tranh khá lớn của Việt Nam tại thị trường này hiện nay. Như vậy, với

15


ĐỀ ÁN MÔN HỌC
một thị phần nhỏ bé như hiện nay, thuỷ sản xuất khẩu của nước ta đang gặp
cạnh tranh rất gay gắt từ những nước khác. Tuy nhiên, EU là khu vực có
khôi lượng thuỷ sản tiêu thụ hàng năm rất lớn nên hàng thuỷ sản xuất khẩu
của Việt Nam vẫn có thể tăng thêm về kim ngạch cũng như số lượng. Dự

báo, kim ngạch xuất khẩu thuỷ sản của Việt Nam tới EU năm 2008 sẽ đạt
trên 1 tỉ USD và tiếp tục là khu vực xuất khẩu thuỷ sản lớn nhất của Việt
Nam.
Mặt khác, trong xuất khẩu, ảnh hưởng của tỷ giá hối đoái cũng là
một phần rất quan trọng. Sự thay đổi tỷ giá ảnh hưởng rất lớn tới kết quả
của hoạt động xuất khẩu. Thời gian qua, đồng USD liên tục giảm mạnh tới
mức kỷ lục so với những đồng tiền mạnh như Euro, bảng Anh, đô la
Canada, Frăng Thuỵ Sĩ, Yên Nhật và Nhân dân tệ. Ngày 11/12/2007, Cục
dự trữ liên bang Mỹ (FED) đã quyết định cắt giảm lãi suất USD thêm
0,25% từ mức 4,5% xuống còn 4,25%. Việc này đã làm cho đồng USD tiếp
tục giảm so với đồng EUR, trong khi tỉ giá của VND so với USD lại không
đổi. Do đó, xuất khẩu thuỷ sản của Việt Nam tới khu vực thị trường không
dùng đồng USD sẽ có lợi cho doanh nghiệp về quy đổi tỉ giá. Đặc biệt là
EU, khu vực có nhiều đồng tiền mạnh (Bảng Anh, Frăng Thuỵ Sĩ, Euro) và
không dùng đồng USD. Nhu cầu tiêu dùng thuỷ sản của khu vực EU vẫn
đang trong xu hướng tăng trong thời gian tới. Do đó, việc đẩy mạnh xuất
khẩu thuỷ sản sang EU sẽ có những thuận lợi lớn.

16


ĐỀ ÁN MÔN HỌC

2. Kết quả xuất khẩu thuỷ sản

(nguồn: Bộ Ngoại giao Việt Nam www.mofa.gov.vn )
Kể từ năm 2000 trở lại đây, xuất khẩu thuỷ sản của VN sang EU có
xu hướng tăng rất mạnh, gấp 6,5 lần về khối lượng từ mức 20.290 tấn năm
2000 lên 130.277 tấn năm 2005, tương tự tăng gấp 6 lần về giá trị xuất
khẩu. Từ tháng 9/2001, VN cùng một số nhà sản xuất tôm châu á (Trung

Quốc, Inđônêxia, Thái Lan) bắt đầu phải đối phó với việc EU áp dụng các
chính sách nghiêm ngặt về kiểm soát dư lượng kháng sinh, nhất là
chloramphenicol trong sản phẩm thuỷ sản nhập khẩu từ các nước này vào
EU. Ðó là nguyên nhân chính dẫn đến kim ngạch xuất khẩu của VN vào
khối thị trường này đã giảm sút trong năm 2002. Từ năm 2003, nhờ sự nỗ
lực cải tiến và quản lý chất lượng, quy trình và điều kiện sản xuất thuỷ sản
của các doanh nghiệp, xuất khẩu thuỷ sản của VN sang EU đã phục hồi và
tăng trở lại, đặc biệt là thời gian gần đây. Bằng nhiều nỗ lực, ngành thuỷ
sản Việt Nam đã đạt được kết quả mong đợi. Ðến nay, số doanh nghiệp
Việt Nam được công nhận đáp ứng các yêu cầu và tiêu chuẩn an toàn vệ
sinh thực phẩm để xuất khẩu sản phẩm vào thị trường này đã đạt tới 245

