Tải bản đầy đủ (.doc) (50 trang)

Luận văn đẩy mạnh hoạt động xuất khẩu thuỷ sản của VN sang thị trường EU

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (373.54 KB, 50 trang )

LỜI MỞ ĐẦU
Tính cấp thiết của đề tài nghiên cứu
Hiện nay, thuỷ sản đang trở thành một trong những mặt hàng xu ất khẩu ch ủ
lực của Việt Nam. Hàng năm, ngành thuỷ sản nói chung và hoạt động xu ất kh ẩu
thuỷ sản nói riêng đóng góp hàng tỷ USD vào GDP, góp ph ần thu hút và t ạo vi ệc l àm
cho hàng triệu lao động. Thuỷ sản vươn lên trở thành một ngành kinh t ế mũi nh ọn
của đất nước.
Mặc dù vậy, trong những năm gần đây cũng đánh dấu rất nhiều những vấn đề
đặt ra đối với hoạt động xuất khẩu thuỷ sản ảnh hưởng không nhỏ tới khả năng sản
xuất và xuất khẩu những mặt hàng thuỷ sản. Ngành thuỷ sản Việt Nam đã chứng
kiến và trực tiếp là bị đơn trong nhiều vụ kiện bán phá giá đồng thời đang phải đối
mặt với rất nhiều diễn biến bất lợi trên rất nhiều thị trường. Bên cạnh đó, các vấn
đề về hàng rào kỹ thuật - thương mại, với các quy định về dư lượng kháng sinh, về
nguồn gốc các sản phẩm thuỷ sản, về kiểm dịch... đang là những thách thức lớn đối
với ngành thuỷ sản hiện nay.
Vì vậy, để tìm hiểu thêm và đưa ra một số đề xuất về vấn đề này, em đã
chọn đề tài: “Đẩy mạnh hoạt động xuất khẩu thuỷ sản của Việt Nam sang thị
trường EU”. Đây là một trong những thị trường xuất khẩu thuỷ sản trọng điểm của
Việt Nam, có tính chất tác động rất lớn đối với các thị tr ường xu ất kh ẩu khác v à
trong tương lai có rất nhiều tiềm năng phát triển mạnh.
Mục đích nghiên cứu của đề tài
Nghiên cứu tình hình xuất khẩu thuỷ sản của Việt Nam sang th ị trường EU t ừ
năm 2000 đến nay. Xem xét những thành tựu đạt được, hạn chế, những quy định
của EU và những vấn đề đặt ra đối với hoạt động xuất khẩu thu ỷ sản Việt Nam
hiện nay. Từ đó, đề xuất một số giải pháp nhằm đẩy mạnh hoạt động xuất khẩu
thuỷ sản của Việt Nam trong thời gian tới.
Đối tượng và phạm vi nghiên cứu
Tình hình sản xuất, chế biến và xuất khẩu thuỷ sản sang thị trường EU t ừ năm
2000 đến nay
Phương pháp nghiên cứu
Dựa vào phương pháp nghiên cứu của Chủ nghĩa duy vật biện chứng và Ch ủ



1


nghĩa duy vật lịch sử. Ngoài ra, bài viết còn sử dụng một số phương pháp cụ thể như:
phương pháp thống kê, phân tích, so sánh, tổng hợp, diễn dịch...
Đóng góp của đề tài
Cho biết thực trạng hoạt động xuất khẩu thuỷ sản Việt Nam nói chung và sang
thị trường EU nói riêng hiện nay
Những kết quả đạt được và hạn chế trong việc sản xu ất và xuất kh ẩu thu ỷ
sản
Những vấn đề đặt ra đối với hoạt động xuất khẩu thuỷ sản của Việt Nam hiện
nay
Đề xuất một số giải pháp nhằm đẩy mạnh hoạt động xuất khẩu thu ỷ sản của
Việt Nam sang thị trường EU trong thời gian tới.
Kết cấu của bài viết
Bài viết được chia thành 3 phần như sau:
Chương 1: Tổng quan chung về ngành thuỷ sản
Chương 2: Thực trạng xuất khẩu thuỷ sản Việt Nam sang thị trường EU hi ện
nay
Chương 3: Một số giải pháp nhằm đẩy mạnh hoạt động xuất khẩu thu ỷ sản
Việt nam sang thị trường EU
Trong quá trình nghiên cứu, mặc dù đã có nhiều cố gắng song vì kiến thức còn có
nhiều hạn chế nên bài viết khó tránh khỏi được những hạn chế và sai sót. Em rất mong
có được sự đóng góp ý kiến của các thầy cô giáo để bài viết hoàn thiện hơn.
Em xin chân thành cảm ơn Th.S.Đỗ Thị Hương đã tận tình hướng dẫn và giúp
đỡ em thực hiện bài viết này. Em xin chân thành cảm ơn.

2



NỘI DUNG
Chương 1: Tổng quan chung về ngành thuỷ sản
1.1. Đặc điểm chung về ngành thuỷ sản xuất khẩu
1.1.1. Tận dụng lớn nguồn tài nguyên lãnh thổ quốc gia
Nước là điều kiện sản xuất cơ bản cho sự phát triển nghề nuôi trồng và đánh
bắt thuỷ sản. Tài nguyên nước của Việt Nam chiếm một vị trí quan trọng trong phần
tài nguyên lãnh thổ quốc gia. Việt nam với hệ thống sông ngòi dày đặc đi sâu v ào
lãnh thổ quốc gia nên rất thuận lợi cho phát triển thuỷ sản đến từng vùng.
Mặc khác, phát triển ngành nuôi trồng và khai thác thu ỷ sản không những không
chiếm dụng đất nông nghiệp mà còn có thể tác động trợ giúp cho sự phát tri ển c ủa
các ngành khác như nông nghiệp, lâm nghiệp và chăn nuôi gia súc. Nh ững n ăm gần
đây, Việt Nam tăng cường phát triển môi trường kinh tế hộ gia đình, áp d ụng cách
thức “đào ao, cải tạo ruộng” ở nhiều vùng nông thôn để tiến hành khai thác tổng
hợp. Việc làm này không phải lấn chiếm đất canh tác mà còn tạo ra đất canh tác, coi
việc phát triển ngành nuôi trồng và khai thác thuỷ sản làm động lực kéo theo các
ngành khác cùng phát triển như: ngành trồng cây công nghiệp, ngành tr ồng cây ăn
quả, ngành chăn nuôi gia súc và phụ công nghiệp. Bên cạnh đó, trong nhi ều n ăm g ần
đây những vùng ven biển vốn không có khă năng canh tác trồng trọt nay đã được
chuyển hướng sang nuôi trồng thuỷ sản đem lại hiệu quả kinh tế cao.
1.1.2. Hoạt động xuất khẩu thủy sản mang lại hiệu quả kinh tế cao
3


Ngành thuỷ sản không cần phải đầu tư quá nhiều vào nơi sản xu ất, t ận dụng sự
sẵn có về điều kiện tự nhiên như tại các vùng biển cạn, bãi bồi, diện tích mặt nước
đất liền, đất phèn trũng... nếu biết khai thác tốt thì có thể phát triển ng ành nuôi
trồng thuỷ sản, vừa có lợi trong việc xây dựng hợp lý h ệ thống sinh thái, t ăng nhanh
tốc độ phát triển nông nghiệp lại vừa tăng thêm thu nhập cho ngư dân v à nông dân.
Bên cạnh đó, lao động trong ngành thuỷ sản không đòi hỏi kỹ thu ật và tay nghề cao

