Tải bản đầy đủ (.doc) (33 trang)

skkn đổi mới PP giảng dạy bài thể dục phát triển chung lớp 5 theo mô hình trường học mới VNEN

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (4.13 MB, 33 trang )

UBND

ỦY BAN NHÂN DÂN THỊ XÃ CHÍ LINH
SỞ GIÁO DỤC VÀ ĐÀO TẠO
PHÒNG GIÁO DỤC & ĐÀO TẠO

Sáng kiến
Một số biện pháp dạy học giúp học sinh
nâng cao chất
thực
hiện
động tác bài
BẢNlượng
MÔ TẢ
SÁNG
KIẾN
thể dục phát triển chung lớp 5 theo mô hình
VNEN.
Đổi mới phương pháp
giảng dạy bài thể dục
phát triển chung lớp 5 theo mô hình trường
học mới Việt Nam (VNEN).
Môn: Hoạt động giáo dục thể chất

Năm học
- 2015
Năm
học2014
2014
- 2015


1


Phần 1
Thông tin chung về sáng kiến
1. Tên sáng kiến: Đổi mới phương pháp giảng dạy bài thể dục phát
triển chung lớp 5 theo mô hình trường học mới Việt Nam (VNEN).
2. Lĩnh vực áp dụng sáng kiến: Một số biện pháp dạy giúp nâng cao
chất lượng thự hiện động tác bài thể dục phát triển chung lớp 5 theo mô hình
VNEN.
3. Tác giả: Họ và tên: Nguyễn Thùy Dung.

Nữ

Ngày tháng năm sinh: 1/2/1985.
Trình độ chuyên môn: Đại học.
Chức vụ, đơn vị công tác: Giáo viên thể dục trường Tiểu học Bến Tắm.
Điện thoại: 072.494.858.
4. Chủ đầu tư tạo ra sáng kiến: Trường Tiểu học Bến Tắm
5.Đơn vị áp dụng sáng kiến lần đầu: Trường Tiểu học Bến Tắm.
Địa chỉ: Trường Tiểu học Bến Tắm thị xã Chí Linh tỉnh Hải Dương.
Điện thoại : 03203 887 038.
6. Các điều kiện cần thiết để áp dụng sáng kiến:
6.1. Đối với dụng cụ và sân tập: Tăng cường kênh hình để mô tả các động
tác khó. Sân bãi cần đủ theo tiêu chuẩn dụng cụ tập luyện: Đủ các dụng cụ cần
thiết và phải đúng theo tiêu chuẩn.
6. 2. Đối với giáo viên: Nắm vững các nội dung, yêu cầu, phương pháp
tập bài thể dục phát triển chung lớp 5. Nhiệt tình tâm huyết với chuyên môn,
thành thạo trong việc làm mẫu và có năng lực sư phạm.
6.3. Đối với học sinh: Hứng thú học tập bộ môn, tích cực học tập rèn

luyện thân thể.
7. Thời gian áp dụng sáng kiến lần đầu: Năm học 2013 - 2014.
HỌ TÊN TÁC GIẢ

XÁC NHẬN CỦA CƠ QUAN ÁP DỤNG
SÁNG KIẾN

Nguyễn Thùy Dung .............................

2


TÓM TẮT SÁNG KIẾN
1. Hoàn cảnh nảy sinh sáng kiến:
Giáo dục Việt Nam đang thực hiện đổi mới căn bản toàn diện, nhằm đáp
ứng yêu cầu của công nghiệp hóa, hiện đại hóa và hội nhập quốc tế. Để thực
hiện đổi mới căn bản toàn diện giáo dục Việt Nam, Bộ Giáo dục và Đào tạo chỉ
đạo đổi mới giáo dục tiểu học. Sau khi nghiên cứu mô hình trường học mới do
UNESCO và Ngân hàng thế giới giới thiệu, Bộ trưởng Bộ Giáo dục và Đào tạo
nhận thấy những nhân tố của mô hình trường học mới đã có ở Việt Nam, những
yếu tố tích cực của mô hình trường học mới phù hợp với định hướng đổi mới
của giáo dục Việt Nam nên đã quyết định triển khai mô hình trường học mới tại
Việt Nam.
Dự án triển khai thí điểm mô hình trường học tại Việt Nam được Bộ Giáo
dục triển khai thí điểm tại trường Tiểu học nơi tôi công tác là trường duy nhất
trên địa bàn tỉnh được tham gia dự án. Dự án thực hiện được gần 4 năm, có
nhiều nội dung của mô hình đã được vận dụng song nội dung tổ chức dạy học
hoạt động giáo dục thể chất theo mô hình VNEN được triển khai tới lớp 5 năm
học 2014 - 2015.
Trong hoạt động giáo dục thể chất bài thể dục phát triển chung lớp 5 giúp

cho học sinh rèn luyện các tư thế cơ bản, thông qua đó giúp cho các em khắc
phục được những tư thế lệch lạc của cơ thể do điều kiện di truyền, ngoại cảnh
tác động. Để làm được điều đó, yêu cầu người giáo viên cần phải có các biện
pháp dạy học hợp lí, khoa học, yêu nghề, có tinh thần trách nhiệm cao... Phương
pháp dạy học thì rất đa dạng và phong phú. Nhưng phải sử dụng nó như thế nào
để đạt mục tiêu giáo dục đề ra là vấn đề cần quan tâm. Qua thực tế giảng dạy bài
thể dục phát tiển chung lớp 5 nhiều năm, tôi đã tìm hiểu và đã sử dụng có hiệu
quả các biện pháp dạy học nâng cao chất lượng thực hiện động tác cho học sinh.
Đó là sáng kiến: “Đổi mới phương pháp giảng dạy bài thể dục phát triển
chung lớp 5 theo mô hình trường học mới Việt Nam (VNEN). Sáng kiến này
đưa ra một số biện pháp dạy học hoạt động giáo dục thể chất theo mô hình
VNEN
2. Điều kiện, thời gian, đối tượng áp dụng sáng kiến:
Từ tháng 9 năm 2014 đến tháng 1 năm 2015 dự án mô hình trường học
mới áp dụng cho tất cả học sinh khối 5 của nhà trường tôi đã áp dụng thành công
mang lại kết quả hữu hiệu nhất cho học sinh khi thực hiện bài thể dục phát triển
chung.
3, Nội dung sáng kiến:
3.1. Tính mới, tính sáng tạo của sáng kiến:
Sáng kiến đưa ra hệ thống phương pháp dạy học nhằm nâng cao chất bài
thể dục phát triển chung lớp 5 theo mô hình trường học mới VNEN.
Từ phương pháp dạy học truyền thống học sinh là người thụ động tiếp thu
lĩnh hội kiến thức sang phương pháp mới VNEN học sinh là người chủ động, tự

3


giác, tích cực tự làm việc với sách, tranh ảnh, có sự tương tác với bạn dưới sự
hướng dẫn giáo viên khi cần thiết. Qua các trải nghiệm từng tiết học tự trao đổi,
tư duy, nắm được kiến thức một cách chắc chắn và bền vững.

