Tải bản đầy đủ (.doc) (39 trang)

skkn giải pháp nâng cao chất lượng dạy và học môn ngữ văn ở lớp có đối tượng học sinh trung bình – yếu theo định hướng phát triển năng lực

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (402.04 KB, 39 trang )

THÔNG TIN CHUNG VỀ SÁNG KIẾN
1. Tên sáng kiến: "Giải pháp nâng cao chất lượng dạy và học môn Ngữ
văn ở lớp có đối tượng học sinh trung bình, yếu theo định hướng phát triển
năng lực"
2. Lĩnh vực áp dụng sáng kiến: Môn Ngữ văn THCS
3. Tác giả:
Họ và tên: Nguyễn Thị Thái Hà

Nam (nữ): Nữ

Ngày/ tháng/năm sinh: 25/5/1978
Trình độ chuyên môn: Đại học Sư phạm Văn
Chức vụ, đơn vị công tác: Giáo viên trường THCS Phả Lại
Điện thoại: 0168 491 7307
4. Đơn vị áp dụng sáng kiến lần đầu :
Tên đơn vị: Trường THCS Phả Lại
Địa chỉ: Phường Phả Lại - Thị xã Chí Linh- Tỉnh Hải Dương
Điện thoại: 0320 3881 326
5. Các điều kiện cần thiết để áp dụng sáng kiến:
- Các thiết bị, đồ dùng hỗ trợ giảng dạy: máy tính, máy chiếu...
- Sự ủng hộ hợp tác của các tổ chức đoàn thể trong và ngoài nhà trường.
6. Thời gian áp dụng sáng kiến lần đầu: tháng 10 năm 2013

HỌ TÊN TÁC GIẢ :

XÁC NHẬN CỦA CƠ QUAN ĐƠN VỊ
ÁP DỤNG SÁNG KIẾN

Nguyễn Thị Thái Hà

1




TĨM TẮT SÁNG KIẾN
1.Hồn cảnh nảy sinh sáng kiến:
Giáo dục phổ thông nước ta đang thực hiện bước chuyển từ chương trình
giáo dục tiếp cận nội dung sang tiếp cận năng lực của người học, nghĩa là từ
chỗ quan tâm đến việc học sinh học được cái gì đến chỗ quan tâm học sinh vận
dụng được cái gì qua việc học. Để đảm bảo được điều đó nhất định phải thực
hiện thành công việc chuyển từ phương pháp dạy học theo lối “truyền thụ một
chiều” sang dạy cách học, cách vận dụng kiến thức, rèn luyện kĩ năng, hình
thành năng lực và phẩm chất. Trước yêu cầu đó năm học 2014-2015 toàn ngành
giáo dục đã triển khai thực hiện đổi mới phương pháp dạy học và kiểm tra đánh
giá kết quả học tập theo định hướng phát triển năng lực học sinh.
Xuất phát từ nhu cầu thực tiễn người giáo viên cần không ngừng đổi mới
phương pháp dạy học sát đối tượng, lấy học sinh là trung tâm tôi đưa ra sáng
kiến: " Giải pháp nâng cao chất lượng dạy và học mơn Ngữ văn ở các lớp có
đối tượng học sinh trung bình, yếu theo định hướng phát triển năng lực".
2. Điều kiện, thời gian, đối tượng áp dụng sáng kiến:
- Điều kiện để thực hiện sáng kiến:
+ Các thiết bị, đồ dùng hỗ trợ giảng dạy: máy tính, máy chiếu...
+Sự ủng hộ hợp tác của các tổ chức đoàn thể trong và ngoài nhà trường.
- Thời gian áp dụng: Năm học 2014 - 2105 và các năm học tiếp theo.
- Đối tượng áp dụng sáng kiến: Học sinh THCS
3. Nội dung sáng kiến:
3.1. Tính mới, tính sáng tạo của sáng kiến:
Thực hiện sáng kiến : " Giải pháp nâng cao chất lượng dạy và học môn
Ngữ văn ở các lớp có đối tượng học sinh trung bình, yếu theo định hướng phát
triển năng lực" là kết quả của sự đổi mới so với chuyên đề và sáng kiến kinh
nghiệm mà bản thân tôi đã thực hiện từ năm học trước. Tính mới của sáng kiến
này là tơi cố gắng đưa ra những giải pháp thật cụ thể để từng bước nâng cao

chất lượng học tập bộ môn Ngữ văn ở các lớp có đối tượng học sinh trung bình
2


yếu theo định hướng phát triển năng lực – một yêu cầu được đặt ra từ năm học
này.
3.2.Khả năng áp dụng của sáng kiến:
Trước hết, với sáng kiến này tôi nêu ra mục tiêu đổi mới phương pháp
dạy học và kiểm tra đánh giá theo định hướng phát triển năng lực học sinh. Xác
định rõ các năng lực cần phát triển qua giờ học Ngữ văn. Đánh giá thực trạng
chung của việc dạy và học Ngữ văn nhất là với đối tượng học sinh trung
bình,yếu. Tìm hiểu để nắm bắt các đặc điểm tâm sinh lí cũng như đặc điểm
nhận thức của đối tượng này. Trên cơ sở đó tơi đề xuất một số giải pháp áp
dụng để góp phần nâng cao chất lượng dạy và học môn Ngữ văn ở các lớp có
đối tượng học sinh trung bình, yếu theo định hướng phát triển năng lực. Để
sáng kiến có tính thuyết phục tơi cũng đưa ra những khảo sát thực tế và kết quả
áp dụng để minh chứng .
3.3. Lợi ích thiết thực của sáng kiến:
Thực hiện sáng kiến này theo tơi sẽ đem lại những lợi ích thiết thực
trong việc nâng cao hiệu quả dạy và học môn Ngữ văn ở các lớp có đối tượng
học sinh trung bình, yếu theo định hướng phát triển năng lực từ đó góp phần
nâng cao chất lượng tồn diện.
4. Giá trị, kết quả đạt được của sáng kiến:
Các giải pháp được rút ra từ chính thực tiễn giảng dạy nên đã giúp cá
nhân tôi nâng cao được hiệu quả trong giờ dạy Ngữ văn ở lớp có đối tượng học
sinh trung bình, yếu. Đồng thời sáng kiến cũng đã được áp dụng vào việc dạy
học trong nhà trường để từng bước nâng cao chất lượng giáo dục toàn diện.
5. Đề xuất kiến nghị:
Với sáng kiến này bản thân tôi mong muốn được thực hiện áp dụng vào
thực tiễn dạy học ở tất cả các khối lớp cấp THCS để nâng cao chất lượng bộ

mơn Ngữ văn ở các lớp có đối tượng học sinh trung bình, yếu theo định hướng
phát triển năng lực, đáp ứng yêu cầu đổi mới căn bản toàn giáo dục theo nghị
quyết của Đại hội Đảng toàn quốc lần thứ XI.