(chủ yếu là kinh nghiệm và cách học hỏi nhanh chóng) nên không mất thêm chi phí
đào tạo. Thêm vào đó, đầu tư vào ngành thuỷ sản nhanh chóng đem lại nguồn lợi
nhanh do thời gian quay vòng vốn nhanh mà giá các mặt hàng thu ỷ sản xuất kh ẩu l ại
cao.
1.1.3. Hoạt động sản xuất hàng thủy sản xuất khẩu mang tính chất phức tạp

Ngành thuỷ sản mang nặng tính thời vụ. Do đối tượng của sản xuất nuôi
trồng thuỷ sản là các loại động thực vật kinh tế thuỷ sinh nên phải thích ứng
với điều kiện nhất định bên ngoài mới có thể thúc đẩt khả năng sinh trưởng
và phát triển của nó. Các biện pháp kỹ thuật sản xuất nuôi trồng chỉ khi nào
phù hợp quy luật sinh trưởng phát triển và sinh sản của động thực vật mới có
thể đạt được sản lượng cao. Hơn nữa, hoạt động nuôi trồng thuỷ sản là hoạt
động ngoài trời, giữa các điều kiện tự nhiên như khí hậu, vùng nước....và
sinh vật có ảnh hưởng qua lại lẫn nhau đồng thời luôn có sự biến đổi khó
lường. Do đó, tác động không nhỏ tới việc khai thác, chế biến và xuất khẩu
thuỷ sản. Bởi do tính phức tạp và thời vụ ảnh hưởng rất đến khả năng đáp
ứng các hợp đồng cung cấp thuỷ sản lớn và ổn định.
1.1.4. Ngành thuỷ sản là một ngành nghề sản xuất mang tính chuyên
nghiệp hoá
Điều này được thể hiện ở chỗ: kể từ khâu nuôi trồng, sản xuất đến chế
biến và xuất khẩu phải tuân theo một quy trình xuyên suốt đảm bảo tính
đồng bộ và đạt chất lượng cao. Bởi sản phẩm thuỷ sản là những sản phẩm
tươi sống nên đảm bảo tính chuyên biệt cao qua mỗi giai đoạn của quy trình
4


sản xuất. Nếu như sản phẩm của ngành bị hỏng, biến chất thì coi như mất đi
giá trị sử dụng.
1.1.5. Hàng thuỷ sản là mặt hàng được ưa chuộng và có giá trị xuất khẩu cao


Hàng thuỷ sản là mặt hàng đựơc khắp nơi trên thế giới ưu thích tiêu
dùng. Tại các nước phát triển, người tiêu dùng đặc biệt thích ăn thuỷ sản vì
mặt hàng thuỷ sản đảm bảo tươi sống, bổ dưỡng, cách chế biến nhanh. Các
mặt hàng thuỷ sản chế biến thường có gía bán cao hơn mặt hàng tươi sống,
đem lại giá trị gia tăng nhanh hơn cho nhà xuất khẩu. Vì vậy, mà quốc gia
nào có điều kiện tự nhiên và khí hậu thuận lợi cho việc nuôi trồng và khai
thác thuỷ sản như Việt Nam thường nhanh chóng đẩy mạnh phát triển ngành
thuỷ sản để tạo kim ngạch xuất khẩu cao và thu ngoại tệ về để phát triển đất
nước.
1.2. Vai trò của ngành thủy sản đối với nền kinh tế Việt Nam
1.2.1.Ngành Thuỷ sản là một trong những ngành kinh tế mũi nhọn của quốc gia
Theo số liệu đã công bố của Tổng Cục Thống kê, GDP của ngành Thuỷ sản giai đoạn
1995 - 2003 tăng từ 6.664 tỷ đồng lên 24.125 tỷ đồng. Tính tới tháng 12/2007, kim ngạch
xuất khẩu thủy sản đạt trên 2,5 tỷ USD, ngành thủy sản chiếm 21% GDP nông - lâm ngư nghiệp và chiếm hơn 4% GDP trong nền kinh tế quốc dân (Nguồn: Sở thủy sản Hải
Phòng ngày 4/12/2007). Trong các hoạt động của ngành, khai thác hải sản giữ vị trí rất
quan trọng. Sản lượng khai thác hải sản trong 10 năm gần đây tăng liên tục với tốc độ
tăng bình quân hằng năm khoảng 7,7% (giai đoạn 1991 - 1995) và 10% (giai đoạn 1996 2003) (Nguồn: Tổng cục Thống kê). Nuôi trồng thuỷ sản đang ngày càng có vai trò quan
trọng hơn khai thác hải sản cả về sản lượng, chất lượng cũng như tính chủ động trong sản
xuất. Điều này tất yếu dẫn đến sự chuyển đổi về cơ cấu sản xuất - ưu tiên phát triển các
hoạt động kinh tế mũi nhọn, đem lại hiệu quả kinh tế cao.
Việt Nam có nhiều tiềm năng để phát triển nuôi trồng thuỷ sản ở khắp mọi miền đất
nước cả về nuôi biển, nuôi nước lợ và nuôi nước ngọt. Đến năm 2003, đã sử dụng
5


612.778 ha nước mặn, lợ và 254.835 ha nước ngọt để nuôi thuỷ sản. Trong đó, đối tượng
nuôi chủ lực là tôm với diện tích 580.465 ha. Năm 2006, tổng diện tích nuôi trồng thủy
sản đã tăng lên 1.050.000 ha (Nguồn: Trích Trung Tâm Tin học Bộ Thủy sản ngày
18/1/2006).
Bên cạnh những tiềm năng đã biết, Việt Nam còn có những tiềm năng mới được xác

định có thể sử dụng để nuôi trồng thuỷ sản như sử dụng vật liệu chống thấm để xây dựng
công trình nuôi trên các vùng đất cát hoang hoá, chuyển đổi mục đích sử dụng các diện
tích trồng lúa, làm muối kém hiệu quả sang nuôi trồng thuỷ sản…Nuôi biển là một hướng
mở mới cho ngành Thuỷ sản, đã có bước khởi động ngoạn mục với các loài tôm hùm, cá
giò, cá mú, cá tráp, trai ngọc,… với các hình thức nuôi lồng, bè. Đồng thời với sự xuất
hiện hàng loạt các trang trại nuôi chuyên canh (hoặc canh tác tổng hợp nhưng lấy nuôi
trồng thuỷ sản làm hạt nhân) chuyển đổi phương thức nuôi quảng canh, quảng canh cải
tiến sang bán thâm canh và thâm canh đã góp phần quan trọng vào sự nghiệp công nghiệp
hoá, hiện đại hoá nông nghiệp và nông thôn.
Ngành Thuỷ sản có tốc độ tăng trưởng rất nhanh so với các ngành kinh tế khác. Tỷ
trọng GDP của ngành Thuỷ sản trong tổng GDP toàn quốc liên tục tăng, từ 2,9% (năm
1995) lên 3,4% (năm 2000) và đạt 3,93% vào năm 2003 ( Nguồn: Trung Tâm Tin hoc Bộ
Thủy sản). Tính tới tháng 9/ 2007, tốc độ tăng GDP của khu vực nông, lâm nghiệp và
thủy sản tăng 3.02% (Nguồn: www.hoinhap.gov.vn§ ngày 5/2/2007).
1.2.2.Vai trò của ngành thuỷ sản trong việc mở rộng quan hệ thương mại quốc tế
Từ đầu những năm 1980, ngành thuỷ sản đã đi đầu trong cả nước về mở rộng quan
hệ thương mại sang những khu vực thị trường mới trên thế giới. Năm 1996, ngành thuỷ
sản mới chỉ có quan hệ thương mại với 30 nước và vùng lãnh thổ trên thế giới. Đến năm
2001, quan hệ này đã được mở rộng ra 60 nước và vùng lãnh thổ, năm 2003 là 75 nước
và vùng lãnh thổ. Năm 2006, hàng thủy sản của Việt Nam đã có mặt trên 105 quốc gia và
vùng lãnh thổ trên thế giới ( Nguồn: Trung Tâm Tin học Bộ Thủy sản).
Đối với các nước và vùng lãnh thổ có quan hệ thương mại, ngành thuỷ sản đã tạo
dựng được uy tín lớn. Những nước công nghiệp phát triển như Mỹ, Nhật và các nước
6


trong khối EU đã chấp nhận làm bạn hàng lớn và thường xuyên của ngành. Năm 2003,
xuất khẩu thuỷ sản của Việt Nam vào bốn thị trường chính là Mỹ, Nhật Bản, EU và
Trung Quốc chiếm trên 75% tổng giá trị kim ngạch, phần còn lại trải rộng ra gần 60 nước
và vùng lãnh thổ. Tháng 7/2007, các thị trường xuất khẩu chính của Việt Nam là EU, Mỹ,

