Tải bản đầy đủ (.doc) (53 trang)

skkn dạy học theo định hướng phát triển năng lực trong giờ luyện nói nhằm nâng cao chất lượng môn ngữ văn ở THCS

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (296.77 KB, 53 trang )

THÔNG TIN CHUNG VỀ SÁNG KIẾN
1. Tên sáng kiến: “Dạy học theo định hướng phát triển năng lực của học
sinh trong giờ “Luyện nói” nhằm nâng cao chất lượng dạy học môn Ngữ văn ở
trường trung học cơ sở”.
2. Lĩnh vực áp dụng sáng kiến: Môn Ngữ văn cấp trung học cơ sở
3. Tác giả:
Họ và tên: Nguyễn Thị Thơm

Nam (nữ): Nữ

Ngày tháng/năm sinh: 03/07/1976
Trình độ chuyên môn: Đại học Sư phạm Ngữ văn
Chức vụ, đơn vị công tác: Phó hiệu trưởng trường THCS Chu Văn An
Điện thoại: 0168 352 8798
4. Đơn vị áp dụng sáng kiến lần đầu :
Tên đơn vị: Trường THCS Chu Văn An
Địa chỉ: Phường Sao Đỏ - Thị xã Chí Linh- Tỉnh Hải Dương
Điện thoại: 0320 3881 326
5. Các điều kiện cần thiết để áp dụng sáng kiến:
- Các thiết bị, đồ dùng hỗ trợ giảng dạy: máy tính, máy chiếu, video...
- Sự ủng hộ hợp tác của các tổ chức đoàn thể trong và ngoài nhà trường.
6. Thời gian áp dụng sáng kiến lần đầu: tháng 10 năm 2014
HỌ TÊN TÁC GIẢ :

XÁC NHẬN CỦA CƠ QUAN ĐƠN VỊ
ÁP DỤNG SÁNG KIẾN

Nguyễn Thị Thơm

1



TÓM TẮT SÁNG KIẾN
Dạy học theo định hướng phát triển năng lực cho học sinh trong các bộ
môn nố chung, môn Ngữ văn nói riêng đã được chính thức triển khai từ đầu năm
học 2014 - 2015. Giáo viên và học sinh đều được tiếp cận với nội dung đổi mới và
phương pháp dạy học tích cực. Tuy nhiên trong thực tế giảng dạy các tiết “Luyện
nói” ở trường trung học cơ sở (THCS), mặc dù giáo viên đã rất cố gắng nhưng
hiệu quả chưa cao, giờ học còn trầm, học sinh ngại nói, có tâm lý ngượng
ngùng, sợ bị cô giáo gọi lên nói trước lớp, sợ mình nói sai…. Ngay bản thân
giáo viên cũng còn lúng túng, chưa linh hoạt, sáng tạo để động viên khuyến
khích học sinh. Số học sinh nói trước lớp trong giờ học rất ít chỉ khoảng 3-5
em, kĩ năng nói còn nhiều hạn chế. Vì vậy, mục tiêu tiết “Luyện nói” đặt ra
chưa thực hiện được trọn vẹn. Để học sinh hoạt động tích cực, tự tin, hứng thú
trong giờ học, tôi đã mạnh dạn đề xuất và áp dụng sáng kiến “Dạy học theo
định hướng phát triển năng lực của học sinh trong giờ “Luyện nói’ nhằm nâng
cao chất lượng môn Ngữ văn ở trường trung học cơ sở”.
Để áp dụng được sáng kiến, bản thân mỗi giáo viên phải say sưa với
chuyên môn, yêu nghề mến trẻ, thường xuyên có suy nghĩ tìm tòi, đổi mới
phương pháp để vận dụng vào từng đối tượng học sinh cho phù hợp. Phải làm
tốt khâu hướng dẫn chuẩn bị bài ở nhà cho học sinh qua việc gợi ý, định hướng
phát triển năng lực. Ngoài ra, để áp dụng sáng kiến có hiệu quả nhà trường cần
đầu tư trang bị cơ sở vật chất, trang thiết bị hiện đại như máy chiếu đa năng,
camera vật thể, nối mạng Internet, sắp xếp thời khoá biểu hợp lí để mọi giáo
viên có thể ứng dụng công nghệ thông tin trong giờ học. Học sinh phải hứng
thú, yêu thích môn học, tích cực, chủ động, mong muốn được thể hiện, tích cực
sử dụng công nghệ thông tin, chuẩn bị tốt theo hướng dẫn của giáo viên.
Sáng kiến này tôi đã áp dụng dạy học trong học kì I, năm học 2014- 2015
với đối tượng là học sinh lớp 6,7,8,9 cấp THCS. Mỗi khối lớp tôi chọn một đối
tượng khác nhau để áp dụng: khối 6 lớp 6A, khối 7 lớp 7B, khối 8 lớp 8C, khối
9 lớp 9D. Với cách chọn như vậy, tôi có thể đánh giá được hiệu quả của sáng

kiến đối với mọi đối tượng là học sinh THCS.
2


Nội dung sáng kiến của tôi có sự kế thừa, phát huy những kinh nghiệm,
phương pháp dạy học đã được một số đồng nghiệp chia sẻ. Song điểm mới của
sáng kiến là trong mỗi giải pháp, tôi đã định hướng rõ những năng lực cần hình
thành cho học sinh qua giờ luyện nói bao gồm cả năng lực chung và năng lực
chuyên biệt. Những năng lực đó là: năng lực giải quyết vấn đề thực tiễn; năng
lực sáng tạo; năng lực hợp tác; năng lực quản lý; năng lực giao tiếp tiếng Việt;
năng lực cảm thụ văn học; năng lực sử dụng công nghệ thông tin... Trong qua
trình dạy học theo định hướng phát triển năng lực của học sinh, giáo viên chỉ là
người tổ chức, điều khiển các hoạt động dạy học, học sinh tích cực học tập, học
sinh được bộc lộ, thể hiện năng lực. Học sinh là nhân vật trung tâm trong giờ
học. Với sáng kiến này, giáo viên dạy Ngữ văn các khối lớp ở tất cả các trường
THCS có thể áp dụng. Trong đó, giáo viên cần tuân thủ những biện pháp mà tôi
đã trình bày trong sáng kiến, đó là: xác định mục tiêu bài học, chuẩn bị tốt kế
hoạch dạy học, các phương tiện hỗ trợ dạy học, hướng dẫn học sinh chuẩn bị ở
nhà, kiểm tra sự chuẩn bị của học sinh trước khi nói, linh hoạt tổ chức hoạt
động trong tiết học theo mô hình sân khấu hóa, nhận xét, đánh giá, rút kinh
nghiệm để khuyến khích học sinh giờ sau nói tốt hơn. Điều quan trọng là trong
tất cả các biện pháp đó, giáo viên đều phải định hướng hình thành năng lực cho
học sinh.
Việc dạy học theo định hướng phát triển năng lực của học sinh trong giờ
luyện nói nhằm nâng cao chất lượng môn Ngữ văn ở trường THCS đã tạo sự
hứng thú, niềm say mê yêu thích môn học và rèn kĩ năng nói tốt nhất. Chính vì
vậy, áp dụng sáng kiến này trong dạy học sẽ góp phần nâng cao các năng lực
của học sinh, nâng cao chất lượng bộ môn Ngữ văn.
Tôi mong muốn sáng kiến này sẽ được thực hiện ở tất cả các tiết luyện
nói trong chương trình Ngữ văn THCS. Vì vậy, giáo viên phải phát huy trí tuệ

của học sinh, áp dụng dạy học theo định hướng phát triển năng lực của học sinh
trong giờ luyện nói để cả lớp tích cực tham gia và được thể hiện năng lực, làm
thế nào cho tiếng Việt vang lên tất cả sự giàu đẹp và nhạc điệu của nó trong giờ
học Ngữ văn. Từ đó giúp các em thêm yêu tiếng Việt cũng như nâng cao năng
lực sử dụng ngôn ngữ, năng lực trình bày trước tập thể.
3


