Tải bản đầy đủ (.doc) (29 trang)

skkn một số biện pháp nâng cao chất lượng công tác chủ nhiệm lớp ở tiểu học

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (195.33 KB, 29 trang )

Phần 1
THÔNG TIN CHUNG VỀ SÁNG KIẾN
1. Tên sáng kiến: Một số biện pháp nâng cao chất lượng công tác chủ nhiệm
lớp ở tiểu học.
2. Lĩnh vực áp dụng sáng kiến: Công tác chủ nhiệm lớp.
3. Tác giả : Lê Thị Phượng
Sinh ngày 10 tháng 01 năm 1965

Nữ

Chức vụ : Giáo viên
Đơn vị công tác: Trường Tiểu học Sao Đỏ 2, phường Sao Đỏ, thị xã
Chí Linh, tỉnh Hải Dương
Số điện thoại di động : 0974 850 858
4. Đơn vị áp dụng sáng kiến lần đầu : Trường Tiểu học Sao Đỏ 2.
- Địa chỉ : Khu phố Nguyễn Trãi 1, phường Sao Đỏ, Thị xã Chí LinhTỉnh Hải Dương
- Số điện thoại : 03203 882 665
5. Chủ đầu tư tạo ra sáng kiến: Lê Thị Phượng
6. Các điều kiện cần thiết để áp dụng sáng kiến:
- Giáo viên có trình độ từ trung học sư phạm trở lên; có năng lực chuyên
môn nghiệp vụ vững vàng; tâm huyết với sự nghiệp giáo dục; có kiến thức cơ
bản về tâm lí học, giáo dục học, văn hoá, pháp luật, chính trị; năng động, sáng
tạo.
- Phòng học rộng rãi, thoáng mát, có đầy đủ bàn ghế, chỗ ngồi cho học
sinh và các trang thiết bị phục vụ giảng dạy.
6. Thời gian áp dụng sáng kiến lần đầu : Tháng 9 năm 2013
HỌ VÀ TÊN TÁC GIẢ

XÁC NHẬN CỦA CƠ QUAN ĐƠN VỊ
ÁP DỤNG SÁNG KIẾN


Lê Thị Phượng

1


Phần 2
TÓM TẮT SÁNG KIẾN
1. Hoàn cảnh nảy sinh sáng kiến:
Công tác chủ nhiệm lớp là một hoạt động chuyên môn, nghiệp vụ của
mỗi giáo viên trong nhà trường. Làm công tác chủ nhiệm cũng giống như việc
giảng dạy một môn học. Song thực hiện nó lại không có một tài liệu, sách
hướng dẫn nào cả. Vậy làm thế nào để làm tốt công tác chủ nhiệm lớp? Câu
hỏi đã thúc giục tôi phải đi tìm “Một số biện pháp nâng cao chất lượng công
tác chủ nhiệm lớp ở tiểu học” để hoàn thành tốt nhiệm vụ của người giáo viên
trong giai đoạn hiện nay.
2. Điều kiện, thời gian, đối tượng áp dụng sáng kiến:
2.1. Điều kiện áp dụng sáng kiến:
Giáo viên có trình độ từ trung học sư phạm trở lên; có năng lực chuyên
môn nghiệp vụ vững vàng; có lòng yêu nghề, mến trẻ, tâm huyết với sự
nghiệp giáo dục; có kiến thức cơ bản về tâm lí học , giáo dục học,…; có hiểu
biết về văn hoá, pháp luật, chính trị
Phòng học rộng rãi, thoáng mát, có đầy đủ bàn ghế, chỗ ngồi cho học
sinh và các trang thiết bị phục vụ giảng dạy.
2.2. Thời gian áp dụng sáng kiến: Tháng 9 năm 2013.
2.3. Đối tượng áp dụng: Học sinh lớp 2, 3 do tôi chủ nhiệm trong 2 năm
học 2013 – 2015, 2014- 2015.
3. Nội dung sáng kiến :
Nâng cao chất lượng công tác chủ nhiệm lớp là một việc làm cấp bách,
cực kì quan trọng và cần thiết trong giai đoạn hiện nay. Xuất phát từ yêu cầu
đổi mới giáo dục, cơ sở của lí luận dạy học và thực tiễn giảng dạy, tôi nghiên

cứu sáng kiến: “Một số biện pháp nhằm nâng cao chất lượng công tác chủ
nhiệm lớp ở tiểu học”. Sáng kiến bao gồm một số nội dung sau:
1) Nghiên cứu thực trạng của công tác chủ nhiệm lớp hiện nay trong
trường tiểu học.

2


2) Đề xuất một số biện pháp nhằm nâng cao chất lượng công tác chủ
nhiệm lớp ở tiểu học.
Sáng kiến có thể áp dụng rộng rãi với tất các giáo viên dạy các lớp trong
bậc tiểu học nếu đủ các điều kiện đã nêu ở mục 5 - Phần 1.
Sáng kiến được áp dụng sẽ giúp giáo viên làm tốt công tác chủ nhiệm lớp
bằng một số biện pháp hết sức nhẹ nhàng, đậm tính giáo dục, giàu tính nhân
văn, thực hiện đúng yêu cầu đổi mới đánh giá học sinh tiểu học theo Thông tư
số 30/2014/TT- BGDĐT mà hiệu quả lại cao, góp phần nâng cao chất lượng
giáo dục toàn diện, đáp ứng mục tiêu giáo dục.
4. Khẳng định giá trị, kết quả của sáng kiến:
Sáng kiến đã được tôi áp dụng trong những năm học gần đây và đã đem
lại hiệu quả thiết thực. Lớp tôi chủ nhiệm năm học nào cũng dẫn đầu toàn
khối về chất lượng giáo dục toàn diện; bản thân tôi được nhà trường công
nhận là “Giáo viên chủ nhiệm giỏi” cấp trường năm học 2013-2014.
5. Đề xuất, kiến nghị để thực hiện áp dụng hoặc mở rộng sáng kiến:
Để sáng kiến trên áp dụng thực sự có hiệu quả, khi phân công giáo viên
làm công tác chủ nhiệm ban giám hiệu cần lựa chọn những giáo viên có năng
lực và phẩm chất đạo đức tốt.
Khi áp dụng sáng kiến, giáo viên phải kiên trì, bề bỉ, thực hiện trong tất
cả các hoạt động giáo dục sẽ nêu sau đây thì chất lượng giáo dục toàn diện
mới thực sự có hiệu quả, đáp ứng được mục tiêu giáo dục.


3


Phần 3
MÔ TẢ SÁNG KIẾN
1. Hoàn cảnh nảy sinh sáng kiến:
Hiện nay, bộ Giáo dục và đào tạo đã và đang phát động phong trào “Xây
dựng trường học thân thiện - Học sinh tích cực” nhằm nâng cao chất lượng
giáo dục toàn diện, học sinh tích cực, đặc biệt là giáo dục đạo đức, nhân cách
và kĩ năng sống cho học sinh. Muốn phong trào đạt được được hiệu quả thì
phải có những người giáo viên chủ nhiệm giỏi để xây dựng “Lớp học thân
thiện - Học sinh tích cực”. Người giáo viên chủ nhiệm giỏi là người biết tạo ra
môi trường học tập thân thiện, an toàn, gần gũi với học sinh, làm cho học sinh
cảm thấy “Mỗi ngày đến trường là một ngày vui”; xây dựng cho các em một
phương học tập tích cực, tự giác, chủ động để đạt được kết quả học tập tốt
nhất.
Hưởng ứng phong trào trên, các nhà trường đã rất quan tâm đến việc phát
hiện và nhân rộng các nhân tố điển hình tiên tiên tiến làm tốt công tác chủ
nhiệm lớp nên hằng năm đã tổ chức hội thi “Giáo viên chủ nhiệm giỏi”. Hội
thi là một hoạt động chuyên môn, nghiệp vụ được tổ chức theo định kì mỗi
năm một lần. Mục đích của hội thi nhằm tuyển chọn, công nhận giáo viên đạt
danh hiệu giáo viên chủ nhiệm giỏi, tạo điều kiện để giáo viên thể hiện năng
lực, học tập, trao đổi kinh nghiệm về công tác chủ nhiệm lớp; phát hiện và
tuyên dương và nhân rộng những điển hình tiên tiến, góp phần tạo động lực
nâng cao chất lượng giáo dục của nhà trường, địa phương, thu hút sự quan
tâm của các lực lượng xã hội tham gia công tác giáo dục học sinh. Đồng thời
góp phần đánh giá thực trạng năng lực, nghiệp vụ sư phạm của đội ngũ. Từ đó
xây dựng kế hoạch đào tạo, bồi dưỡng nhằm nâng cao năng lực làm công tác
chủ nhiệm lớp của giáo viên, đáp ứng yêu cầu đổi mới giáo dục. Công tác chủ
nhiệm lớp đã và đang là một điểm nóng trong việc góp phần nâng cao chất

lượng giáo dục toàn diện trong các nhà trường hiện nay.