3


MƠ TẢ SÁNG KIẾN
1.Hồn cảnh nảy sinh sáng kiến:
1.1. Giáo dục phổ thông nước ta đang thực hiện bước chuyển từ chương trình
giáo dục tiếp cận nội dung sang tiếp cận năng lực của người học, nghĩa là từ
chỗ quan tâm đến việc học sinh học được cái gì đến chỗ quan tâm học sinh vận
dụng được cái gì qua việc học. Để đảm bảo được điều đó nhất định phải thực
hiện thành công việc chuyển từ phương pháp dạy học theo lối “truyền thụ một
chiều” sang dạy cách học, cách vận dụng kiến thức, rèn luyện kĩ năng, hình
thành năng lực và phẩm chất.
Nghị quyết Hội nghị Trung ương 8 khóa XI về đổi mới căn bản, tồn
diện giáo dục và đào tạo nêu rõ: “Tiếp tục đổi mới mạnh mẽ phương pháp dạy
và học theo hướng hiện đại; phát huy tính tích cực, chủ động, sáng tạo và vận
dụng kiến thức, kỹ năng của người học; khắc phục lối truyền thụ áp đặt một
chiều, ghi nhớ máy móc. Tập trung dạy cách học, cách nghĩ, khuyến khích tự
học, tạo cơ sở để người học tự cập nhật và đổi mới tri thức, kỹ năng, phát triển
năng lực. Chuyển từ học chủ yếu trên lớp sang tổ chức hình thức học tập đa
dạng, chú ý các hoạt động xã hội, ngoại khóa, nghiên cứu khoa học. Đẩy mạnh
ứng dụng công nghệ thông tin và truyền thông trong dạy và học”; “Đổi mới
căn bản hình thức và phương pháp thi, kiểm tra và đánh giá kết quả giáo dục,
đào tạo, bảo đảm trung thực, khách quan. Việc thi, kiểm tra và đánh giá kết
quả giáo dục, đào tạo cần từng bước theo các tiêu chí tiên tiến được xã hội và
cộng đồng giáo dục thế giới tin cậy và công nhận. Phối hợp sử dụng kết quả
đánh giá trong quá trình học với đánh giá cuối kỳ, cuối năm học; đánh giá của

người dạy với tự đánh giá của người học; đánh giá của nhà trường với đánh
giá của gia đình và của xã hội”.
Xuất phát từ nhu cầu thực tiễn người giáo viên cần không ngừng đổi mới
phương pháp dạy học sát đối tượng, lấy học sinh là trung tâm tôi đưa ra kinh
nghiệm: " Giải pháp nâng cao chất lượng dạy và học môn Ngữ văn ở các lớp có
đối tượng học sinh trung bình, yếu theo định hướng phát triển năng lực".
1.2.Cơ sở thực tiễn:
4


Năm học 2014-2015 là năm học toàn ngành giáo dục triển khai thực hiện
đổi mới phương pháp dạy học và kiểm tra đánh giá kết quả học tập theo định
hướng phát triển năng lực học sinh. Để nâng cao chất lượng dạy và học nhất là
ở những lớp có học sinh trung bình,yếu là một việc khơng phải dễ và càng
không thể làm trong ngày một ngày hai được .Bởi nó là hệ quả của nhiều nhân
tố.Tuy nhiên, lí luận dạy học đã chỉ ra rằng: “ Khơng có học sinh tồi mà chỉ có
người thầy chưa có phương pháp dạy phù hợp mà thôi ”. Và tôi tin rằng nếu
bản thân mỗi chúng ta ln tìm tịi sáng tạo, đổi mới phương pháp trong mỗi
bài học sao cho phù hợp với đối tượng , biết khêu gợi và phát huy những khả
năng tiềm tàng của học sinh thì chất lượng giáo dục chắc chắn sẽ được cải
thiện.
Năm học 2014 – 2015, trường tơi có 225 em học sinh lớp 9. Dựa trên các
kênh thông tin: chất lượng học lực năm học 2013 – 2014, chất lượng khảo sát
đầu năm, số học sinh nói trên được chia thành 6 lớp theo học lực: 3 lớp đầu là
những lớp khá, giỏi; 3 lớp còn lại chia đều với đa số là học sinh trung bình
yếu. Tơi được phân cơng dạy Ngữ văn lớp 9B gồm 35 học sinh, trong đó có 05
học sinh được xét lên lớp lần II ,còn lại là các học sinh trung bình.
Qua thực tế giảng dạy tôi thấy chất lượng học môn Ngữ văn của các em
rất thấp. Đa số học sinh nhận thức chậm, chưa có phương pháp học tập bộ mơn,
chưa có ý thức cố gắng vươn lên trong học tập; thậm chí nhiều em kĩ năng

nghe, đọc, nói, viết rất yếu. Sau mỗi tiết học các em nắm bắt tác phẩm một cách
hời hợt, hiểu kiến thức Tiếng Việt rất mơ hồ và gần như không biết tạo lập một
văn bản chuẩn mực. Phải làm gì, làm như thế nào để nâng cao hiệu quả giờ dạy
Ngữ văn cho đối tượng học sinh trung bình,yếu là cả một bài tốn khó với giáo
viên.
Với những trăn trở về chất lượng, qua nhiều năm dạy đối tượng học sinh
trung bình,yếu , tơi ln suy ngẫm, tìm tịi, học hỏi nhằm tìm ra giải pháp góp
phần nâng cao hiệu quả học tập môn Ngữ văn cho học sinh theo định hướng
phát triển năng lực. Đặc biệt trong năm học 2014 – 2015, khi trực tiếp giảng
dạy cho lớp có nhiều học sinh trung bình,yếu tơi đã áp dụng một số giải pháp
5


để nâng cao chất lượng học tập bộ môn và bước đầu đã thu được kết quả khả
quan. Xin mạnh dạn trình bày một vài kinh nghiệm nhỏ được đúc kết trong quá
trình dạy học của mình, để bạn bè đồng nghiệp cùng trao đổi nhằm nâng cao
chất lượng dạy học môn Ngữ văn cho đối tượng học sinh trung bình,yếu .
2.Cơ sở lí luận của vấn đề:
Từ trước tới nay, lý luận dạy học đã từng chỉ ra rằng, nội dung quyết
định phương pháp dạy học. Trên cơ sở nội dung bài học, giáo viên lựa chọn
phương pháp. Điều đó hồn tồn đúng, song thực tiễn lại cho thấy rằng, đối
tượng học sinh mới là cơ sở quan trọng và quyết định tới phương pháp dạy học.
Đối tượng học sinh như thế nào sẽ phải có phương pháp dạy học cho thích ứng.
Từ Khổng Tử cách đây hàng ngàn năm cho đến các nhà giáo dục lừng danh
trên thế giới cũng đều bắt đầu từ đối tượng để dạy cho sát trình độ.
Vì vậy, trong cơng cuộc đổi mới phương pháp dạy học hiện nay, dạy học
sát đối tượng trở thành yêu cầu bắt buộc mà mỗi giáo viên trong các nhà
trường phải thực hiện. Muốn vậy thì mỗi giáo viên đứng lớp cần có phương
pháp thật phù hợp với từng đối tượng học sinh khá,giỏi và trung bình,yếu.
3.Thực trạng của vấn đề:

Xuất phát từ những hạn chế của hoạt động đổi mới phương pháp dạy
học(PPDH) và kiểm tra đánh giá (KTĐG) ở trường trung học cơ sở.Hoạt động
đổi mới PPDH chưa mang hiệu quả cao: truyền thụ tri thức một chiều, dạy học
vẫn nặng về lí thuyết, việc rèn kĩ năng sống và kĩ năng giải quyết các tình
huống thực tiễn cho học sinh chưa được nâng cao...Hoạt động KTĐG chưa đảm
bảo yêu cầu khách quan chính xác, việc kiểm tra chủ yếu chú ý đến yêu cầu tái
hiện kiến thức và đánh giá qua điểm số. Nhiều giáo viên chưa vận dụng đúng
quy trình biên soạn đề kiểm tra...Học sinh thụ động khả năng sáng tạo và năng
lực vận dụng tri thức đã học để giải quyết tình huống thực tiễn cuộc sống cịn
hạn chế.
Những năm gần đây, nhiều người quan tâm đến công tác giáo dục khơng
khỏi lo ngại trước một thực trạng, đó là tâm lý thờ ơ với việc học Ngữ văn ở
các trường phổ thông. Thái độ đối với môn Ngữ văn của các em có sự phân biệt
6


rất rõ do tính thực dụng trong xã hội. Số đơng học sinh hiện nay có thiên hướng
học các mơn tự nhiên vì vậy mơn Ngữ văn cũng như nhiều môn khoa học xã
hội khác chưa được chú trọng. Rất ít học sinh nhận thức được rằng học Ngữ
văn để thưởng thức văn chương, để bồi đắp mĩ cảm, để hồn thiện nhân cách.
Bên cạnh đó, nhiều giờ dạy được đánh giá cao về đổi mới phương pháp,
giáo viên vẫn chưa thực sự giúp học sinh thể hiện cái riêng trong tiếp nhận văn
bản. Sự phát huy tính tích cực chủ động của học sinh thực ra vẫn mang tính
chất nửa vời. Nhiều giờ dạy vẫn như là sự gò bó, áp đặt. Mặt khác,trong các
trường trung học cơ sở hiện nay, học sinh trung bình,yếu chiếm một tỉ lệ không
nhỏ. Do nhiều nguyên nhân khác nhau, đa số các em lười học, ngại suy nghĩ,
đặc biệt là khi học Ngữ văn. Đó chính là những ngun nhân khiến cho các em
không thể chủ động trong học tập, làm cho giờ học Ngữ văn không đạt được
hiệu quả như giáo viên mong muốn. Chính điều đó đã làm ảnh hưởng đến chất
lượng đại trà của mỗi nhà trường.