17


ĐỀ ÁN MÔN HỌC
doanh nghiệp. Ngoài ra còn còn 25 doanh nghiệp đang chờ bổ sung vào
danh sách xuất khẩu.
Từ năm 2003 đến năm 2005, tỷ lệ tăng trưởng bình quân hằng năm
của xuất khẩu thuỷ sản Việt Nam sang thị trường này là 61% về khối lượng
và 73% về giá trị.
Khối lượng xuất khẩu thuỷ sản của Việt Nam tới EU trong năm
2007 đạt 274,7 nghìn tấn với kim ngạch đạt 912,24 triệu USD, tăng
26,53% về lượng và 27,88% về kim ngạch so với năm 2006. Theo Hiệp
hội Chế biến và xuất khẩu thủy sản Việt Nam (VASEP), xuất khẩu thủy
sản sang EU liên tục đạt tốc độ tăng trưởng khá. Vượt qua Hoa Kỳ, Nhật
Bản, EU hiện đang trở thành thị trường xuất khẩu thủy sản lớn nhất của
Việt Nam
3. Đánh giá chung
Trong thời gian qua nói chung xuất khẩu sản lượng thuỷ sản của Việt

Nam sang thị trường EU đã không ngừng gia tăng với tốc độ nhanh, cả về
chất và lượng.
Năm 2005 đạt 433,085 triệu USD
Năm 2006 đạt 723,504 triệu USD
Năm 2007 đạt 912,240 triệu USD
( nguồn: trung tâm tin học thuỷ sản)
Tuy kim ngạch xuất khẩu thủy sản của Việt Nam vào EU tăng
trưởng cao trong những năm vừa qua, nhưng hàng thủy sản của ta chiếm thị
phần rất nhỏ trên thị trường này, còn cách xa tiềm năng xuất khẩu của Việt
Nam. Nhu cầu nhập khẩu thủy sản hàng năm của EU rất lớn, nhưng yêu
cầu về tiêu chuẩn chất lượng và vệ sinh thực phẩm đối với mặt hàng này lại
rất cao. Một vài lô hàng thủy sản của Việt Nam xuất khẩu vào EU vẫn chưa
an toàn (nhiễm khuẩn, nhiễm bẩn, bị phát hiện có dư lượng hoá chất, kháng
sinh,...) và chất lượng chưa được ổn định. Đã xảy ra một số trường hợp
18


ĐỀ ÁN MÔN HỌC
doanh nghiệp Việt Nam làm giả chất lượng hàng thủy sản. Do vậy, EU chỉ
nhập khẩu những sản phẩm từ những doanh nghiệp chế biến thủy sản ở
Việt Nam đã được cấp chứng chỉ đủ tiêu chuẩn chất lượng và vệ sinh.
Nhiều doanh nghiệp chế biến thủy sản khác của Việt Nam chưa tiếp cận
được thị trường này.
Đặc biệt tại châu Âu đã đã đưa vào vận hành hệ thống cảnh báo
nhanh. Hệ thống này do EFA (Cơ quan quản lý thực phẩm châu Âu) chịu
trách nhiệm quản lý. Mục đích là cảnh báo nhanh bao quát toàn bộ dây
chuyền cung cấp thức ăn, kể cả thức ăn cho động vật, đồng thời hỗ trợ tư
vấn khoa học và kỹ thuật cho Ủy ban châu Âu. Bất kỳ thông tin về mối
nguy nghiêm trọng nào trực tiếp hay gián tiếp ảnh hưởng tới sức khỏe con
người phát sinh từ thực phẩm hoặc thức ăn cho động vật sẽ được thông báo