3.2. Khả năng áp dụng của sáng kiến.
Sáng kiến: Đổi mới phương pháp giảng dạy bài thể dục phát triển
chung lớp 5 theo mô hình trường học mới Việt Nam (VNEN). Giúp học sinh
rèn luyện các tư thế cơ bản, thông qua đó giúp cho các em khắc phục được
những tư thế lệch lạc của cơ thể.
Thông qua hoạt động giáo dục thể chất theo mô hình này các em được nhận
xét đánh giá lẫn nhau, được đề xuất ý kiến với thầy cô, cha mẹ, nhà trường, bạn
bè thông qua các hoạt động tương tác... Từ đó các em có thái độ học tập nghiêm
túc hơn, hứng thú hơn có nhiều cơ hội độc lập suy nghĩ, bộc lộ ý kiến. Kĩ năng
giao tiếp của học sinh được nâng lên rõ rệt, các em sẽ tự tin, tự quản hơn..
4. Khẳng định giá trị, kết quả của sáng kiến:
Sau thời gian áp dụng sáng kiến “Đổi mới phương pháp giảng dạy bài
thể dục phát triển chung lớp 5 theo mô hình trường học mới Việt Nam
(VNEN)” đã có nhiều giáo viên trong và ngoài thị xã tới dự giờ học tập đã đánh
giá cao, ghi nhận sự cố gắng và hướng đi đúng đắn của nhà trường theo mô hình
này. Cụ thể các kĩ năng của học sinh trở nên thuần thục và linh hoạt, các động
tác thể dục đã dứt khoát, kĩ thuật khá chuẩn mực. Học sinh vui vẻ, phấn khởi,
tích cực tập luyện, các em có cơ hội được khẳng định mình trước tập thể, nâng
cao được khả năng vận động của chính mình, tạo sự ham mê học tập, yêu thích
giờ học. Giờ học thực sự là nhu cầu, là niềm vui của học sinh, từ đó chất lượng
tiết học được nâng lên rõ rệt.
5. Đề xuất, kiến nghị:
Sáng kiến “Đổi mới phương pháp giảng dạy bài thể dục phát triển
chung lớp 5 theo mô hình trường học mới Việt Nam (VNEN)” cần được áp
dụng rộng rãi cho học sinh lớp 5 trên địa bàn toàn tỉnh.
Các trường trong thị xã cần mạnh dạn hơn, tích cực chỉ đạo việc nhân
rộng số lượng các trường tham gia mô hình trường học mới vì đây chính là cơ
sở, tiền đề cho việc đổi mới căn bản, toàn diện chương trình giáo dục đào tạo mà
Nghị quyết số 29 -NQ/TW ngày 04/11/2013 BCH TW Đảng khóa XI đã đề ra.


4


Phần 2
Mô tả sáng kiến
1. Lý do chọn đề tài.
1.1. Cơ sở lí luận.
Chương trình Thể dục cấp tiểu học lấy mục tiêu sức khoẻ, thể lực của học
sinh là mục tiêu số 1 và quan trọng nhất. Thực hiện theo chương trình hoạt động
giáo dục thể chất tiểu học sẽ góp phần:
Bảo vệ và tăng cường sức khoẻ cho học sinh, phát triển các tố chất về thể
lực, tiếp tục hình thành thói quen thường xuyên luyện tập thể dục thể thao.
Trang bị cho học sinh một số hiểu biết những kỹ năng cơ bản về đội hình
đội ngũ, về thể dục rèn luyện thân thể và kĩ năng vận động cơ bản, củng cố thêm
vốn kĩ năng vận động cần thiết thường gặp trong đời sống hàng ngày như: đi,
chạy, nhảy, ném, mang, vác... Được phù hợp với khả năng, đặc điểm tâm sinh lý
của lứa tuổi.
Giáo dục và rèn luyện cho các em có được nề nếp luyện tập thể dục thể
thao có được ý thức giữ gìn vệ sinh cá nhân và nếp sống vui tươi lành mạnh, có
tính kỉ luật cao trong luyện tập là việc làm hết sức quan trọng. Mô hình trường
học mới VNEN trong hoạt động giáo dục thể chất đề cao tính tích cực tự học
của học sinh, lấy học sinh là trung tâm của các hoạt động giáo dục.
Học sinh tự học với sách, tranh ảnh, có sự tương tác với bạn, nhóm bạn
( với sự hướng dẫn của giáo viên khi cần thiết).
Mô hình hướng tới chuyển các hoạt động giáo dục trong nhà trường thành
các hoạt động tự giáo dục cho học sinh; đổi mới hoạt động sư phạm, tổ chức và
hướng dẫn học sinh tự học, tăng cường liên hệ và ứng dụng kiến thức vào thực
tế; đổi mới đánh giá, chú trọng đánh giá quá trình học tập của học sinh; cha mẹ
học sinh, cộng đồng là nhân tố tham gia giáo dục học sinh.
Mô hình trường học mới trong hoạt động thể dục hướng tới giáo dục toàn diện

thể hiện ở ba nội dung:
Hình thành cho học sinh những kiến thức, kĩ năng theo mục tiêu chương trình
hoạt động giáo dục thể chất là cơ sở cho sự phát triển nhân cách của mỗi con
người.
Hình thành và phát triển những năng lực cơ bản cho học sinh: khả năng tự
phục vụ, tự quản; giao tiếp, hợp tác, tự học và giải quyết vấn đề.
Hình thành các phẩm chất cơ bản của học sinh: Lễ phép, kính trọng thầy
cô, người lớn, đoàn kết yêu quý bạn bè; tự tin, tự trọng, tự chịu trách nhiệm;
trung thực, kỉ luật; chăm học, chăm làm yêu thích nghệ thuật, thể thao.
Vì đặc điểm tâm sinh lý lứa tuổi học sinh tiểu học các em còn nhỏ khả
năng ghi nhớ động tác, tư duy động tác còn chậm, còn ham chơi. Hơn nữa bài
tập thể dục phát triển chung hơi khô khan không thu hút sự tập trung chú ý của
các em chính vì vậy tôi đã tìm tòi nghiên cứu sáng kiến “Đổi mới phương pháp
giảng dạy bài thể dục phát triển chung lớp 5 theo mô hình VNEN” nhằm
góp phần nâng cao chất lượng hoạt động giáo dục thể chất nói chung và chất
lượng bài thể dục phát triển chung lớp 5 nói riêng.

5


1.2. Cơ sở thực tiễn.
Trong mô hình trường học mới, học sinh không còn là nhân vật thụ động
lắng nghe, ghi nhớ, học thuộc những điều thầy cô truyền thụ. Học sinh thực sự
là chủ thể của quá trình học tập: tự học theo sách, chia sẻ hợp tác với bạn, trao
đổi trong nhóm và báo cáo với giáo viên. Quy trình học tập trong mô hình
trường học mới trong hoạt động giáo dục thể chất hình thành cho học sinh thói
quen tự giác, tự quản; khả năng tự học, tự đánh giá và đánh giá bạn bè; lắng
nghe, chia sẻ và hợp tác. Tự học là môi trường, động lực biến quá trình đào tạo
thành tự đào tạo.
Trong hoạt động giáo dục thể chất nội dung bài thể dục phát triển chung lớp