Nhật Bản, Hàn Quốc, các nước ASEAN, Trung Quốc- Hồng Kông, Nga... (Nguồn: Trung
tâm tin học Bộ Thủy sản).
Có thể thấy rằng sự mở rộng mối quan hệ thương mại quốc tế của ngành thuỷ sản đã
góp phần mở ra những còn đường mới và mang lại nhiều bài học kinh nghiệm để nền
kinh tế Việt Nam hội nhập ngày càng sâu rộng hơn vào khu vực và thế giới.
1.2.3.Vai trò của ngành thuỷ sản trong an ninh lương thực quốc gia, tạo việc làm, xoá
đói giảm nghèo:
Thuỷ sản được đánh giá là nguồn cung cấp chính đạm động vật cho người dân. Năm
2001, mức tiêu thụ trung bình mặt hàng thuỷ sản của mỗi người dân Việt Nam là 19,4 kg,
cao hơn mức tiêu thụ trung bình sản phẩm thịt lợn 17,1 kg/người và thịt gia cầm 3,9
kg/người ( Nguồn: Trung Tâm Tin học Bộ Thủy sản). Cũng giống như một số nước châu
Á khác, thu nhập tăng đã khiến người dân có xu hướng chuyển sang tiêu dùng nhiều hơn
mặt hàng thuỷ sản. Có thể nói ngành thuỷ sản có đóng góp không nhỏ trong việc bảo đảm
an ninh lương thực quốc gia.
Ngành thuỷ sản với sự phát triển nhanh của mình đã tạo ra hàng loạt việc làm và thu
hút một lực lượng lao động đông đảo tham gia vào tất cả các công đoạn sản xuất, làm
giảm sức ép của nạn thiếu việc làm trên phạm vi cả nước.
Đặc biệt do sản xuất của nhiều lĩnh vực như khai thác, nuôi trồng thuỷ sản chủ yếu là
ở quy mô hộ gia đình nên đã trở thành nguồn thu hút mọi lực lượng lao động, tạo nên
nguồn thu nhập quan trọng góp phần vào sự nghiệp xoá đói giảm nghèo. Các hoạt động
phục vụ như vá lưới, cung cấp thực phẩm, tiêu thụ sản phẩm… chủ yếu do lao động nữ
thực hiện, đã tạo ra thu nhập đáng kể, cải thiện vị thế kinh tế của người phụ nữ, đặc biệt
là ở các vùng nông thôn, miền núi. Riêng trong các hoạt động bán lẻ thuỷ sản, nữ giới
chiếm tỉ lệ lên đến 90%.
7


1.3.Những nhân tố ảnh hưởng tới hoạt động xuất khẩu thuỷ sản
1.3.1. Năng lực sản xuất hàng thuỷ sản của Việt Nam
1.3.1.1. Điều kiện tự nhiên trong việc nuôi trồng và khai thác thuỷ sản

 Điều kiện địa lý:
Việt Nam có diện tích đất liền rộng khoảng trên 330369 km2. Đường bờ biển
của Việt Nam kéo dài từ Móng Cái (Quảng Ninh) đến Hà Tiên (Kiên Giang), đi qua
hơn 13 vĩ độ với nhiều vùng sinh thái khác nhau, nhìn ra Vịnh B ắc B ộ ở phía B ắc,
Thái Bình Dương ở miền Trung và Vịnh Thái Lan ở miền Tây Nam B ộ. Diện tích
vùng nội thuỷ và lãnh hải rộng 226 nghìn km2, diện tích vùng bi ển đặc quy ền kinh
tế hơn 1 triệu km2, gấp 3 lần diện tích đất liền. Vùng biển Việt Nam thu ộc ph ạm vi
ngư trường Trung tây Thái Bình Dương, có nguồn lợi sinh vật phong phú, đa dạng, là
một trong những ngư trường có trữ lượng hàng đầu trong các vùng biển trên thế giới.
Trong vùng viển có 4.000 hòn đảo lớn nhỏ, trong đó có những đảo lớn có dân cư, có
nhiều vịnh, vũng, eo ngách, các dòng hải lưu, vừa là ngư trường khai thác hải sản thuận
lợi, vừa là nơi có nhiều điều kiện tự nhiên để phát triển nuôi biển và xây dựng các khu
căn cứ hậu cần nghề cá. Bên cạnh điều kiện tự nhiên vùng biển, Việt Nam còn có nguồn
lợi thuỷ sản nước ngọt ở trong 2.860 con sông lớn nhỏ, nhiều triệu hecta đất ngập nước,
ao hồ, ruộng trũng, rừng ngập mặn, đặc biệt là ở lưu vực sông Hồng và sông Cửu Long....
Do đó, Việt Nam có nhiều tiềm năng để phát triển nuôi trồng thuỷ sản trên khắp mọi
miền đất nước cả về nuôi biển, nuôi nước lợ và nuôi nước ngọt.

8


 Điều kiện tự nhiên

Đối với thủy sản, có nhiều nhân tố khí hậu như: gió, nhiệt độ, không
khí, môi trường nước, chế độ mưa, độ mặn,… đã ảnh hưởng đến điều
kiện sống khả năng sinh sản và sự di trú của đàn cá, do đó sản lượng
đánh bắt cá cũng bị thay đổi theo. Do ảnh hưởng bão, lũ nên các cửa
biển không ổn định làm ảnh hưởng đến môi trường của vùng đầm phá,
dẫn đến suy giảm đa dạng sinh học.
Lũ lụt, nước biển dâng sẽ tác động mạnh đến hệ thống ao hồ nuôi

trồng thủy sản, làm tăng những điều kiện bất lợi cho việc nuôi tôm, cua,
cá nước lợ do bờ đê, đập bị phá vỡ. ENSO là hiện tượng có ảnh hưởng
đến nghề cá ở Việt Nam. Biến đổi khí hậu làm tăng thêm cường độ của
hiện tượng này, do đó cũng sẽ góp phần đáng kể đến sự thay đổi vị trí
và mật độ các bãi cá thông qua cấu trúc các dòng hải lưu và vùng nước
trồi, nước trụt.