Song song với tình trạng trên, có một thực tế mà chúng ta phải thừa
nhận: những học sinh bình thường về mặt tâm lý, khơng có bệnh tật đều có khả
năng tiếp thu kiến thức, đạt yêu cầu của chương trình nếu được hướng dẫn một
cách phù hợp
Ngay từ đầu năm học, tôi đã tiến hành điều tra, khảo sát, đánh giá năng
lực học môn Ngữ văn của học sinh lớp 9 như sau:
* Điều tra, khảo sát:
Đề bài: Giải thích câu tục ngữ “Ăn quả nhớ kẻ trồng cây”
Kết quả
Lớp
9

Tổng số
học sinh
35

Khá
Số lượng
2

%
5,7

Trung bình- yếu
Số lượng
%
33

94,3


* Tổng hợp, đánh giá:
- Qua kết quả điều tra, khảo sát chúng ta thấy phần lớn các em khơng
hứng thú học Ngữ văn. Vì vậy, chất lượng đạt được còn rất thấp.
4.Các giải pháp, biện pháp thực hiện:

7


4.1.Mục tiêu đổi mới phương pháp dạy học và kiểm tra đánh giá theo định
hướng phát triển năng lực học sinh:
4.1.1.Đối với học sinh:
Việc đổi mới dạy học và kiểm tra đánh giá theo định hướng phát triển năng
lực học sinh đã góp phần quan trọng trong việc tuyển chọn và phân loại đúng
năng lực, trình độ của học sinh thúc đẩy học sinh cố gắng khắc phục thiếu xót
hoặc phát huy năng lực, sở trường của mình; đánh giá sự phát triển nhân cách
nói chung so với mục tiêu đào tạo và yêu cầu của thực tiễn. Đồng thời tạo
những điều kiện thuận lợi cho người dạy nắm vững hơn tình hình học tập và
rèn luyện của học sinh hoặc nhóm học sinh; cung cấp thơng tin phản hồi có tác
dụng giúp việc học, giảng dạy và giáo dục tốt hơn. Kết quả đánh giá còn tạo cơ
sở cho giáo viên điều chỉnh, cải tiến mục tiêu, nội dung chương trình, phương
pháp dạy học, kế hoạch đào tạo nhằm nâng cao hơn nữa chất lượng và hiệu quả
của quá trình này.
4.1.2. Đối với giáo viên:
Tạo điều kiện cho người dạy nắm vững hơn tình hình học tập và rèn luyện
của học sinh hoặc nhóm học sinh; cung cấp thơng tin phản hồi có tác dụng giúp
việc học, giảng dạy và giáo dục tốt hơn; kết quả đánh giá tạo cơ sở điều chỉnh,
cải tiến mục tiêu, nội dung chương trình PPDH, kế hoạch đào tạo nhằm nâng
cao hơn nữa chất lượng và hiệu quả của quá trình này.
4.2. Năng lực và các năng lực cần phát triển cho học sinh qua môn học
Ngữ văn:

4.2.1.Năng lực: Là sự kết hợp một cách linh hoạt và có tổ chức kiến thức, kỹ
năng với thái độ, tình cảm, … nhằm đáp ứng hiệu quả một yêu cầu phức hợp
của hoạt động trong bối cảnh nhất định. Năng lực là khả năng thực hiện có hiệu
quả cơng việc.
4.2.2. Các năng lực cần phát triển cho học sinh qua môn học Ngữ văn
+ Năng lực giải quyết vấn đề.
+ Năng lực sáng tạo
8


+ Năng lực hợp tác.
+Năng lực tự quản bản thân
+ Năng lực giao tiếp Tiếng Việt
+ Năng lực tiếp nhận văn bản
+ Năng lực tạo lập văn bản
+ Năng lực thưởng thức văn học/ cảm thụ thẩm mĩ.
4.3.Đặc điểm tâm sinh lý và đặc điểm nhận thức của học sinh trung bình,
yếu:
4.3.1. Đặc điểm tâm sinh lý:
Một đặc điểm chung của các học sinh trung bình,yếu là tâm lý rụt rè,
nhút nhát luôn thiếu tự tin trong học tập nên nảy sinh hiện tượng: một là các
em sẽ thu mình lại trong cái vỏ ốc của chính mình, ngại giao tiếp, ngại phát
biểu quan điểm; hai là các em sẽ nảy sinh thái độ bất cần hoặc sẽ phá phách
làm ảnh hưởng đến tâm lý chung của cả lớp.
4.3.2. Đặc điểm nhận thức:
Trước hết, đây là những em có năng lực nhận thức yếu. Những vấn đề
tưởng chừng như đơn giản nhưng cũng phải khó khăn lắm, học sinh mới nhận
thức ra. Khi tiếp cận với nội dung bài học, dù là phần lý thuyết ngắn gọn, các
em cũng lâu thuộc nhưng rất nhanh quên. Do lười học, ít tập trung, bị hổng
kiến thức khá nhiều, khi thầy cô giáo truyền thụ kiến thức mới, các em khơng

có khả năng tiếp thu.
Bên cạnh đó, các em cũng yếu về kĩ năng. Nhiều em trình bày, diễn đạt
những suy nghĩ, nhận thức của mình khơng được mạch lạc, trơi chảy; Các em
còn đọc chậm, đọc sai, viết chậm, viết sai; Khả năng phân tích, tổng hợp, so
sánh, vận dụng kiến thức còn nhiều hạn chế…
Đồng thời, các em cũng là những học sinh có ý thức đạo đức, ý thức học
tập chưa tốt. Cụ thể:
- Đi học thất thường, hay trốn học, bỏ học đi chơi.
- Lười suy nghĩ; khả năng chú ý, tập trung nghe giảng không bền; lười ghi bài
trên lớp, không chịu học và làm bài tập về nhà.
9


4.4.Ngun nhân của tình trạng học sinh có học lực trung bình, yếu:
4.4.1. Về phía học sinh:
- Các em chưa có động cơ, mục đích học tập đúng đắn, cịn mải chơi,
không chú ý đến việc học tập.
- Do lơ là việc học tập từ rất nhiều năm trước nên các em hổng kiến thức
cơ bản. Càng học lên cao, khả năng tiếp thu của các em càng kém đi.
- Do khả năng nhận thức chậm, không tiếp thu được lượng kiến thức cơ
bản trong tiết học .
- Do thiếu sự quan tâm của gia đình, thầy cơ; thậm chí bị thầy cô “bỏ
rơi” khi học cùng đối tượng học sinh khá, giỏi.
4.4.2. Về phía giáo viên:
- Chưa có phương pháp giảng dạy phù hợp với đối tượng học sinh, chưa
thực sự quan tâm đến đối tượng học sinh trung bình,yếu trong lớp. Giáo viên
thường vẫn tham kiến thức; xác định mục tiêu bài dạy, sử dụng phương pháp
chung cho các đối tượng học sinh khác nhau.
- Năng lực quản lí học sinh, đặc biệt là học sinh yếu kém về học lực
thường là học sinh hư, còn hạn chế. Giáo viên không hướng được học sinh chú