đến cho các cơ quan quản lý thực phẩm của các nước thành viên thông qua
hệ thống này. Biện pháp tương tự sẽ được áp dụng để hạn chế đưa ra thị
trường các sản phẩm sản xuất tại EU hay nhập khẩu nếu xét thấy có nguy
cơ mất an toàn thực phẩm.
Chính sách môi trường của EU dựa trên các Hiệp định quốc, đặc biệt
dựa trên Chương trình nghị sự 21 của Hiệp định Rio de Janeiro (Hiệp định
Rio), Hội nghị Liên hiệp Quốc về môi trường và phát triển được tổ chức
năm 1992. EU và các nước thành viên đã cam kết thực hiện các hành động
trong khuôn khổ Hiệp định Rio. Chương trình môi trường của EU hiện nay
nhấn mạnh việc xử lý nguyên nhân gốc rễ của vấn đề về môi trường chứ
không phải đối phó với rắc rối khi chúng xảy ra. Các quy định về môi
trường của EU đối với sản phẩm thủy sản chính là các quy định về hàng
hoá môi trường nằm trong hệ thống “Luật sản phẩm môi trường của Liên
minh châu Âu”. EU ban hành Hệ thống Luật sản phẩm môi trường nhằm
mục đích bảo vệ sức khoẻ cộng đồng và môi trường sinh thái.

19


ĐỀ ÁN MÔN HỌC
Quy định về môi trường của EU rất nghiêm ngặt, bao gồm các quy
định liên quan trực tiếp đến môi trường và các quy định liên quan gián tiếp
đến môi trường và liên quan trực tiếp đến vệ sinh an toàn thực phẩm. Khi
xuất khẩu hàng thủy sản sang EU, ngoài việc xuất trình các chứng chỉ về vệ
sinh dịch tễ, vệ sinh an toàn thực phẩm, kiểm dịch thực vật là yêu cầu bắt
buộc, doanh nghiệp Việt Nam còn phải tuân thủ các quy định về môi
trường của EU.
Có thể nói rằng, Hệ thống quy định và tiêu chuẩn môi trường của EU
đối với hàng hoá là hoàn chỉnh hơn cả, rất chặt chẽ, và không dễ thoả mãn.
Người tiêu dùng EU có nhu cầu ngày càng cao đối với các sản phẩm sạch,

bảo vệ môi trường.
Tuy nhiên, năm 2007 được coi là năm quản lý của chất lượng, an
toàn đối với xuất khẩu thuỷ sản Việt Nam sang EU. Trong năm 2007,
ngành thuỷ sản đã tham gia xây dựng Luật an toàn vệ sinh thực phẩm và dự
thảo Luật Chất lượng sản phẩm hàng hoá, cùng với áp dụng các biện pháp
cấp bách kiểm soát hoá chất, kháng sinh cấm trong hàng thuỷ sản xuất khẩu
cũng như các hoạt động kiểm tra hoá chất, kháng sinh cấm trong nuôi
trồng, chế biến, tỉ lệ băng trong sản phẩm. Năm 2007, việc kiểm soát dư
lượng hoá chất độc hại đã được thực hiện với tất cả thuỷ sản chủ lực, nuôi
tập trung (tôm sú, tôm chân trắng, tôm càng xanh, cá basa, cá tra, cá rô phi,
cua). Chỉ tiêu và tần suất lấy mẫu kiểm tra đối với từng đối tượng cụ thể
được thực hiện theo đúng qui định của thị trường EU. Kết quả có 12 mẫu
thuỷ sản nuôi, 2 mẫu thuỷ sản đại lý và 15 mẫu nước bị phát hiện vượt mức
giới hạn cho phép đối với chỉ tiêu dư lượng hoá chất kháng sinh cấm và
hạn chế sử dụng, và tất cả đã bị xử lý đúng qui định. Chương trình kiểm
soát an toàn vệ sinh vùng thu hoạch nhuyễn thể 2 mảnh vỏ cũng được thực
hiện tại 100% số vùng. Các trường hợp phát hiện mật độ tảo độc vượt quá
giới hạn đều được áp dụng chế độ kiểm tra tăng cường theo qui định. Các