Phần 2
MÔ TẢ SÁNG KIẾN
1. Hoàn cảnh nảy sinh sáng kiến
1.1. Quan điểm chỉ đạo
Năm học 2014-2015 là năm thứ hai ngành Giáo dục và Đào tạo thực hiện
nghị quyết Hội nghị Trung ương 8 khoá XI về đổi mới căn bản, toàn diện giáo
dục và đào tạo. Nội dung nghị quyết đã nêu rõ “Tiếp tục đổi mới mạnh mẽ
phương pháp dạy và học theo hướng hiện đại; phát huy tính tích cực, chủ
động, sáng tạo và vận dụng kiến thức, kĩ năng của người học; khắc phục lối
truyền thụ áp đặt một chiều, ghi nhớ máy móc. Tập trung dạy cách học, cách
nghĩ, khuyến khích tự học, tạo cơ sở để người học tự cập nhật và đổi mới tri
thức, kĩ năng, phát triển năng lực, chuyển từ học chủ yếu trên lớp sang tổ chức
hình thức học tập đa dạng, chú ý các hoạt động xã hội, ngoại khoá, nghiên cứu
khoa học, đẩy mạnh ứng dụng công nghệ thông tin và truyền thông trong dạy
và học”.
Đặc biệt, chương trình hành động triển khai thực hiện Nghị quyết số 29NQ/TW ngày 04 tháng 11 năm 2013, Hội nghị lần thứ tám Ban Chấp hành
Trung ương khóa XI về đổi mới căn bản, toàn diện giáo dục và đào tạo, đáp
ứng yêu cầu công nghiệp hóa, hiện đại hóa trong điều kiện kinh tế thị trường
định hướng xã hội chủ nghĩa và hội nhập quốc tế của Bộ Giáo dục và Đào tạo
đã nêu rõ: “Các cơ sở giáo dục và đào tạo đẩy mạnh đổi mới phương pháp dạy
học theo hướng phát triển năng lực cá nhân của người học, áp dụng các
phương pháp, kỹ thuật dạy học tích cực, chú trọng rèn luyện phương pháp tự

học; tăng cường các hoạt động xã hội, nghiên cứu khoa học và vận dụng kiến
thức vào thực tế”; “đổi mới mục tiêu, nội dung, hình thức kiểm tra, thi và đánh
giá chất lượng giáo dục và đào tạo đáp ứng yêu cầu phát triển năng lực, phẩm
chất người học”.
1.2. Định hướng dạy học môn Ngữ văn
Trong định hướng phát triển chương trình giáo dục phổ thông, môn Ngữ
văn được coi là môn học công cụ. Dạy học theo định hướng phát triển năng lực
của học sinh mà môn học Ngữ văn hướng đến là năng lực giải quyết vấn đề,
4


năng lực sáng tạo, năng lực hợp tác, năng lực quản lý, năng lực giao tiếp, năng
lực cảm thụ văn học,... Trong môn Ngữ văn, việc hình thành và phát triển năng
lực giao tiếp ngôn ngữ cho học sinh là một mục tiêu quan trọng, cũng là mục
tiêu thế mạnh mang tính đặc thù của bộ môn.
1.3. Thực tế dạy học bộ môn
Dạy học theo quan điểm giao tiếp là một trong những tư tưởng quan
trọng của chiến lược dạy học các môn ngôn ngữ ở trường phổ thông nói chung
và môn Ngữ văn nói riêng. Hoạt động giao tiếp là một trong những căn cứ để
hình thành và phát triển các hoạt động ngôn ngữ mà cụ thể là năng lực nghe,
nói, đọc, viết. Nếu nghe, đọc là những kĩ năng quan trọng của hoạt động tiếp
nhận thông tin thì nói, viết là những kĩ năng quan trọng của hoạt động bộc lộ,
truyền đạt thông tin cần được rèn luyện và phát triển trong nhà trường.
Luyện nói trong nhà trường giúp học sinh có thói quen nói trong những
môi trường giao tiếp khác nhau. Luyện nói tốt sẽ giúp cho học sinh có công cụ
giao tiếp hiệu qủa trong cuộc sống xã hội.
Tổng số các tiết “Luyện nói” trong chương trình Ngữ văn THCS là 10
tiết, cụ thể:
Khối
6

7

8
9

Tiết
29
43
96
40
56
112
42
54
65
140

Tên bài dạy
Luyện nói kể chuyện.
Luyện nói kể chuyện
Luyện nói miêu tả.
Luyện nói văn biểu cảm về sự vật, con người.
Luyện nói phát biểu cảm nghĩ về tác phẩm văn học.
Luyện nói bài văn giải thích một vấn đề.
Luyện nói kể chuyện theo ngôi kể kết hợp miêu tả và biểu
cảm.
Luyện nói thuyết minh một thứ đồ dùng.
Luyện nói: Tự sự kết hợp với nghị luận và miêu tả nội tâm.
Luyện nói: Nghị luận về một đoạn thơ, bài thơ.


Tiết Luyện nói trong chương trình chủ yếu tập trung vào nội dung củng
cố lý thuyết, thực hành luyện tập trong phân môn Làm văn: Lớp 6 luyện nói kể
chuyện và miêu tả; lớp 7 luyện nói biểu cảm, phát biểu cảm nghĩ và nghị luận;
5


lớp 8, luyện nói tự sự kết hợp với miêu tả và biểu cảm, thuyết minh; lớp 9
luyện nói tự sự kết hợp với nghị luận và miêu tả nội tâm, nghị luận xã hội và
văn học. Vì vậy, dạy tiết “Luyện nói” trong chương trình cần bám sát mục tiêu
về kiến thức, kĩ năng của chủ đề, của từng bài, thông qua đó góp phần củng cố,
khắc sâu kiến thức lý thuyết, hướng dẫn học sinh vận dụng lý thuyết vào thực
hành.
Mặc dù tiết “Luyện nói” có vai trò quan trọng trong việc phát triển năng
lực giao tiếp, rèn cho học sinh có kĩ năng nói tiếng Việt tự tin, thành thạo, linh
hoạt trong việc sử dụng ngôn ngữ tiếng Việt, nhưng qua bảng thống kê ta thấy
số tiết “Luyện nói” trong chương trình Ngữ văn THCS còn ít, cách bố trí các
tiết trong từng khối cũng chưa thực sự hợp lý (có khối cách xa giữa hai tiết
khoảng 15 tuần, có những kiểu bài không có tiết “Luyện nói”). Học sinh một
lớp khá đông, vì vậy việc thực hành rèn kĩ năng nói cho học sinh còn hạn chế.
Đặc biệt qua giảng dạy, dự giờ đồng nghiệp không phải chỉ có những tiết luyện
nói ở lớp 6 mà ngay cả lớp 9 kĩ năng nói của học sinh vẫn còn rất yếu.
Trong thực tế giảng dạy, mặc dù đã có sách nghiệp vụ hướng dẫn
phương pháp dạy kiểu bài, rất nhiều đồng nghiệp đưa ra những biện pháp để
dạy kiểu bài luyện nói nhưng hiệu quả chưa được như mong muốn. Đa số giáo
viên chỉ chú ý nhiều đến rèn kĩ năng viết cho học sinh để đạt kết quả cao trong
các đợt kiểm tra, thi cử nên chưa chú ý nhiều đến việc rèn kĩ năng nói cho học
sinh. Giáo viên chưa đầu tư thời gian nghiên cứu làm thế nào để giờ luyện nói
thực sự hiệu quả. Chính vì vậy, giờ học còn trầm, học sinh ngại nói, có tâm lý
ngượng ngùng, sợ bị người khác nhận xét…. Giáo viên thường sợ bắt thăm
phải tiết “Luyện nói” trong các đợt hội giảng, hội thi. Giáo viên dạy tiết ‘Luyện

nói” thường bị cháy giáo án do học sinh không nói được theo thiết kế bài giảng
của giáo viên. Số học sinh nói trước lớp trong giờ học rất ít chỉ khoảng 3-5 em.
Vì vậy, mục tiêu tiết “Luyện nói” đặt ra chưa thực hiện được trọn vẹn. Là một
giáo viên trực tiếp giảng dạy môn Ngữ văn, bản thân tôi luôn trăn trở làm thế
nào để giờ “Luyện nói” thực sự có hiệu quả cao nhất trong việc rèn kĩ năng nói
cho học sinh, từ đó thiết thực góp phần phát triển năng lực giao tiếp của các em
trong thực tiễn cuộc sống. Chính những trăn trở trên đã thôi thúc tôi nảy sinh
6