5 gồm 8 động tác: Vươn thở, Tay, Chân, Vặn mình, Toàn thân, Thăng bằng,
Nhảy và Điều hòa. Bài thể dục này giúp học sinh rèn luyện các tư thế cơ bản,
thông qua đó giúp cho các em khắc phục được những tư thế lệch lạc của cơ thể
do điều kiện ngoại cảnh tác động. Do đó giáo viên cần chú ý uốn nắn sửa chữa
những tư thế còn sai lệch cho học sinh. Cần có biện pháp dạy học thích hợp để
nâng cao chất lượng thực hiện động tác đó là chuẩn nhịp điệu, đều và đẹp hơn.
Nội dung kĩ thuật của bài thể dục tương đối đơn giản, nhưng phải tập đúng,
tập thường xuyên mới thành thói quen tốt, cho nên khi giảng dạy chú ý đúng
biên độ và nhịp điệu, ôn tập thường xuyên và vận dụng vào những hoạt động
thường ngày, không được làm qua loa, đại khái dễ thành thói quen xấu cho học
sinh. Dạy phối hợp với các nội dung khác để giờ học thêm sinh động, hấp dẫn và
hiệu quả hơn.
Trong quá trình tập bài thể dục học sinh thực hiện chất lượng kĩ thật động
tác chưa cao thể hiện ở các việc cụ thể sau:
- Không thực hiện đúng phương hướng, biên độ động tác, các động tác giơ
tay lên cao các em không đưa tay lên hết biên độ hoặc co tay, cúi đầu.
- Không thực hiện động tác hít vào và thở ra hoặc nhịp hô nhanh quá các
em không thực hiện kịp…
Trong năm học vừa qua, nhận thấy được tầm quan trọng của bài thể dục
phát triển chung với học sinh, tôi đã tích cực áp dụng các biện pháp dạy học theo
hướng đổi mới theo mô hình VNEN hình thức tổ chức lên lớp khoa học, hợp lý,
học sinh tích cực, tự khai thác và làm chủ kiến thức và khi áp dụng tôi thấy sáng
kiến mang lại lợi ích thiết thực:
+ Học sinh thực hiện các động tác của bài thể dục tốt hơn: Học sinh thực
hiện đúng động tác, đúng phương hướng biên độ và đúng nhịp điệu của bài.
Nhìn một cách tổng quát tôi thấy các em thực hiện đều, có nhịp điệu và đẹp hơn
so với cách dạy cũ.
+ Học sinh làm chủ được giờ học, có sự tăng tiến về sức khoẻ, thể lực.
+ Nâng cao tinh thần đoàn kết, giúp đỡ nhau trong tập luyện. Rèn luyện
tác phong nhanh nhẹn, kỉ luật, nếp sống lành mạnh, thói quen tự giác rèn luyện

thể dục thể thao và giữ gìn vệ sinh.
+ Phát triển tư duy, sự sáng tạo của học sinh trong tổ chức học tập nhằm
giải quyết các vấn đề, yêu cầu, nội dung giờ học mà giáo viên đưa ra.

6


+ Cụ thể hoá tiết dạy, có phương pháp giảng dạy thích hợp phù hợp với
từng tiết, từng nội dung cụ thể, phù hợp với khả năng vận động của học sinh
tránh được lượng vận động quá ít hoặc quá nhiều cũng như nội dung không cần
thiết trong từng tiết học cụ thể.
+ Đặc biệt học theo mô hình VNEN này học sinh có khả năng làm cán sự
tốt, các em có thể điều hành cả lớp hay từng tổ, nhóm tập luyện, tự tổ chức thi
đua và có thể nhận xét đánh giá các đội một cách thành thạo. Làm cho các em tự
tin hơn trong giao tiếp biết đặt câu hỏi và trả lời đúng trọng tâm câu hỏi của cán
sự…
Làm tốt được những yêu cầu trên giáo viên là người hướng dẫn học sinh
nắm được kiến thức với lượng vận động cần và đủ của tiết học. Qua đó hình
thành ở học sinh sự đam mê, hưng phấn trong tập luyện, nâng cao khả năng tự
học, tự bồi dưỡng và thể hiện khả năng của mình trong tập thể, góp phần đổi
mới phương pháp giáo dục, giáo dục nhân cách, đạo đức cho học sinh trong thời
đại mới.
Xuất phát từ cơ sở lí luận và thực tiễn trên, tôi viết sáng kiến “Đổi mới
phương pháp giảng dạy bài thể dục phát triển chung lớp 5 theo mô hình
VNEN” để các bạn đồng nghiệp cùng tham khảo và góp ý.
2. Mục đích đối tượng nghiên cứu.
2.1. Mục đích nghiên cứu.
- Tìm ra những phương pháp hữu hiệu nhất nhằm nâng cao chất lượng dạy học
và đổi mới phương pháp dạy bài thể dục phát triển chung lớp 5 theo mô hình trường
học mới Việt Nam.

- Phát triển và bồi dưỡng tư duy sáng tạo của học sinh, nâng cao tính tích
cực tự giác chủ động trong luyện tập, phát huy các tố chất thể lực của học sinh.
- Hình thành và phát triển cho học sinh việc tổ chức, điều khiển hoạt động
trong tiết hoạt động giáo dục thể chất..
- Xây dựng và góp phần hình thành nhân cách, rèn luyện đạo đức cho học
sinh.
- Giáo viên điều chỉnh lượng vận động, yêu cầu, nội dung từng tiết phù
hợp với khả năng của học sinh, nâng cao chất lượng giờ hoạt động giáo dục thể
chất...
Tạo hứng thú, lòng ham mê học tập, sự tự tin và nâng cao kĩ năng sống
cho học sinh trong nhà trường.
Phát hiện bồi dưỡng những học sinh có năng khiếu thực hiện tốt các động
tác trong bài thể dục để xây dựng đội tuyển Aerobic nhà trường tham gia hội thi
các cấp.
2.2. Đối tượng nghiên cứu.
- Là học sinh khối lớp 5 bậc tiểu học
3. Phương pháp nghiên cứu.

7


3.1 Phương pháp nghiên cứu lý luận.
3.2 Phương pháp nghiên cứu thực tiễn.
- Phương pháp đọc.
- Phương pháp phân tích và tổng hợp tài liệu
- Phương pháp tập luyện
- Phương pháp đối chứng.
- Phương pháp quan sát, sửa sai.
- Phương pháp toàn bộ (hoàn chỉnh)
- Phương pháp phân chia.

- Phương pháp tổng hợp, thống kê.
- Phương pháp trực quan trực tiếp và trực quan gián tiếp.
4. Phạm vi, thời gian thực hiện.
4.1. Phạm vi đề tài.
Trong phạm vi sáng kiến này tôi chú trọng đi sâu nghiên cứu tìm hiểu các
phương pháp dạy học theo mô hình VNEN giúp học sinh nâng cao chất lượng
bài thể dục phát triển chung lớp 5.
4.2. Thời gian áp dụng đề tài.
Sáng kiến này tôi đã áp dụng từ tháng 9 năm học 2014 đến tháng 1 năm
2015.
4.3 Thực trạng giảng dạy và tập luyện bài thể dục phát triển chung của nhà
trường.
4.3.1* Thuận lợi:
- Giáo viên trẻ, năng động nhiệt tình, ham học hỏi khám phá, phát triển các
môn thể thao mới.
- Học sinh ngoan ngoãn, hăng hái, nhiệt tình tham gia tập luyện thể dục thể
thao góp phần nâng cao sức khỏe, thể lực.
- Ban giám hiệu và các lực lượng giáo dục trong và ngoài nhà trường quan
tâm đặc biệt tới các phong trào thể dục thể thao.
- Đa số phụ huynh học sinh, cán bộ địa phương quan tâm đến phong trào
giáo dục thể chất để nâng cao sức khỏe cho con em mình.
4.3.2* Khó khăn:
4.3.2.1.. Về phía học sinh.
- Một số em còn chưa coi trọng hoạt động thể chất vì đây là môn học ít tiết
không có ảnh hưởng đến kết quả học tập ngoài 2 môn Toán + Tiếng Việt, lòng
nhiệt tình ham mê chưa ; ý thức học tập còn chưa cao do vẫn ham chơi.