4


Là một giáo viên đã nhiều năm làm công tác chủ nhiệm lớp, tôi đã tìm
tòi, nghiên cứu và áp dụng sáng kiến “Một số biện pháp nâng cao chất lượng
công tác chủ nhiệm lớp” và sau đây sẽ trao đổi cùng các bạn.
2. Cơ sở lí luận:
Ở bậc tiểu học, giáo viên chủ nhiệm có một vị trí vô cùng quan trọng
trong việc hình thành cho học sinh những cơ sở ban đầu cho sự phát triển
đúng đắn và lâu dài về đạo đức, trí tuệ, thể chất, thẩm mĩ và các kĩ năng sống
cơ bản để học sinh tiếp tục học lên bậc học trung học cơ sở. Giáo viên chủ
nhiệm là người chịu trách nhiệm chính trong việc hình thành và phát triển
nhân cách cho học sinh; là người đại diện quyền lợi, nguyện vọng chính đáng
của tập thể học sinh, là cầu nối giữa lớp học với hiệu trưởng và các thầy cô
giáo trong nhà trường, giữa nhà trường với các tổ chức xã hội, là người tổ
chức, phối hợp, liên kết các lực lượng trong quá trình thực hiện mục tiêu giáo
dục; là người thay mặt ban giám hiệu nhà trường quán lí lớp học. Mục tiêu
của công tác chủ nhiệm lớp là góp phần hình thành và định hướng phát triển
nhân cách con người phù hợp với chuẩn mực đạo đức xã hội. Làm giáo viên
chủ nhiệm giỏi là cả một nghệ thuật, luôn phải thể hiện thành công nhiều vai
diễn. Muốn vậy, người giáo viên chủ nhiệm nhất thiết phải có sự cương quyết,
cứng rắn của người cha; lòng bao dung độ lượng, chu đáo của người mẹ; bên
cạnh đó phải là người anh, người chị, người bạn tin tưởng, gần gũi để học
sinh có thể chia sẻ tâm tư, tình cảm, nguyện vọng, suy nghĩ, cách ứng xử của
mình trước những vấn đề phức tạp trong cuộc sống. Chính vì vậy, người giáo
viên chủ nhiệm cần tự xác định trách nhiệm nặng nề mà xã hội đã giao phó để
hoàn thành tốt nhiệm vụ của mình.
Để thực hiện chức năng quản lí toàn diện giáo dục, đòi hỏi giáo viên chủ

nhiệm phải nắm chắc mục tiêu lớp học, cấp học, có những kiến thức cơ bản
về tâm lí học, giáo dục học, có hiểu biết về văn hoá, pháp luật, chính trị,... đặc
biệt cần có hàng loạt kĩ năng tổ chức hoạt động giáo dục như: kĩ năng giao
tiếp, ứng xử với các đối tượng trong và ngoài nhà trường, kĩ năng “chẩn
đoán” đặc điểm học sinh, kĩ năng lập kế hoạch, kĩ năng tác động nhằm cá thể
5


hoá quá trình giáo dục học sinh (bồi dưỡng học sinh có năng khiếu, học sinh
nhận thức chậm; học sinh có vấn đề về đạo đức,... giáo viên chủ nhiệm phải tự
xác định như “bà đỡ” tinh thần, tâm lí đối với học sinh. Nhiều khi chỉ một lời
khen, một cử chỉ giáo dục đúng lúc, kịp thời... có thể giúp học sinh từ hư trở
thành học sinh ngoan, ngăn ngừa được những ảnh hưởng tiêu cực từ xã hội đến
với học sinh.
Cần khẳng định, giáo viên chủ nhiệm vừa là một nhà sư phạm vừa là
đại diện của Hiệu trưởng, đại diện của tập thể học sinh. Tính giao thoa của
vị trí người giáo viên chủ nhiệm đã tạo nên “cái cầu nối” giữa hiệu trưởng
với tập thể học sinh, sẽ tạo ra cơ hội, điều kiện giải quyết kịp thời, có hiệu
quả cao trong tổ chức tác động giáo dục, tránh được những “mâu thuẫn”,
những hiểu lầm của các quan hệ trong và ngoài nhà trường, trong và ngoài
lớp chủ nhiệm.
Trong năm học 2014 – 2015 này, với việc đánh giá học sinh tiểu học
theo Thông tư số 30/2014/TT/ BGDĐT ngày 28 tháng 8 năm 2014 của Bộ
trưởng Bộ Giáo dục và Đào tạo thì vị trí của giáo viên chủ nhiệm lại càng
vô cùng quan trọng. Bởi việc đánh giá về phẩm chất, năng lực cũng như
quá trình học tập, sự tiến bộ và kết quả học tập và các hoạt động giáo dục
khác của học sinh là những hoạt động quan sát, theo dõi, trao đổi, kiểm
tra, nhận xét quá trình học tập, rèn luyện của học sinh; tư vấn, hướng dẫn,
động viên học sinh; nhận xét về kết quả học tập, rèn luyện, sự hình thành
và phát triển một số năng lực, phẩm chất của học sinh tiểu học nhằm giúp

giáo viên điều chỉnh, đổi mới phương pháp, hình thức tổ chức hoạt động
dạy học, hoạt động trải nghiệm ngay trong quá trình và kết thúc mỗi giai
đoạn học tập; kịp thời phát hiện những cố gắng, tiến bộ của học sinh để
động viên, khích lệ và phát hiện những khó khăn chưa thể tự vượt qua của
học sinh để hướng dẫn, giúp đỡ các em đưa ra nhận định đúng, thực hiện
mục tiêu giáo dục. Có thể thấy rất rõ, chưa bao giờ vị trí, vai trò của
người giáo viên chủ nhiệm lớp lại quan trọng như giai đoạn hiện nay.