sáng kiến “Dạy học theo định hướng phát triển năng lực của học sinh trong
giờ “Luyện nói” nhằm nâng cao chất lượng dạy học môn Ngữ văn ở trường
trung học cơ sở”.
2. Cơ sở lí luận
Giáo dục phổ thông nước ta đang thực hiện bước chuyển từ chương trình
giáo dục tiếp cận nội dung sang tiếp cận năng lực của người học, nghĩa là từ
chỗ quan tâm đến việc học sinh được học cái gì đến chỗ quan tâm học sinh vận
dụng được cái gì qua việc học. Để đảm bảo được điều đó nhất định phải thực
hiện thành công việc chuyển từ phương pháp dạy học theo lối “truyền thụ một
chiều” sang dạy cách học, cách vận dụng kiến thức, rèn luyện kĩ năng, hình
thành năng lực và phẩm chất. Những quan điểm và đường lối chỉ đạo của Nhà
nước về đổi mới giáo dục nói chung và giáo dục trung học nói riêng được thể
hiện trong nhiều văn bản: Luật Giáo dục số 38/2005/QH11, điều 28 quy định:
“Phương pháp giáo dục phổ thông phải phát huy tính tích cực, tự giác, chủ
động, sáng tạo của học sinh, phù hợp với đặc điểm của từng lớp học, môn học;
bồi dưỡng phương pháp tự học, khả năng làm việc theo nhóm, rèn luyện kĩ
năng vận dụng kiến thức vào thực tiễn; tác động đến tình cảm, đem lại niềm
vui, hứng thú học tập cho học sinh”. Nghị quyết Hội nghị Trung ương 8, khoá
XI về đổi mới căn bản toàn diện giáo dục và đào tạo cũng xác định “Tiếp tục
đổi mới mạnh mẽ và đồng bộ các yếu tố cơ bản của giáo dục, đào tạo theo

hướng coi trọng phát triển phẩm chất, năng lực của người học”; “tập trung
phát triển trí tuệ, thể chất, hình thành phẩm chất, năng lực công dân, phát hiện
và bồi dưỡng năng khiếu, định hướng nghề nghiệp cho học sinh. Nâng cao chất
lượng giáo dục toàn diện, chú trọng giáo dục lý tưởng, truyền thống đạo đức,
lối sống, ngoại ngữ, tin học, năng lực và kĩ năng thực hành, vận dụng kiến thức
vào thực tiễn. Phát triển khả năng sáng tạo, tự học, khuyến khích học tập suốt
đời”. Theo tinh thần đó, các yếu tố của quá trình giáo dục trong nhà trường
trung học cần được tiếp cận theo hướng đổi mới. Vì vậy, dạy học theo định
hướng phát triển năng lực là một tất yếu của các môn học nói chung và môn
Ngữ văn nói riêng trong chương trình THCS.
3. Thực trạng của vấn đề
7


Đối tượng học sinh cấp THCS đang ở lứa tuổi hiếu động, ham thích
những điều mới. Trong hoạt động dạy và học, vai trò của người thầy rất quan
trọng. Người thầy đóng vai trò chủ đạo, tổ chức các hoạt động nhằm tích cực
hóa các hoạt động của học sinh. Muốn trò học tốt trước tiên phải có thầy dạy
tốt. Chính vì thế, đòi hỏi người thầy phải thường xuyên trau dồi kiến thức
chuyên môn, nghiệp vụ sư phạm, tìm tòi đổi mới hình thức, phương pháp dạy
học sao cho phù hợp với đặc trưng môn học.
Việc đổi mới phương pháp dạy học thực sự được toàn ngành giáo dục
quan tâm và được nhiều giáo viên áp dụng trong các giờ dạy. Nhiều giờ dạy có
chất lượng cao, thực sự thu hút học sinh, đem lại không khí học tập sôi nổi, học
sinh tích cực hoạt động. Tuy nhiên có một thực tế mặc dù không còn mới mẻ
nhưng lại tồn tại và diễn ra dai dẳng, đó là các giờ dạy có chất lượng thực sự
chỉ tập trung vào các đợt hội giảng, các hội thi. Qua dự giờ “Luyện nói” của
đồng nghiệp, tôi thấy giáo viên đã chú trọng sử dụng phương pháp theo đặc
trưng bộ môn, phù hợp với kiểu bài, thực hiện đầy đủ các bước của giờ học.
Tuy nhiên, việc vận dụng phương pháp trong dạy học còn máy móc. Một số

giáo viên chưa tích cực đổi mới phương pháp, ứng dụng công nghệ thông tin
trong giảng dạy, chưa linh hoạt trong việc tổ chức các hoạt động dạy- học, chưa
chú ý đến tích hợp liên môn khiến nội dung bài giảng không phong phú, chưa
tạo được hứng thú cho học sinh. Điều đó khiến giờ học Ngữ văn đơn điệu,
nhàm chán, học sinh không mấy hứng thú. Nhiều em có tâm lí chán, căng
thẳng, mệt mỏi và sợ học văn. Các em thường dựa vào tài liệu học tốt có sẵn để
phát biểu mà không nắm được bản chất vấn đề. Khả năng dùng từ, đặt câu, viết
đoạn, cảm thụ, liên hệ...của học sinh chưa tốt. Học sinh chưa thực tự tin, chưa
đáp ứng được yêu cầu của tiết luyện nói từ tư thế, tác phong, giọng nói, ngữ
điệu, việc kết hợp cử chỉ, nét mặt, ánh mắt trong khi nói còn hạn chế. Đặc biệt
còn có em nói như đọc hoặc khi nói chưa biết mở đầu, kết thúc bài nói của
mình...
Vì vậy, trong giảng dạy môn Ngữ văn - đặc biệt giờ học luyện nói, giáo
viên phải rất chú ý tới đặc điểm tâm lí của lứa tuổi này, không nên sử dụng lâu
một phương pháp đơn điệu, tẻ nhạt. Cần phải mạnh dạn đổi mới, tích hợp liên
8


môn thích hợp để học sinh được tích cực chủ động, sáng tạo đáp ứng yêu cầu
mục tiêu giờ học luyện nói cũng như mục tiêu dạy học bộ môn. Từ thực trạng
trên, tôi mạnh dạn đưa ra sáng kiến “Dạy học theo định hướng phát triển năng
lực của học sinh trong giờ “Luyện nói” nhằm nâng cao chất lượng dạy học môn
Ngữ văn ở trường THCS”.
4. Các giải pháp, biện pháp thực hiện
4.1. Năng lực và các năng lực chủ yếu cần hình thành cho HS trong
dạy học môn Ngữ văn
4.1.1. Khái niệm
Năng lực là sự tổng hợp những thuộc tính của cá nhân con người, đáp
ứng những yêu cầu của hoạt động và đảm bảo cho hoạt động đạt được những
kết quả cao

4.1.2. Các năng lực chủ yếu
Để thực hiện tốt việc dạy học theo định hướng phát triển của học sinh
trong giờ luyện nói, mỗi giáo viên cần nắm chắc những năng lực mà môn học
Ngữ văn hướng đến, cụ thể như sau:
4.1.2.1. Năng lực giải quyết vấn đề
Thể hiện khả năng của mỗi người trong việc nhận thức, khám phá được
những tình huống có vấn đề trong học tập và cuộc sống mà không có định
hướng trước về kết quả va tìm các giải pháp để giải quyết những vấn đề đặt ra
trong tình huống đó, qua đó thể hiện khả năng tư duy, hợp tác trong việc lựa
chọn và quyết định giải pháp tối ưu. Quá trình đó được thực hiện bằng sự hứng
thú tìm tòi, khám phá cái mới, tinh thần trách nhiệm của cá nhân và sự phối
hợp, tương tác giữa các cá nhân. Đó chính là sự vận dụng tổng hợp của kiến
thức, kĩ năng, thái độ, tính sẵn sàng…thể hiện qua các hoạt động cụ thể.
4.1.2.2. Năng lực sáng tạo
Năng lực sáng tạo được hiểu là sự thể hiện khả năng của học sinh trong
việc suy nghĩ và tìm tòi, phát hiện những ý tưởng mới nảy sinh trong học tập và
cuộc sống, từ đó đề xuất được các giải pháp mới một cách thiết thực, hiệu quả
để thực hiện ý tưởng. Trong việc đề xuất và thực hiện ý tưởng, học sinh bộc lộ
óc tò mò, niềm say mê tìm hiểu khám phá.
9


