Tải bản đầy đủ (.doc) (21 trang)

Một số biện pháp chỉ đạo dạy học theo mô hình trường học mới (GPE VNEN)

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (151.25 KB, 21 trang )

A . ĐẶT VẤN ĐỀ
Trong giai đoạn hiện nay, khi xã hội đang ngày một phát triển mạnh về thông
tin, khoa học và công nghệ thì phương pháp dạy học phải được quan tâm ngay
từ đầu cấp Tiểu học và càng lên cao hơn càng được coi trọng. Dạy học theo mô
hình mới ( GPE – VNEN) là dự án về sư phạm với trọng tâm đổi mới phương
pháp, tổ chức lớp học và đánh giá học sinh theo xu hướng giáo dục hiện đại
được dạy thử nghiệm trên tất cả các tỉnh thành trên cả nước. Từ năm học 20122013 đến nay đã có trên 2000 trường tham gia dạy thử nghiệm. Trường Tiểu học
Thọ Lâm – Thọ Xuân cũng đã được chọn dạy thử nghiệm theo mô hình trường
học mới ( GPE -VNEN) .
Phương pháp dạy và học theo mô hình VNEN coi quá trình tự học của học
sinh là trung tâm hoạt động giáo dục, giáo viên là người hướng dẫn, đồng hành
với học sinh, giúp học sinh tự tìm hiểu và lĩnh hội kiến thức.
Nội dung yêu cầu mới của chương trình được thiết kế tài liệu thực hiện mục
đích 3 trong 1, tức là tài liệu được sử dụng cho cả giáo viên, học sinh và phụ
huynh học sinh, phù hợp với với trình độ học sinh tiểu học và chuẩn kiến thức
kỹ năng; hình thức tổ chức dạy học linh hoạt được định hướng rõ trong tài liệu,
tạo điều kiện để giáo viên đổi mới phương pháp dạy học, kích thích được nhiều
khả năng của học sinh.
Mô hình này là hình thức dạy học đặt học sinh vào môi trường học tập tích
cực, trong đó học sinh được tổ chức thành nhóm một cách thích hợp. Học hợp
tác nhóm giúp các em rèn luyện và phát triển kĩ năng làm việc, kĩ năng giao tiếp,
kỹ năng lắng nghe, kỹ năng phản hồi…, tạo điều kiện cho học sinh học hỏi lẫn
nhau, phát huy vai trò trách nhiệm, tính tích cực xã hội trên cơ sở làm việc hợp
tác. Thông qua hoạt động nhóm, các em có thể cùng làm việc với nhau những
công việc mà một mình không thể tự làm được trong một thời gian nhất định.
Đối với cấp Tiểu học, việc rèn cho các em các kỹ năng học hợp tác nhóm là hết
sức cần thiết, tạo điều kiện để các em có nhiều cơ hội giao lưu, học hỏi lẫn nhau,
giúp đỡ lẫn nhau, góp phần vào việc giáo dục toàn diện nhân cách cho học sinh.
Vậy, việc dạy học theo nhóm được tổ chức dạy học như thế nào? Đã đạt được
1



nhiều hiệu quả chưa? Giáo viên có được điều chỉnh các hình thức tổ chức dạy
học không hay bắt buộc phải thực hiện theo lô gô của tài liệu? Đó là những trăn
trở, lúng túng, chưa chủ động của giáo viên khi thực hiện chương trình này. Phụ
huynh học sinh thì còn hoài nghi về mô hình này liệu hiệu quả học tập đem lại
cho con em họ có tốt hay không ? Các em có tiếp thu được kiến thức đầy đủ và
hiệu quả hơn cách dạy và học truyền thống?
Trong quá trình chỉ đạo thực hiện dạy học theo mô hình VNEN, Hiệu trưởng,
Phó hiệu trưởng các trường đã bám sát kế hoạch của cấp trên để chỉ đạo nhà
trường thực hiện, nhưng do nội dung yêu cầu dạy học theo mô hình VNEN có
nhiều điểm mới nên việc thực hiện của Giáo viên, sự chỉ đạo của cán bộ quản lý
còn nhiều bỡ ngỡ, vừa làm vừa rút kinh nghiệm. Chính vì thế nên tôi đã đi sâu
nghiên cứu một số biện pháp nhằm phát huy và nâng cao chất lượng dạy học
theo mô hình VNEN đang thử nghiệm tại trường Tiểu học Thọ Lâm – Thọ Xuân
– Thanh Hóa với nội dung cụ thể là: “Một số biện pháp chỉ đạo dạy học theo
mô hình trường học mới (GPE - VNEN) đạt hiệu quả”.