8



Kết quả khảo sát học kì I năm học 2013 – 2014 như sau:
Kết quả
Lớp

Sĩ số

5A
5B
5C

Hoàn thành tốt

Hoàn thành

Chưa hoàn thành

SL

%

SL

%

SL

%

24


2

8,3%

22

91,6

0

0%

24

1

4,2%

22

91,6%

1

4,2%

24

2


8,3

21

87,5%

1

4,2%

Bảng khảo sát định tính học sinh trước khi áp dụng sáng kiến kết quả
như sau:
STT

Nội dung

Kết quả

1

Thực hiện động tác

Học sinh nhớ tên và thực hiện 8 động tác của bài
thể dục nhưng có em còn quên… không nhớ đúng
thứ tự của động tác.

2

Khẩu lệnh hô


Thực hiện điều khiển chưa tự tin, thị phạm chưa
đẹp, động tác chưa hết biên độ. Khẩu lệnh tập
hợp chưa đúng, cán sự điều khiển hô chưa to,
chưa đúng nhịp điệu, chưa dứt khoát, còn sai
chính tả..

3

Các phương án phát Các tư thế đứng, gập thân, chuyển trọng tâm, kết
triển chung
hợp với tư thế của tay chưa đẹp, còn tay cao, tay
thấp, bàn tay và các ngón tay còn thả lỏng…

4

Tổ chức trọng tài

Trọng tài chưa mạnh rạn trong khâu tổ chức,
chưa biết cách tuyên dương, động viên khích lệ
các đội, chưa gây được hứng thú trong quá trình
thi đua trình diễn.

5

Sửa sai

Các em chưa biết cách sửa lỗi sai và uốn nắn
động tác cho bạn tập đẹp. ..

6


Nhận xét, đánh giá.

Còn lúng túng, chưa đúng trọng tâm câu hỏi …

7

Sự tương tác trong Học sinh chưa biết tương tác trong quá trình đặt
giờ học
câu và trả lời câu hỏi còn rụt rè, còn đùn đẩy
nhau..

8

Phong cách tập Phong cách biểu diễn chưa tự tin, còn căng thẳng,
luyện, biểu diễn
uể oải…

9


9

Thực hiện hoạt động Chưa biết ứng dụng các động tác của bài thể dục
ứng dụng
tập hàng ngày để rèn sức khỏe và vận dụng vào
các hoạt động hàng ngày sao cho hiệu quả.
4.3.2.2.. Về phía phụ huynh.

- Một số cha, mẹ học sinh còn coi đây là hoạt động thể chất là môn phụ,

chưa quan tâm nhiều đến dụng cụ trang bị giờ học cho con em mình như : Giầy,
quần, áo thể dục, mũ..
4.3.2.3. Về cơ sở vật chất.
- Chưa đáp ứng được nhu cầu học tập theo phương pháp mới như: chưa có
nhiều tranh ảnh minh họa khi tổ chức học nhóm theo mô hình (VNEN) tài liệu
học tập cung cấp chưa kịp thời, sân tập chưa đủ diện tích, chưa có nhà đa năng
để học sinh học bài thể dục có nền nhạc để các em tập luyên hứng thú hơn…
Từ những thực trạng nêu trên, tôi đã quyết định viết sáng kiến “Đổi mới
phương pháp giảng dạy bài thể dục phát triển chung lớp 5 theo mô hình
VNEN”
5. Nội dung.
5.1. Nội dung bài thể dục phát triển chung lớp 5.
Bài thể dục phát triển chung lớp 5 gồm 8 động tác:
5.1.1.Động tác vươn thở.

Nhịp 1
2
3
Nhịp 5,6,7,8 tương tự nhưng đổi chân.
Hình 1: Động tác vươn thở

5.1.2. Động tác tay.

10

4


Nhịp
1

2
Nhịp 5,6,7,8 tương tự nhưng đổi chân.

3

4

Hình 2: Động tác tay
5.1.3. Động tác chân.

Nhịp 1
2
3
Nhịp 5,6,7,8 tương tự nhưng đổi chân.
Hình 3: Động tác chân

4

5.1.4. Động tác vặn mình.

Nhịp
1
2
Nhịp 5,6,7,8 tương tự nhưng đổi bên.

3

Hình 4: Động tác vặn mình.

11


4


5.1.5. Động tác toàn thân.

Nhịp 1
2
3
Nhịp 5,6,7,8 tương tự nhưng đổi bên.
Hình 5: Động tác toàn thân

4

5.1.6. Động tác thăng bằng.

Nhịp
1
2
3
Nhịp 5,6,7,8 tương tự nhưng đổi chân.
Hình 6: Động tác thăng bằng
5.1.7. Động tác nhảy.

4

Nhịp 1

4


2

3

12


Nhịp 5

Nhịp

6
7
Hình 7: Động tác nhảy
5.1.8. Động tác điều hòa.

8

Nhịp

4

5

1

2

3


6
7
Hình 8: Động tác điều hòa

8

5.2. Đổi mới phương pháp giảng dạy bài thể dục phát triển chung lớp 5 theo
mô hình VNEN.
Đổi mới phương pháp giảng dạy bài thể dục phát triển chung theo mô hình
VNEN tức là học sinh là người chủ động tự giác, tích cực quan sát làm việc với
tranh ảnh lĩnh hội bài tập thể dục phát triển chung một cách bền vững.
Giáo viên tổ chức chia lớp thành 3 hay nhiều nhóm có đặt tên nhóm ( Sơn
Ca, Vành Khuyên, Sáo nâu…) tùy thuộc sĩ số của lớp học để hoạt động sao cho
hiệu quả.
- Khi dạy một động tác mới giáo viên nêu tên động tác.

13


- Gọi các trưởng nhóm lên lấy đồ dùng và nhận nhiệm vụ về triển khai cho
nhóm mình.
- Giáo viên phân công vị trí của các nhóm.
- Nhóm trưởng định hướng cho cả nhóm cùng thảo luận đi tới thống nhất
thực hiện động tác theo tranh, giáo viên đi hướng dẫn và sửa sai cho các nhóm.
Nếu học sinh thực hiện được động tác thì giáo viên giao nhiệm vụ cho nhóm tổ
chức ôn tập.
Nếu nhóm nào chưa thực hiện đúng động tác thì học sinh giơ thẻ cứu trợ
( thẻ đỏ, giáo viên xuống nhóm đó hướng dẫn, làm mẫu hoàn chỉnh động tác sau
đó vừa làm mẫu vừa phân tích động tác rồi cho học sinh luyện tập theo.
Các bước tiến hành dạy bài thể dục theo mô hình VNEN.

Bước 1: Nhóm trưởng nhận nhiệm vụ và lấy tranh về cho nhóm.
Bước 2: Đọc tài liệu ( Tranh, phiếu bài tập….)
Bước 3: Học sinh quan sát thảo luận nhóm và thực hiện động tác theo
tranh ( Nếu cần trợ giúp của giáo viên giơ thẻ yêu cầu giáo viên tới hướng dẫn).

Hình 9: Học động tác mới theo mô hình VNEN
Bước 4: Học sinh ôn tập động tác theo nhóm dưới sự điều khiển của cán
sự tổ, nhóm trưởng sửa sai cho bạn, giáo viên quan sát sửa sai cho các nhóm.

Hình 10: Học sinh ôn tập động theo mô hình VNEN
Bước 5: Tổ chức thi đua giữa các nhóm.