Năng lực suy nghĩ sáng tạo bộc lộ thái độ đam mê và khát khao được tìm
hiểu của học sinh, không suy nghĩ theo lối mòn, theo công thức.
4.1.2.3. Năng lực hợp tác
Là hình thức học sinh làm việc cùng nhau trong nhóm nhỏ để hoàn thành
công việc chung và các thành viên trong nhóm có quan hệ phụ thuộc lẫn nhau,
giúp đỡ nhau để giải quyết các vấn đề khó khăn của nhau. Khi làm việc cùng
nhau, học sinh học cách làm việc chung, cho và nhận sự giúp đỡ, lắng nghe
người khác, hoà giải bất đồng và giải quyết vấn đề theo hướng dân chủ. Đây là

hình thức học tập giúp học sinh ở mọi cấp học phát triển cả về quan hệ xã hội
lẫn thành tích học tập. Đây là một năng lực rất cần thiết trong xã hội hiện đại.
Trong môn Ngữ văn, năng lực hợp tác thể hiện ở việc học sinh cùng chia sẻ,
phối hợp với nhau trong các hoạt động học tập qua việc thực hiện các nhiệm vụ
học tập diễn ra trong giờ học. Thông qua các hoạt động nhóm, học sinh thể hiện
những suy nghĩ, cảm nhận của cá nhân về những vấn đề đặt ra, đồng thời lắng
nghe những ý kiến trao đổi thảo luận của nhóm để tự điều chỉnh cá nhân mình.
Đây là những yếu tố rất quan trọng góp phần hình thành nhân cách của học sinh
trong bối cảnh mới.
4.1.2.4. Năng lực tự quản bản thân
Năng lực này thể hiện ở khả năng của mỗi người trong việc kiểm soát
cảm xúc, hành vi của bản thân trong các tình huống của cuộc sống, ở việc biết
lập kế hoạch và làm việc theo kế hoạch, ở khả năng nhận ra và tự điều chỉnh
hành vi của cá nhân trong các bối cảnh khác nhau. Khả năng tự quản bản thân
giúp mỗi người luôn chủ động và có trách nhiệm đối với những suy nghĩ, việc
làm của mình, sống có kỉ luật, biết tôn trọng người khác và tôn trọng chính bản
thân mình.
4.1.2.5. Năng lực giao tiếp tiếng Việt
Giao tiếp là hoạt động trao đổi thông tin giữa người nói và người nghe
nhằm đạt được một mục đích nào đó. Việc trao đổi thông tin được thực hiện
bằng nhiều phương tiện, tuy nhiên phương tiện sử dụng quan trọng nhất trong
giao tiếp là ngôn ngữ. Do đó, năng lực giao tiếp được hiểu là khả năng sử dụng
các quy tắc của hệ thống ngôn ngữ để chuyển tải, trao đổi thông tin về các
10


phương diện của đời sống xã hội, trong từng bối cảnh, ngữ cảnh cụ thể, nhằm
đạt đến một mục đích nhất định trong việc thiết lập mối quan hệ giữa những
con người với nhau trong xã hội. Năng lực giao tiếp bao gồm các thành tố: Sự
hiểu biết và khả năng sử dụng ngôn ngữ, sự hiểu biết về các tri thức của đời

sống xã hội, sự vận dụng phù hợp những hiểu biết trên vào những tình huống
phù hợp để đạt được mục đích. Trong bộ môn Ngữ văn, việc hình thành và phát
triển cho học sinh năng lực giao tiếp ngôn ngữ là một mục tiêu quan trọng,
cũng là mục tiêu thế mạnh mang tính đặc thù của môn học. Đây cũng là mục
tiêu chi phối trong việc đổi mới phương pháp dạy học Ngữ văn là dạy học theo
quan điểm giao tiếp, coi trọng khả năng thực hành, vận dụng những kiến thức
tiếng Việt trong những bối cảnh giao tiếp đa dạng của cuộc sống. Năng lực giao
tiếp trong các nội dung dạy học tiếng Việt được thể hiện ở bốn kĩ năng cơ bản:
Nghe, nói, đọc, viết và khả năng ứng dụng các kiến thức và kĩ năng ấy vào các
tình huống giao tiếp khác nhau trong cuộc sống.
4.1.2.6. Năng lực cảm thụ văn học
Thể hiện khả năng của mỗi cá nhân trong việc nhận ra được các giá trị
thẩm mỹ của sự vật, hiện tượng, con người và cuộc sống, thông qua những cảm
nhận, rung động trước cái đẹp và cái thiện, từ đó biết hướng những suy nghĩ,
hành vi của mình theo cái đẹp, cái thiện. Như vậy, năng lực cảm thụ thẩm mỹ
thường dùng với hàm nghĩa nói về chỉ số cảm xúc của mỗi cá nhân. Chỉ số này
mô tả khả năng tự nhận thức để xác định, đánh giá và điều tiết cảm xúc của
chính mỗi người, của người khác, của các nhóm cảm xúc. Năng lực cảm thụ
văn học là năng lực đặc thù của môn Ngữ văn gắn với tư duy hình tượng trong
việc tiếp nhận văn bản văn học. Quá trình tiếp xúc với tác phẩm văn chương là
quá trình người đọc bước vào thế giới hình tượng của tác phẩm và thế giới tâm
hồn của tác giả từ chính cánh cửa tâm hồn của mình. Từ đó học sinh biết rung
động trước cái đẹp, biết sống và hành động vì cái đẹp, nhận ra cái xấu và phê
phán những hình tượng, biểu hiện không đẹp trong cuộc sống, biết đam mê và
mơ ước cho cuộc sống tốt đẹp hơn.
Bên cạnh những năng lực chung được nêu trên mà môn Ngữ văn hướng
đến, trong những trường hợp nhất định của quá trình dạy học, những năng lực
11



chung khác cũng cần được hướng tới chẳng hạn như năng lực ứng dụng công
nghệ thông tin trong môn học Ngữ văn thể hiện ở khả năng khai thác các nguồn
thông tin trên mạng về những vấn đề của cuộc sống và trong tác phẩm văn học,
những hình ảnh trực quan về các chi tiết nghệ thuật được miêu tả bằng ngôn
ngữ văn học, ...Năng lực tính toán trong môn học Ngữ văn thể hiện ở khả năng
đọc hiểu các văn bản có những con số, đưa ra các số liệu, bình luận về mối
quan hệ giữa các số liệu để lập luận trong trình bày văn bản nói, viết...Bên cạnh
đó, năng lực tự học thể hiện ở việc xác định được các nhiệm vụ học tập một
cách tự giác, chủ động, biết mục tiêu của môn học và tự đặt ra được mục tiêu
học tập cho cá nhân, hình thành phương pháp học cho cá nhân, biết điều chỉnh
bản thân và chủ động tìm kiếm sự hỗ trợ của bạn bè, người thân và các nguồn
lực khác. Như vậy, trong môn học Ngữ văn, quá trình thực hiện một nội dung
học tập nhằm hình thành đồng thời nhiều năng lực. Bởi thế cần vận dụng một
cách hợp lí phương pháp và quy trình dạy học giúp học sinh thể hiện được các
năng lực của cá nhân trong từng nội dung học tập.
4.2. Các giải pháp, biện pháp thực hiện “Dạy học theo định hướng năng lực
của học sinh trong giờ “Luyện nói””
Dạy tiết luyện nói theo định hướng phát triển năng lực phải kết hợp giữa lý
thuyết và thực hành, coi trọng thực hành về nói. Muốn cho học sinh nói được
nhiều, giáo viên phải chuẩn bị từ khâu ra đề, hướng dẫn học sinh chuẩn bị ở nhà.
Phải xác định được những năng lực cần hình thành để gây hứng thú học tập cho
học sinh, phát huy tính tích cực, chủ động, sáng tạo của học sinh. Giờ luyện nói là
giờ thể hiện cá tính, là giờ học sinh được làm chủ mình hơn cả. Vì vậy, giáo viên
cần động viên khuyến khích là chính, tạo những điều kiện cần và đủ để các em
đều có thể nói được.
Dạy luyện nói phải kết hợp việc rèn kĩ năng nói với việc giáo dục tư tưởng,
tình cảm, tư duy cho học sinh, giáo dục lòng yêu mến tự hào về tiếng Việt, tự hào
về dân tộc. Dạy luyện nói không chỉ dạy lời nói mà qua đó cần bồi đắp tâm hồn,
tư tưởng của học sinh. Cụ thể hơn là dạy nếp sống có văn hoá, biết lựa lời mà nói,
chọn nói lời hay ý đẹp, tránh lối nói, kiểu nói tùy tiện, thiếu văn hóa đang có nguy

cơ lan tràn trong học sinh hiện nay như: nói trống không, nói tục, nói đế, nói tiếng
12