2


B. GIẢI QUYẾT VẤN ĐỀ
I. CƠ SỞ LÝ LUẬN.
Dạy học theo mô hình VNEN, đây là mô hình nhà trường tiên tiến, hiện đại,
phù hợp với mục tiêu phát triển và đặc điểm của giáo dục nước ta. Các phòng
học dạy theo mô hình VNEN được bố trí giống như phòng học bộ môn, thư viện
linh động với đồ dùng dạy và học sẵn có để học sinh sử dụng ngay trong từng
hoạt động học tập; góc đồ dùng học tập, góc cộng đồng, góc trưng bày sản
phẩm...giúp học sinh gần gũi với đời sống xung quanh và tự hào về kết quả học
tập cụ thể của mình qua sản phẩm được trưng bày. Mô hình VNEN thực hiện đổi
mới phương pháp dạy học theo nguyên tắc lấy học sinh làm trung tâm, học tập

mang tính tương tác và phù hợp với từng cá nhân học sinh. Chuyển việc truyền
thụ của giáo viên thành việc hướng dẫn học sinh tự học. Lớp học do học sinh tự
quản và được tổ chức theo các hình thức, như: Làm việc theo cặp, làm việc cá
nhân và làm việc theo nhóm, trong đó hình thức học theo nhóm là chủ yếu. Học
sinh được học trong môi trường học tập thân thiện, thoải mái, không bị gò bó,
luôn được gần gũi với bạn bè, với thầy cô, được sự giúp đỡ của bạn học trong
lớp, trong nhóm và thầy cô, phù hợp với tâm sinh lý lứa tuổi các em. Học sinh
khá giỏi được phát huy, học sinh còn hạn chế, yếu kém được học sinh của nhóm
và giáo viên giúp đỡ kịp thời ngay tại lớp. Học sinh trong nhóm cùng thực hiện
nhiệm vụ chung. Điều này đòi hỏi trước tiên là phải có sự phụ thuộc tích cực
giữa các thành viên trong nhóm. Mỗi thành viên trong nhóm cần hiểu rằng họ
không thể trốn tránh trách nhiệm, hay dựa vào công việc của những người khác.
Trách nhiệm cá nhân là then chốt đảm bảo cho tất cả các thành viên trong nhóm
thực sự mạnh lên trong học tập theo nhóm. Học sinh thường được phát huy hơn,
cơ hội cho học sinh tự thể hiện, tự khẳng định khả năng của mình nhiều hơn.
Nhóm làm việc sẽ khuyến khích học sinh giao tiếp với nhau và như vậy sẽ giúp
cho những em nhút nhát, thiếu tự tin, cô độc có nhiều cơ hội hòa nhập với lớp
học. Thêm vào đó, học theo nhóm còn tạo ra môi trường hoạt động mang bầu
không khí thân mật, cởi mở, sẵn sàng giúp đỡ, chia sẻ trên cơ sở cố gắng hết sức
và trách nhiệm cao của mỗi cá nhân. Học sinh có cơ hội được tham gia tích cực
3