6


3. Thực trạng của công tác chủ nhiệm hiện nay trong trường tiểu
học:
Thực tế trong nhà trường hiện nay, đại đa số giáo viên đã rất quan tâm
đến công tác chủ nhiệm lớp. Họ đã và đang ngày đêm miệt mài làm việc, tìm
tòi, sáng tạo, năng động áp dụng mọi biện pháp nhằm nâng cao chất lượng
công tác chủ nhiệm. Song cũng còn số ít giáo viên chưa thực sự quan tâm đến
công việc này. Hàng ngày vẫn làm việc theo kiểu “đánh trống, bỏ dùi”, họ chỉ
tập trung chủ yếu vào việc giảng dạy, truyền thụ kiến thức cho học sinh, ít
quan tâm đến việc giáo dục toàn diện, đến các hoạt động mà người giáo viên
chủ nhiệm cần làm, dẫn đến chất lượng giáo dục có sự chênh lệch khác biệt
giữa các lớp trong cùng một khối. Họ chưa hiểu hết vai trò của người giáo
viến chủ nhiệm lớp trong việc giáo dục học sinh. Hơn thế nữa, còn có những
thầy, cô giáo “vô cảm” trước học sinh. Họ chẳng hề để ý đến tâm tư, nguyện
vọng của các em, mà giáo dục các em theo kiểu áp đặt, bắt học sinh phải thực
hiện theo đúng ý của mình. Họ chỉ mới làm tròn “nghĩa vụ” của người thầy
chứ chưa làm tròn “trách nhiệm” đối với học sinh. Chính vì vậy, trong năm
năm học ở bậc tiểu học, cùng một thế hệ học sinh, song năm học nào các em
được các thầy, cô giáo có tinh thần trách nhiệm cao, tận tâm với học sinh;
thông hiểu hoàn cảnh, nắm được đặc điểm tâm sinh lí của học sinh, biết động

viên khuyến khích các em tích cực, tự giác tham gia vào các hoạt động; phối
kết hợp chặt chẽ với các bậc phụ huynh học sinh và các tổ chức xã hội khác
thì lớp đó sẽ có chất lượng giáo dục toàn diện vượt trội, học sinh thích đi học
và các phong trào sôi nổi, đạt thành tích cao và ngược lại. Đã đến lúc chúng ta
phải gióng lên hồi chuông cảnh tỉnh để học sinh khỏi phải chịu thiệt thòi vì bị
rơi vào các lớp có những giáo viên chủ nhiệm như vậy.
4. Các giải pháp, biện pháp thực hiện:
Công tác chủ nhiệm lớp là một công việc đầy khó khăn và phức tạp bao
gồm nhiều công việc cụ thể được triển khai hàng ngày, hàng tuần và trong
suốt cả năm học. Khi nhận lớp, mỗi giáo viên chủ nhiệm cần điều tra, tìm hiểu
kĩ học sinh, căn cứ vào tình hình thực tế của lớp và chỉ tiêu, kế hoạch của nhà
7


trường giao mà lập kế hoạch, đề xuất biện pháp cho công tác chủ nhiệm của
mình. Biết cụ thể hoá các nội dung công việc, phân công nhiệm vụ cho từng
thành viên trong lớp, có kế hoạch theo dõi, đôn đốc, kiểm tra, đánh giá
thường xuyên, liên tục để các mặt hoạt động đạt hiệu quả tốt. Sau đây là một
số biện pháp cụ thể mà bản thân tôi đã áp dụng thực hiện trong nhiều năm làm
công tác chủ nhiệm lớp có hiệu quả:
4.1. Tìm hiểu đặc điểm tình hình lớp:
Ngay từ đầu năm học, khi bắt đầu nhận lớp tôi đã tiến hành tìm hiểu học
sinh, đặc điểm tình hình của lớp qua nhiều kênh thông tin:
4.1.1.Tìm hiểu trực tiếp qua học sinh:
Thông qua việc làm quen, tự giới thiệu, trò chuyện và giao tiếp hàng
ngày với từng học sinh.
4.1.2. Tìm hiểu thông qua phiếu điều tra:
Tôi điều tra lí lịch, hoàn cảnh gia đình của từng học sinh thông qua phiếu
điều tra (Phụ lục 1, trang 27)
Được chủ nhiệm các em trong hai năm học liền nên đầu năm học 20142015, tôi thăm dò ý kiến các em về công tác chủ nhiệm lớp của mình thông

qua phiếu điều tra (Phụ lục 2, trang 28)
4.1.3.Tìm hiểu thông qua giáo viên chủ nhiệm năm học trước:
Nắm bắt được tình hình của lớp, chất lượng giáo dục, khả năng của từng
đối tượng học sinh, phụ huynh, …
4.1.4. Tìm hiểu thông qua các bậc phụ huynh:
Biết thêm về tình trạng sức khoẻ, hoàn cảnh gia đình, tính cách, cá tính,...
của từng học sinh.
Qua việc điều tra, tìm hiểu tôi đã nắm phần nào về đặc điểm tâm sinh lí,
năng lực, sở trường, ý thích, tâm tư, nguyện vọng, hoàn cảnh gia đình,..của
từng em học sinh; biết được tình hình học tập, chất lượng giáo dục của lớp
trong năm học 2012 – 2013. Và tôi bắt đầu phân tích, đánh giá các mặt thuận
lợi, khó khăn của lớp để xây dựng kế hoạch chủ nhiệm:

8


+ Thuận lợi :
Các em đã được học qua một năm học ở trường tiểu học nên đã được rèn
luyện theo năm nhiệm vụ của học sinh người học sinh; thực hiện tương đối tốt
nội quy của trường, quy định của lớp; ngoan ngoãn, kính trọng và vâng lời
thầy cô giáo, đoàn kết thân mật với bạn bè, biết giúp đỡ bạn khi gặp khó
khăn. Hầu hết các em đều ở địa bàn Sao Đỏ rất thuận lợi cho việc đến trường.
Phần đông cha mẹ các em rất quan tâm đến việc học hành của con em mình,
mua sắm, trang bị cho các em đầy đủ sách vở, dụng cụ học tập, đáp ứng các
yêu cầu và ủng hộ nhiệt tình các phong trào của lớp, của trường phát động.
Đại đa số các em nhận thức nhanh, ham học, ý thức học tập tốt, trong lớp
hăng hái phát biểu ý kiến xây dựng bài, tự giác, tích cực, chủ động nắm bắt
kiến thức, tuân theo chỉ dẫn của giáo viên trong giờ học, nhiều em thông minh
có sáng tạo trong học tập.
Tích cực tham gia các hoạt động phong trào; biết tự chăm sóc và bảo vệ

sức khoẻ; biết giữ gìn vệ sinh và bảo vệ tài sản chung; thực hiện tốt luật lệ an
toàn giao thông,…
Và một điều vô cùng thuận lợi nữa là qua phiếu điều tra, có 97,2% số
học sinh trong lớp yêu quý, ủng hộ phương pháp giảng dạy và thích được tôi
chủ nhiệm các năm học tiếp theo.
+ Khó khăn:
Một số em còn hiếu động, chưa thực hiện tốt nội quy của trường, của
lớp, hay trêu chọc bạn bè quá chớn; nhận thức chậm, ý thức học tập chưa tốt,
chưa tích cực, tự giác học tập; chữ viết cẩu thả, chưa biết cách trình bày,…
Số ít gia đình còn mải làm ăn, chưa thực sự quan tâm đến con cái, còn
phó thác cho thầy cô giáo và nhà trường.
Chưa tích cực tham gia các hoạt động phong trào, còn rụt rè, thiếu tự tin
khi tham gia các hoạt động tập thể; ý thức giữ gìn vệ sinh chưa tốt; chưa chấp
hành tốt luật lệ giao thông, ngồi trên mô tô, xe máy không đội mũ bảo hiểm.