Nguồn tài nguyên thủy sản

- Vùng biển Việt Nam được đánh giá là có chủng loại các động thực vật
biển khá đa dạng và phong phú với khoảng 2000 loại cá biển( trong đó có
130 loài có giá trị kinh tế), 1647 loại giáp xác (trong đó có hơn 70 loài tôm
mang lại giá trị kinh tế cao và cho sản lượng khai thác 50-60 nghìn tấn/năm).
Ngoài ra, vùng biển Việt Nam còn có hơn 2500 loài nhiễm thể như mực,
bạch tuộc ... cho sản lượng khai thác từ 60-70 nghìn tấn/năm. Bên cạnh đó,
Việt Nam không chỉ phong phú với những động thực vật biển có khả năng
mang lại nguồn lợi kinh tế cao mà còn phong phú đa dạng không kém với
những nguồn lợi trong vùng đất liền.
- Nguồn lợi cá nước ngọt bao gồm 554 loài trong 18 bộ, 57 h ọ, 228 gi ống v ới
thành phần giống loài hết sức phong phú

9


- Nguồn lợi cá nước lợ, mặn bao gồm 186 loài chủ yếu v ới nhi ều lo ài có giá tr ị
kinh tế cao như: cá song, cá hồng, cá vược, cá măng, cá cam....
 Lực lượng lao động trong ngành thuỷ sản

Thực tế cho thấy, nguồn lao động trong ngành thuỷ sản khá dồi dào với

số lượng ngày càng gia tăng và khả năng thu hút mạnh từ nguồn lao động
của quốc gia. Số lao động của ngành thuỷ sản tăng liên tục từ 3,12 triệu
người (năm 1996) lên khoảng 3,8 triệu người năm 2001 kể cả lao động thời
vụ. Như vậy mỗi năm đã tăng thêm 100 nghìn người. Tỷ lệ tăng bình quân
số lao động thường xuyên của ngành thuỷ sản là 2,4%/ năm, cao hơn mức
tăng bình quân của cả nước là 2%/ năm. Riêng lĩnh vực nuôi trồng thủy sản,
năm 2006 đã thu hút 1.400.000 lao động (Nguồn: Trung Tâm tin học Bộ
Thủy sản). Đặc biệt, do việc sản xuất thuộc nhiều lĩnh vực như nuôi trồng,
khai thác chủ yếu là quy mô hộ gia đình nên ngành thuỷ sản trở thành nguồn
thu hút lực lượng lao động đáng kể do kết quả hoạt động sản xuất đem lại
hiệu quả kinh tế cao. Bên cạnh đó, lao động trong ngành thuỷ sản không
ngừng được nâng cao tay nghề, hầu hết lao động trong ngành thuỷ sản đều
thạo nghề và có kinh nghiệm lâu năm.
 Hệ thống cơ sở kỹ thuật
Từ năm 1991 đến nay, đánh dấu những bước phát triển trong việc cung cấp hệ thống
cơ sở kỹ thuật phục vụ cho việc khai thác và đánh bắt thuỷ sản. Nếu như trong những
năm đầu, chúng ta chủ yếu sử dụng những tàu thuyền thủ công thì hiện nay khối lượng
tàu thuyền máy ngày càng được sử dụng nhiều. Năm 1991, tàu thuyền máy có 44.347
chiếc, chiếm 59,6%; thuyền thủ công 30.284 chiếc, chiếm 40,4%; đến năm 2003 tổng số
thuyền máy là 83.123 chiếc, tổng công suất đã đạt tới 3.497.457 CV, gấp 5 lần so với
năm 1991. Số tàu thuyền có công suất cao tăng khá nhanh, năm 1997- thời điểm bắt đầu
triển khai chương trình vay vốn tín dụng đầu tư đóng tàu đánh bắt xa bờ, cả nước có
khoảng 5.000 tàu đánh cá xa bờ, đến năm 2000 đã có 5.896 chiếc, năm 2003 có 6.258
chiếc. Năm 2004, toàn ngành thuỷ sản Việt Nam có 85340 tàu thuyền máy chiếm 85%

10


tổng số tàu thuyền các loại với tổng công suất 4721701 CV trong đó có trên 6075 tàu có
công suất 90 CV trở lên. Tổng số tàu khai thác xa bờ là 6258 chiếc với tổng công suất

trên 1 triệu CV. Do đó, tỷ trọng sản phẩm khai thác xa bờ đã tăng nhanh chóng, năm
2003 đã đạt 38,8%. Năm 2005, tổng số tàu thuyền khai thác là 90.880 tàu nâng tổng sản
lượng khai thác hải sản lên 1.995.400 tấn ( Nguồn: Báo cáo Tổng kết hàng năm Bộ Thủy
sản).
Thêm nữa, cơ sở dịch vụ cho việc khai thác thuỷ sản trong những năm gần đây đã có
bước phát triển nhanh chóng, đáp ứng được yêu cầu cơ bản phát triển ngành trong giai
đoạn đổi mới. Việc hình thành và xây dựng các cơ sở dịch vụ phục vụ cho việc khai thác
thuỷ sản diễn biến trên 3 lĩnh vực đó là cơ khí đóng sửa tàu thuyền; bến cảng và dịch vụ
cung cấp nguyên vật liệu; thiết bị và hệ thống tiêu thụ sản phẩm.
1.3.1.2. Năng lực khai thác, nuôi trồng và chế biến thuỷ sản
 Khai thác thuỷ sản
Khai thác thuỷ sản đóng vai trò quan trọng trong việc phát triển ngành thuỷ sản.
Tổng sản lượng khai thác hải sản trong 10 năm qua liên tục tăng. Năm 1990, tổng sản
lượng khai thác mới chỉ đạt 790000 tấn thì đến năm 1997 sản lượng khai thác đã vượt con
số 1 triệu tấn, năm 2000, sản lượng khai thác đạt 1280,6 nghìn tấn, gần gấp đôi sản lượng
năm 1990 và kể từ đó tiếp tục tăng( Trích: Báo cáo Tổng kết hàng năm Bộ Thủy sản).
Biểu đồ 1.1 : Tổng sản lượng khai thác thủy sản từ năm 2000-2006
Đơn vị: nghìn tấn

11


3695.9

6000

3247

5000
4000


2003

2226.9

3073.6
2410.9 2536.3

3000
2000

1280.6 1347.8

1995

2001.7

2005

2006

Tong san luong
thuy san
San luong khai thac

1380.1 1426.2
923

1000
0

2000

2001

2002

2003

2004

§
Nguồn: Báo cáo tổng kết hàng năm của Bộ Thuỷ sản
Tính tới tháng 7/2007, tổng sản lượng của Ngành thủy sản đạt 2.165.485 tấn tăng
6,21% so với cùng kỳ năm 2006, trong đó sản lượng khai thác tăng 2,21% đạt 1.247.900
tấn ( Nguồn: Trung tâm Tin học Bộ Thủy sản).
 Nuôi trồng thuỷ sản
Nghề nuôi trồng thuỷ sản từ chỗ là một nghề sản xuất phụ, mang tính chất tự cấp tự
túc đã trở thành một ngành sản xuất hàng hoá tập trung với trình độ kỹ thuật tiên tiến,
phát triển ở tất cả các thuỷ vực nước ngọt, nước lợ, nước mặn theo hướng bền vững, bảo
vệ môi trường, hài hoà với các ngành kinh tế khác. Diện tích nuôi trồng thuỷ sản tăng đều
đặn theo các năm. Cụ thể, năm 1991 diện tích nuôi trồng thuỷ sản mới đạt 520.000 ha,
sản lượng đạt 335.910 tấn, đến năm 1996 diện tích nuôi trồng thuỷ sản là 585.000 ha, sản
lượng nuôi trồng đạt 411.000 tấn, năm 2000, diện tích nuôi là 652.000 ha, sản lượng đạt
723.110 tấn, năm 2003 sản lượng nuôi trồng đã đạt 1.110.138 tấn với diện tích nuôi trồng
902.900 ha ( Nguồn: Bộ Thủy sản- Tổng cục Thống kê). Năm 2006, toàn ngành thủy sản
đã sử dụng 1.050.000 ha diện tích mặt nước để nuôi trồng thủy sản nâng sản lượng nuôi
trồng lên 3.695.927 tấn ( Nguồn: Báo cáo tổng kết hàng năm Bộ Thủy sản). Tính tới
tháng 7/2007, sản lượng nuôi trồng thủy sản đã tăng 12,19% so với cùng kỳ năm 2006 đạt
12