vào hoạt động nhóm. Mọi ý kiến của các em đều được tôn trọng và có giá trị
như nhau, được xem xét, cẩn thận. Do đó sẽ khắc phục tình trạng áp đặt, uy
quyền, làm thay, thiếu tôn trọng... giữa những người tham gia hoạt động, đặc
biệt giữa giáo viên và học sinh.
II.THỰC TRẠNG CỦA VIỆC DẠY HỌC THEO MÔ HÌNH VNEN Ở
TRƯỜNG TIỂU HỌC THỌ LÂM – THỌ XUÂN – THANH HÓA.
1. Về phía học sinh và giáo viên: Qua dự giờ của đội ngũ giáo viên, tôi nhận

thấy trong việc Dạy – Học theo mô hình VNEN có những ưu, nhược điểm sau:
* Ưu điểm:
- Đa số HS được trang bị đầy đủ tài liệu hướng dẫn học và đồ dùng học tập.
- Học sinh trong lớp và trường thích học mô hình này.
- Giáo viên trong trường đã tiếp cận nhanh, phấn khởi và đã thích nghi được
với dạy học theo mô hình này và hướng dẫn học sinh học tập có hiệu quả.
- Thiết kế của bài học VNEN được xây dựng 3 trong 1 tức là SGK, SGV và
VBT cùng trong một quyển, điều đó rất tiện trong hoạt động dạy và học.
- Mô hình dạy học của VNEN chuyển cơ bản từ hoạt động dạy của giáo viên
sang hoạt động học của học sinh. Tức là chuyển từ phương pháp dạy truyền
thống sang phương pháp học tích cực của học sinh.
* Nhược điểm:
- Đa số các lớp học có số lượng học sinh đông, là một trở ngại rất lớn cho dạy
học nhóm thành công.
- Một số HS còn lúng túng và nhút nhát, chưa mạnh dạn tham gia vào các hoạt
động trong nhóm, còn ỷ lại, dựa dẫm vào các bạn cùng nhóm.
- Một số nhóm trưởng chưa mạnh dạn tự tin để lãnh đạo nhóm mình hoạt động,
một số học sinh chưa hình thành được những kỹ năng cơ bản…
- Nhiều gia đình HS kinh tế khó khăn, đi làm ăn xa, gửi con cho ông, bà nên
chưa thực sự quan tâm đến việc học của con em, còn phó mặc cho nhà trường.
- Một số giáo viên vẫn còn chưa linh hoạt khi thực hiện dạy học theo phương
pháp VNEN. Họ chưa thấy hết tầm quan trọng của việc rèn cho HS phương
pháp tự học và học theo nhóm. Vì vậy có những bài tập có liên quan đến kiến
4


thức mới họ còn làm thay cho HS vì họ sợ học sinh không hiểu bài. Thói quen
trước đây giáo viên giảng giải, thuyết trình vẫn còn, nên các em luôn có thói
quen chờ đợi, không tự mình suy nghĩ, tìm tòi để phát hiện ra kiến thức mới.
1. Về phía nhà trường:

* Ưu điểm:
- Cán bộ quản lý đã bám sát kế hoạch và tinh thần của dự án VNEN để chỉ đạo
tốt các công tác bồi dưỡng GV theo hướng tập trung, tự học, tự bồi dưỡng, tự
làm đồ dùng dạy học, chia sẻ và học hỏi kinh nghiệm đồng nghiệp qua các buổi
chuyên đề, sinh hoạt chuyên môn tại tổ, trường, cụm trường. Chỉ đạo GV hướng
dẫn HS sử dụng tài liệu Hướng dẫn học tập để tự học, tự đánh giá; tổ chức cho
HS hoạt động khám phá, phát hiện kiến thức, kĩ năng mới thông qua quá trình
học tập mang tính hợp tác. Giáo viên chỉ hỗ trợ và hướng dẫn HS khi cần thiết.
- Môi trường giáo dục nhà trường đảm bảo, dân chủ, thân thiện, đổi mới các
hoạt động giáo dục, phù hợp với chương trình giáo dục mới.
* Nhược điểm:
- Là mô hình mới đang thử nghiệm, nên việc xây dựng kế hoạch và chỉ đạo
của lãnh đạo nhà trường còn có lúc lúng túng, chưa chủ động vì còn phụ thuộc
nhiều vào kế hoạch của Ban quản lý dự án VNEN.
- Cơ sở vật chất nhà trường chưa đáp ứng tốt theo yêu cầu của mô hình này.
2. Về phía địa phương:
* Ưu điểm:
- Địa phương rất quan tâm và cổ vũ nhà trường đón nhận dự án: Dạy học theo
mô hình mới ( GPE – VNEN).
- Tạo điều kiện về cơ sở vật chất, động viên phụ huynh, huy động cộng đồng
tích cực tham gia cùng nhà trường trong việc trang trí cũng như tạo mọi điều
kiện theo mô hình lớp học VNEN . Tích cực động viên đội ngũ GV về mọi mặt
để thực hiện tốt chương trình dạy học.
* Nhược điểm: - Xã thuộc vùng nông thôn miền núi, nguồn thu nhập chủ yếu
của người dân từ nông nghiệp, đời sống kinh tế xã hội tuy đã có nhiều cải thiện
nhưng vẫn còn khó khăn, thì việc học của học sinh cũng bị ảnh hưởng...
5


* Kết quả thực trạng:

Ngay từ đầu năm học 2016 – 2017, sau quá trình tìm hiểu thực tế tôi đã trực
tiếp điều tra kết quả học tập của học sinh các khối lớp VNEN Trường Tiểu học
Thọ Lâm
Kết quả cụ thể đầu năm như sau:
Môn

Tổng số

Số HS dự kiểm tra

Hoạt động giáo dục
Hoàn thành
Chưa hoàn thành

Toán

HS
40

40

33

7

T Việt

40

40


32

8

Tổng số HS
Số HS kiểm tra
Đạt
Chưa đạt
Năng lực
40
40
34
6
Phẩm chất
40
40
35
5
Như vậy chất lượng các môn Toán, Tiếng Việt trong hoạt động giáo dục
cho thấy còn thấp, vẫn còn từ 7 đến 8 em chưa hoàn thành, các năng lực và các
phẩm chất vẫn còn 5 đến 6 em chưa đạt. Để khắc phục tình trạng này, tôi đã tìm
ra một số giải pháp tổ chức dạy học theo mô hình VNEN nhằm nâng cao chất
lượng giờ học cho HS các khối lớp VNEN, đồng thời chỉ đạo cho giáo viên dạy
học theo mô hình này dạy tốt, đạt hiệu quả cao hơn trong việc áp dụng dạy học
theo mô hình mới VNEN.
III. CÁC BIỆN PHÁP VÀ TỔ CHỨC THỰC HIỆN:
*Biện pháp 1 : Chỉ đạo tăng cường xây dựng lớp học thân thiện.
1. Công tác trang trí lớp học: Mỗi ngày đến trường, đến lớp là một ngày
vui. Bản thân các em thêm yêu trường yêu lớp, gắn bó với ngôi nhà chung đó.

Việc trang trí lớp học thân thiện là một sự sáng tạo phù hợp với đặc điểm tâm lý
học sinh nó tạo cho các em nhận thức về cái đẹp và có ý thức gìn giữ trường lớp
của mình sạch đẹp, góp thêm cho lớp học một luồng không khí thân thiện, thoải
mái, sinh động, hăng say trong giờ học, rèn luyện kĩ năng sống cho học sinh. Vì
vậy, tôi đã cùng Hiệu trưởng nhà trường chỉ đạo giáo viên kết hợp với phụ
huynh và học sinh để tổ chức trang trí lớp học. Tôi đã sưu tầm các mô hình đẹp
để định hướng cho GV hướng dẫn cho phụ huynh và HS dùng các tờ giấy bìa để