9


4.2. Xây dựng kế hoạch chủ nhiệm các chỉ tiêu phấn đấu của lớp
trong năm học:
Căn cứ vào nhiệm vụ năm học, dựa trên kể hoạch của nhà trường, kế
hoạch hoạt động của Đội Thiếu niên Tiền phong Hồ Chí Minh và tình hình
thực tế của lớp, tôi xây dựng kế hoạch hoạt động cho cả năm học: chỉ tiêu cụ
thể về công tác phổ cập giáo dục, chất lượng giáo dục (chất lượng kiểm tra
định kì, đánh giá thường xuyên các môn học và các hoạt động giáo dục, đánh
giá về năng lực và phẩm chất, hoàn thành chương trình lớp học, khen thưởng,
vở sạch chữ đẹp, các hội thi, hoạt động phong trào…); Đề xuất các biện pháp
thực hiện kế hoạch (quản lí sĩ số học sinh, duy trì sĩ số, nâng cao chất lượng
toàn diện, bồi dưỡng và phát triển năng lực học tập của học sinh đổi với từng
đối tượng học sinh, nâng cao chất lượng vở sạch chữ đẹp), phối hợp các môi

trường xã hội,…) Sau đó lên kế hoạch hoạt động cụ thể và những công việc
cụ thể cần làm cho từng kì, từng tháng, từng tuần, biện pháp thực hiện,
phương pháp theo dõi, đôn đốc, kiểm tra, thường xuyên liên tục.
Năm học 2014- 2015, việc đánh giá học sinh tiểu học được thực hiện
theo Thông tư 30/TT/BGDĐT nên Sổ chủ nhiệm, tôi cũng tự điều chỉnh để
xây dựng kế hoạch, chỉ tiêu phấn đấu cho phù hợp với các nội dung đánh giá
trong Thông tư.
Kế hoạch, chỉ tiêu phấn đấu được tôi thông qua trước toàn thể học sinh
trong lớp, tổ chức cho các em thảo luận, đề xuất biện pháp thực hiện. Sau mỗi
tháng, tôi đều tổ chức cho học sinh tự đánh giá ưu, nhược điểm và tự đánh giá
kết quả của từng hoạt động, xây dựng phương hướng cho các hoạt động tiếp
theo. Đảm bảo cho các em có quyền tự chủ, tự giác và tích cực tham gia các
hoạt động nhằm đạt được mục tiêu giáo dục.
4.3. Tổ chức các hoạt động cụ thể:
4.3.1. Ổn định tổ chức lớp:
Ngay từ buổi học đầu tiên, tôi đã tổ chức cho các em học nội quy của nhà
trường, tiến hành cho các em tự thảo luận, đề ra biện pháp thực hiện tốt các

10


nội quy đó. Ngoài những nội quy của nhà trường, tôi còn tổ chức cho các em
xây dựng những quy định riêng của lớp như:
- Nề nếp truy bài đầu giờ.
- Vở viết, mực viết.
- Các sắp xếp sách vở, đồ dùng học tập.
- Cách xếp hàng ra, vào lớp.
- Mặc đồng phục.
- Nề nếp ra, vào lớp.
- Nề nếp giơ tay phát biểu ý kiến xây dựng bài, cách trình bày vở viết.


Tiến hành chia tổ học tập và sắp xếp chỗ ngồi cho học sinh. Việc sắp xếp
chỗ ngồi cho giáo học sinh cũng là một vấn đề tôi đặc biệt quan tâm. Những
học sinh thấp, bé được ưu tiên ngồi các dãy bàn đầu sau đó sắp theo thứ tự lớn
dần. Song cũng có những học sinh cao, to nhưng có các bệnh về mắt hoặc
nhận thức chậm, hiếu động cũng được ưu tiên ngồi lên các dãy bàn đầu nhưng
phải ngồi vào các dãy bàn phía trong hoặc ngoài cùng để không làm che khuất
các bạn ngồi dưới. Mỗi tháng tôi đổi chỗ ngồi một lần để đảm bảo sự công
bằng giữa các học sinh trong lớp và điều chỉnh hướng mắt cho các em.
Việc bầu chọn và xây dựng đội ngũ ban cán sự lớp cũng là một việc làm
hết sức quan trọng. Trước hết tôi giúp các em hiểu được nhiệm vụ và vai trò
của từng chức vụ trong ban cán sự lớp. Các tiêu chí cần có của từng chức vụ
(Lớp trưởng, lớp phó phải là những học sinh có phẩm chất đạo đức tốt, lực
học tốt, có năng lực quản lí tốt, diễn đạt tốt, tự tin trước tập thể và đặc biệt là
phải được sự tín nhiệm cao của các bạn trong lớp).
Năm học 2013- 2014, tuy các em còn nhỏ nhưng tôi đã tổ chức cho các
em bầu ban cán sự lớp bằng cách tự giới thiệu lớp trưởng, lớp phó, tổ trưởng,
tổ phó,… Sau đó giơ tay biểu quyết: bạn nào được nhiều bạn tín nhiệm nhất
sẽ được làm lớp trưởng, việc bầu chọn lớp phó bên cạnh sự tín nhiệm của các
em còn có sự định hướng của giáo viên chủ nhiệm để tuỳ vào năng lực của
các em mà tập thể lớp lựa chọn, phân công phụ trách các mảng (học tập, văn
11


thể) cho phù hợp. Các tổ tự bầu chọn tổ trưởng, tổ phó của tổ mình, đề xuất
và xin ý kiến của tập thể lớp và giáo viên chủ nhiệm.
Năm học 2014- 2015, áp dụng cách tổ chức lớp học theo mô hình của
trường học VNEN, tôi đã tổ chức cho học sinh bầu chọn Hội đồng tự quản
theo đúng quy trình. Các em có quyền ứng cử, đề cử, lựa chọn và bầu chọn ra
Hội đồng tự quản gồm nhưng em có năng lực quản lí, chỉ đạo tốt và lựa chọn

cho mình một Ban theo đúng năng lực và sở trường của mình.
Cuối cùng là tôi giao việc cho từng chức vụ trong Hội đồng tự quản, tổ
chức cho các em hoạt động dưới sự chỉ dẫn, giám sát của giáo viên chủ
nhiệm. Hội đồng tự quản và các Ban đã và đang hoạt động rất có hiệu quả
trong việc thực hiện các nề nếp, trong các tiết sinh hoạt lớp hàng tuần.
4.3.2. Tổ chức thực hiện các hoạt động giáo dục:
Việc thực hiện các nề nếp được thực hiện thường xuyên, liên tục trong
từng tiết học, ngày học, tháng học và cả năm học dưới sự tích cực, tự giác của
từng học sinh, sự hướng dẫn nhiệt tình của cô giáo chủ nhiệm và sự giám sát
của các ban và Hội đồng tự quản.
4.3.2.1. Nề nếp đạo đức:
Tôi thường xuyên giáo dục đạo đức cho các em, hướng dẫn các em thực
hiện tốt nội quy của trường, của lớp; uốn nắn cho các em từ lời ăn, tiếng nói;
cách đối xử với người trên, thầy cô giáo, bạn bè. Giáo dục các em chấp hành
tốt luật lệ an toàn giao thông; biết giữ gìn và bảo vệ tài sản của trường, của
lớp. Tích cực tham gia môi trường môi trường giáo dục an toàn, lành mạnh.
Bản thân tôi luôn là tấm gương sáng cho các em noi theo. Tôi chú ý đến từng
cử chỉ, lời ăn, tiếng nói, hành vi, cách ăn mặc,… trước học sinh. Đặc biệt
quan tâm đến những học sinh có những biểu hiện chưa tốt về đạo đức. Mỗi
khi các em mắc lỗi, tôi đều nghiêm khắc kiểm điểm, nhẹ nhàng phân tích,
giảng giải để các em tự nhận ra lỗi lầm của mình, thấy được tác hại của những
việc làm đó và tạo cơ hội cho các em sửa chữa. Năm học 2013- 2014 khi tôi
bắt đầu nhận lớp thì có em Nguyễn Trung Kiên từ trường khác chuyển về, em
này có biểu hiện không bình thường về đạo đức. Ngay từ buổi học đầu tiên,
12


em đã tỏ ra là một học sinh không biết sợ ai: lầm lì, ít nói, trêu bạn nọ, chọc
bạn kia, thậm chí sẵn sàng “thượng cẳng chân, hạ cẳng tay” với bất kì “đối
thủ” nào dám chống lại em. Mấy buổi học đầu, không ngày nào tôi không