917.585 tấn ( Nguồn: Trung tâm Tin học Bộ Thủy sản)
Biểu đồ 1.2 : Tổng sản lượng và diện tích nuôi trồng thuỷ sản năm 2000-2006

3000

1050
959.9

2500
955 902.2

2000
1500

902.9

887.5

1694.3

652

1000 723.11

879.1

976.1

2001


2002

1437.4
1150.1
1110.1

Dien tich NTTS
(nghin ha)
San luong
NTTS (nghin
tan)

500
0
2000

2003

2004

2005

2006

§Nguồn: Báo cáo tổng kết hàng năm của Bộ Thuỷ sản
Nuôi trồng thuỷ sản đang từng bước trở thành một trong những ngành sản xuất hàng
hoá chủ lực, phát triển rộng khắp và có vị trí quan trọng và đang tiến đến xây dựng các
vùng sản xuất tập trung. Các đối tượng có giá trị cao có khả năng xuất khẩu đã được tập
trung đầu tư, khuyến khích phát triển, hiệu quả tốt. Phát huy được tiềm năng tự nhiên,

nguồn vốn và sự năng động sáng tạo trong doanh nghiệp và ngư dân.
 Chế biến hàng thủy sản xuất khẩu
Chế biến xuất khẩu là lĩnh vực phát triển rất nhanh, Việt Nam đã tiếp cận với trình
độ công nghệ và quản lý tiên tiến của khu vực và thế giới trong một số lĩnh vực chế biến
thuỷ sản. Sản phẩm thuỷ sản xuất khẩu đảm bảo chất lượng và có tính cạnh tranh, tạo
dựng được uy tín trên thị trường thế giới. Các cơ sở sản xuất không ngừng được gia tăng,
đầu tư, đổi mới, được mở rộng ra khắp vùng miền và huy động được sự tham gia của
nhiều thành phần kinh tế khác nhau. Đến tháng 11/2007, cả nước đã có 439 nhà máy chế
biến thủy sản xuất khẩu. Chất lượng sản phẩm thuỷ sản không ngừng được nâng lên do

13


các cơ sở chế biến ngày càng hiện đại, công nghiệp tiên tiến, quản lý theo tiêu chuẩn
quốc tế. Từ 18 doanh nghiệp năm 1999, đến nay đã có 171 doanh nghiệp Việt Nam được
đưa vào danh sách I xuất khẩu vào EU, 300 doanh nghiệp áp dụng quy trình quản lý chất
lượng sản phẩm theo HACCP, đủ tiêu chuẩn xuất khẩu vào thị trường Mỹ, 222 doanh
nghiệp đạt tiêu chuẩn xuất khẩu sản phẩm vào Hàn Quốc, 295 doanh nghiệp đạt tiêu
chuẩn xuất khẩu vào Trung Quốc...(Nguồn: Sở Thủy sản Hải Phòng). Bên cạnh các
doanh nghiệp nhà nước, các doanh nghiệp chế biến xuất khẩu thuỷ sản của tư nhân phát
triển mạnh trong thời gian qua, nhiều doanh nghiệp thuộc thành phần kinh tế tư nhân đã
có giá trị kim ngạch xuất khẩu thuỷ sản hàng đầu, một số doanh nghiệp chế biến xuất
khẩu đã có kim ngạch xuất khẩu trên dưới 100 triệu USD mỗi năm.
Bên cạnh đó, hiện nay ngành thuỷ sản đang từng bước áp dụng phương pháp quản lý
an toàn chất lượng tiên tiến HACCP vào sản xuất. Đây là phương pháp quản lý chất
lượng tiên tiến của Mỹ và EU, Canada để nâng cao chất lượng và giá trị xuất khẩu hàng
thuỷ sản.
1.3.2. Hàng rào kỹ thuật của quốc gia nhập khẩu
Rào cản kỹ thuật là các yêu cầu hàng hoá nhập khẩu phải đáp ứng một hệ thống các
tiêu chuẩn về quy cách, mẫu mã, bao bì, nhãn mác, chất lượng, an toàn, vệ sinh, mức độ ô

nhiễm, an toàn đối với người lao động, quy định về quản lý....Tùy theo tình hình kinh tế
của từng quốc gia mà mỗi quốc gia lại áp dụng những tiêu chuẩn kỹ thuật khác nhau
trong đó bao gồm:
+ Tiêu chuẩn chất lượng sản phẩm: hàng hoá xuất khẩu khi muốn xâm nhập vào thị
trường các nước đầu tiên cần đáp ứng được các chỉ tiêu quốc tế như: ISO, H ACCP...
+ Tiêu chuẩn về vệ sinh an toàn thực phẩm: Các biện pháp lý về vệ sinh và an toàn
cho người tiêu dùng bao gồm tất cả các văn bản pháp quy có quy định về tiêu chuẩn đối
với hàng hoá cuối cùng, các thủ tục xét nghiệm và phương pháp sản xuất chế biến
+ Tiêu chuẩn về quy cách, bao bì, nhãn mác: Về quy cách sản phẩm, các quốc gia
đưa ra những quy cách khác nhau liên quan đến kích thước, hình dạng thiết kế, chức năng

14


sản phẩm, về bao bì và nhãn mác, các quốc gia yêu cầu ghi đầy đủ thông tin về sản phẩm
đồng thời quy định bao bì phải đảm bảo có khả năng tái sinh và không ô nhiễm môi
trường

15


1.3.3. Hệ thống luật pháp và chính sách quản lý của nhà nước
Hệ thống luật pháp và chính sách quản lý của nhà nước có ảnh hưởng rất lớn đến
hoạt động xuất khẩu thủy sản thông qua các rào cản thương mại của chính phủ:
-

Hàng rào thuế quan

-


Hàng rào phi thuế quan: Cấp giấy phép, hạn ngạch, các quy định về bảo vệ môi

trường, môi sinh, bảo vệ người tiêu dùng, an toàn cho sản xuất cũng như những quy định
về phân phối và tiêu dùng sản phẩm
Ngoài ra, hệ thống luật pháp minh bạch, thông thoáng cũng như các chính sách điều phối
nền kinh tế đúng đắn, đặc biệt là chính sách đối ngoại sẽ là nhân tố quyết định tới khả
năng thu hút, tìm kiếm và hợp tác với các đối tác kinh tế, lựa chọn thị trường tiêu thụ cho
các sản phẩm thủy sản xuất khẩu.
1.3.4. Thị hiếu của người tiêu dùng
Đối với các sản phẩm thuỷ sản, đáp ứng được nhu cầu và thị hiếu của người tiêu
dùng là rất quan trọng. Tuỳ thuộc và từng thị trường mà nhu cầu và thị hiếu là khác nhau.
Thông thường, đối với những sản phẩm thuỷ sản, người tiêu dùng ưu thích sử dụng
những sản phẩm tươi sống, đảm bảo chất lượng và thời gian chế biến nhanh. Mức tiêu thụ
thuỷ sản bình quân đầu người trên thế giới năm 2006 là 16,3kg/ năm, trong đó mức tiêu
thụ thủy sản của các nước EU đạt 23,4 kg/người/năm ( Nguồn: Trung tâm Tin học Bộ
Thủy sản). Do giá trị của thuỷ sản cao nên mức tiêu thụ phụ thuộc rất nhiều vào mức
sống của người dân trên thế giới.
1.4. Tầm quan trọng của việc đẩy mạnh xuất khẩu hàng thủy sản Việt Nam sang thị
trường EU
- Thị trường EU là thị trường có nhu cầu lớn về hàng hóa thủy sản với sự đa dạng
và phong phú về sản phẩm xuất khẩu. Đây là mặt hàng mà EU luôn phải nhập siêu vì sản
xuất trong nước không đáp ứng đủ cho nhu cầu của thị trường nội địa. Số liệu của EC cho
biết, tổng kim ngạch xuất khẩu nông sản và thủy sản của EU năm 2005 là 33 tỷ USD
16


nhưng nhập khẩu hai loại ngành này đến 51,6 tỷ USD. Tốc độ tăng trưởng nhập khẩu
nông sản và thủy sản đạt 8%/năm, riêng cá tăng trưởng trung bình hàng năm từ 2000 2005 là 4,4% và thủy sản chế biến là 4,8%. Tính riêng 2005, EU nhập khoảng 1,3 tỷ Euro
thủy sản. Xuất khẩu thủy sản vào EU là cơ hội của các nước phát triển trong đó có Việt
Nam (Nguồn: Thời báo kinh tế Việt Nam, ngày 20/6/2006).