20


ĐỀ ÁN MÔN HỌC
trường hợp phát hiện chất độc DSP dương tính đều bị đình chỉ thu hoạch,
lấy mẫu kiểm tra tăng cường tảo độc và chất độc, cho đến khi kết quả kiểm
tra chất độc, tảo độc đạt mức cho phép. Tháng 9/2007, Đoàn thanh tra EU
ghi nhận Chương trình kiểm soát an toàn vệ sinh vùng thu hoạch nhuyễn
thể 2 mảnh vỏ của Việt Nam đáp ứng đầy đủ các qui định của EU. Các thị
trường EU, Mỹ, Nhật Bản, Hàn Quốc... cũng chấp nhận nhuyễn thể 2 mảnh
vỏ của Việt Nam. Như vậy, bên cạnh việc xuất khẩu ngày càng tăng về kim

ngạch cũng như số lượng, sản phẩm thuỷ sản của Việt Nam ngày càng đáp
ứng được yêu cầu khắt khe về chất lượng của EU, phù hợp với phương
châm “ an toàn từ nông trại tới bàn ăn” của Luật mới về an toàn vệ sinh
thực phẩm của EU.
Tập quán ứng xử
Thực tế, EU không phải là một thực thể văn hoá, không đồng nhất về
tập quán sinh hoạt, ẩm thực, thị hiếu tiêu dùng cách ứng xử. Thị trường EU
chỉ thống nhất về mặt kỹ thuật còn trên thực tế bao gồm nhiều thị trường
quốc gia và khu vực có những đặc điểm rất khác nhau. Mỗi nước có bản
sắc văn hoá riêng nên yêu cầu của họ cũng khác nhau.
EU là thành viên của WTO nên có chế độ quản lý nhập khẩu chủ yếu
dựa trên nguyên tắc của tổ chức này. Các mặt hàng quản lý bằng hạn ngạch
không nhiều nhưng biện pháp thuế quan lại được sử dụng khá nhiều. Mặc
dù thuế quan của EU thấp hơn so với các cường quốc kinh tế lớn và có xu
hướng giảm nhưng EU vẫn là một thị trường được bảo trợ chặt chẽ với
hàng rào phi thuế quan (rào cản kỹ thuật) nghiêm ngặt. Rào cản kỹ thuật
chính là quy chế nhập khẩu chung và các biện pháp bảo vệ quyền lợi người
tiêu dùng của EU được cụ thể hoá ở 4 tiêu chuẩn của sản phâm, đó là: tiêu
chuẩn chất lượng, tiêu chuẩn an toàn cho người sử dụng, tiêu chuẩn bảo vệ
môi trường và tiêu chuẩn về lao động.

21


ĐỀ ÁN MÔN HỌC
Khách hàng EU rất khó tính về mẫu mã và thị hiếu. Chỉ khi các yếu
tố chất lượng, các trình bày sản phẩm và giá cả hấp dẫn thì sản phẩm mới
có cơ hội bán được ở châu Âu.
Việc tự do hoá về thương mại và đầu tư trên thế giới cũng như cải
cách về chính sách và cơ chế quản lý xuất nhập khẩu của EU ngày càng