ý vào bài giảng, thường là chỉ quản được học sinh giữ trật tự mà chưa khiến
học sinh động não suy nghĩ và tích cực hợp tác với thầy cơ.
- Chưa có nghệ thuật giao tiếp với học sinh trung bình,yếu thường là ít có
sự đồng cảm và hiểu biết về học sinh, nhất là học sinh cá biệt. Giáo viên chưa
biết cách khích lệ, tạo hứng thú học tập cho các em, chưa thể hiện niềm tin vào
sự tiến bộ của các em.
- Giáo viên bộ môn chưa phối hợp với tốt với phụ huynh học sinh do tâm
lí trách nhiệm giáo dục học sinh là của giáo viên chủ nhiệm.
4.4.3.Về phía phụ huynh học sinh:
- Chưa nhận thức được tầm quan trọng của việc học tập, ít quan tâm, đơn
đốc nhắc nhở con em học tập. Đa số phụ huynh học sinh có tâm lí “trăm sự
nhờ thầy cơ” nên phó mặc con em cho nhà trường.

10


4.5. Giải pháp nâng cao chất lượng dạy và học mơn Ngữ văn ở các lớp có đối
tượng học sinh trung bình,yếu theo định hướng phát triển năng lực:
4.5.1.Phân loại đối tượng học sinh:
Tuy dạy học sát đối tượng đem lại hiệu quả rất to lớn nhưng thực hiện
nó lại khơng hề dễ dàng, nhất là khi nó địi hỏi người giáo viên phải mất công,
mất sức nhiều hơn.
Giáo viên phải nắm vững trình độ, khả năng của từng học sinh trong lớp
mình dạy. Vì thế, ngay từ đầu năm học, giáo viên đã phải tìm hiểu thực lực của
từng học sinh, phân loại từng nhóm đối tượng và có kế hoạch giáo dục, bồi
dưỡng cho phù hợp.
Phải bằng mọi cách lấp đầy những chỗ hổng kiến thức cho các em. Để
hiện thực hố điều này, trước hết tơi tiến hành phân loại học sinh, xếp theo
từng nhóm:
- Nhóm học sinh có khả năng nhận thức nhưng lười học mải chơi.

- Nhóm học sinh hổng kiến thức.
- Nhóm học sinh có nhận thức chậm, khả năng tư duy kém.
Trong mỗi tiết dạy, tôi xác định rõ những câu hỏi, bài tập dành cho từng
đối tượng học sinh. Đối với những học sinh có khả năng tiếp thu bài nhưng
chưa chăm học, chưa ngoan, tôi quan tâm nhiều đến việc giáo dục ý thức kỉ
luật; trong giờ học, tôi thường dành cho các em những câu hỏi tư duy, đặc biệt
khích lệ các em bằng lời khen hoặc cho điểm khuyến khích khi các em hồn
thành các u cầu của giáo viên; thể hiện thái độ tin tưởng các em. Đối với học
sinh nhận thức chậm, tư duy kém, tôi thường dành cho các em những câu hỏi,
bài tập đơn giản; đối tượng này cũng rất cần sự khích lệ của giáo viên; khi các
em trả lời chưa chính xác giáo viên cần tránh phê bình chỉ trích mà nên chọn
giải pháp động viên. Với đối tượng học sinh có ý thức học nhưng hổng kiến
thức cơ bản từ những năm trước, tôi dành nhiều thời gian hướng dẫn các em
cách thức tự học, tự ôn tập theo bảng hệ thống kiến thức.

11


Tiếp đó, tơi lên kế hoạch bổ sung kiến thức cịn thiếu hụt của học
sinh.Phân cơng các đơi bạn cùng tiến để các em hỗ trợ, giúp đỡ nhau trong học
tập.
4.5.2.Hướng dẫn học sinh phương pháp học tập bộ môn:
Mỗi bộ mơn có một phương pháp học khác nhau do vậy việc trang bị
cho học sinh một phương pháp học tập bộ môn cụ thể là vô cùng cần thiết.Với
môn Ngữ văn giáo viên cần hướng dẫn cho học sinh phương pháp học phù hợp
với đặc trưng bộ môn.Như hướng dẫn cho các em cần biết đọc kĩ các văn bản
và các ngữ liệu rồi lần lượt tìm hiểu theo hệ thống câu hỏi sách giáo khoa.
Luôn trau dồi kiến thức văn học của mình qua việc tìm tịi thêm các tư liệu để
đọc và tích lũy tri thức bằng sổ tay văn học. Rèn cho học sinh kĩ năng quan sát
thực tế để từ đó tưởng tượng tư duy văn học.Đặc biệt là giáo viên cần khơi gợi

cho các em lịng u thích bộ mơn.Bởi chỉ có u thích bộ mơn thực sự thì các
em mới tích cực chủ động trong học tập.
4.5.3.Hướng dẫn học sinh chuẩn bị bài ở nhà:
Việc chuẩn bị bài ở nhà một cách chu đáo sẽ giúp học sinh có tâm thế
chủ động khi học trên lớp.Nếu học sinh khơng chuẩn bị bài thì tiết học đó sẽ
khơng thành cơng và như thế hiệu quả giờ dạy sẽ không cao. Đối với học sinh
trung bình, yếu thì khâu hướng dẫn chuẩn bị bài ở nhà càng cần phải tỉ mỉ và
chu đáo hơn.
Về cơ bản phương pháp chuẩn bị bài ở nhà mà học sinh vẫn làm đó là
đọc và trả lời các câu hỏi trong sách giáo khoa. Tuy nhiên có những đơn vị
kiến giáo viên cũng cần hướng dẫn cụ thể học sinh tìm hiểu bài học ngay từ ở
nhà trong khâu soạn bài phù hợp với từng phân môn.
- Đối với phân môn Tiếng Việt: giáo viên nên hướng các em phân tích
tìm hiểu những ngữ liệu tường minh nhất dễ hiểu nhất để các em rút ra kiến
thức.
- Đối với phân môn Tập làm văn giáo viên cần tránh đi vào những kiến
thức hàn lâm quá khô khan mà nên rèn nhiều cho các em kĩ năng viết đoạn
thậm chí là làm văn theo mẫu, học theo mẫu.
12


- Đối với các văn bản thì cần yêu cầu đọc kĩ từng văn bản và biết gạch
chân các chi tiết quan trọng nhất là với các văn bản truyện, văn xuôi. Thông
thường sau mỗi tiết dạy tôi thường dành một thời gian nhất định để hướng dẫn
các em chuẩn bị bài sau. Với những văn bản khó tơi thường cụ thể hóa các câu
hỏi trong sách giáo khoa bằng hệ thống câu hỏi tìm hiểu trực tiếp nội dung văn
bản theo tiến trình bài giảng của giáo viên và yêu cầu học sinh chuẩn bị theo hệ
thống câu hỏi mới đó.
Thực tế cho thấy khi giáo viên thực sự nghiêm khắc và đòi hỏi cao khâu
chuẩn bị bài sẽ giúp học sinh nhận thức được tầm quan trọng của công việc