- Thủy sản đang trở thành món ăn lựa chọn ưu tiên của người Châu Âu. Khu vực
Đông Nam Á là nhà cung cấp thủy sản lớn của EU với tốc độ tăng trưởng xuất khẩu của
ASEAN là 38%/năm. Chính vì vậy, hiện nay EC rất quan tâm đến khu vực xuất khẩu
này và cả các nước đang phát triển khác có tiềm năng bán cá và thủy sản chế biến của
EU. Bên cạnh đó, EC đang có những biện pháp để xúc tiến đưa con cá, con tôm của nước
nghèo vào những nước giàu trong EU. Hỗ trợ kỹ thuật là một trong những biện pháp mà
EU đã và đang áp dụng để giúp các quốc gia trong đó có Việt Nam xuất khẩu hàng thủy
sản sang thị trường này. Ngoài ra, với luật mới của Eu năm 2006 thì các nước xuất khẩu
chỉ cần tiếp cận và thương lượng với một nhà nhập khẩu chính là EC nhưng lại được tiêu
thị sản phẩm ở toàn EU. Do vậy, nó sẽ đem lại nhiều thuận lợi cho Việt Nam khi tiếp cận
vào thị trường EU trong thời gian tới.
- Trong những năm gần đây, hoạt động xuất khẩu thủy sản của Việt Nam luôn đạt
được nhiều thành tích đáng kể. Việt Nam luôn có mặt trong top 10 nước dẫn đầu về xuất
khẩu thủy sản trên thế giới. Những kết quả đó đã tạo ra một vị thế mới cho ngành thủy
sản Việt Nam. Cùng với sự tăng trưởng chung của hoạt động xuất khẩu thủy sản trên các
thị trường thì hoạt động xuất khẩu thủy sản sang thị trường EU thời gian gần đây đã có
những bước khả quan. Đến 6/2007, EU hiện là thị trường nhập khẩu thủy sản lớn nhất
của Việt Nam, chiếm 24,7% tỷ trọng xuất khẩu thủy sản (Nguồn: Trung tâm Tin học Bộ
Thủy sản). Bên cạnh đó, xét về khả năng cạnh tranh của hàng thủy sản Việt Nam trên thị
trường EU thì ta thây: hàng thủy sản của Việt Nam trên thị trường EU có khả năng cạnh
tranh với hàng của Thái Lan trên khía cạnh giá: hàng tôm của Việt Nam đưa vào Eu được
hưởng mức thuế nhập khẩu là 4%, Thái Lan chịu mức 14% gấp 3,5 lần Việt Nam
(Nguồn: Tạp chí Thương mại Thủy sản, số 2/2007). Do vậy, đây sẽ là cơ hội cho Việt
Nam trong thời gian tới để đẩy mạnh hoạt động xuất khẩu sang thị trường EU rộng lớn.
Đồng với, với việc đầy mạnh hoạt động xuất khẩu thủy sản nói chung và đầy mạnh hoạt
17


động xuất khẩu thủy sản sang thị trường EU nói riêng sẽ tạo điều kiện phát triển các vùng
kinh tế, đặc biệt là những vùng kinh tế ven biển theo hướng: tận dụng được nguồn tài

nguyên thủy sản, giải quyết tình trạng thất nghiệp, tạo việc làm, phát triển con người và
công nghiệp hóa ngành kinh tế mũi nhọn.

Chương 2: Thực trạng xuất khẩu thuỷ sản Việt Nam sang
thị trường EU hiện nay

2.1. Khái quát chung về xuất khẩu thuỷ sản Việt Nam trong thời gian
qua
2.1.1.Kim ngạch xuất khẩu thuỷ sản của Việt Nam
Kể từ năm 2000 trở lại đây, đánh dấu sự tăng trưởng vượt bậc của ng ành thu ỷ
sản Việt Nam cả về sản lượng và kim ngạch xuất khẩu. Thuỷ sản vươn lên trở thành
một trong 3 mặt hàng xuất khẩu lớn nhất của Việt Nam hiện nay.
Biểu đồ 2.1: Kim ngạch xuất khẩu thủy sản Việt Nam
trong những năm qua
Đơn vị: Triệu USD

18


4000
3348

3500
3000

2739
2400

2500
2000

1500

1778

2023

2217

1478

1000
500
0
2000

2001

2002

2003

2004

2005

2006

§
(Nguồn: Tổng hợp Tạp chí Thương mại thủy sản - www.fistenet.gov.vn)
Năm 2000 là một năm đáng nhớ của xuất khẩu thuỷ sản Việt Nam với việc kim

ngạch xuất khẩu vượt 1 tỷ USD (đạt 1,4786 tỷ USD về giá trị và 52,3% v ề t ốc độ
tăng). Nguyên nhân chủ yếu làm cho kim ngạch xu ất khẩu thu ỷ sản n ăm 2000 t ăng
mạnh là do giá thuỷ sản trên thế giới tăng và xu ất khẩu thu ỷ sản sang th ị tr ường M ỹ
tăng nhanh. Theo số liệu biểu đồ 2.1 cho thấy, năm 2003 kim ngạch xu ất kh ẩu ti ếp
tục đạt 2,227 tỷ USD tăng 10,74% so với năm 2002. Năm 2004, giá trị kim ngạch đạt
2,4 tỷ USD tăng 7,14% so với năm 2003. Năm 2005, mặc dù thủy sản Vi ệt Nam ti ếp
tục chịu những ảnh hưởng sau các vụ kiện bán phá giá tại thị trường Mỹ, song kim
ngạch xuất khẩu chung của toàn ngành vẫn đạt 2,739 t ỷ USD tăng 10,4% so v ới n ăm
2004. Năm 2006, kim ngạch xuất khẩu đạt mức trên 3 tỷ USD, t ăng 22,2% so v ới
năm 2005. Tính tới tháng 7/2007, kim ngạch xuất khẩu thủy sản đã đạt 1,987 t ỷ
USD. Bên cạnh đó, những năm vừa qua cũng nhìn nhận sự t ăng lên c ủa s ản l ượng
xuất khẩu các mặt hàng thủy sản. Theo bảng số liệu 2.1 cho thấy, năm 2000 mức sản
lượng thủy sản xuất khẩu đạt 291,92 nghìn tấn tăng 26,95% so với năm 1999; thì t ới
năm 2004 đạt sản lượng gần gấp đôi 518,747 nghìn tấn và tới năm 2006 sản lượng
xuất khẩu đã tăng lên 811,51 nghìn tấn tăng 29,42 % so với năm 2005.