14


Hình 11: Thi đua theo cặp đôi

Hình 12: Thi đua theo nhóm

Bước 6: Các nhóm quan sát nhận xét, đánh giá.
Bước 7: Vận dụng hoạt động ứng dụng ( Hướng dẫn các em cách tập bài
thể dục vào thời gian nào, vận dụng vào cuộc sống hàng ngày để mang lại hiệu
quả cao nhất).
5.3. Vận dụng các phương pháp dạy học giúp học sinh nâng cao chất lượng
bài thể dục phát triển chung lớp 5 theo mô hình VNEN.
Khi dạy bài thể dục mỗi giờ dạy đều phải làm cho học sinh nắm được kiến
thức, kĩ năng, được bồi dưỡng về phẩm chất ý chí và được thúc đẩy thể lực tăng
tiến không ngừng. Qua quá trình giảng dạy nhiều năm bài thể dục phát triển
chung lớp 5 tôi thấy muốn nâng cao chất lượng thực hiện động tác bài thể dục
cần làm tốt hai vấn đề lớn: Đó là chuẩn bị đầy đủ về mọi mặt trước khi tiến hành

giảng dạy và tiến hành các biện pháp thực hiện trên lớp.
5.3.1. Chuẩn bị.
5.3.1.1. Tìm hiểu tình hình học sinh.
Ngay từ đầu năm nhà trường có kế hoạch với trạm y tế địa phương kiểm
tra toàn bộ sức khoẻ học sinh. Đặc biệt chú ý đến tình hình sức khỏe của học
sinh trong giờ học, bệnh mãn tính ( Thiểu năng trí tuệ, tim, khuyết tật…)
Trước giờ dạy, cần nắm chắc những diễn biến sức khoẻ, hoạt động học tập,
lao động, sinh hoạt, kết quả của bài trước, những thay đổi tổ chức học tập,
những vấn đề chung của cả lớp và của những em cá biệt, từ đó kịp thời điều
chỉnh kế hoạch, nội dung, hình thức, phương pháp lên lớp.
5.3.1.2. Nghiên cứu tài liệu chuyên môn, tham khảo sách giáo viên…
Không ngừng nghiên cứu tài liệu chuyên môn nghiệp vụ mang tính chất
khoa học và lí luận nhằm nâng cao nhận thức và hiểu biết về chương trình, cấp
học và bậc học, từ đó đưa ra giải pháp phù hợp với đối tượng học sinh tại trường
mình.
Nghiên cứu các tài liệu về sự phát triển tâm sinh lí lứa tuổi học sinh bậc
tiểu học để có cách nhìn nhận đúng đắn, từ đó tìm ra phương pháp giáo dục phù
hợp, hiệu quả.
Nắm vững đặc điểm, yêu cầu của nội dung giảng dạy như: Yêu cầu kỹ
thuật từng động tác, độ khó, khối lượng vận động, thứ tự trước sau của động tác,
mối liên hệ giữa các động tác, mối liện hệ giữa các nội dung, …dự kiến những
sai sót có thể xảy ra ở học sinh để kịp thời sử lý. Định ra lượng vận động cho
từng nội dung và cả giờ học, tìm cách tổ chức, động viên học sinh tập luyện

15


như: Dấu cô khen, phần quà ý nghĩa cho hoạt động thể chất ( quả cầu, dây nhảy,
vợt cầu lông.…).
5.3.1.3. Học tập bồi dưỡng chuyên môn, dự giờ học hỏi.

Không ngừng học tập trau dồi kiến thức chuyên môn thông qua các nội
dung học tập, bồi dưỡng thường xuyên, tập huấn thường kì do các cấp tổ chức.
Bản thân mỗi giáo viên cần áp dụng sáng tạo vào điều kiện cụ thể của trường
mình.
Tích cực dự giờ, học hỏi, rút kinh nghiệm từ đồng nghiệp, nhất là những
đồng nghiệp có kiến thức, chuyên môn vững vàng, tham dự các đợt tập huấn do
phòng giáo dục tổ chức. Ghi chép tích luỹ những kinh nghiệm học tập được từ
bạn bè đồng nghiệp và qua các phương tiện thông tin đại chúng. Trong trường
thường xuyên dự giờ các giáo viên dạy các môn khác để học hỏi thêm về
phương pháp tổ chức các hoạt động, cách sử dụng đồ dùng, cách xử lí tình
huống sư phạm…theo mô hình VNEN.
5.3.1.4. Chuẩn bị tốt đồ dùng dạy học, tận dụng điều kiện sân bãi của
trường để dạy học.
Giáo viên có kế hoạch mua dụng cụ tập luyện ngay từ đầu năm học để
mua đủ tranh ảnh, chuẩn bị sân bãi, dụng cụ cho chu đáo và phân công học sinh
chuẩn bị đồ dùng của học sinh. Giáo viên phải chuẩn bị dụng cụ, đồ dùng ngay
từ đầu tuần để đảm bảo đầy đủ khi lên lớp. Đặc biệt chú ý khâu an toàn trong
khi luyện tập.
Bố trí đội hình luyện tập cần tránh hướng gió, hướng ánh nắng đối diện
với mặt học sinh, nơi có không khí thoáng mát, cách xa những nơi có những
hoạt động dễ làm ảnh hưởng đến việc học tập của các em.
Dụng cụ tập luyện như: còi, nhạc, tranh ảnh trực quan, giá cheo tranh …
cần phải chuẩn bị đầy đủ, chu đáo.
Học sinh phải chuẩn bị tốt về tinh thần tư tưởng, tổ chức kỷ luật, trang
phục tập luyện phù hợp với môn thể dục có đủ giày thể thao.
5.3.1.5. Lập kế hoạch dạy học và soạn bài dạy:
Xây dựng kế hoạch dạy học rất cần thiết cho mỗi hoạt động giáo dục.
Giáo viên lên kế hoạch từ đầu năm, nghiên cứu chương trình, xem những bài
nào, phần nào để lựa chọn ra những phương pháp dạy học hợp lý. Điều đó sẽ
giúp cho giáo viên áp dụng các phương pháp dạy học một cách thường xuyên và

chủ động thực hiện nghiêm túc kế hoạch đặt ra.
Bài dạy cần soạn trước ít nhất ba ngày để có sự chuẩn bị đồ dùng và nhắc
nhở học sinh những nội dung cần thiết. Ngay từ khi soạn bài, chuẩn bị cho bài
lên lớp giáo viên phải tính đến khâu tổ chức luyện tập thực sự khoa học, thể hiện
ở những nội dung sau:
- Bài soạn phải xác định được đúng mục tiêu giáo dục toàn diện về kiến
thức, kỹ năng, giáo dục. Nội dung yêu cầu phải cụ thể (mức độ học tập động tác
mới, ôn bài cũ, cái gì là chủ yếu, cái gì là thứ yếu…), nội dung đảm bảo theo