lóng....Để thực hiện những định hướng đã đặt ra, chúng tôi đã tập trung vào những
biện pháp, giải pháp chính sau:
4.2.1. Biện pháp thứ nhất: Xác định mục tiêu bài học
Đây là bước quan trọng đầu tiên mà bất cứ giáo viên nào cũng phải làm để
xác định được các kiến thức kĩ năng, thái độ cần đạt để giờ học đảm bảo chuẩn
kiến thức kĩ năng. Bởi năng lực là tổ hợp đo lường được những kiến thức, kĩ năng
và thái độ mà người học cần vận dụng để thực hiện một nhiệm vụ trong một bối
cảnh thực và có nhiều biến động. Để thực hiện một nhiệm vụ, một công việc có
thể đòi hỏi nhiều kiến thức, kĩ năng. Kiến thức, kĩ năng là cơ sở cần thiết để hình
thành năng lực trong một lĩnh vực hoạt động nào đó. Ngoài những điểm chung thì
mỗi tiết học “Luyện nói” đều cần hình thành những năng lực đặc thù riêng phù
hợp với từng kiểu bài, từng đối tượng học sinh. Nếu không xác định được rõ ràng
mục tiêu bài học thì giáo viên sẽ không xây dựng được kế hoạch giảng dạy phù
hợp, tiết học sẽ mờ nhạt, không đạt được kết quả như mong muốn. Mục tiêu của
tiết “Luyện nói” ở lớp 6 sẽ khác lớp 7,8,9 vì đối tượng học sinh lớp 6 là lớp đầu
cấp mới làm quen với phương pháp học tập của cấp THCS và bước đầu làm quen
với tiết “Luyện nói”. Càng lên lớp cao, yêu cầu về kiến thức, các năng lực của học
sinh đòi hỏi cao hơn.
Ví dụ 1: Ngữ văn 6 - Tiết 29: Luyện nói kể chuyện
Khi dạy học tiết này, tôi xác định mục tiêu như sau:
* Về kiến thức: Học sinh vận dụng kiến thức về chủ đề, dàn bài, đoạn
văn, lời kể và ngôi kể để kể chuyện một cách chân thật.
* Về kĩ năng: Biết lập dàn ý và dựa vào dàn ý để trình bày rõ ràng, mạch
lạc; biết cách kể miệng một vấn đề; biết nói trước tập thể, nhận xét bài tập nói
của bạn.
* Thái độ: Tích cực tự giác trong học tập, yêu quý, trân trọng các thành

viên trong gia đình.
Điểm mới trong phần xác định mục tiêu của tôi là định hướng rõ những
năng lực cần hình thành cho học sinh qua giờ luyện nói bao gồm cả năng lực
chung và năng lực chuyên biệt. Những năng lực đó là: giải quyết vấn đề thực
tiễn; hợp tác; tự học; giao tiếp tiếng Việt; sử dụng công nghệ thông tin.
13


Ví dụ 2: Ngữ văn 7- Tiết 56 : Luyện nói: Phát biểu cảm nghĩ về tác
phẩm văn học
Dạy học tiết này, tôi xác định mục tiêu như sau:
* Về kiến thức: Nhớ giá trị nội dung và nghệ thuật của một số tác phẩm
văn học; Những yêu cầu khi trình bày văn nói biểu cảm về một tác phẩm văn
học; Củng cố kiến thức về cách làm bài văn biểu cảm về tác phẩm văn học.
* Về kĩ năng: Kĩ năng tìm ý, lập dàn ý bài văn biểu cảm về một tác phẩm
văn học; Kĩ năng tự tin diễn đạt mạch lạc, rõ ràng những tình cảm của bản thân
về một tác phẩm văn học bằng ngôn ngữ nói trước tập thể; Kĩ năng kiểm soát
cảm xúc khi giao tiếp với thầy cô và bạn bè; Kĩ năng quản lí thời gian của giờ
luyện nói.
* Về thái độ: Thái độ học tập nghiêm túc, say mê, tích cực.
Ngoài những năng lực cần đạt được như đối với học sinh lớp 6, ở tiết học
này đối tượng là học sinh lớp 7, giáo viên cần quan tâm phát triển năng lực cao
hơn: năng lực cảm thụ văn học, năng lực sáng tạo, năng lực tự quản.
4. 2. 2. Biện pháp thứ hai: Chuẩn bị của giáo viên
Trên cơ sở mục tiêu của bài học, giáo viên suy nghĩ lựa chọn phương
pháp dạy học theo hướng phát triển năng lực của học sinh, áp dụng các phương
pháp, kỹ thuật dạy học tích cực, soạn bài, chuẩn bị tốt đồ dùng dạy học cần có
trong giờ dạy, định hướng ra đề bài và giao nhiệm vụ cho học sinh. Nếu không
chuẩn bị tốt, giáo viên sẽ không chủ động trong việc tổ chức các hoạt động dạy
học, không đạt được mục tiêu đã đề ra.

Giáo viên phải căn cứ vào đặc điểm tình hình học tập của học sinh lớp
mình (lớp học Giỏi, Trung bình, Khá, Yếu) để ra đề bài sao cho phù hợp với
đối tượng học sinh. Tuy nhiên do đặc trưng của tiết “Luyện nói” để khuyến
khích được học sinh học tập chủ động tích cực, hăng hái, giáo viên nên chọn
những đề mang tính vừa sức để tất cả học sinh có thể cùng nói được.
Ví dụ : Khi dạy bài “Luyện nói kể chuyện” tiết 29, lớp 6, tôi ra đề bài
“Em hãy tự giới thiệu về bản thân”. Khi dạy Tiết 56, tuần 14: Luyện nói phát
biểu cảm nghĩ về tác phẩm văn học Ngữ văn 7, tôi chọn ra đề bài “Phát biểu
cảm nghĩ về bài thơ Cảnh khuya của Chủ tịch Hồ Chí Minh”. Khi dạy tiết 54,
14


tuần 14 lớp 8: Luyện nói thuyết minh một thứ đồ dùng, tôi ra đề bài “Thuyết
minh về cái phích nước”. Sở dĩ tôi chọn đề bài này vì cái phích là đồ dùng rất
quen thuộc trong cuộc sống hàng ngày của các em, các em dễ quan sát và hiểu
rõ về công dụng chức năng của nó. Nên khi quan sát lập dàn ý và luyện nói các
em dễ dàng thực hiện hơn.
Căn cứ vào nội dung bài tập làm văn trước để ra đề bài đảm bảo nguyên
tắc tích hợp, tích cực ở học sinh. Ví dụ: Ở lớp 6 trước tiết “Luyện nói văn miêu
tả” tiết 96, tuần 24: Tả bằng miệng quang cảnh lớp học trong “Buổi học cuối
cùng”. Ở lớp 8, tiết 42, tuần 11: “Em hãy đóng vai Chị Dậu kể lại đoạn trích:
Tức nước vỡ bờ”. Hay khi dạy tiết 65, tuần 13 lớp 9: Luyện nói: Tự sự kết hợp
với nghị luận và miêu tả nội tâm, tôi chọn ra đề bài: Em hãy đóng vai Trương
Sinh kể lại chuyện Chuyện người con gái Nam Xương. Với đề bài này, các em
đã được học văn bản “Chuyện người con gái Nam Xương” ở tiết đọc - hiểu, các
em sẽ dễ dàng lập dàn bài và nói theo dàn ý nội dung câu chuyện theo ngôi kể
mới.
Còn có những tiết luyện nói kể chuyện, biểu cảm về sự việc, con người
trong đời sống thường ngày, học sinh phải có cách vận dụng, quan sát, tưởng
tượng, so sánh và nhận xét gắn với sinh hoạt hằng ngày. Ví dụ: Ở tiết 29, Ngữ

văn 6, tôi ra đề bài : “Em hãy tự giới thiệu về bản thân”.
Nghiên cứu đề ra những tiêu chuẩn để đánh giá bài luyện nói của học
sinh để cả giáo viên và học sinh lấy đó làm căn cứ để nhận xét, đánh giá cho
điểm.
- Nội dung bài nói, đoạn nói có bám sát dàn ý không?
- Cách dùng từ, đặt câu, diễn đạt.
- Điệu bộ, cử chỉ, tác phong, nét mặt, giọng nói.
- Lời giới thiệu trước khi nói, chào sau khi kết thúc, lời cảm ơn.
- Thái độ khi thực hành luyện nói.
Điểm mới trong phần chuẩn bị của tôi là ngoài định hướng rõ những năng
lực cần hình thành cho học sinh qua giờ luyện nói, cần thiết kế giáo án đảm bảo
nguyên tắc tích hợp để giúp học sinh vận dụng kiến thức liên môn giải quyết tình
15