được nới lỏng nên cạnh tranh ứng xử khác nhau. Các doanh nghiệp Việt
Nam cần nắm rõ những đặc điểm của kênh phân phối đó và các đầu mối
nhập khẩu để có những biện pháp xâm nhập cụ thể. Với sản lượng xuất
nhập khẩu hàng năm lớn, là một bản hàng ổn định, các doanh nghiệp thủy
sản đang dần chuyển mình để tạo được những dấu ấn trong họ.
Bên cạnh những thành tựu đó, thuỷ sản Việt Nam xuất khẩu sang EU
còn gặp rất nhiều khó khăn với những nguyên nhân sau:
 Thứ nhất, hàng thuỷ sản là mặt hàng thuỷ sản là mặt hàng có giá cả
biến động mạnh nhất, phụ thuộc vào điều kiện tự nhiên nhiều nhất,
ảnh hưởng lớn đến xuất khẩu của Việt Nam sang thị trường thế giới.
 Thứ hai, do sự cản trở của các rào cản thương mại (như việc chống
bán phá giá, quy định về chất lượng vệ sinh an toàn thực phẩm,…)
cũng ảnh hưởng rất lớn tới việc xuất khẩu thuỷ sản. EU là một thị
trường khó tính, chất lượng sản phẩm yêu cầu khá cao nên việc đẩy
mạnh xuất khẩu thuỷ sản Việt Nam vào thị trường này đang gặp
nhiều khó khăn, không phải doanh nghiệp nào của Việt Nam cũng
đáp ứng được về chất lượng hàng xuất khẩu.
 Thứ ba, nguồn vốn đầu tư còn dàn trải, tỷ lệ vốn đầu tư của nhà
nước cho ngành thuỷ sản không lớn nên ảnh hưởng đến cơ cấu sản
xuất thuỷ sản phục vụ xuất khẩu.
 Thứ tư, các doang nghiệp xuất khẩu thuỷ sản chưa chủ động khai
thác thị trường xuất khẩu, công tác xúc tiến thương mại còn yếu

22


ĐỀ ÁN MÔN HỌC
kém, thiếu tính chuyên nghiệp, công tác dự báo thị trường, thông tin
thương mại còn thấp.
 Thứ năm, sự yếu kém của cơ quan quản lý, hoạch định chính sách

về thuỷ sản còn hạn chế. Định hướng và hướng dẫn đầu tư của
chính sách chưa cao, khả năng thích ứng với thị trường thế giới
thấp( như rào cản thương mại, phi thương mại, RTA và FTA) nên
việc xuất khẩu thuỷ sản còn gặp nhiều khó khăn.
 Thứ sáu, kết cấu hạ tầng cơ sở phục vụ cho hoạt động xuất khẩu
như cảng, sân bay, tàu... còn thiếu hoặc năng lực hoạt động thấp,
làm cho việc xuất khẩu thuỷ sản gặp nhiều khó khăn.
 Thứ bẩy, công tác đào tạo nguồn nhân lực còn yếu kém trong khâu
chế biến và nuôi trồng thuỷ sản, làm chất lượng thuỷ sản thấp ảnh
hưởng tới giá trị xuất khẩu.
 Thứ tám, vấn đề thương hiệu của thủy sản Việt Nam cũng được coi
là một thách thức lớn, vì hiện nay các mặt hàng thủy sản Việt Nam
được xuất khẩu thông qua các nhà nhập khẩu và được phân phối
dưới nhiều thương hiệu khác nhau.

23


ĐỀ ÁN MÔN HỌC

Chương III: MỘT SỐ GIẢI PHÁP THÚC ĐẨY XUẤT KHẨU
THUỶ SẢN CỦA VIỆT NAM SANG THỊ TRƯỜNG EU
I. Mục tiêu, phương hướng xuất khẩu của ngành thuỷ sản đến
năm 2010
1. Phương hướng xuất khẩu thuỷ sản của ngành thuỷ sản Việt
Nam đến năm 2010
Thuỷ sản là một trong những ngành kinh tế mũi nhọn, đóng vai trò to
lớn trong việc cung cấp nguồn thực phẩm dinh dưỡng dồi dào, đáp ứng
được nhu cầu thiết yếu trong nước và nhu cầu xuất khẩu. Xuất khẩu thủy
sản Việt Nam khá vững chắc và hiện đang ở vị trí một trong 10 nước có giá