16


mục tiêu, chuẩn kiến thức kỹ năng kết hợp giảm tải của năm học và kết hợp các
mục tiêu giáo dục rèn kĩ năng sống...
- Bài soạn phải thể hiện rõ ràng, khoa học, chính xác các hoạt động của
thầy và trò trong việc đổi mới phương pháp dạy học, thể hiện được sự phân hóa
đối tượng học sinh. Đội hình tập luyện xếp chữ U, hàng ngang, vòng tròn… là
tuỳ theo từng nội dung của từng bài, từng hoạt động.
Bài soạn cần thể hiện rõ các hoạt động với thời gian và khối lượng vận
động, người chỉ đạo hoạt động là giáo viên hay cán sự lớp, tổ trưởng, nhóm
trưởng. Học sinh tập luyện theo nhóm lớn, nhóm nhỏ, đồng loạt hay luân phiên,
động viên tất cả các em tham gia tập luyện, cần phân công những em có năng
khiếu kèm cặp, giúp đỡ những em tiếp thu chậm, nhút nhát.
- Việc sử dụng đồ dùng thiết bị cũng cần cân nhắc kĩ, sử dụng thiết bị, đồ
dùng nào, số lượng bao nhiêu, sử dụng vào thời điểm nào là thích hợp.
- Giáo viên phải thiết kế một hệ thống câu hỏi phù hợp khoa học, vừa sức
học sinh, đảm bảo đúng nguyên tắc từ dễ đến khó, từ đơn giản đến phức tạp, phù
hợp với lứa tuổi, giới tính nhằm tạo niềm hưng phấn cho học sinh khi tham gia
luyện tập.
Nếu tiết dạy mà chuẩn bị tốt những điều nêu trên đảm bảo sẽ thu được kết

quả cao, tiết dạy có chất lượng, học sinh nắm chắc kiến thức, kĩ năng và phẩm
chất sau mỗi tiết học.
5.3.1.6. Bồi dưỡng cán sự thể dục.
Đội ngũ cán sự có vai trò tích cực để tiến hành có hiệu quả giờ học thể
dục. Vị vậy tôi đã lựa chọn những em có năng khiếu, có trình độ, thể lực tốt, có
khả năng tổ chức, tích cực, gương mẫu trong học tập, có uy tín trong tổ làm cán
sự có kinh nghiệm và lòng nhiệt tình cao.
Tôi luôn chú ý dành thời gian bồi dưỡng, uốn nắn cho các em ngay từ
đầu năm học. Giáo viên phải đào tạo cho các em một số bài tập, một số tri thức
về thể dục thể thao rất cơ bản như cách đếm nhịp của bài thể dục là: 1, 2,3,4. 5,
6, 7, 8 2, 2, 3, 4, 5, 6, 7, 8 cách chọn vị trí để tổ chức tập luyện, cách nhận xét
và đánh giá các bạn trong lớp trong tổ …để các em hiểu rõ mục đích yêu cầu
của GV về các mặt: Quản lớp, giúp đỡ bạn tập luyện, tổ chức thi đua, làm trọng
tài khi tổ chức thi đua… Giáo viên giao nhiệm vụ cụ thể về hướng dẫn các hình
thức tổ chức cho từng học sinh tổ chức điều khiển.
Giáo viên cần quan tâm, sửa chữa các lỗi sai cho học sinh cho dù những
lỗi sai đó là nhỏ nhất, từ đó các em so sánh thấy được mình có khả năng điều
khiển được. Giáo viên cần khích lệ, động viên, đánh giá các em đó, khích lệ các
em khác làm tốt hơn.
5.3.2. Các phương pháp thực hiện trên lớp.
5.3.2.1. Phương pháp kiểm tra.
Giáo viên cần kiểm tra độ an toàn của sân tập và kiểm tra sự chuẩn bị
trang phục của học sinh có đủ giầy tập, kiểm tra tình trạng sức khỏe của học
sinh. Đây là khâu quan trọng vì nếu không kiểm tra kĩ thì giáo viên sẽ không

17


làm chủ được tiết dạy, độ an toàn của việc tập luyện không cao, tâm lí học sinh
không thật sự vững vàng khi bước vào giờ học.

5.3.2.2. Phương pháp phối hợp khởi động và rèn tư thế động tác.
Để tạo hứng thú khi bắt đầu giờ học nên chọn những trò chơi vừa có tác
dụng khởi động, vừa có tác dụng liên kết với bài học mới.
Ví dụ: Bài 16: Động tác Vươn thở và Tay- Trò chơi "Dẫn bóng".
Tôi đã sử dụng các trò chơi vừa để khởi động, vừa rèn cho học sinh các tư thế
cơ bản, vừa tiết kiệm thời gian mà học sinh lại có hứng thú tập. Cụ thể:
- Cho học sinh chơi trò chơi “Điện giật” giáo viên nêu tên trò chơi, cách
chơi, luật chơi để học sinh nắm rõ, tổ chức chơi thử. Giáo viên nói điện giật điện
giật, học sinh hỏi giật ai, giật ai ? Giáo viên hô giật những ai không giơ tay song
song ra trước, bàn tay sấp; hai tay đưa lên cao (chếch chữ V), lòng bàn tay
hướng vào nhau; hai tay dang ngang, bàn tay ngửa …Những ai không làm theo
yêu cầu của giáo viên sẽ bị nhảy lò cò… Khi chơi học sinh sẽ có hứng thú thực
hiện, vừa được chơi lại nhớ được kiến thức cũ để phục vụ cho bài mới là tập
động tác vươn thở và tay.
5.3.2.3. Phương pháp trực quan, trực tiếp và trực quan gián tiếp (sử dụng
tranh kĩ thuật kết hợp làm mẫu của giáo viên)
Dạy theo mô hình VNEN tất cả các động tác phải sử dụng tranh ảnh, chia
nhóm học để học sinh tự khai thác lĩnh hội bài học. Việc sử dụng tranh bài thể
dục lớp 5 tạo ra cho học sinh hứng thú, nắm được kĩ thuật nhanh hơn. Mặt khác,
học sinh vừa học vừa đối chiếu với tranh ảnh để tự sửa chữa những kĩ thuật còn
chưa đúng của mình. Nhưng cũng không nên lạm dụng tranh ảnh mà phải suy
nghĩ và tính toán xem sử dụng tranh kĩ thuật vào thời điểm nào, sử dụng như thế
nào để phát huy được tác dụng của tranh kĩ thuật, học sinh có ấn tượng sâu và có
hứng thú trong quá trình học tập.
Giáo viên phải tập luyện thuộc trước những động tác của bài thể dục phát
triển chung cho chính xác để khi lên lớp tập mẫu có chất lượng cao vừa phát
hiện những thiếu sót cần sữa chữa bổ sung cho hoàn chỉnh nội dung dạy của bài
thể dục.
Khi làm mẫu giáo viên cần chú ý đến vị trí làm mẫu, chọn hướng làm mẫu
để học sinh có thể nhìn rõ, nhìn thấy biên độ, góc độ động tác kĩ thuật. Làm mẫu

lần 2, cố gắng thực hiện chậm ở nhưng chỗ quan trọng, giáo viên có thể vừa làm
mẫu vừa giải thích để nhắc nhở sự chú ý của học sinh. Giáo viên hãy dừng lâu ở
những nhịp khó kết hợp sửa ngay cho học sinh chưa thực hiện đúng động tác rồi
lại tiếp tục làm mẫu cùng tập với học sinh ở những nhịp tiếp theo.
Khi dạy bài thể dục phát triển chung cần chú ý đến tính tự nhiên của động
tác và nên sử dụng hình thức làm mẫu “soi gương” nghĩa là đứng đối diện với
học sinh, mặt và hướng động tác của giáo viên cùng hướng với động tác của học
sinh.
5.3.2.4. Phương pháp thuyết trình (Giải thích kĩ thuật động tác).
Phương pháp này ít được sử dụng trong mô hình VNEN là phương pháp
dùng lời nói để giải thích, phân tích kĩ thuật động tác giúp học sinh nắm được kĩ
thuật từng phần động tác, tạo điều kiện cho học sinh tiếp nhận bài tập chính xác
về mặt kĩ thuật.