huống thực tiễn. Đặc biệt phải chuẩn bị đầy đủ đồ dùng dạy học cần thiết để tiết
dạy học thành công như: máy tính xách tay, máy chiếu, phiếu học tập
4.2.3. Biện pháp thứ ba: Hướng dẫn và kiểm tra việc chuẩn bị bài ở
nhà của học sinh
Biện pháp này quyết định đến thành công của giờ “Luyện nói”. Bởi
phương pháp dạy học mới trong các giờ học nói chung, giờ Luyện nói nói
riêng, giáo viên chỉ là người hướng dẫn, tổ chức, học sinh đóng vai trò chủ đạo
trong các hoạt động. Nếu không hướng dẫn, kiểm tra cụ thể, giao nhiệm vụ
trước cho các em thì các em không thể có được những ý tưởng mới, sáng tạo và
tham gia các hoạt động của tiết học có hiệu quả.
Trên cơ sở xác định chuẩn kiến thức, kĩ năng và những năng lực cần hình
thành qua tiết học, tôi định hình rõ các nội dung mà học sinh cần chuẩn bị cho
tiết học, từ việc ra đề bài, chia nhóm thảo luận, phân công nhiệm vụ cho từng
nhóm, lập dàn ý đề bài đã cho. Nội dung học sinh chuẩn bị theo nhóm, tôi chia
5-6 em/nhóm. Các nhóm cử nhóm trưởng, thư kí, các thành viên cùng xây dựng

dàn ý để rút ra dàn ý chung của nhóm, luyện nói trước gương ở nhà, đến lớp
luyện nói trong nhóm và luyện nói trước lớp. Khi chia nhóm, tôi chú ý đến việc
chia đều các đối tượng học sinh để các em hỗ trợ nhau trong quá trình chuẩn bị.
Nội dung hướng dẫn học sinh chuẩn bị, tôi thường tiến hành ở cuối của tiết học
trước (khoảng 1 tuần trước tiết “Luyện nói”), với những câu hỏi, bài tập và đề
bài cụ thể:
Ví dụ : Với đề bài “Em hãy tự giới thiệu về bản thân”, tôi hướng dẫn học
sinh về nhà ôn lại lý thuyết văn kể chuyện: các bước tìm hiểu đề, tìm ý, lập dàn ý.
Đề bài “Phát biểu cảm nghĩ về bài thơ Cảnh khuya của Chủ tịch Hồ Chí
Minh”, tôi nhắc học sinh về nhà ôn lại lý thuyết phát biểu cảm nghĩ.
Đề bài “Thuyết minh về cái phích nước”, tôi hướng dẫn các em vận dụng
kiến thức liên môn để giải quyết: kiến thức vật lí, công nghệ thông tin...
Với những tiết “Luyện nói” có đề bài thích hợp với nội dung văn bản đã
học, tôi yêu cầu học sinh phải học và nắm chắc kiến thức văn bản Ngữ văn như
sự việc, nhân vật, cốt truyện ...thì mới có thể lập dàn ý và nói chính xác được.
Ở tiết “Luyện nói văn miêu tả”: Tả bằng miệng quang cảnh lớp học trong
16


“Buổi học cuối cùng”. Tôi yêu cầu học sinh phải đọc kĩ văn bản, đọc kĩ đoạn
văn trong sách giáo khoa để nắm được nội dung văn bản, đoạn văn nói đến vấn
đề gì. Từ đó các em mới có thể vận dụng tả lớp học trong “Buổi học cuối cùng”
ấy để từ đó có căn cứ, có cơ sở tả lại thầy giáo.
Ở lớp 8, tiết 42, tuần 11: “Em hãy đóng vai Chị Dậu kể lại đoạn trích:
Tức nước vỡ bờ”. Trước hết, học sinh phải nắm lý thuyết văn kể chuyện kết
hợp với yếu tố biểu cảm. Nắm được nội dung đoạn trích: Nhân vật, tình huống,
hành động, lời nói của từng nhân vật. Từ đó dùng lời văn của mình để kể lại
(phải bám vào chi tiết chính trong văn bản ở SGK).
Hay khi dạy tiết 65, tuần 13 lớp 9: Luyện nói: Tự sự kết hợp với nghị
luận và miêu tả nội tâm, đề bài: Em hãy đóng vai Trương Sinh kể lại chuyện

Chuyện người con gái Nam Xương. Với đề bài này, yêu cầu các em phải nắm
chắc nhân vật, sự việc, ngôi kể trong văn bản “Chuyện người con gái Nam
Xương” ở tiết đọc - hiểu, có như vậy các em dễ dàng lập dàn bài và nói theo
dàn ý nội dung câu chuyện theo ngôi kể mới (yêu cầu phải bám vào chi tiết
chính trong văn bản ở SGK).
Hay ở tiết 29, Ngữ văn 6, với đề bài : “Em hãy tự giới thiệu về bản thân”,
tôi hướng dẫn các em có thể học các cách giới thiệu trên các cuộc thi, các
chương trình ti vi của các bạn học sinh khi giới thiệu về bản thân như: Tên,
tuổi, học sinh lớp, đặc điểm hình dáng, tính nết, biệt hiệu, tại sao có biệt hiệu
đó, giới thiệu về gia đình có mấy người, là con thứ mấy, hoạt động thường
ngày là gì, sở thích, ước mơ...Với những gợi ý như thế, các em sẽ rất hào hứng
khi giới thiệu về mình. Khi nói chú ý cho các em về điệu bộ, cử chỉ, sử dụng
hình ảnh minh hoạ.
Muốn tiết luyện nói đảm bảo thời gian và có nhiều học sinh được nói,
được nhận xét, tôi định hướng cho học sinh phải làm như thế nào để phần trình
bày của nhóm mình đạt yêu cầu cả về số lượng và chất lượng. Tôi gợi ý cho
học sinh để hình thành năng lực sáng tạo, có ý tưởng mới, biết sân khấu hoá giờ
“Luyện nói”, hình thức luyện nói phong phú và phải tích cực ứng dụng công
nghệ thông tin để bài nói thêm sinh động, hấp dẫn cuốn hút người nghe.
17


Ví dụ: Các em trong nhóm có thể tự dàn dựng những tiểu phẩm để trong
một thời gian nhiều bạn cùng tham gia luyện nói. Các em có thể chụp ảnh bằng
điện thoại, máy ảnh, đưa thẻ nhớ vào máy tính và dùng phần mềm hỗ trợ để
trình chiếu phục vụ cho bài nói của mình. Hoặc các em có thể tham khảo các
file ảnh trên mạng Internet phục vụ cho bài nói của mình.
Một tiết “Luyện nói” tập làm văn khác hẳn với việc nói (giao tiếp hàng
ngày) của các em. Các em sẽ phải nói trong một môi trường giao tiếp đặc biệt
hơn: có các bạn, có cô giáo và khi nói phải chú ý đến ngôn từ, cử chỉ, điệu bộ.

Vì thế, đứng trước môi trường giao tiếp này nhiều học sinh vốn giao tiếp tự
nhiên bỗng trở thành lúng túng, ngượng nghịu, mất bình tĩnh dẫn đến thành
công không cao khi nói, nhất là với học sinh lớp 6.
Qua thực tế giảng dạy chương trình sách giáo khoa từ lớp 6 cho đến lớp
9, tôi thấy việc tổ chức giờ luyện nói cho lớp 6 là khó khăn nhất. Bởi các em
mới ở tiểu học lên, chưa quen với một tiết học được tách riêng ra 45 phút. Khâu
tổ chức của các em còn mang phong cách của các em nhỏ ở tiểu học: các em
thường không chuẩn bị dàn ý ở nhà mà chỉ nói như thói quen ở tiểu học (gần
như viết bài và học thuộc). Rút kinh nghiệm qua những giờ dạy của giáo viên,
trong giờ luyện nói đầu tiên của chương trình tiết 29- Luyện nói kể chuyện, tôi
phải mất nhiều thời gian của cuối tiết học trước để hướng dẫn học sinh cách lập
dàn ý chi tiết. Sau đó tôi hướng dẫn học sinh như sau:
+ Tham khảo dàn ý sơ lược trong sách giáo khoa.
+ Triển khai dàn ý đó thành dàn ý chi tiết của mình, tập nói ở nhà.
Khi hướng dẫn học sinh chuẩn bị bài ở nhà, giáo viên cũng đưa ra những
yêu cầu cụ thể về nội dung và kĩ năng luyện nói để học sinh có thể tự nhận xét,
đánh giá kĩ năng nói của mình cũng như các bạn trong nhóm.
Ví dụ: Về Nội dung: - Nói đúng chủ đề, đúng thể loại:
Về Kĩ năng: - Kĩ năng nói:
+ Tư thế, tác phong: đàng hoàng, tự tin, mắt nhìn thẳng vào người nghe.
+ Giọng nói: rõ ràng, truyền cảm, phát âm chuẩn( chú ý l-n).
+ Ngữ điệu: phù hợp, không nói như đọc.
+ Biểu cảm: kết hợp cử chỉ, nét mặt, ánh mắt,...
18