trị thủy sản xuất khẩu hàng đầu thế giới và nằm trong nhóm 4 ngành hàng
có giá trị xuất khẩu hơn 3 tỷ USD của Việt Nam năm 2007.
Năm 2006 được đánh dấu bằng cột mốc mới về xuất khẩu thủy sản với
việc đạt con số 3,4 tỷ USD, góp 8,6% trong tổng kim ngạch xuất khẩu
chung của cả nước.
Năm 2006 cũng là năm ngành thủy sản sản xuất ra một sản lượng
thủy sản cao nhất từ trước đến nay. Ngưỡng 3,5 triệu tấn đã vượt qua và về
đích kế hoạch trước một tháng để đạt con số xấp xỉ 3,7 triệu tấn khi hết
năm, trong đó sản lượng thủy sản nuôi trồng qua ngưỡng 1,5 triệu tấn và
đạt xấp xỉ 1,7 triệu tấn cả năm. Những con số chỉ tiêu chủ yếu đạt được nêu
trên của ngành thủy sản năm 2006 cho thấy kết quả của một quá trình tăng
trưởng nhiều năm, đặc biệt là từ năm 2000, khi xuất khẩu thủy sản vượt
qua giá trị 1 tỷ USD.
Như vậy, thuỷ sản xuất khẩu đang là một thế mạnh, đóng góp rất lớn
cho nền kinh tế đất nước. Việc định hướng phát triển cho ngành thuỷ sản là
một việc làm cần thiết giúp cho sự phát triển của ngành.
 Định hướng phát triển xuất khẩu thuỷ sản của Việt Nam đến 2010

24


ĐỀ ÁN MÔN HỌC
Trong chiến lược định hướng phát triển, Đảng và nhà nước đã nêu rõ
“ phát huy cao độ các nguồn lực để phát triển nhanh và có hiệu quả các sản
phẩm, các ngành, các lĩnh vực mà ta có lợi thế, đáp ứng cơ bản nhu cầu
thiết yếu trong nước và đẩy mạnh xuất khẩu.”
Theo chiến lược phát triển kinh tế xã hội 2001 – 2010, báo cáo của
Ban chấp hành Trung ương Đảng khoá VIII; đại hội đại biểu toàn quốc lần
thứ IX của Đảng nêu rõ: “ Phát huy lợi thế về thuỷ sản, tạo thành một nền
kinh tế mũi nhọn, vươn lên hàng đầu trong khu vực. Phát triển mạnh nuôi

trồng thuỷ sản nước ngọt, nước mặn, nước lợ, nhất là nuôi tôm, theo
phương thức tiến bộ, hiệu quả và bền vững môi trường. Tăng cường năng
lực và nâng cao hiệu quả khai thác hải sản xa bờ, chuyển đổi cơ cấu nghề
nghiệp, ổn định khai thác gần bờ, nâng cao năng lực bảo quản và chế biến
sản phẩm, đáp ứng nhu cầu thị trường trong nước và quốc tế. Mở rộng và
nâng cấp các cơ sở hạ tầng dịch vụ nghề cá nguồn lợi thuỷ sản.”
Định hướng phát triển của ngành thuỷ sản cần lưu ý những vấn đề
sau:
Trong quá trình hội nhập, các doanh nghiệp phải tích cực và chủ
động tham gia vào tiến trình chung của toàn cầu và xác định xuất khẩu thuỷ
sản là ngành kinh tế mũi nhọn. Dựa vào tiềm năng đất nước về biển, hệ
thống sông ngòi,… để không ngừng làm phong phú, đa dạng cơ cấu hàng
hoá để phát triển ngành thuỷ sản, nhằm nâng cao thu nhập, giải quyết công
ăn việc làm, đẩy mạnh sự tăng trưởng kinh tế.
Phát huy lợi thế của từng vùng trên đất nước, phối hợp có hệ thống
các khâu sản xuất và chế biến đảm bảo sự phát triển ổn định, nâng cao điều
kiện khoa học kỹ thuật áp dụng vào quy hoạch và khai thác chế biến thuỷ
sản tạo ra nhiều giá trị sản phẩm gia tăng.
Xây dựng cơ sở vật chất kỹ thuật gắn liền với khâu khai thác để đảm
bảo thuỷ sản sau khi khai thác đạt chất lượng chế biến cao nhất.

25


×