18


Những yêu cầu đối với phương pháp này giảng giải nội dung kiến thức
trọng tâm, mấu chốt của động tác, dễ hiểu, sinh động, dùng đúng thuật ngữ
chuyên môn của TDTT. Lời giảng cần có sự thuyết phục, tránh dài dòng mà cần
nhấn mạnh ở các kiến thức trọng tâm. Giải thích lên ngắn gọn để học sinh có
nhiều thời gian tập luyện là chính.
5.3.2.5. Phương pháp ôn tập.
Việc tổ chức học sinh luyện tập là khâu quan trọng và then chốt.
Giáo viên cần luôn thay đổi hình thức tập luyện cho phong phú (Đồng
loạt, chia nhóm, luân phiên nhau là người chỉ huy…) các em sẽ không bị nhàm
chán. Để học sinh tích cực, chủ động sáng tạo trong quá trình tập luyện thì giáo
viên nên chọn hình thức tập luyện theo nhóm. Giáo viên phải luôn luôn chú ý tới
việc chỉnh sửa động tác cho những học sinh thực hiện chưa đúng kĩ thuật động
tác.

Tạo điều kiện để học sinh quan sát, tập luyện và phát biểu ý kiến.
Giáo viên cần trân trọng thành quả tập luyện của các em, không nên phê
bình học sinh bằng những nhận xét ảnh hưởng tới các em mà nên dùng từ mang
tính động viên là chính. Sau phần quan sát và tập luyện chung các em sẽ tự hiểu
được động tác của mình sai hay đúng?
Giáo viên nhận xét công bằng, khách quan cuối mỗi phần thi đua sẽ
giúp cho học sinh hoàn thiện kiến thức của mình, kích thích hứng thú ở học sinh.
Đồng thời giáo viên phải tuyệt đối công bằng, cũng nên thưởng cho học sinh
những lời biểu dương, cũng có thể là những lời động viên, xổ số học tốt… để
các em tập tốt hơn ở buổi sau.
Sau đây là một số phương pháp, hình thức tập theo mô hình VNEN ở
trường tôi công tác:

Hình13: Phương pháp tập đồng loạt ..

19


Hình 14: Tập theo tổ.

Hình15 : Tập theo hình thức soi gương.

Hình16 : Tập theo nhóm đôi.

Hình 17: Tập theo đội hình vòng tròn.

Hình18 : Tập theo hình hữ U
.
5.3.2.6. Phương pháp sửa sai.
Trong quá trình tập luyện học sinh không thể tránh khỏi những sai sót vì

vậy người giáo viên phải chú ý quan sát tìm ra lỗi sai và có phương pháp sửa sai
hợp lí.
Việc chỉnh sửa động tác có thể là sửa sai trực tiếp mà cũng có thể sửa sai
gián tiếp thông qua nhắc nhở hoặc thông qua việc sửa sai cho học sinh khác để
các em tự sửa sai. Khi chia tổ tập luyện các em tập tốt có thể sửa sai cho bạn
thực hiện chưa đúng.

20


Hình19 : Cán sự sửa sai cho bạn
Ví dụ: Động tác nhảy của bài thể dục phát triển chung lớp 5
Các em thực hiện động tác còn giật cục, bật nhảy không nhịp nhàng. Giáo
viên nên cho các em thực hiện ở những lần đầu bật nhảy chậm từng nhịp và phối
hợp với động tác của tay, sau đó mới cho các em thực hiện nhanh dần.
Ví dụ: Động tác điều hoà của bài thể dục phát triển chung lớp 5 động tác
của các em còn tập còn gò bó, không thả lỏng cơ thể, chưa kết hợp với hít thở
sâu. Giáo viên là người điều khiển cần hô nhịp chậm, động tác nhẹ nhàng và
nhắc các em kết hợp với hít thở sâu và thả lỏng tích cực.
5.3.2.7. Phương pháp làm cán sự.
Đổi mới phương pháp giảng dạy bài thể dục theo mô hình VNEN học sinh
thay phiên nhau làm cán sự nhằm phát huy tính tích cực, chủ động của học sinh.
Ví dụ: Khi tập động tác vươn thở người điều khiển dùng khẩu lệnh điều
hành: “Động tác vươn thở…chuẩn bị.1, 2, 3, 4, 5, 6, 7, 8; 2, 2, 3, 4, 5, 6, 7, thôi”.
Nếu ôn cả bài thì khẩu lệnh chung là “Bây giờ các em sẽ ôn tập cả bài thể dục
phát triển chung. Mỗi động tác chúng ta tập 2 lần 8 nhịp. Động tác vươn thở…
chuẩn bị.1, 2, 3, 4, 5, 6, 7, 8; 2, 2, 3, 4, 5, 6, 7, tay…
Khẩu lệnh đưa ra phải đúng lúc, lời phát ra phải có sự truyền cảm, rõ,
nhanh, chính xác. Lệnh kéo dài hợp lý để học sinh kịp thời chuẩn bị và thực hiện
động tác tốt nhất. Song đối với học sinh tiểu học không nên sử dụng quá nhiều

sẽ gây căng thẳng mệt mỏi trong tiết học.
Mỗi động tác đều có nhịp điệu nhanh chậm khác nhau nên người giáo viên
cần phải chú ý đến vấn đề này và cho học sinh thực hiện từng động tác. Cụ thể
như sau:
- Động tác vươn thở: hô chậm kéo dài ở từng nhịp của động tác kết hợp hít
và thở.
- Động tác tay: hô dõng dạc nhanh vừa phải cho từng nhịp.
- Động tác chân: nhịp 1-2 và 5-6 hô vừa phải, nhịp 3-4 và 7-8 hô nhanh
hơn.
- Động tác vặn mình: nhịp điệu hô bình thường.
- Động tác toàn thân: nhịp điệu hô bình thường.
- Động tác thăng bằng: hô kéo dài ở nhịp 2 và nhịp 6 các nhịp còn lại hô
bình thường.
- Động tác nhảy: hô nhanh tất cả các nhịp.
- Động tác điều hòa: hô chậm kéo dài ở từng nhịp của động tác.

21


5.3.2.8. Phương pháp tổ chức thi đấu biểu diễn.
Đây là phương pháp rất quan trọng vì thông qua thi đua, biểu diễn các em
mới cảm nhận mức độ đạt được của bản thân, của bạn, của cả lớp kích thích sự
phấn đấu cố gắng của các em.
Phương pháp này có thể thực hiện như sau:
- Gọi đại diện cá nhân hoặc cả nhóm lên biểu diễn kỹ thuật động tác, các
em nhóm khác khác nhận xét bổ sung.
- Gọi học sinh nhận xét, Giáo viên tổng hợp nhận xét, đánh giá: Tuỳ theo
từng trường hợp giáo viên có thể tổ chức thi đua sao cho hợp lý. Khi nhận xét
luôn hướng đến sự cố gắng động viên học sinh để các em phấn đấu cố gắng.
- Cá nhân, nhóm thực hiện tốt nên có phần thưởng (có thể bằng lời chàng

pháo tay, phần quà ý nghĩa đối với các em…) để khích lệ động viên kịp thời.
5.3.2.9 Phương pháp tổ chức trò chơi.
Thường xuyên tổ chức các trò chơi để gây hứng thú học tập. Giáo viên
nghiên cứu kĩ các hoạt động và chuyển một số hoạt động ở những nội dung tập
thành trò chơi để thay đổi không khí, giúp học sinh thoải mái hơn trong học
tập ...