+ Biết mở đầu, kết thúc bài nói của mình.
- Kĩ năng nhận xét
Dựa vào yêu cầu, nhận xét về nội dung và kĩ năng trên hai phương diện
ưu điểm và nhược điểm ( nhận xét ưu điểm trước, nhược điểm sau)

Giáo viên có thể phát cho mỗi nhóm một phiếu tự đánh giá cho điểm nói
trong nhóm. Phiếu theo mẫu sau:
PHIẾU TỰ ĐÁNH GIÁ NHÓM:........
STT

Họ và tên

Nội dung
(6 điểm)

Kĩ năng
(4 điểm)

Tổng điểm

Điểm mới trong phần hướng dẫn chuẩn bị của tôi là đã định hướng hình
thành cho học sinh nhiều năng lực: năng lực tự học, năng lực giải quyết vấn đề,
năng lực sáng tạo, năng lực sử dụng công nghệ thông tin, năng lực tự đánh
giá....
Đặc biệt, giao bài phải có kiểm tra. Việc kiểm tra sự chuẩn bị của học
sinh trước khi nói có thể đa dạng và linh hoạt. Có thể kiểm tra ở cuối các tiết
học trước tiết “Luyện nói” và giáo viên phải là người trực tiếp kiểm tra. Biện
pháp này giúp giáo viên nắm bắt được ý tưởng sáng tạo, mức độ chuẩn bị của
học sinh so với yêu cầu để nhắc nhở đôn đốc, hỗ trợ, định hướng phân công
nhiệm vụ cụ thể cho từng nhóm học sinh, chuẩn bị tốt cho giờ luyện nói. Đồng
thời, qua việc kiểm tra giáo viên chủ động trong việc tổ chức các hoạt động
trong giờ luyện nói sao cho linh hoạt như một người đạo diễn xây dựng kịch
bản để các em thể hiện được ý tưởng của mình trong giờ luyện nói. Điều quan
trọng là làm thế nào để nhiều học sinh được luyện nói trong giờ học. Biện pháp
này bước đầu giúp tôi đánh giá được những năng lực đã được hình thành của

học sinh.
4.2.4. Biện pháp thứ tư: Tổ chức hoạt động trong tiết học
Để đảm bảo thời gian cho việc học sinh luyện nói, giáo viên có thể linh
hoạt thực hiện các bước lên lớp, đi vào vấn đề trọng tâm cụ thể của tiết dạy.
Các phần khác phải thao tác nhanh vì học sinh đã chuẩn bị trước và giáo viên
cũng đã kiểm tra trước khi diễn ra tiết học. Tiết học luyện nói có ba phần: Phần
19


1 và phần 2 chỉ sử dụng 1/4 quỹ thời gian của tiết dạy còn lại dành cho phần 3:
Luyện nói.
Phần 1: Chuẩn bị: ( 5-7’)
- Hướng dẫn học sinh tìm hiểu đề, tìm ý bằng những câu hỏi gợi mở.
- Trên cơ sở học sinh đã chuẩn bị bài ở nhà, giáo viên cho đại diện một
nhóm trình bày, các nhóm khác nhận xét và thống nhất dàn ý chung (giáo viên
chiếu dàn ý chuẩn lên màn hình).
Phần 2: Yêu cầu luyện nói: ( 2’)
Tất cả các tiết luyện nói ở các khối lớp đều nhằm giúp học sinh rèn luyện
tốt kĩ năng nói của bản thân trước tập thể (có cô giáo và các bạn học sinh), khác
với cách nói thông thường trong các giờ giải lao, trong các câu chuyện tâm sự
của các em với nhau với các thầy cô giáo. Vì thế, giáo viên cần quan tâm
hướng dẫn cho học sinh chuẩn bị nội dung bài tốt để các em hình dung được
mình sẽ nói cái gì? (xác định đề tài theo đề bài giáo viên cho), nói với ai? (xác
định đối tượng giao tiếp), nói trong hoàn cảnh nào? (xác định hoàn cảnh giao
tiếp), nói để làm gì?( xác định mục đích giao tiếp) và nói như thế nào? (cách
thức giao tiếp).
Vì vậy, giáo viên cho học sinh nhắc lại yêu cầu, giáo viên chiếu lên màn
hình để cả lớp cùng theo dõi và làm cơ sở nhận xét.
- Nội dung: Nói đúng chủ đề, đúng thể loại
- Kĩ năng nói

+ Tư thế, tác phong: đàng hoàng, tự tin, mắt nhìn thẳng vào người nghe.
+ Giọng nói: rõ ràng, truyền cảm, phát âm chuẩn( chú ý l-n).
+ Ngữ điệu: phù hợp, không nói như đọc.
+ Biểu cảm: kết hợp cử chỉ, nét mặt, ánh mắt,...
+ Biết mở đầu, kết thúc bài nói của mình.
- Kĩ năng nhận xét: Dựa vào mục II, nhận xét về nội dung và kĩ năng trên
hai phương diện ưu điểm và nhược điểm (nhận xét ưu điểm trước, nhược điểm
sau)
Phần 3: Luyện nói (30’)
+ Luyện nói trong nhóm: (7-10’)
20


- Giáo viên chia lớp thành các nhóm: 5 HS/nhóm các nhóm cử nhóm
trưởng; nêu yêu cầu luyện nói ở nhóm: thời gian luyện nói từ 7-10 phút, nhóm
trưởng đứng lên điều hành chung, học sinh nào nói thì đứng, học sinh khác
trong nhóm trật tự lắng nghe để góp ý cho bạn, đảm bảo trong thời gian quy
định tất cả các bạn trong nhóm đều được nói.
- Học sinh thực hành nói trong nhóm, giáo viên quan sát, nhắc nhở,
hướng dẫn, tư vấn (nếu cần).
- Hết thời gian luyện nói trong nhóm, học sinh nhận xét bổ sung; giáo
viên nhận xét ý thức tham gia luyện nói của các nhóm.
Ở bước này sau thời gian quy định mọi thành viên trong lớp đều được
nói trong nhóm.
+ Luyện nói trước lớp (20-23’)
- Giáo viên cho học sinh đại diện các nhóm lần lượt trình bày trước lớp.
- Cho các nhóm dùng máy chiếu để chiếu những hình ảnh minh hoạ cho
bài nói của mình thêm sinh động, hấp dẫn, thu hút sự chú ý của cả lớp.
- Khi học sinh trình bày, các nhóm trật tự, lắng nghe để nhận xét.
- Sau khi trình bày xong, giáo viên gọi học sinh nhận xét ưu điểm, hạn

chế.
Ở bước này tôi đặc biệt chú trọng đến kĩ năng nhận xét của học sinh. Tôi
đánh giá cao những lời nhận xét chính xác về cả nội dung và kĩ năng phần nói
của bạn trước lớp. Nhận xét tốt còn được đánh giá cao hơn nói tốt. Bởi vì, để
nhận xét bạn đòi hỏi học sinh phải tập trung theo dõi, phải có kiến thức, năng
lực nghe, đánh giá. Nhận xét bạn cũng là một cách học. Những ưu điểm, hạn
chế của bạn đều là bài học đáng quý đối với mỗi học sinh để tự rút kinh nghiệm
trong phần nói của mình vì “Học thầy không tày học bạn”, học cả kiến thức và
kỹ năng nói. Đây là một điểm mới mà nhiều đồng nghiệp chưa thực sự chú
trọng. Việc học sinh nhận xét bạn là được đánh giá lẫn nhau một cách khách
quan.
- Giáo viên cùng học sinh nhận xét, đánh giá cho điểm, tuyên dương học
sinh. Phần luyện nói trước lớp với đối tượng học sinh khá giỏi hoặc ở lớp 8,9
21


giáo viên có thể linh hoạt cho học sinh tự tổ chức. Chọn một học sinh có khả
năng để dẫn chương trình điều khiển các nhóm lên nói. Ở bước này kể cả học
sinh lên nói, học sinh nhận xét và học sinh dẫn chương trình đều được rèn kĩ
năng nói trước tập thể. Năng lực giao tiếp, cảm thụ văn học, sáng tạo, tự quản
ứng dụng công nghệ thông tin được thể hiện rõ nhất ở phần luyện nói trước lớp.
Khi nói phải tạo cho học sinh hoàn cảnh giao tiếp thuận lợi như không
khí hào hứng trong lớp học, thái độ dễ hợp tác của những người cùng tham gia
giao tiếp, sự khuyến khích động viên kịp thời của giáo viên.
Khi tiếp xúc với các em lần đầu tiên, giáo viên cần thiết lập tốt mối quan
hệ, giúp học sinh thấy được sự gần gũi, thân tình nơi giáo viên. Điều này là cơ
sở giúp học sinh dễ dàng bộc lộ với giáo viên hơn trong những giờ học sau.
Giáo viên có thể làm quen với các em bằng cách giới thiệu về mình cũng
là cơ sở để các em theo đó mà tự giới thiệu bản thân về những điều đơn giản
như họ, tên, tuổi, sở thích,…Điều này không kém phần quan trọng, vì nếu làm