này. Mặc dù việc chuẩn bị bài với học sinh trung bình, yếu là rất khó khăn
nhưng nếu người giáo viên tận tình, tâm huyết hướng dẫn cho các em theo hệ
thống câu hỏi chi tiết cụ thể thì việc soạn bài sẽ được các em chú trọng hơn và
hiệu quả của một tiết học cũng tăng lên đáng kể. Giáo viên nên hướng dẫn chi
tiết, đặt yêu cầu cụ thể những nội dung tự học cho tiết học sau, tuần sau rồi
nâng dần yêu cầu ngày càng cao hơn để các em có thời gian và kế hoạch học
trước ở nhà. Muốn học sinh thực hiện tốt khâu chuẩn bị bài, người giáo viên
cũng cần làm tốt công tác chuẩn bị của mình. Bởi nếu giáo viên khơng cứu
trước bài, khơng chuẩn bị tốt thì cũng khơng thể hướng dẫn học sinh chuẩn bị
tốt được. Thực hiện giải pháp này nhằm phát triển cho các em năng lực tự học
và tự giải quyết vấn đề dưới sự hướng dẫn của giáo viên. Từ đó bước đầu dần
hình thành cho học sinh năng lực đọc, hiểu và cảm thụ văn học.
4.5.4.Xác định mục tiêu bài dạy sát đối tượng:
Đối với học sinh trung bình,yếu nếu khơng xác định rõ kiến thức và kĩ
năng cơ bản cần truyền thụ và khắc sâu thì rất dễ dẫn đến tình trạng quá tải.Do
vậy trên cơ sở chuẩn kiến thức kĩ năng giáo viên cần xác định mục tiêu bài dạy
thực sự sát với đối tượng.Tuyệt đối tránh lối soạn ôm đồm, đưa ra quá nhiều
kiến thức mở rộng, nâng cao khiến học sinh có tâm lí chán nản.Từ việc xác
định mục tiêu dạy sát đối tượng giáo viên thiết kế giáo án sao cho đạt được
mục tiêu đề ra.
Ví dụ: Văn bản Chuyện người con gái Nam Xương(Tiết 16)
13


Mục tiêu cần đạt theo chuẩn KTKN

Mục tiêu cần đạt với đối tượng học

(Chung cho mọi đối tượng học sinh)
1.Kiến thức:


sinh trung bình,yếu
1.Kiến thức:

- Bước đầu làm quen với thể loại

- Bước đầu làm quen với thể loại

truyền kì.

truyền kì.

- Cảm nhận được giá trị hiện thực , giá - Nhớ được giá trị hiện thực , giá trị
trị nhân đạo và sáng tạo nghệ thuật của nhân đạo và sáng tạo nghệ thuật của
Nguyễn Dữ trong tác phẩm.. Cốt

Nguyễn Dữ trong tác phẩm.. Cốt

truyện , nhân vật, sự kiện trong một

truyện , nhân vật, sự kiện trong một

tác phẩm truyện truyền kì.

tác phẩm truyện truyền kì.

- Hiện thực về số phận của người phụ

- Hiện thực về số phận của người phụ


nữ Việt Nam dưới chế độ cũ và vẻ đẹp nữ Việt Nam dưới chế độ cũ và vẻ đẹp
truyền thống của họ.

truyền thống của họ.

- Sự thành công của tác giả về nghệ

- Nhớ được những thành công của tác

thuật kể chuyện. Mối liên hệ giữa

giả về nghệ thuật kể chuyện. Mối liên

tác phẩm với "Vợ chàng Trương".

hệ giữa tác phẩm với "Vợ chàng
Trương".

2.Kĩ năng:

2.Kĩ năng:

- Vận dụng các kiến thức đã học để

- Đọc- hiểu tác phẩm viết theo thể loại

đọc- hiểu tác phẩm viết theo thể loại

truyền kì.


truyền kì.
- Cảm nhận được những chi tiết nghệ

- Bước đầu nhận xét, đánh giá được

thuật độc đáo trong tác phẩm tự sự có

những chi tiết nghệ thuật độc đáo

nguồn gốc dân gian. Kể lại được

trong tác phẩm tự sự có nguồn gốc dân

truyện.

gian. Kể lại được truyện.

3.Thái độ:

3.Thái độ:

- Thông cảm với thân phận của người - Thông cảm với thân phận của người
phụ nữ trong xã hội phong kiến. Biết phụ nữ trong xã hội phong kiến. Biết
đấu tranh để bảo vệ hạnh phúc gia đấu tranh để bảo vệ hạnh phúc gia
đình.
4.5.5.Đối với việc soạn giảng:

đình.
14



Nội dung bài giảng phải tinh giản đến mức độ tối đa, song phải đảm bảo
những kiến thức cơ bản, cần thiết và cốt lõi nhất để học sinh nắm được kiến
thức cơ bản của môn học và các yêu cầu hình thành năng lực cụ thể trong từng
tiết học. Không tham kiến thức và tuyệt đối tránh đưa ra những kiến thức khó,
phức tạp, rườm rà. Phải tìm những con đường dễ dàng nhất trong việc giúp
học sinh lĩnh hội kiến thức. Cần chọn cách giảng đơn giản, tăng cường tính trực
quan.Với đối tượng học sinh trung bình, yếu tư duy kém giáo viên cần đơn
giản, cụ thể hóa những khái niệm trừu tượng, tránh bê nguyên si những định
nghĩa trong sách giáo khoa áp cho học sinh, bắt các em ghi nhớ máy móc.Khi
dạy các khái niệm tơi thường bắt đầu bằng cách giải thích nghĩa gốc của từ một
cách đơn giản.Ví dụ dạy tiết 129 - Nghĩa tường minh và hàm ý -Ngữ văn 9, tôi
đặt câu hỏi: Em hiểu tường minh, hàm ý là gì? Từ đó định hình cho học sinh
một cách hiểu bước đầu thật đơn giản: Nghĩa tường minh là nghĩa rõ ràng, cụ
thể; nghĩa hàm ý là nghĩa bao hàm bên trong từ ngữ.
Cần soạn ra những bài tập vừa sức và chỉ dẫn các em cách làm. Không
đặt ra những câu hỏi quá khó. Cần đưa ra những câu hỏi vừa sức, đơn giản chú
ý câu hỏi gợi mở để khuyến khích học sinh trả lời và tích cực học tập.Đồng thời
phải ln dự kiến tình huống nếu học sinh khơng trả lời được hoặc khơng trả
lời đúng hướng thì phải sử dụng một loạt câu hỏi phụ để gợi mở.
Ví dụ: Khi tìm hiểu văn bản “Đồng chí” của Chính Hữu ( Tiết 45- Ngữ
văn 9)
- Nếu dạy đối tượng học sinh khá, giỏi, giáo viên có thể đưa ra câu hỏi:
Câu thơ "Đồng chí!" đặt giữa bài thơ có gì đặc biệt?
- Nhưng với học sinh trung bình-,yếu, trước hết, giáo viên nên đưa ra câu
hỏi phát hiện: Em hãy cho biết câu thơ “Đồng chí!” có gì khác với các câu
trên? Câu thơ đó có mối quan hệ như thế nào với các câu trước và các câu sau
không?
Sau khi học sinh chỉ ra sự khác biệt (câu ngắn chỉ có hai tiếng), giáo
viên đưa ra câu hỏi phát hiện tiếp theo: Câu thơ này được đặt sau khi nêu ra