phải giải quyết “những vụ kiện” từ những hành vi của em. Trong giờ học, tôi
quan sát thấy em không chú ý nghe giảng mà hay quay ngang, quay ngửa
hoặc vớ được đồ dùng nào là em lại hí hoáy nghịch, khi làm bài thì viết rất
nhanh, cẩu thả, làm bài cho song lần, chữ viết như gà bới, kiến thức nắm
không chắc. Các biểu hiện của em làm tôi thực sự giật mình. Giờ ra chơi, tôi
cũng không dám rời khỏi lớp vì sợ em lại nghịch ngợm và gây ra hậu quả. Và
tôi bắt đầu tìm hiểu về em qua những người thân của em, người bạn đồng
nghiệp thường chơi với gia đình em. Tôi biết được em sinh ra trong một gia
đình không hạnh phúc. Bố mẹ em bỏ nhau, em sôngs với mẹ. Người bố tính
tình vô cùng cục súc, nóng nảy. Nhiều khi vì tức người vợ đã bỏ anh ta mà đi
cho nên tất cả các nỗi bực tức đó, anh ta đổ lên đầu đứa con vô tội bằng
những trận đòn hết sức vô cớ và dã man, bạ chỗ nào, anh ta đánh con chỗ đó
làm cho tinh thần thằng bé hoảng loạn. Khi biết được hoàn cảnh của Kiên, tôi
thực sự rất thương em. Tôi luôn quan tâm đến em, xếp cho em ngồi ngay bàn
đầu tiên, gần bàn giáo viên để tôi dễ bề quan sát. Tôi thường gần gũi, động
viên em, tôn trọng ý kiến của em, giải thích cho em hiểu mỗi khi các em mắc
sai lầm, khuyết điểm, không làm em tổn thương, mặc cảm khi mình chưa
bằng các bạn; luôn khích lệ, biểu dương kịp thời những cố gắng và thành tích
mà em đạt được dù nhỏ nhất; Tôi luôn luôn thể hiện cho em thấy tình cảm
thương yêu, tinh thần vị tha, lòng bao dung độ lượng của người thầy lúc nào
cũng hết lòng vì học sinh thân yêu; xây dựng mối quan hệ thầy trò gần gũi,
thân thiện. Với học sinh trong lớp, tôi luôn giáo dục các em biết đoàn kết,
thân ái, giúp đỡ bạn cùng tiến bộ; xây dựng đôi bạn cùng tiến để các em giúp
đỡ Kiên. Thông qua các bài học đạo đức “Quan tâm giúp đỡ bạn”các em tự
liên hệ đến những việc làm thể hiện sự quan tâm, giúp đỡ bạn và phê phán
những hành vi, thái độ thể hiện sự hờ hững, lạnh nhạt đối với bạn. Tất cả
những việc làm trên của tôi đã cảm hoá được Kiên. Chỉ một thời gian sau em
13



đã có tiến bộ rõ rệt, mặc dù tính hiếu động của em đã là “bản tính” nhưng em
không còn là Kiên của những ngày mới đến nữa. Và một thành tích đáng
được ghi nhận và tự hào là cuối năm học lớp 2 em đã đạt danh hiệu “Học sinh
giỏi” – đó chính là món quà tinh thần mà chính em đã dành tặng cho tôi về
việc giáo dục đạo đức cho học sinh. Những việc làm đó đến bay giờ tôi vẫn
phải thường xuyên áp dụng với tất cả học sinh - một biện pháp giáo dục hết
sức nhẹ nhàng mà hiệu quả.
4.3.2.2. Nề nếp học tập:
Hằng ngày, tôi luôn động viên các em đi học chuyên cần, đúng giờ, nghỉ
học phải có giấy xin phép; đi học mang đầy đủ sách vở, dụng cụ học tập;
chuẩn bị bài tốt trước khi tới lớp; soạn sách theo đúng thời khoá biểu; thực
hiện tốt nề nếp truy bài đầu giờ, tổ chức cho các em học sinh có năng khiếu ở
từng môn học chữa những bài tập khó, giải đáp, tháo gỡ, giúp đỡ các bạn học
sinh nhận thức chậm. Trong lớp hăng hái phát biểu ý kiến xây dựng bài;
Trong quá trình giảng dạy, tôi luôn tìm tòi, nghiên cứu chuẩn bị bài thật tốt
trước khi lên lớp, tích cực đổi mới phương pháp dạy học, sử dụng linh hoạt
các hình thức, phương pháp dạy học nhằm phát huy tối đa tính chủ động, sáng
tạo của các em trong quá trình học tập, tăng cường sử dụng các thiết bị dạy
học tiên tiến nhằm khơi dậy tiềm năng sẵn có của học sinh, thúc đẩy trí tò mò,
ham khám phá của học sinh, động viên các em tích cực, tự giác tham gia vào
các hoạt động giáo dục. Thường xuyên kiểm tra, đánh giá, uốn nắn, sửa chữa
cho các em từ những sai sót nhỏ nhất.
Đặc biệt trong năm học 2014 – 2015 này, việc đánh giá học sinh tiểu
học theo Thông tư 30/2014/TT/BGDĐT có sự thay đổi căn bản và toàn diện
thì trách nhiệm của người thầy lại càng quan trọng hơn. Khi giảng dạy, tôi
quan tâm sát sao hơn đến từng học sinh, uốn nắn, chỉ bảo tận tình cho các em
sửa chữa từng lỗi sai nhỏ; tăng cường các hoạt động nhóm, cá nhân để các em
có cơ hội bộc lộ năng lực của bản thân, tự khẳng định mình; đánh giá vì sự
tiến bộ của học sinh, coi trọng việc động viên khuyến khích tính tích cực và
vượt khó trong học tập, rèn luyện của học sinh, giúp học sinh phát huy khả

14


năng; đảm bảo kịp thời, công bằng, khách quan. Đánh giá vì sự tiến bộ của
học sinh, không so sánh học sinh này với học sinh khác, không tạo áp lực cho
học sinh, giáo viên và cha mẹ học sinh. Quan tâm đến mọi đối tượng học sinh.
Đặc biệt là học sinh chậm tiến và học sinh có năng khiếu:
+ Đối với học sinh có năng khiếu:
Tôi phát hiện và bồi dưỡng thường xuyên trong các tiết học; tạo điều
kiện cho các em thể hiện năng lực của mình như: ra thêm hệ thống bài tập,
dành cho các em những câu hỏi khó đòi hỏi có sự tư duy, suy luận lô gic; có
kế hoạch bồi dưỡng thêm; khơi dậy cho các em lòng say mê, hứng thú, năng
động, sáng tạo, tự khẳng định mình trong mọi học tập.
+ Đối với những học sinh chậm tiến:
Tôi tiến hành tìm hiểu nguyên nhân và những lỗ hổng kiến thức của các
em. Quan tâm đến các em trong các tiết học, ngày học. Những kiến thức, kĩ
năng các em chưa nắm bắt được tôi đều dành thời gian giảng lại cho các em
vào những giờ nghỉ giải lao hoặc cuối buổi học, xây dựng đôi bạn cùng tiến,
phân công những em học tốt kèm cặp thêm vào các giờ truy bài đầu giờ, giờ
ra chơi. Gặp gỡ phụ huynh của các em đó để trao đổi tình hình học tập và các
lỗ hổng kiến thức cần bù đắp để phụ huynh phối hợp kèm cặp; luôn động
viên, khen ngợi, khích lệ các em từ những tiến bộ nhỏ nhất; tránh những việc
làm như miệt thị, phê bình các em trước lớp, phân biệt đối xử để làm cho các
em nhụt chí, xấu hổ trước bạn bè, mặc cảm với bản thân. Bằng các việc làm
trên những học sinh chậm tiến đã có tiến bộ rõ rệt, các em đều nắm bắt được
những kiến thức cơ bản vận dụng vào thực hành tương đối tốt. Áp dụng các
biện pháp đã nêu trên với em Nguyễn Thị Lan Phương - một học sinh nhận
thức chậm nhất lớp đã đạt được kết quả đáng khích lệ: cuối năm học lớp 2 em
đã đạt danh hiệu “Học sinh tiên tiến”, đưa lớp 2D do tôi chủ nhiệm lên dẫn
đầu toàn khối về chất lượng giáo dục toàn diện.