được như vậy thì giáo viên đã phần nào giúp học sinh bắt đầu tập làm quen với
việc phát biểu miệng.
Không khí của giờ luyện nói nên tạo được sự hào hứng cho lớp học, cho
từng em học sinh, làm cho các em phấn khởi, mong muốn được lên trình bày
bài nói của mình. Để kích thích học sinh, giáo viên nên đánh giá khen ngợi,
khuyến khích bằng cách cho điểm, tặng những tràng pháo tay động viên sau
mỗi bài nói tốt, hoặc những phần thưởng nho nhỏ nhưng có ý nghĩa lớn.
Trọng tâm của những giờ học này là luyện nói, giáo viên nên dành nhiều
thời gian cho học sinh lên nói trước lớp (khoảng 20 phút) với số lượng từ 12
đến 15 học sinh, số còn lại sẽ được lên nói ở những tiết sau.
Việc luyện nói cho học sinh trong giờ “Luyện nói” là rất quan trọng. Tuy
nhiên việc luyện nói cần tiến hành thường xuyên trong các giờ học Ngữ văn và
phải được kết hợp với các kĩ năng khác. Để giờ luyện nói đạt hiệu quả cao hơn
giáo viên cần quan tâm luyện nói cho học sinh mỗi khi các em có điều kiện
phát biểu miệng trong các giờ học.
Ví dụ: rèn luyện cho học sinh suy nghĩ kỹ trước khi nói, nói đúng vấn đề
cần trao đổi, khi nói cần bình tĩnh, tự tin, nói theo đúng nghi thức và tuân thủ
22


nguyên tắc hội thoại, biết vận dụng yếu tố phi ngôn ngữ để lời nói thêm thuyết
phục.
Giáo viên chú trọng tạo điều kiện cho học sinh bộc lộ những suy nghĩ cá
nhân, biết chấp nhận những góp ý của cá nhân học sinh khác, của giáo viên.
Đồng thời rèn luyện năng lực nói và trình bày lưu loát kết hợp với những suy
nghĩ, tình cảm khi nói. Các câu hỏi đặt ra có ngữ cảnh giao tiếp cụ thể được đặt
trong những tình huống có vấn đề để kích thích óc tư duy, sự phản xạ nhanh
chóng của học sinh, giúp học sinh có thể trả lời ngắn gọn. Tạo sự tự tin, tự bộc
lộ suy nghĩ của mình trong việc phát biểu thảo luận ngay cả ý kiến đó là sai
hoặc chưa hoàn toàn chính xác. Có ý thức trong việc dùng từ, diễn đạt khi nói.

Muốn đạt được kết quả cao trong giờ luyện nói, giáo viên phải chủ động
phát huy kinh nghiệm của cá nhân, đồng nghiệp. Linh hoạt trong việc vận dụng
các kiến thức, đổi mới phương pháp dạy học theo nguyên tắc tích hợp, theo
hướng tích cực hoá hoạt động học tập của học sinh, vận dụng sáng tạo lý thuyết
giao tiếp vào dạy các giờ luyện nói cũng như luyện nói cho học sinh trong các
giờ học khác.
Ở biện pháp này, những năng lực của học sinh đã được thể hiện cụ thể
qua việc trình bày sáng tạo thông qua các tiểu phẩm, các tình huống, hoạt động
hợp tác để xử lý tình huống, đặc biệt là năng lực cảm thụ và sử dụng ngôn ngữ
tiếng Việt.
4.2.5. Biện pháp thứ năm: Nhận xét đánh giá, động viên, rút kinh
nghiệm
Bên cạnh đánh giá việc trình bày của học sinh, giáo viên cũng nên lưu ý
cho học sinh những lỗi cần tránh trong nói tiếng Việt về chính âm, chính tả và
hướng dẫn các em nói diễn cảm, ngắn gọn, súc tích, hấp dẫn người nghe.
- Giáo viên nhận xét từng nhóm, cho điểm nhóm, có thể động viên cộng
điểm cho nhóm có bạn xung phong nói.
- Giáo viên tuyên dương sự chuẩn bị tốt, nói tốt của cá nhân, nhóm để
học sinh khác học tập.
- Động viên nhắc nhở những học sinh còn trầm chưa mạnh dạn để giờ
sau nói tốt hơn.
23


- Kết thúc giáo viên có thể hỏi học sinh: Qua giờ luyện nói, em thấy
muốn nói thành công em phải làm gì?
- Học sinh trả lời, giáo viên nhấn mạnh lại yêu cầu nội dung bài nói:
+Nói cái gì? (Xác định đề tài)
+Nói với ai? (Xác định đối tượng giao tiếp)
+Nói trong hoàn cảnh nào? (Xác định hoàn cảnh giao tiếp)

+Nói như thế nào? (Cách thức giao tiếp để thuyết phục người nghe). Có
lời chào khi bắt đầu nói, giới thiệu đề tài sắp nói, tránh đọc lại hoặc học thuộc
lòng để đọc lại bài văn chi tiết đã chuẩn bị.
Giọng nói rõ ràng, cao độ vừa phải, đúng chuẩn ngữ âm, truyền cảm và
thuyết phục người nghe (thể hiện cảm xúc chân thành, tự nhiên, không gò bó,
áp đặt). Tác phong tự nhiên, phản xạ ngôn ngữ nhanh nhạy, mắt nhìn thẳng mọi
người. Không nói ra ngoài những gì mà đề bài yêu cầu. Có lời chào khi kết
thúc bài nói.
- Giáo viên cho học sinh tham khảo bí quyết “6T” giúp luyện nói hay:
Về nội dung: Tập trung; Tường minh; Thú vị.
Về hình thức trình bày: Trong sáng; Tự tin; Truyền cảm.
(Để chứng minh tính mới, tính sáng tạo của những biện pháp đưa ra, tôi
có đầy đủ giáo án, bài giảng điện tử, một số hình ảnh trong giờ học minh hoạ
cho sáng kiến ở phần phụ lục).
5. Kết quả đạt được
5.1. Trước khi áp dụng sáng kiến
5.1.1. Khảo sát
5.1.1.1. Phương pháp khảo sát
- Khảo sát sự hứng thú của học sinh khi học các tiết luyện nói.
- Khảo sát chất lượng bộ môn.
5.1.1.2. Thời gian, đối tượng khảo sát
- Thời gian: tháng 9/2014
24


- Đối tượng : Học sinh các lớp: 6A, 7B, 8C, 9D.
Để điều tra sự hứng thú đối với tiết học “Luyện nói” của học sinh tôi đã
thực hiện bằng phiếu khảo sát:
PHIẾU KHẢO SÁT
Yêu cầu: Hãy đánh dấu (X) vào ô trống.

Em có thích học tiết “Luyện nói” không?

Không
5.1.2. Kết quả
+ Khảo sát sự hứng thú học tiết luyện nói
Kết quả

Tổng số

Lớp

học sinh

6A
7B
8C
9D
Tổng

30
30
30
29
119

Hứng thú
Số lượng
%
13
43,3

10
33,3
8
26,7
5
17,2
36
30,3

Không hứng thú
Số lượng
%
17
56,7
20
66,7
22
73,3
24
82,8
83
69,7

+ Khảo sát kết quả học tập môn Ngữ văn đầu năm:
Lớp

6A
7B
8C
9D

Tổng

Tổng
số HS

30
30
30
29
119

Giỏi
SL

Khá
%

5
3
1
0
9

16,7
10,0
3,3
0
7,6

SL


%

10
8
7
6
31

33,3
26,7
23,3
20,7
26,1

Trung bình
SL
%

13
10
10
9
42

43,3
33,3
33,3
31,0
35,3


Yếu
SL

2
9
12
15
38

%

6,6
30,0
40,0
51,7
31,9

5.1.3. Nhận xét, đánh giá
- Qua khảo sát tôi thấy đa số các em không hứng thú với giờ học luyện
nói. Chính vì vậy chất lượng học tập bộ môn Ngữ văn chưa cao, học sinh đạt
điểm trung bình trở lên đạt khoảng 68,1 %. Qua thực tế điều tra trên, đi sâu tìm
hiểu nguyên nhân, tôi thấy có tình trạng trên là vì:

25


×