những cơ sở hình thành tình đồng chí có tác dụng gì ? Học sinh có thể dễ dàng
15


chỉ ra tác dụng của câu thơ đó ( Câu thơ như một nốt nhấn vang lên vừa như
một phát hiện, vừa như một lời khẳng định).
Khi học sinh đã phát hiện được tác dụng đó rồi giáo viên mới nêu ra câu
hỏi ở mức độ cao hơn, đó là câu hỏi nhận xét, đánh giá: Câu thơ đó có mối
quan hệ như thế nào với các câu trước và các câu sau khơng?Câu hỏi này có
thể hơi khó một chút nhưng nhờ sự lôgic với hai câu hỏi trên và cách đặt câu
hỏi vừa rõ ràng vừa gần gũi, học sinh vẫn có thể trình bày được cảm nhận của
mình.
4.5.6. Đối với việc giảng dạy trên lớp
4.5.6.1.Đối với khâu tổ chức lớp:
Giáo viên cần quản lí nghiêm nề nếp học tập của học sinh song ngay từ
khâu tổ chức lớp nên tránh căng thẳng vì thơng thường ở các lớp có đối tượng
học sinh trung bình,yếu vào đầu tiết học học sinh rất hay thưa gửi, báo cáo tình
hình của lớp với giáo viên dạy bộ môn kiêm giáo viên chủ nhiệm. Thế là giáo
viên tranh thủ kiểm điểm học sinh ngay trong tiết dạy vì sợ sẽ quên. Làm như
vậy thứ nhất là ảnh hưởng đến thời gian, nội dung bài dạy; thứ hai sẽ tạo ra bầu
không khí căng thẳng nặng nề đối với lớp, ảnh hưởng đến chất lượng bài dạy
của giáo viên và việc tiếp thu kiến thức của học sinh sẽ khơng cịn sơi nổi hào
hứng nữa.
Do vậy ngay từ đầu năm học giáo viên cần có những quy định rõ ràng cụ
thể về ý thức học tập bộ môn trong giờ học như lớp học sạch sẽ, đồ dùng gọn
gàng, ngồi học đúng tư thế, chú ý nghe giảng tuyệt đối khơng nói chuyện riêng,
ghi bài đầy đủ khẩn trương, tùy theo khả năng để tham gia phát biểu xây dựng
bài...Nếu giáo viên nghiêm khắc uốn nắn từ những biểu hiện nhỏ của học sinh
để rèn cho các em tác phong nghiêm túc trong giờ học, giờ học sẽ hiệu quả;
ngược lại nếu xuề xịa qua loa thì sẽ tạo thành thói quen không tốt trong giờ

học sẽ ảnh hưởng rất lớn đến chất lượng giờ dạy.
4.5.6.2.Trong quá trình giảng bài:
Giữ kỉ cương, nề nếp lớp học là điều cần thiết, song đừng đòi hỏi một kỷ
luật lý tưởng trong giờ học. Hãy kiềm chế, bình tĩnh, kiên trì và mềm mỏng
16


trong việc dạy dỗ học sinh. Cần tạo bầu không khí thân thiện, vui vẻ, cởi mở để
học sinh khơng bị ức chế, căng thẳng. Biết truyền cảm hứng đến từng học sinh
từ chính tác phong gần gũi, thân thiện và lời giảng thuyết phục,lơi cuốn của cơ,
từ đó từng bước xây dựng thái độ học tập đúng đắn cho các em. Cho nên ở
mỗi tiết dạy giáo viên phải là người chủ động tạo khơng khí thân thiện, thoải
mái giữa thầy và trò bằng nhiều cách khác nhau:
Thứ nhất: cần có cử chỉ, tác phong gần gũi, thân thiện. Sự gần gũi, thân
thiện thể hiện trên nét mặt, ánh mắt, giọng nói, sự quan tâm của giáo viên với
học sinh. Mỗi khi lên lớp, tôi luôn thể hiện thái độ vui vẻ; chú ý, kiên nhẫn lắng
nghe ý kiến, tuyệt đối khơng ngắt lời hoặc chỉ trích khi học sinh trả lời sai; cố
gắng gạn lọc các ý kiến đúng của các em. Để khích lệ các em tích cực học tập,
tơi thường chia lớp thành các nhóm theo sơ đồ chỗ ngồi, khuyến khích các em
thi đua giữa các nhóm.
Khi học sinh có biểu hiện tiến bộ, dù rất nhỏ, cần được ghi nhận, động
viên khuyến khích ngay. Chẳng hạn khi học sinh trả lời đúng câu hỏi, tơi
thường khen ngợi trước lớp, cộng điểm khuyến khích cho những lần trả bài
kiểm tra miệng lần sau. Khi học sinh xung phong làm bài tập hoặc trả lời kiểm
tra miệng, nếu sai, tôi không ghi điểm mà cho các em cơ hội được gỡ điểm.
Ngoài ra, giáo viên nên phát huy khả năng hài hước để tạo khơng khí
thoải mải, vui vẻ. Cố gắng kiềm chế khi học sinh khơng hồn thành u cầu của
giáo viên, tránh lời lẽ phê bình gay gắt hoặc mạt sát.
Với cách làm trên đây, khơng khí lớp học của tơi ln vui vẻ, thân thiện.
Các em đón nhận giờ học với tâm lí thoải mái; trong giờ học, các em hăng hái

phát biểu, mạnh dạn đề xuất ý kiến, bày tỏ những thắc mắc hoặc muốn khám
phá thêm về bài học.
Thứ hai: Lồng ghép trò chơi vào trong các tiết học làm thay đổi khơng
khí giờ học, tăng thêm hứng thú cho người học, khiến các em chú ý hơn, chủ
động hơn trong chuẩn bị, mạnh dạn hơn trong đề xuất ý kiến của mình, kích
thích tính tích cực của các em. Tuỳ thuộc dạng bài, lượng kiến thức, mục tiêu
17


bài học, thời lượng để áp dụng hình thức trị chơi: trò chơi nhỏ dành cho một
hoạt động dạy học hay trị chơi lớn cho cả tiết học.
- Phân mơn Văn:
Trị chơi có thể áp dụng trong bài Ơn tập hoặc phần luyện tập – củng cố.
Ví dụ: dạy phần luyện tập – củng cố văn bản “Truyện Kiều của Nguyễn Du”
(Tiết 26) tơi cho học sinh chơi trị Giải ơ chữ (Ơ chữ thiết kế có sự hỗ trợ của
công nghệ thông tin). Tôi chia lớp thành 2 đội, đội I điền từ ở ô lẻ, đội II điền
từ ô chẵn. Thứ điền lần lượt từ 1 đến hết. Giáo viên chỉ định 1 học sinh đội I
giải mã ô số 1, nếu điền đúng sẽ được quyền chỉ định người bất kì ở đội bạn
chọn ơ, điền từ tiếp. Cứ lần lượt như vậy đến khi hết các ô cần điền, giáo viên
sẽ tổng kết, tuyên dương đội thắng cuộc.
Bài tập giải ô chữ:
1.Tên chữ của Nguyễn Du ?

5. Họ tên nhân vật chính trong truyện?

2. Một người anh hùng cái thế ?

6. Tác giả của “Kim Vân Kiều truyện”?

3. Một văn nhân hào hoa phong nhã? 7. Nơi Thúy Kiều bị Tú Bà giam lỏng?

4. Người đã hai lần cứu Kiều ?

-

8. Tên làng quê hương của Nguyễn Du?

Phân mơn Tiếng Việt:

Lồng ghép trị chơi đối với phân môn này là khá phù hợp, đặc biệt trong
các phần luyện tập và bài ơn tập. Trị chơi cần gắn với các bài tập, hoặc các
hình thức thực hành, luyện tập khác do giáo viên thiết kế.
18


Ví dụ: Dạy tiết 106- Bài: "Các thành phần biệt lập"(tiếp theo) phần
Luyện tập, tôi chia lớp thành 2 đội chơi Nam-Nữ chơi trị "Chinh phục đỉnh
Phượng Hồng" gồm 5 bậc, mỗi bậc ứng với các câu hỏi của sách giáo khoa và
một số bài tập bổ trợ khác.

Luật chơi:
- Đường lên đỉnh Phượng Hoàng phải trải qua 5 bậc. Mỗi bậc tương ứng
với 1 gói câu hỏi. Trả lời đúng mỗi câu hỏi của bậc 1 được 10 điểm, bậc 2 được
20 điểm, bậc 3 được 30 điểm, bậc 4 được 40 điểm, bậc 5 được 50 điểm. Nếu
đội nào khơng trả lời được thì quyền trả lời thuộc về đội bạn.
Bậc 1: bài tập 1,2 -SGK
Bậc 2: Bài tập 3 -SGK và một bài bổ sung tương đương.
Bậc 3: Ngôi sao may mắn thưởng điểm.
Bậc 4: Thi tiếp sức đặt câu có thành phần gọi đáp.
Bậc 5: Bài tập 5 -SGK
Đội trưởng mỗi đội sẽ được luân phiên chọn gói câu hỏi và trả lời. Giáo

viên đóng vai trọng tài, giúp các đội giải quyết những tình huống nảy sinh.
- Phân mơn Tậplàm văn:
Có thể vận dụng trị chơi trong một số tiết Luyện nói.