Bên cạnh đó, tôi còn tổ chức tốt các tiết sinh hoạt lớp theo mô hình
VNEN. Các tiết sinh hoạt lớp diễn ra hết sức nhẹ nhàng. Hội đồng tự quản tổ
chức cho các bạn tự nhận xét, đánh giá ưu điểm, nhược điểm các mặt hoạt
15


động; tất cả các thành viên trong lớp được thể hiện quan điểm, lập trường của
mình trước lớp; được tập thể lớp công nhận những cố gắng, thành tích mà các
cá nhân, tập thể đã đạt được về mọi hoạt động. Đây là cơ hội để các em được
nhìn nhận những mặt mạnh, mặt yếu của bản thân để phát huy, phấn đấu hay
khắc phục. Giáo viên khuyến khích, khen ngợi động viên kịp thời những
thành tích mà các em đạt được đồng thời nhắc nhở, uốn nắn kịp thời cho các
em sửa chữa những sai lầm, tồn tại còn mắc phải. Tạo cho các em thấy được
niềm vui khi được đến trường học tập, giao lưu cùng các bạn để cố gắng học
tập và đạt thành tích cao hơn nữa.
4.3.2.3. Nề nếp lao động, vệ sinh:
Đây là một trong những nhiệm vụ của người học sinh. Trước hết, tôi
giúp các em thấy được trách nhiệm của mình đối với trường lớp. Tôi tổ chức
cho các em cùng tham gia trang trí lớp học theo mô hình VNEN, định hướng
cho các em về cách trang trí sao cho thật đẹp, phù hợp, có tính thẩm mĩ và
giáo dục cao, tôn trọng sự sáng tạo của các em. Thường xuyên nhắc nhở học
sinh tích cực tham gia lao động dọn vệ sinh trường lớp, giữ gìn vệ sinh chung;
thực hiện tốt việc trực nhật theo sự phân công của trưởng ban Thể dục, vệ
sinh; giữ gìn lớp học sạch đẹp trong cả buổi học, bàn ghế ngay ngắn, không
vứt rác bữa bãi,.. Giữ gìn tốt vệ sinh cá nhân quần áo, đầu tóc gọn gàng, mặc
đồng phục đúng quy định. Phát huy vai trò của Hội đồng tự quản thường
xuyên đôn đốc, nhắc nhở các bạn thực hiện tốt nề nếp lao động, vệ sinh.
4.3.2.4. Nề nếp hoạt động ngoài giờ lên lớp:
Trong năm học, nhà trường thường xuyên tổ chức các hoạt động ngoài
giờ lên lớp bằng rất nhiều các hoạt động như: thể dục giữa giờ, vui chơi, ca

múa hát tập thể, sinh hoạt Sao nhi đồng, chào cờ đầu tuần, giao lưu, tìm hiểu
về an toàn giao thông,… Đây là môi trường tốt nhất để các em bộc lộ tư
tưởng, tình cảm, sở thích, năng khiếu. Các hoạt động luôn có sức cuốn hút kì
lạ đối với các em. Bởi ở lứa tuổi học sinh tiểu học “Học mà chơi, chơi mà
học” vẫn là phương pháp giáo dục nhẹ nhàng và hiệu quả nhất. Ngoài ra, việc
tổ chức các hoạt động ngoài giờ lên lớp còn là sợi dây gắn bó, kết nối, đoàn
16


kết các em lại với nhau để phát huy sức mạnh tập thể. Chính vì vậy, tôi
thường xuyên hướng các em tự giác, tích cực tham gia vào các hoạt động
ngoài giờ lên lớp. Phát huy tối đa vai trò của hội đồng tự quản đôn đốc, nhắc
nhở các bạn tự giác tích cực tham gia. Các em nhanh chóng ra xếp hàng thể
dục giữa giờ khi nghe thấy hiệu lệnh, tập đều, đúng động tác, ca múa hát nhiệt
tình, sôi nổi; háo hức chờ đợi giờ chào cờ đầu tuần, vui mừng, phấn khởi khi
lớp mình được xếp thứ nhất, kiểm điểm, rút kinh nghiệm khi còn vi phạm nội
quy, mắc khuyết điểm; hào hứng, năng động, sáng tạo khi tham gia vào các
hoạt động vui chơi, giao lưu,…Thông qua các hoạt động nêu trên, các em vận
dụng vốn kiến thức kĩ năng đã học ở nhiều môn học để xử lí các tình huống,
rèn luyện kĩ năng, phát triển năng khiếu, bộc lộ khả năng sáng tạo tiềm tàng
sẵn có trong mỗi học sinh. Bên cạnh đó các em còn thấy được vai trò của từng
cá nhân trong tập thể, các em sẽ đoàn kết, gắn bó với nhau hơn để xây dựng
tập thể lớp vững mạnh về mọi mặt, hoàn thiện bản thân mình hơn.
4.3.2.5. Nề nếp tham gia các phong trào, hội thi:
Hằng năm các phong trào do Đội và nhà trường tổ chức như: ủng hộ cơ
sở vật chất, mua tăm ủng hộ người khuyết tật, ủng hộ đồng bào lũ lụt, ủng hộ
học sinh nghèo, Tết vì người nghèo,… Các hội thi: Tiếng hát dân ca, An toàn
giao thông, Hội học, hội giảng,… đều được tôi tuyên truyền, giảng giải cho
các em hiểu được ý nghĩa, tầm quan trọng của việc tham gia các phong trào
đó. Sau đó vận động các em và cha mẹ các em cùng tham gia. Trong các buổi

họp phụ huynh, tôi đã tuyên truyền đến các bậc phụ huynh về chủ trương của
nhà trường, hiệu quả các phong trào nhà trường đã phát động bằng số liệu và
bằng chứng cụ thể. Chính vì vậy mà tất cả các phong trào, hội thi học sinh
đều hưởng ứng nhiệt tình và có sự chung tay góp sức của cả cha mẹ các em
nên đạt kết quả rất cao.
Bên cạnh đó, phong trào thi đua của lớp tôi cũng được diễn ra thường
xuyên, liên tục trong các ngày học, tuần học. Tôi lập bảng theo dõi thi đua
từng tuần cho từng tổ để các em theo dõi thi đua (Phụ lục 3, trang 29)

17


Sau đó giao nhiệm vụ cho các ban theo dõi và ghi chép cụ thể từng ngày,
từng tuần. Cuối mỗi tuần, trong tiết sinh hoạt lớp Hội đồng tự quản căn cứ
vào đó để nhận xét, đánh giá ưu nhược điểm các mặt hoạt động của từng cá
nhân và từng tổ với những bằng chứng cụ thể nên tất cả các em đều phải “tâm
phục, khẩu phục”.
4.3.2.6. Công tác xã hội hoá giáo dục:
Để đạt được mục tiêu gíáo dục, ngoài sự nỗ lực hết mình của chính bản
thân, tôi còn phối kết hợp chặt chẽ với nhiều lực lượng để giáo dục các em.
- Phối kết hợp chặt chẽ với các giáo viên bộ môn:
Tôi thường xuyên trao đổi tình hình cụ thể của từng học sinh với các giáo
viên bộ môn. Đặc biệt là những đối tượng học sinh có năng khiếu và học sinh
chậm tiến bộ. Cùng với giáo viên bộ môn tháo gỡ những vướng mắc, bàn biện
pháp giúp đỡ các em, kịp thời uốn nắn, bổ sung kiến thức cho các em trong
các buổi học, bàn giao những lỗ hổng kiến thức để giáo viên bộ môn phối hợp
bù đắp, kèm cặp; giúp các em tiến bộ hoặc biết được năng khiếu, sở trường
của để bồi dưỡng, động viên, khuyến khích các em bộc lộ và phát triển; theo
dõi, đôn đốc, động viên, uốn nắn các em tích cực, tự giác tham gia và các hoạt
động trong các buổi học mà tôi không có tiết.