Hình 20 : Học sinh tham gia trò chơi kéo co gây hứng thú trong giờ học.
5.3.2.10. Phương pháp, kiểm tra, đánh giá.
Việc kiểm tra, đánh giá chiếm vị trí rất quan trọng. Theo thông tư 30/TT
BGD& ĐT việc đánh giá học sinh trên tinh thần động viên khuyến khích học
sinh là chính. Nếu đánh giá không thường xuyên sẽ dẫn đến việc học sinh chủ
quan, xem nhẹ và không chú ý học tập và rèn luyện.
- Đánh giá thường xuyên qua các tiết học học sinh học sinh sẽ rất vui,
phấn khởi khi giáo viên quan tâm, đánh giá đúng mức, khen kịp thời, rút kinh
nghiệm đúng lúc. Do vậy đối với học sinh yếu khi các em có ý kiến hoặc thực
hiện tương đối tốt một động tác nào đó tôi sẽ có đánh giá tinh thần để động viên
các em và tôi cũng không chê nếu học sinh trả lời hoặc thực hiện chưa chính xác

22


mà chỉ sửa chữa bổ sung nhưng cần nhận xét, tuyên dương nhóm hoạt động tốt,
phê bình nhắc nhở nhóm chưa tích cực...
Hàng tháng tôi sẽ ghi vào quyển sổ theo dõi chất lượng những điểm nổi
bật hay những điều cần khắc phục của từng em ở từng lĩnh vực kiến thức, năng
lực, phẩm chất để có các phương án bồi dưỡng tốt các em ở tháng tiếp theo.
Nếu em nào có những biểu hiện đặc biệt về kiến thức, năng lực, phẩm
chất trong nội dung bài thể dục phát triển chung. Tôi sẽ kết hợp với phụ huynh,
giáo viên chủ nhiệm lựa chọn vào bồi dưỡng vào đội tuyển Aerobic của nhà

trường để làm nguồn tham gia giải cấp thị xã, cấp tỉnh…
5.4 Sử dụng các biện pháp dạy học nhằm nâng cao chất lượng bài thể dục
lớp 5 ở tiết cụ thể.
Ví dụ 1 Tiết 20: Trò chơi "Chạy nhanh theo số" Trang 76 sách giáo viên
thể dục 5. ( Phụ lục trang 30 ).
Ví dụ 1: Tiết 21: Động tác toàn thân - trò chơi "Chạy nhanh theo số"
Trang 77 sách giáo viên thể dục 5. ( Phụ lục trang 32 ).
6. Điều kiện để sáng kiến được nhân rộng.
6.1. Hiệu quả kinh tế.
Đây là sáng kiến áp dụng trong lĩnh vực giáo dục học sinh Tiểu học, chủ yếu
là làm sao để người giáo viên có được một phương pháp dạy học tốt nhất, hiệu
quả nhất. Sáng kiến này không tạo ra hiệu quả kinh tế mà khi áp dụng sáng kiến
này trang bị cho người giáo viên các biện pháp lên lớp có hiệu quả nhất giúp
học sinh hứng thú, say mê học tập, tích cực tham gia các hoạt động hơn. Góp
phần đạt mục tiêu nâng cao chất lượng bài thể dục phát triển chung lớp 5 nói
riêng và môn thể dục nói chung.
6.2. Hiệu quả về mặt xã hội.
Trong quá trình nghiên cứu và thực hiện thì bản thân tôi đã nhận được sự
giúp đỡ của Ban giám hiệu nhà trường cùng các đồng nghiệp. Trong quá trình
vận dụng sáng kiến tôi nhận thấy đã thu được những kết quả đáng mừng như
sau:
Trong các tiết dạy, học sinh đều sôi nổi, hứng thú học tập, tích cực và tự giác
tham gia vào các hoạt động của tiết học, hạn chế hiện tượng học sinh rụt rè, nhút
nhát ngại tham gia tập luyện. Trong giờ học các em mạnh dạn hỏi thầy, hỏi bạn
những động tác, những kĩ năng khó hoặc chưa hiểu. Các kĩ năng của học sinh
trở nên thành thục và linh hoạt, các động tác thể dục đã dứt khoát, kĩ thuật khá
chuẩn mực. Học sinh vui vẻ, phấn khởi, tích cực tập luyện, có cơ hội được
khẳng định mình trước tập thể, nâng cao được khả năng vận động của chính
mình, tạo sự ham mê học tập, yêu thích giờ học. Giờ học thực sự là nhu cầu, là
niềm vui của học sinh, học sinh mong chờ háo hức giờ học sau.


7. Kết quả đạt được.

23


Sau khi áp dụng sáng kiến thời gian thực nghiệm từ tháng 9 năm 2014 đến
tháng 1 năm 2015 tôi áp dụng ở khối 5 theo mô hình VNEN kết quả thu được
học kì I như sau:
Kết quả
Lớp

Sĩ số

Hoàn thành tốt

Hoàn thành

Chưa hoàn thành

SL

%

SL

%

SL


%

5A

24

11

45,8%

13

54,2%

0

%

5B

24

9

37,5%

15

62,5%


0

%

5C

24

8

33,3%

16

66,7%

0

%

+ Kết quả học kỳ I năm học 2013 – 2014 ( Bảng đối chứng trang 9) áp
dụng theo phương pháp dạy học truyền thống học sinh toàn khối 5 cũng có tiến
bộ nhưng kết quả không cao có 5/72 em đạt mức độ hoàn thành tốt chiếm 6,9%.
Có 21/72 em đạt mức độ hoàn thành chiếm 90,2% , còn 2/72 em chưa hoàn
thành chiếm 2,7%.
+ Kết quả học kỳ I năm học 2014 - 2015 áp dụng sáng kiến đổi mới
phương pháp dạy học theo mô hình VNEN cho thấy có 28/72 khối 5 em đạt mức
độ hoàn thành tốt chiếm 39% còn lại là hoàn thành không có em nào chưa hoàn
thành.
-Từ kết quả trên cho thấy sáng kiến của tôi đã mang lại hiệu quả rõ rệt và

cụ thể là:
Bảng khảo sát định tính học sinh sau khi áp dụng sáng kiến kết quả
thu được như sau:

STT

Nội dung

Kết quả

1

Thực hiện động tác

Học sinh nhớ tên theo thứ tự và thực hiện 8 động
tác của bài thể dục đều và đẹp.

2

Khẩu lệnh hô

Điều khiển tốt, tự tin, thị phạm mẫu đẹp, động tác
chưa hết biên độ. Học sinh hô đúng khẩu lệnh,
nhịp điệu từng động tác.

3

Các phương án phát Các tư thế đứng, gập thân, chuyển trọng tâm, kết
triển chung
hợp với tư thế của tay đẹp, nhịp nhàng.


4

Tổ chức trọng tài

Trọng tài chưa mạnh rạn trong khâu tổ chức,

24


chưa biết cách tuyên dương, động viên khích lệ
các đội, chưa gây được hứng thú trong quá trình
thi đua trình diễn.
5

Sửa sai

Các em chưa biết chỉ lỗi sai, cách sửa chữa và
uốn nắn động tác cho bạn tập đúng, đẹp.

6

Nhận xét, đánh giá.

Còn lúng túng, chưa đúng trọng tâm câu hỏi

7

Sự tương tác trong Học sinh đã biết tương tác trong quá trình đặt câu
giờ học

và trả lời câu hỏi rất tự tin ví dụ: Sau khi học
xong động tác tay của bài thể dục bạn có thích
không? Tại sao; Vừa rồi thi đua trình diễn 3 động
tác đội bạn thua bạn có cảm thấy buồn không?
Tại sao…

8

Phong cách tập Phong cách biểu diễn tự tin, phấn khởi…
luyện, biểu diễn

9

Thực hiện hoạt động Các em đã biết ứng dụng các động tác của bài thể
ứng dụng
dục tập hàng ngày để rèn sức khỏe, vận dụng vào
các hoạt động hàng ngày sao cho hiệu quả. Hơn
thế nữa các em có thể hướng dẫn cho những
người thân trong gia đình tập luyện để học tập rèn
luyện sức khỏe theo gương Bác Hồ vĩ đại.

25


×