19


Ví dụ: Tiết 68- Luyện nói: Tự sự kết hợp với nghị luận và miêu tả nội
tâm- Ngữ văn 9. Sau khi cho các nhóm hoạt động, đến phần thực hành luyện
nói trên lớp, tơi phân cơng phần trình bày cho từng nhóm và tổ chức cho các
đại diện nhóm thi trình bày bài nói của mình. Học sinh cả lớp sẽ được tham gia
chấm điểm cho đại diện các nhóm. Tơi ra các mức điểm cho học sinh biểu
quyết. Mức điểm nào có tỉ lệ đồng ý cao nhất sẽ là kết quả cuối cùng để tính thi
đua các nhóm.
Đảm bảo cho học sinh ghi chép một cách đầy đủ những ý chính của bài
học (thậm chí phải đọc cho học sinh ghi chép khi cần thiết và phải kiểm tra vở
ghi thường xuyên). Cố gắng khơi dậy sự tự tin trong mỗi em học sinh. Tổ chức
được như vậy sẽ dần hình thành cho các em năng lực làm việc theo nhóm có
hiệu quả, các em sẽ tự tin hơn.
4.5.7.Đổi mới kiểm tra đánh giá:
Kiểm tra đánh giá là khâu cuối cùng trong việc đánh giá chất lượng, hiệu
quả môn học. Kiểm tra đánh giá theo định hướng phát triển năng lực yêu cầu
chuyển chủ yếu từ đánh giá kết quả học tập cuối mơn, cuối khóa để xếp hạng
học sinh sang đánh giá thường xuyên theo chủ đề nhằm phản hồi, điều chỉnh
quá trình dạy học.Chuyển từ chủ yếu đánh giá kiến thức, kỹ năng sang đánh giá
năng lực. Chuyển trọng tâm đánh giá chủ yếu từ ghi nhớ, hiểu kiến thức sang
đánh giá năng lực vận dụng, giải quyết vấn đề thực tiễn, chú trọng đánh giá tư
duy bậc cao như tư duy sáng tạo…Chuyển đánh giá từ 1 hoạt động gần như độc
lập với dạy học tích hợp đánh giá vào q trình dạy học và xem đánh giá như
một phương pháp dạy học.Kiểm tra đánh giá khách quan, cơng bằng sẽ là động

lực kích thích hứng thú của học sinh.Ngược lại kiểm tra đánh giá khơng đúng,
khơng chính xác sẽ khơng phát huy được tính tích cực chủ động của học sinh.
Do vậy giáo viên phải luôn đổi mới kiểm tra sao cho sát với đối tượng.
Trước tiên, là khâu kiểm tra miệng giáo viên nên linh hoạt hình thức
kiểm tra. Khơng nhất thiết cứ phải nêu câu hỏi và gọi học sinh trả lời ở 5 phút
đầu giờ mà có thể kiểm tra kết hợp ở giữa giờ, cuối giờ thậm chí nếu học sinh
nào hăng hái tích cực trong giờ có nhiều câu trả lời khá tốt chúng ta cũng nên
20


cho điểm để khuyến khích học sinh. Tăng cường kiểm tra việc học bài ở nhà và
trên lớp của học sinh để kịp thời bổ sung những thiếu hụt về kiến thức. Điểm
kém sẽ ảnh hưởng không tốt đến việc hình thành nhân cách của học trị. Bởi
vậy hãy cố gắng chừng nào có thể để tránh cho các em điểm kém. Hãy tìm mọi
cách cho các em có cơ hội để gỡ điểm bằng cách đổi mới hình thức kiểm tra
đánh giá nhất là kiểm tra miệng bằng nhiều cách như đã nêu ở trên.
Thường xuyên kiểm tra sức học của các em hàng tuần hay hàng tháng để
nắm được kết quả học lực và có hướng rèn luyện cho các em thêm. Ngồi ra,
cịn có thể chỉ ra những mặt còn hạn chế của các em và biết khen ngợi sự tiến
bộ của các em dù là nhỏ nhất để từ đó các em tự nguyện cố gắng vươn lên
trong học tập. Trong giờ học hàng ngày, nên khuyến khích các em phát biểu ý
kiến, những suy nghĩ của bản thân dù đúng hay sai giáo viên cũng nên động
viên các em, tránh những nhận xét nặng nề làm tổn thương đến học sinh để từ
đó các em tự tin và mạnh dạn hơn trong học tập.
Đối với việc kiểm tra định kì giáo viên cần lưu ý ra đề kiểm tra bám sát
chuẩn kiến thức kĩ năng và bám sát đối tượng phản ánh đúng chất lượng học
sinh. Do vậy sau khi dạy xong mỗi bài mỗi chương(phần) cần chốt lại kiến thức
cơ bản và có thể khoanh vùng những kiến thức trọng tâm dự kiến kiểm tra,
hướng dẫn học sinh tự ôn luyện.Trước khi làm bài kiểm tra định kì hoặc học kì
nên hướng dẫn học sinh lập đề cương và cho các em kiểm tra chéo lẫn nhau kết

hợp với kiểm tra của giáo viên để điều chỉnh những sai sót.
Ví dụ: Giáo án kiểm tra về truyện trung đại (Tiết 44 – Ngữ văn 9) (Phụ lục 2)
4.5.8.Phối hợp chặt chẽ với giáo viên chủ nhiệm và phụ huynh học sinh:
Thường xuyên phối hợp với giáo viên chủ nhiệm và phụ huynh học sinh
để xây dựng cho học sinh động cơ mục đích học tập đúng đắn và niềm say mê
môn học.Đồng thời để nắm bắt được tâm lí hồn cảnh của học sinh và điều
chỉnh phương pháp cho phù hợp.Với các học sinh trung bình-yếu tơi thường có
một sổ riêng theo dõi kết quả kiểm tra thường xuyên và kiểm tra định kì để nắm
bắt kịp thời sự chuyển biến của các em và trao đổi với phụ huynh học sinh.Từ

21


đó phụ huynh cũng chủ động hơn trong việc hỗ trợ, uốn nắn con em mình học ở
nhà.
Phối hợp với nhà trường và các tổ nhóm chun mơn tăng cường các
hoạt động ngoại khóa, sinh hoạt câu lạc bộ văn học để học sinh có cơ hội vận
dụng kiến thức vào thực tiễn.Từ đó rèn tốt cho học sinh các kĩ năng nghe-nóiđọc-viết nhất là kĩ năng giao tiếp tự tin, mạnh dạn.
4.5.9.Đối với học sinh:
Kết quả học tập của học sinh đạt được không chỉ từ sự cố gắng tâm
huyết của giáo viên mà còn cần cả sự giao thoa ăn ý giữa giáo viên và học
sinh.Vì thế với những học sinh trung bình-yếu cần phải thường xuyên trau dồi
ý thức đạo đức.Nhất là tính tự giác, tích cực chủ động trong học tập.Không
giấu dốt và tự ti. Phải biết khiêm tốn học hỏi, làm theo sự chỉ dẫn của giáo viên
một cách nghiêm túc.
Điều cuối cùng chúng tôi muốn nói ở đây là dạy ở những lớp có đối
tượng học sinh trung bình, yếu giáo viên khơng nên qua cầu toàn và kỳ vọng.
Nên làm tất cả những khả năng có thể vì nhận thức của các em có hạn.Nếu
chúng ta cứ q áp đặt, gị chúng theo khuôn mẫu, bắt chúng phải hiểu hết kiến
thức sách giáo khoa là điều khó thể. Vì vậy nếu mọi giáo viên cố gắng thực

hiện được như trên thì việc học tập của học sinh cũng như việc giảng dạy của
thầy sẽ đem lại hiệu quả thiết thực làm tăng chất lượng đào tạo trong mỗi nhà
trường.
5. Kết quả đạt được:
Qua một thời gian áp dụng những biện pháp nêu trên với học sinh lớp 9 tôi
nhận thấy chất lượng học tập bộ mơn Ngữ văn của các em có những cải thiện
rất đáng kể. Học sinh từ chỗ lười chuẩn bị bài, uể oải trong giờ đến nay đã
chấm dứt việc không soạn bài, không làm bài tập; trong giờ học, các em tập
trung chú ý, hăng hái phát biểu xây dựng bài. Phụ huynh học sinh từ chỗ phó
mặc con em cho nhà trường, đến nay đã quan tâm đôn đốc con em học tập,
nhiều phụ huynh thường xuyên chủ động liên hệ với giáo viên để nắm bắt