- Phối kết hợp chặt chẽ với phụ huynh học sinh:
Quan hệ giữa nhà trường và phụ huynh học sinh là quan hệ mật thiết.
Đặc biệt là mối quan hệ giữa giáo viên chủ nhiệm và các bậc phụ huynh. Tôi
thường xuyên trao đổi tình hình của các em với phụ huynh bằng nhiều hình
thức (gặp trực tiếp, gọi điện, thông qua sổ liên lạc,…). Qua đó tôi nắm bắt
được tình hình của các em ở nhà, thông báo tình hình học tập của các em ở
lớp, những vấn đề cần phối kết hợp kèm cặp, uốn nắn các em. Tôi thử đặt
mình vào vị trí của cha mẹ các em xem học mong muốn gì ở giáo viên chủ
nhiệm. Đôi khi tôi còn đến tận nhà các em để tìm hiểu hoàn cảnh gia đình
hoặc động viên, giúp đỡ các em kịp thời về mọi mặt. Đầu năm học vừa qua có
em Đặng Phương Linh bị ốm nặng phải nghỉ học trong một thời gian dài, tôi

18


đã cùng các em học sinh, phụ huynh học sinh đến tận nhà động viên, giúp đỡ
cả về tinh thần và vật chất.
Bên cạnh đó, hằng năm tôi còn tổ chức tốt các buổi họp phụ huynh. Đây
là cơ hội để gặp gỡ đông đủ nhất các bậc phụ huynh để thông báo, trao đổi
tình hình học tập của các em và bàn biện pháp giáo dục học sinh. Để buổi họp
phụ huynh thành công, tôi đã thực hiện tốt các nội dung sau:
+ Huy động tối đa số lượng phụ huynh học sinh tham gia bằng mọi cách
(gửi giấy mời, nhờ học sinh nhắc nhở, đôn đốc bố mẹ,…), quy định rõ thành
phần, đối tượng tham gia (bố hoặc mẹ, trường hợp bố mẹ đi làm ăn xa mới
họp với ông bà hoặc các đối tượng khác).
+ Nghiên cứu kĩ các định hướng của nhà trường, nội dung cần triển khai;
chuẩn bị chu đáo nội dung họp. Lời nói phải mạch lạc, rõ ràng. Khi triển khai
cần quan tâm đến các vấn đề nóng mà phụ huynh cần quan tâm như: Thành
tích nổi bật của nhà trường; tình hình của lớp; kết quả các mặt hoạt động của
lớp; đặc biệt là tình hình học tập của từng học sinh; biện pháp khắc phục và

phương hướng thực hiện các hoạt động tiếp theo;…
+ Lắng nghe ý kiến phụ huynh: Sau khi nắm bắt được các thông tin từ
giáo viên, phụ huynh phát biểu trình bày những ý kiến đóng góp, tâm tư,
nguyện vọng và đề xuất các biện pháp kết hợp với giáo viên chủ nhiệm thực
hiện tốt mục tiêu giáo dục. Thông qua ý kiến các bậc phụ huynh, giáo viên
tiếp thu và điều chỉnh phương pháp giáo dục cho phù hợp.
+ Tranh thủ các ý kiến ủng hộ của các bậc phụ huynh có uy tín, tâm
huyết với phong trào của trường, của lớp.
+ Nêu gương các điển hình tiên tiến về mọi mặt, nhắc nhở nhẹ nhàng
(không chỉ đích danh) những tồn tại mà học sinh còn mắc phải.
+ Đề xuất những yêu cầu cần sự quan tâm và ủng hộ của các bậc phụ
huynh.
+ Lựa chọn các bậc phụ huynh tâm huyết với giáo viên chủ nhiệm, nhiệt
tình với các hoạt động của lớp giới thiệu tham gia vào ban chấp hành chi hội.

19


- Phối kết hợp với các lực lượng xã hội khác:
Sự nghiệp giáo dục là sự nghiệp của toàn dân. Hiểu được điều đó nên tôi
thường xuyên phối kết hợp chặt chẽ với tất các các tổ chức chính trị, xã hội
khác trong nhà trường để giáo dục các em ở mọi lúc, mọi nơi.
5. Kết quả đạt được:
Bằng các việc làm cụ thể đã nêu trên, công tác chủ nhiệm của tôi đã đem
lại hiệu quả vô cùng thiết thực:
Học sinh lớp tôi thực hiện tốt nội quy của trường, của lớp; ngoan ngoãn,
kính trọng và vâng lời thầy cô giáo; đoàn kết thân mật với các bạn; quan tâm,
giúp đỡ ông bà, cha mẹ; biết giữ gìn và bảo vệ tài sản chung; chấp hành tốt
luật lệ an toàn giao thông.
Các em đi học chuyên cần, đầy đủ, đúng giờ, chỉ nghỉ học khi có lí do

chính đáng, nghỉ học đều có giấy xin phép của cha mẹ; không có học sinh bỏ
học; đi học đem đầy đủ sách vở, dụng cụ học tập; trong lớp hăng hái phát biểu
ý kiến xây dựng bài; tích cực, tự giác, sáng tạo và say mê học tập.
Tích cực tham gia các phong trào đạt kết quả cao: học sinh và các bậc phụ
huynh hưởng ứng nhiệt tình với số lượng cao, luôn dẫn đầu toàn trường; Học
sinh tích cực tham gia các hoạt động ngoài giờ lên lớp; Các phong trào thi đua
của lớp được các em hưởng ứng nhiệt tình dưới sự theo dõi sát sao của Hội
đồng tự quản và giáo viên chủ nhiệm nên kết quả thi đua hàng tuần luôn được
xếp thứ Nhất.
Các buổi họp phụ huynh đều thành công tốt đẹp, các bậc phụ huynh đồng
tình, ủng hộ cao. Mua sắm cho lớp rất nhiều các trang, thiết bị phục vụ cho
việc dạy - học của giáo viên và học sinh như: bảng lớp, bảng phụ, đồ dùng
dạy học môn Toán, trang trí lớp học,…Huy động được nhiều lực lượng xã hội
tham gia vào công tác giáo dục.
Bản thân tôi được học sinh, phụ huynh tin yêu, quý mến, đồng nghiệp
mến phục. Hội thi “Giáo viên chủ nhiệm giỏi” cấp trường năm học 20132014, tôi được nhà trường công nhận đạt danh hiệu “Giáo viên chủ nhiệm
giỏi”. Cuối năm học đạt danh hiệu thi đua “Chiến sĩ thi đua cơ sở”.
20


Chất lượng giáo dục toàn diện của lớp tôi luôn dẫn đầu khối.
Cụ thể kết quả thực hiện các chỉ tiêu chất lượng giáo dục năm học
2013- 2014 được thể hiện qua biểu bảng sau:
Năm học
2013 -2014