19


Bảng 2.1 : Mức độ tăng trưởng sản lượng xuất khẩu thủy sản
giai đoạn 2000-2006
Năm

Sản lượng xuất khẩu

Mức độ tăng trưởng (%)

2000
2001
2002

2003
2004
2005
2006

( 1000 tấn)
291,92
358,83
444,04
458,50
518,747
626,992
811,51

26,95
30,0
23,7
3,3
13,1
20,9
29,42

(Nguồn: Tổng hợp Tạp chí Thương mại thủy sản - www.fistenet.gov.vn)
2.1.2. Cơ cấu mặt hàng xuất khẩu thuỷ sản
Cơ cấu mặt hàng thủy sản xuất khẩu của Việt Nam trong v ài năm qua có nhi ều
thay đổi theo hướng phù hợp hơn so với thế mạnh trong việc nuôi trồng, khai thác và
nhu cầu thị trường ngày càng cao. Các doanh nghiệp xuất khẩu đã chú ý nhiều hơn
đến các mặt hàng giá trị gia tăng và đặt trọng tâm vào việc đa dạng hóa các m ặt
hàng xuất khẩu. Song song với việc phát huy t ối đa các m ặt hàng chủ l ực, nhi ều m ặt
hàng mới đã được đưa vào danh mục xuất khẩu và đáp ứng được các yêu cầu chất

lượng hàng hóa ở các thị trường khác nhau.
Mặc dù phải chịu nhiều áp lực cạnh tranh mạnh mẽ từ các nước xu ất kh ẩu th ủy
sản và các hàng rào kỹ thuật tại các nước nhập khẩu song ngành thủy sản Vi ệt Nam
đã rất nỗ lực tìm hướng đi trong việc giải quyết vấn đề thị trường cho các mặt hàng
thủy sản. Vì vậy, trong những năm qua đánh dấu sự chuyển bi ến tích c ực trong c ơ
cấu các mặt hàng thủy sản xuất khẩu. Năm 2004, c ơ cấu m ặt hàng xu ất kh ẩy th ủy
20


sản chủ yếu của Việt Nam như sau:
- Đối với các sản phẩm tôm: Tôm vẫn giữ vai trò chủ lực, liên t ục t ăng v ề giá
trị xuất khẩu và sản lượng. Giá trị xuất khẩu tôm chiếm 52%, t ăng 17,3% v ề giá tr ị
xuất khẩu, tăng 11,8% về khối lượng so với cùng kỳ năm 2003.
- Đối với các sản phẩm cá: Giá trị xuất khẩu các chiếm 22,8%, tăng 16,2% về
giá trị, tăng 35% về khối lượng so với cùng k ỳ. Giá trị xu h ướng gi ảm. Riêng cá tra,
cá basa chiếm 12,51% tổng giá trị kim ngạch xuất khẩu c ủa to àn ngành v à b ằng
55,3% nhóm sản phẩm.
- Đối với nhóm mực và bạch tuộc: Giá trị xuất khẩu mực và bạch t ộc chi ếm
6,7%, tăng 40,2% về giá trị và tăng 32,1% về khối lượng so với cùng kỳ.
- Đối với sản phẩm thủy sản khô: Giá trị xuất khẩu th ủy sản khô chi ếm 4,2%,
tăng 32,2% về giá trị, tăng 52,4% về khối lượng so với cùng kỳ.
- Các sản phẩm thủy sản khác: Sản lượng các sản phẩm thủy sản khác không ổn
định, giá trị xuất khẩu chưa cao. (Nguồn: Bộ KH&ĐT, Tạp chí dự báo- Kinh t ế xã
hội Việt Nam trước thềm hội nhập)
Sang năm 2006, cơ cấu các mặt hàng xuất khẩu đã có sự thay đổi đánh kể.
Theo bảng số liệu 2.2, năm 2006 tôm vẫn là mặt hàng xuất kh ẩu chủ l ực c ủa n ước
ta, chiếm hơn 44% sản lượng thủy sản xuất khẩu ; cá đông lạnh chiếm hơn 33% tăng
gấp đôi năm 2004, mực và bạch tuộc đông lạnh chiếm hơn 6%.... Trong đó, lượng
các mặt hàng khô và các mặt hàng thủy sản khác mặc dù kim ngạch xuất khẩu tăng
nhưng tăng nhẹ và chiếm tỷ trọng trong cơ cấu m ặt hàng thủy sản xu ất kh ẩu ng ày

càng thấp. Cụ thể, mặt hàng khô từ 14,29 % (năm 2000) xu ống còn 4,24 % n ăm 2004
và 4,2 % năm 2006; đối với các mặt hàng thủy sản khác t ỷ tr ọng gi ảm t ừ 14,07%
năm 2000 xuống còn 13,4 % năm 2004 và 11,3% năm 2006.
Bảng 2.2 : Giá trị kim ngạch thủy sản xuất khẩu theo ngành
Đơn vị: Triệu USD
Sản phẩm

Tôm

Mực và
bạch tuộc
Hàng khô
Thủy sản

2000
654,2
229,7
109,2

2001
761,5
310,1
118,4

2002
966,7
462,8
142,8

2003

1058
466,5
113,9

2004
1261
552,4
162,5

2005
1371,556
687,659
182,253

2006
1460,59
1145,09
222,19

211,3
208

188,5
379

138,3
312,2

73,7
504,4


101,9
323

130,354
367,178

142,2
378,23

21


khác
Tổng KN

1478

1777,5

2022,8

2216,7

2400

2739

3348,3


(Nguồn: Tạp chí Thương mại thủy sản (VASEP)- www.fistenet.gov.vn)
Bảng 2.3: Tỷ trọng các mặt hàng xuất khẩu theo ngành
Đơn v ị: %


Mực và

2000
44,36
15,54
7,5

2001
42,84
17,45
6,66

2002
47,8
22,88
7,06

2003
47,73
21,04
5,14

2004
52,54
23,02

6,77

2005
50,07
25,1
6,65

2006
43,62
34,2
6,64

bạch tuộc
Hàng khô
Thủy sản

14,4
14,2

10,6
22,45

6,84
15,42

3,32
22,77

4,24
13,43


4,76
13,42

4,25
11,29

khác
Tổng

100

100

100

100

100

100

100

Sản phẩm

Tôm

(Nguồn: Tạp chí Thương mại thủy sản (VASEP)- www.fistenet.gov.vn)


Tới tháng 7/2007, mặt hàng tôm đông lạnh vẫn đứng đầu trong thuỷ sản xuất
khẩu, với 670,29 triệu USD, nhưng thị phần lại giảm chút ít. Cá tra và cá ba
sa tiếp tục là mặt hàng xuất khẩu quan trọng thứ 2, đạt 534,45 triệu USD. Cá
đông lạnh chiếm vị trí thứ 3, đạt 156,67 triệu USD. Mặt hàng nhuyễn thể các
loại đứng thứ 4, tăng 20,31% so với cùng kỳ năm 2006, đạt 177,98 triệu
USD. Mặt hàng cá ngừ tăng 25,41% so với cùng kỳ 2006, đạt 87,13 triệu
USD (Thống kê Bộ Thủy sản).
Trước đây, các sản phẩm thủy sản của Việt Nam xu ất khẩu ở dạng sơ chế
chiếm hơn 90% lượng hàng xuất khẩu, tỷ trọng sản phẩm có giá trị gia t ăng th ấp. Do
có nhiều nỗ lực trong việc đa dạng hóa sản phẩm thủy sản nên hiện nay c ơ cấu xu ất
khẩu thủy sản đã có sự chuyển dịch mạnh m ẽ theo h ướng t ăng t ỷ trọng nuôi tr ồng,
tăng tỷ trọng sản phẩm có giá trị cao. Nếu năm 2000, tỷ trọng sản phẩm chế biến có
giá trị gia tăng chỉ đạt gần 8% thì đến năm 2001 đã tăng lên 35% và đến năm 2006
là 40-45%. Tới năm 2006 giá trị xuất khẩu thủy sản đạt 3348,3 triệu USD (Tạp chí
Thương mại Thủy sản ( VASEP)- Bộ Thủy sản 2006).
2.1.3. Thị trường xuất khẩu thuỷ sản của Việt Nam
22


Trong những năm gần đây, cùng với việc gia tăng kim ngạch xuất kh ẩu, thị
trường xuất khẩu thuỷ sản của Việt Nam cũng ngày càng được mở rộng và đa dạng.
Đến nay, hàng thủy sản xuất khẩu của Việt Nam đã có mặt t ại 105 qu ốc gia v à vùng
lãnh thổ. Tuy nhiên, giá trị kim ngạch xuất khẩu ch ỉ t ập trung v ào m ột s ố th ị tr ường
chính, trong đó riêng 5 thị trường Nhật, EU, Mỹ, Trung Qu ốc và ASEAN chi ếm h ơn
80% kim ngạch xuất khẩu thủy sản của cả nước.