22


thơng tin về con em mình. Chất lượng các bài kiểm tra thường xun, kiểm tra
định kì có chuyển biến tốt
Sau một thời gian thực hiện các giải pháp đã trình bày ở trên, cũng vẫn
lớp 9 đã được điều tra, khảo sát đầu năm, tôi ra đề bài: Suy nghĩ của em về tình
đồng chí, đồng đội của các anh bộ đội thời kháng chiến chống Pháp trong bài
thơ “Đồng chí”. Sau khi chấm, tơi nhận được kết quả:
Kết quả
Trung bình- yếu
%
Số lượng
%

Khá
Tổng số
Số lượng

học sinh
9
35
10
28.6
25
71.4
Như vậy, chất lượng dạy và học đối với học sinh trung bình, yếu môn
Ngữ văn lớp 9 đã được nâng cao rõ rệt. Các em học sinh bước đầu đã ý thức
được tầm quan trọng của mơn Ngữ văn, có những biểu hiện tích cực, chủ động
đáng mừng trong các giờ học Ngữ văn. Ở phương diện là một giáo viên trực
tiếp đứng lớp, tơi thấy mình vững vàng, tự tin hơn trong chuyên môn.
Lớp

Đây là một kết quả khả quan, làm cơ sở thúc đẩy tôi tiếp tục triển khai,
áp dụng sáng kiến trong thời gian còn lại của năm học 2014 – 2015 và những
năm học tiếp theo.
6. Điều kiện để sáng kiến được nhân rộng:
Để sáng kiến được nhân rộng theo tơi cần có những điều kiện sau:
- Về nhân lực: Mỗi người giáo viên cần nhận thức rõ tầm quan trọng của việc
dạy học sát đối tượng nhằm nâng cao chất lượng giáo dục theo định hướng phát
triển năng lực, thường xuyên học hỏi đổi mới phương pháp dạy học đáp ứng
kịp thời yêu cầu của xã hội. Sáng kiến muốn thành cơng cần có sự ủng hộ của
các ban, ngành, đoàn thể trong và ngoài nhà trường cùng quan tâm đến công tác
dạy và học nhất là đối với đối tượng học sinh trung bình, yếu.
- Về trang thiết bị, kĩ thuật: Cần được trang bị máy chiếu, máy tính tại các
phịng học và các trang thiết bị hỗ trợ về công nghệ thông tin...

23



KẾT LUẬN VÀ KHUYẾN NGHỊ
1.Kết luận:
Nâng cao chất lượng giáo dục tồn diện thì khơng thể khơng nâng chất
lượng đại trà. Muốn chất lượng đại trà nâng cao thì khơng chỉ đầu tư vào học
sinh khá,giỏi mà còn tập trung chú ý đến đối tượng học sinh trung bình,yếu.Vì
thế làm sao để có chất lượng tốt trong việc dạy và học mơn Ngữ văn ở các lớp
có học sinh trung bình, yếu là một vấn đề vơ cùng khó khăn. Đòi hỏi trách
nhiệm của người giáo viên khi đứng lớp cần phải thường xun tìm tịi để có
được bài giảng hay phù hợp với đối tượng học sinh. Có như vậy mới khơi dậy
ở học sinh lịng u thích mơn học.
Thực hiện sáng kiến này với các giải pháp được rút ra từ chính thực tiễn
giảng dạy đã giúp cá nhân tôi nâng cao được hiệu quả trong giờ dạy Ngữ văn ở
lớp có đối tượng học sinh trung bình, yếu. Đồng thời sáng kiến cũng đã được
áp dụng vào việc dạy học trong nhà trường để từng bước nâng cao chất lượng
giáo dục toàn diện.
Qua phần thực tế tiến hành khảo sát việc dạy và học môn Ngữ văn ở các
lớp có đối tượng học sinh trung bình, yếu tôi rút ra một số bài học như sau:
- Người giáo viên đứng lớp cần nắm được thực trạng của việc dạy và học mơn
Ngữ văn ở các lớp có đối tượng học sinh trung bình, yếu.
- Hiểu đặc điểm tâm sinh lí lứa tuổi cũng như hồn cảnh và đặc điểm nhận thức
của học sinh.
- Đánh giá được những ngun nhân của tình trạng học sinh có học lực trung
bình, yếu.
- Để nâng cao chất lượng dạy và học mơn Ngữ văn ở các lớp có đối tượng học
sinh trung bình, yếu giáo viên cần phân loại đúng đối tượng học sinh, hướng
dẫn học sinh có phương pháp học tập bộ môn đúng đắn, đổi mới phương pháp
dạy học sát đối tượng học sinh lấy học sinh làm trung tâm.
2.Khuyến nghị :
Qua việc thực hiện sáng kiến này tôi mạnh dạn đề xuất một số khuyến

nghị sau:
24


* Về phía giáo viên: Cần tích cực đổi mới phương pháp dạy học, nâng
cao hiệu quả giờ lên lớp qua việc dạy học sát đối tượng .
*Về phía tổ nhóm chun mơn: nên có nhiều hoạt động trao đổi những
bài dạy khó để tìm ra phương pháp giảng dạy thích hợp cho nhiều đối tượng
học sinh nhất là học sinh trung bình -yếu.
* Đối với các cấp quản lý:
- Tổ chức hội thảo, chuyên đề để giáo viên có dịp trao đổi kinh nghiệm,
bàn luận, tìm ra những biện pháp tối ưu, tích cực nâng cao chất lượng dạy học
môn Ngữ văn theo định hướng phát triển năng lực.
- Có kế hoạch tham mưu với các cấp, các ngành có liên quan để có chế
độ đãi ngộ hợp lí đối với giáo viên dạy phụ đạo thêm cho học sinh yếu kém
môn Ngữ văn.
- Đầu tư trang thiết bị, đồ dùng dạy học, tranh ảnh, đặc biệt là đầu tư
công nghệ thông tin để hỗ trợ giáo viên giảng dạy tốt môn Ngữ văn.
Trên đây là một số kinh nghiệm mà bản thân tôi thấy nên làm để nâng
cao chất lượng học tập môn Ngữ văn của học sinh trung bình, yếu theo định
hướng phát triển năng lực ở trường THCS năm học 2014 -2015. Tuy nhiên đây
không phải là cơng việc có thể dễ dàng thành cơng ngay trong một sớm một
chiều. Bởi vậy, tôi cho rằng đề tài trên cũng là vấn đề cần được tiếp tục tìm
hiểu, nghiên cứu trong những năm tiếp theo.
Trong quá trình nghiên cứu và trình bày, bài viết của tơi khơng tránh
khỏi những hạn chế, thiếu sót. Tơi mong nhận được sự đóng góp quý báu của
Hội đồng khoa học trường,Thị xã để sáng kiến kinh nghiệm của tơi được hồn
thiện hơn.

25



×