XL hạnh kiểm
THĐĐ
CTHĐĐ
SL

%
SL
%
36
100
0
0

Xếp loại học lực
Giỏi
Khá
SL
%
SL
%
35 97.2
1
2.8

Lên lớp
(%)
100

Kết quả các hội thi:
- Hội thi viết chữ đẹp cấp trường : Xếp thứ Nhất
- Hội thi “Viết chữ đẹp” cấp thị xã : 1 em đạt giải Nhất, 1 em đạt giải Nhì
- Hội thi “Viết chữ đẹp” cấp tỉnh : 1 em đạt giải Ba.
- Hội thi “Tiếng hát dân ca” đạt giải Nhì.
* Tóm lại: Làm công tác chủ nhiệm lớp là cả một nghệ thuật. Chất lượng
giáo dục, nhân cách, đạo đức, lối sống của học sinh hoàn toàn phụ thuộc và

người thầy. Công tác chủ nhiệm lớp đòi hỏi người giáo viên phải hết sức năng
động, sáng tạo. Kế hoạch chủ nhiệm phải được xây dựng thật cụ thể, chi tiết
phù hợp và sát với thực tế của lớp mình; các biện pháp thực hiện phải có tính
khả thi cao. Giáo viên phải thường xuyên đi sâu đi sát hướng dẫn, uốn nắn,
động viên, khuyến khích học sinh trong từng hoạt động; quan tâm tới tất cả
các đối tượng học sinh, không phân biệt đối xử; tranh thủ sự đồng thuận của
tất cả các lực lượng; vận động mọi người tích cực tham gia vào hoạt động
giáo dục. Muốn làm tốt công việc này, người giáo viên phải có phẩm chất đạo
đức tốt, trong sáng, có lòng say mê nghề nghiệp, nhiệt tình với công việc, yêu
nghề, mến trẻ; có năng lực sư phạm tốt, giỏi về chuyên môn,vững vàng về
nghiệp vụ; có uy tín trước học sinh và phụ huynh. Bên cạnh đó, người giáo
viên còn phải là một nhà tâm lí học giỏi để hiểu và thông cảm với học sinh,
đặt mình vào vị trí của các em để giải quyết các tình huống sư phạm sao cho
thật khéo léo và tế nhị. Làm tốt công tác chủ nhiệm lớp, người giáo viên đã
góp phần nâng cao chất lượng toàn diện và đạt được mục tiêu giáo dục.
6. Điều kiện để sáng kiến được nhân rộng:
21


Sáng kiến có thể áp dụng cho tất cả giáo viên tiểu học trên toàn quốc với
những giáo viên có trình độ từ trung học sư phạm trở lên; có năng lực chuyên
môn nghiệp vụ vững vàng, có lòng yêu nghề, mến trẻ, tâm huyết với sự
nghiệp giáo dục; có khả năng lập kế hoạch, đề xuất các biện pháp thực hiện
khả thi, hiệu quả; có uy tín trước học sinh, phụ huynh và đồng nghiệp, có
năng lực tổ chức tốt.
Phòng học rộng rãi, thoáng mát, có đầy đủ bàn ghế, chỗ ngồi cho học
sinh và các trang thiết bị phục vụ giảng dạy.

Phần 4
22



KẾT LUẬN VÀ KHUYẾN NGHỊ
1. Kết luận:
Công tác chủ nhiệm lớp là một hoạt động chuyên môn không thể thiếu và
cực kì quan trọng đối với người giáo viên tiểu học. Đặc biệt trong giai đoạn
hiện nay, khi mà nền giáo dục của chúng ta đã và đang có sự thay đổi căn bản
toàn diện thì trách nhiệm của người giáo viên chủ nhiệm lại càng nặng nề hơn
bao giờ hết. Nó đòi hỏi sự say sưa, nhiệt tình, năng động, sáng tạo, tích cực
học hỏi, nâng cao tay nghề, đầu tư thời gian, công sức, lòng kiên trì của mỗi
giáo viên. Với sáng kiến “Một số biện pháp nâng cao chất lượng công tác chủ
nhiệm lớp ở tiểu học” mà tôi đã dày công tìm tòi, nghiên cứu và áp dụng có
hiệu quả trong những năm học qua, hi vọng sẽ được sự đón nhận và áp dụng
rộng rãi của các bạn đồng nghiệp trong cả nước. Giúp tôi đóng góp một phần
nhỏ bé của mình vào sự thành công của sự nghiệp giáo dục nước nhà.
2. Khuyến nghị và đề xuất :
2.1 Đối với Phòng giáo dục - Đào tạo :
Triển khai rộng khắp các chuyên đề, hội thảo về công tác chủ nhiệm lớp;
tổ chức hội thi “Giáo viên chủ nhiệm giỏi” cấp ngành để lựa chọn và nhân
rộng các điển hình tiến tiến về công tác chủ nhiệm lớp, phổ biến kinh nghiệm
cho tất cả đội ngũ giáo viên tiểu học trong toàn thị xã.
2.2. Đối với nhà trường :
Ban giám hiệu thường xuyên dự giờ, thăm lớp giúp đỡ, bồi dưỡng, tư
vấn cho giáo viên, đặc biệt là những giáo viên chưa có kinh nghiệm về công
tác chủ nhiệm lớp.
Tổ chức có hiệu quả Hội thi “Giáo viên chủ nhiệm giỏi” để tất cả giáo
viên có cơ hội học hỏi các bạn đồng nghiệp.
Đưa công tác chủ nhiệm vào một trong các tiêu chí đánh giá thi đua giáo
viên cuối năm học.


2.3. Đối với giáo viên :
23


Phải tâm huyết với nghề nghiệp; thương yêu, quan tâm, gần gũi, tôn
trọng học sinh; động viên, khuyến khích học sinh tích cực, tự giác tham gia
vào các hoạt động giáo dục.
Luôn học hỏi nâng cao trình độ chuyên môn nghiệp vụ, có thêm hiểu biết
về chính trị , pháp luật, xã hội; tích cực tìm tòi, đổi mới phương pháp dạy học;
tổ chức tốt các hoạt động giáo dục; nói năng phải rõ ràng, mạch lạc và có sức
thuyết phục cao.
Có uy tín trước học sinh và phụ huynh; biết kết hợp chặt chẽ ba môi
trường giáo dục, tranh thủ sự đồng tình, ủng hộ của cha mẹ học sinh trong
mọi hoạt động.
3. Lời cảm ơn :
Trên đây là sáng kiến: “Một số biện pháp nâng cao chất lượng công tác
chủ nhiệm lớp ở tiểu học” mà bản thân tôi đã tìm tòi nghiên cứu và áp dụng
trong nhiều năm học vừa qua và hai năm gần đây vào lớp mình đang trực tiếp
chủ nhiệm và đã đem lại hiệu quả đáng khích lệ. Song với ý kiến chủ quan
của bản thân nên sáng kiến chắc chắn không tránh khỏi những hạn chế nhất
định. Kính mong sự góp ý, xây dựng của các cấp lãnh đạo và các bạn đồng
nghiệp để sáng kiến được hoàn thiện hơn.
Tôi xin trân trọng cảm ơn!
Ngày 25 tháng 2 năm 2015

MỤC LỤC
24


Nội dung

Phần 1: Thông tin chung về sáng kiến

Trang
1

Phần 2.Tóm tắt sáng kiến kinh nghiệm
Phần 2: Mô tả sáng kiến:

2

1. Hoàn cảnh nảy sinh sáng kiến:

4

2. Cơ sở lí luận

5

3. Thực trạng việc dạy Tập đọc hiện nay trong trường Tiểu học

7

4. Các giải pháp, biện pháp thực hiện
4.1. Tìm hiểu đặc điểm tình hình của lớp

8

4.2 Xây dựng kể hoạch chủ nhiệm và chỉ tiêu phấn đấu của lớp
trong năm học


10

4.3. Tổ chức các hoạt động cụ thể:
4.3.1. Ổn định tổ chức lớp

10
10

4.3.2. Tổ chức thực hiện các hoạt động giáo dục
4.3.2.1. Nề nếp đạo đức

12
12

4.3.2.2. Nề nếp học tập

14

4.3.2.3. Nề nếp lao động vệ sinh

16

4.3.2.4. Nề nếp hoạt động ngoài giờ lên lớp
4.3.2.5. Nề nếp tham gia các phong trào, hội thi
4.3.2.6. Công tác xã hội hoá giáo dục
5. Kết quả đạt được

16
17
18

20

6. Điều kiện để sáng kiến được nhân rộng

22

Phần 4 : Kết luận
1. Kết luận

23

2. Khuyến nghị và đề xuất

23

3. Lời cảm ơn

24

PHỤ LỤC 1
PHIẾU ĐIỀU TRA CƠ BẢN HỌC SINH LỚP ….
25


×