Biểu đồ 2.2: Tỷ trọng xuất khẩu thủy sản của Việt Nam
sang các thị trường năm 2006

24.5


19.9
My
Nhat Ban
EU

4.5

ASEAN
25.2

4.3

Trung Quoc
Nuoc khac

21.6

§
(Nguồn: Tạp chí Thương Mại Thủy sản số tháng 2/2007)
Nhìn vào biểu đồ 2.2 ta thấy, năm 2006, thị trường xuất khẩu thủy sản lớn
nhất của Việt Nam là Nhật Bản với kim ngạch đạt 842,614 triệu USD chi ếm 25,2%,
thứ hai là thị trường EU với kim ngạch 723,505 triệu USD chiếm 21,6% v à đứng th ứ
ba là Mỹ với kim ngạch đạt 664,340 triệu USD chiếm 19,9%. Trong thời gian gần
đây, Trung Quốc (cả Hồng Kông) đang nổi lên như một thị trường thu hút hàng xu ất
khẩu thủy sản Việt Nam với kim ngạch tăng từ 291,730 triệu USD n ăm 2000 đã t ăng
lên tới 145,573 triệu USD năm 2006 (Trung tâm Tin học- B ộ Th ủy sản). Bên c ạnh đó,
thị trường ASEAN là thị trường truyền thống và rất gần chúng ta v ề mặt địa lý song
23



giá trị kim ngạch xuất khẩu sang ASEAN còn khá nhỏ so v ới tổng kim ngạch xu ất
khẩu thủy sản của cả nước và có xu hướng giảm trong vài năm tr ở l ại đây. N ăm
2004, kim ngạch xuất khẩu thủy sản của Việt Nam sang thị trường ASEAN là 165,681
triệu USD (chiếm 7,02%) đã giảm xuống còn 150,961 triệu USD năm 2006 (chi ếm
4,5%).
Tính tới tháng 7/2007, trong cơ cấu thị trường xuất khẩu thủy sản của Việt Nam
có nhiều sự thay đổi. Thị trường EU từ vị trí thứ 2 năm 2006 đã vươn lên vị trí thứ 1,
đạt 500 triệu USD, chiếm 25,17% thị phần về giá trị (năm 2006 l à 21,6%). Thị tr ường
Mỹ trở lại với vị trí thứ 2, chiếm tỷ trọng 19,58% về giá trị (389,06 triệu USD). Thị
trường Nhật Bản tụt xuống vị trí thứ 3, chiếm 18,7% về giá trị , đạt 371,5 triệu USD
nguyên nhân là những tháng đầu năm Nhật Bản tiến hành kiểm soát nghiêm ng ặt
đối với thủy sản Việt Nam. Kim ngạch xuất khẩu vào thị tr ường ASEAN đạt 103,6
triệu USD, chiếm thị phần 5,21% về giá trị, tăng 33,14% so với cùng k ỳ năm tr ước.
Thị trường Trung Quốc và Hồng Kông tăng 25,04%, đạt 93,24 triệu USD chiếm 4,7%.
Điều này cho thấy một sự tăng trưởng khả quan của hàng thủy sản Việt Nam trong
thời gian tới (Thống kê của Bộ Thủy sản).
2.2. Tình hình xuất khẩu thuỷ sản của Việt Nam sang thị trường EU hiện nay
2.2.1.Những nét chung về thị trường thuỷ sản EU
2.2.1.1. Tình hình xuất nhập khẩu thủy sản của EU hiện nay
Liên minh Châu Âu (EU) hiện nay bao gồm 27 thành viên, là m ột khối liên k ết
kinh tế chặt chẽ và sâu sắc nhất thế giới và cũng là một khu v ực phát tri ển kinh t ế
ổn định và có đồng tiền riêng khá vững chắc. Mặt khác, thị trường EU được xác
định là một thị trường có nhu cầu lớn, đa dạng và phong phú về sản phẩm. Đây là thị
trường liên kết chặt chẽ thành một khối mậu dịch thống nhất mạnh hạng nh ất th ế
giới, có sức mua lớn, ổn định và cũng là một thị trường khó tính về tiêu dùng các
mặt hàng nói chung và mặt hàng thủy sản nói riêng.
Trong những năm gần đây, EU là một trong ba thị trường xuất nhập khẩu thủy
sản lớn nhất thế giới cùng với Nhật Bản và Mỹ. Đặc điểm nổi bật trong ho ạt động
thương mại thủy sản của các nước EU là kinh doanh xu ất nhập khẩu thủy sản chủ

yếu được diễn ra trong nội bộ các nước thành viên nội khối (83%). Hi ện nay, EU
nhập khẩu thủy sản từ trên 180 quốc gia trên thế giới v à l à th ị tr ường nh ập kh ẩu

24


thủy sản lớn nhất với sản lượng là 9,7 triệu t ấn với giá trị l à 23.791 tri ệu EUR (s ố
liệu năm 2004). Tây Ban Nha, Pháp, Đức, Italy, Anh là những thị trường nhập khẩu
chính, giá trị nhập khẩu thủy sản hàng năm vượt 1 t ỷ USD và các n ước n ày c ũng
chiếm gần 80% giá trị nhập khẩu thủy sản của EU.
Bảng 2.4.Giá trị nhập khẩu thủy sản của EU
Đơn vị: triệu ECU/ EUR
Tên nước
EU-25
EU-15
Ailen
Anh
Áo
Ba Lan
Bỉ
Bồ Đào Nha
Đan Mạch
Đức
Hà Lan
Hy Lạp
Italy
Luxămbua
Phần Lan
Pháp
Tây Ban Nha

Thụy Điển

2000
22.645
21.969
124
2.383
179

2003
24.182
23.411
109
2.245
216

1.138
963
1.942
2.560
1.372

1.226
1.009
1.929
2.420
1.587

2.812
77

132
3.329
3.831
771

3.219
68
162
3.427
4.452
931

2004
23.791
22.918
111
2.284
242
242.770
1.243
1.017
1.851
2.246
1.483
356
3.146
67
166
3.402
4.216

1.053
(Nguồn trích : eurostat)

Bảng 2.5: Xuất khẩu thủy sản của Việt Nam sang EU năm 2005
Nước
Bỉ
Đức
Italia
Tây Ban Nha
Hà Lan
Pháp
Anh
Ba Lan
Bồ Đào Nha
Đan Mạch

Kim ngạch xuất khẩu
(triệu USD)
76,48
67,81
62,2
53,66
41,03
38,44
38,26
13,76
7,35
5,89

Sản lượng xuất khẩu

(nghìn tấn)
23,71
20,68
19,9
19,5
10,64
7,65
6,1
5,76
2,87
1,64

( Nguồn: Trung tâm Tin học Thủy sản ngày 2/7/2007)

25


×