6


gấp các phong bì thư, các ngôi nhà nhỏ xinh xắn sau đó cùng trang trí lên tờ giấy
A0 để làm “Hộp thư vui kết tình bè bạn”, “Ngôi nhà yêu thương”
Hộp thư vui kết tình bè bạn”, “Ngôi nhà yêu thương”: Đây là nơi hội tụ
những cảm xúc của các thành viên trong lớp. Ngay lập tức, góc nhỏ đáng yêu ấy
tạo nên hiệu ứng sôi nổi tới các bạn HS. Mỗi buổi sáng, những lá thư với dòng
chữ còn hơi nguệch ngoạc nhưng chất chứa bao tình cảm sâu lắng, những mảnh
giấy nhỏ bé, rồi cả hình vẽ ngộ nghĩnh đáng yêu về bạn bè trong lớp, những bức
ảnh ghi lại khoảnh khắc của lớp lần lượt xuất hiện trên tường ngôi nhà.
Hòm thư điều em muốn nói: Mục đích nhằm giúp cho học sinh có cơ hội bày
tỏ ý kiến, những điều em không tiện nói trước lớp, những ý kiến, những chia sẻ
về cuộc sống, hoàn cảnh gia đình, về tâm sinh lý….Giúp cho học sinh bày tỏ tất
cả những vướng mắc trong cuộc sống và trong học tập, các em viết một bức thư
nhỏ và gửi vào hòm thư của lớp. Cuối mỗi tuần GV sẽ mở hòm thư phân loại và
có cách xử lý cho từng vấn đề học sinh đặt ra, có thể phối hợp với gia đình, nhà
trường, địa phương để có cách giải quyết tế nhị và có hiệu quả nhất.
Góc cộng đồng: Giáo viên và học sinh sưu tầm, giới thiệu về văn hóa lịch sử
của địa phương, dân tộc, các tác phẩm thơ ca hò vè, trò chơi dân gian….Các sản
phẩm của địa phương làm ra. Chính hoạt động này kích thích các em hứng thú
tìm tòi, sưu tầm, giới thiệu và qua đó cũng sẽ giúp các em thêm yêu văn hóa,

lịch sử truyền thống một cách tự nhiên, bền vững.
Thư viện lớp học: Là tủ sách thân thiện có sự đóng góp của phụ huynh, học
sinh , giáo viên, có sự giúp đỡ của nhà trường và địa phương tạo điều kiện cho
các em ham đọc sách, mở rộng hiểu biết, phát triển khả năng cho các em. Rèn kĩ
năng sống có trách nhiệm, có ý thức bảo quản tài sản chung, có thói quen sống
gọn gàng, ngăn nắp. Ngoài việc đọc sách tăng thêm vốn tri thức, học sinh còn
tham gia các hoạt động giới thiệu quyển sách của em do giáo viên phụ trách lớp
hướng dẫn, giúp các em tự tin hơn, diễn đạt tốt hơn. Đây là một trong những kĩ
năng sống rất cần thiết cho học sinh sau này.
Cây hoa học tập, bảng bông hoa điểm tốt : Phản ánh rõ ràng, chính xác, công
khai kết quả học tập của mỗi nhóm, cá nhân học sinh sau mỗi hoạt động. Việc
7


tuyên dương cá nhân, nhóm trong mỗi giờ chào cờ đầu tuần kích thích học sinh
tích cực, tự giác học tập để đạt được kết quả cao hơn.
Giáo viên luôn thân thiện, gần gũi với học sinh, những lời nhắc nhở nhẹ nhàng
của giáo viên sẽ đạt được kết quả cao. Viết câu nhắc nhở hóm hỉnh như: “Cho
tôi xin rác !” được dán trước mặt thùng rác nơi HS dễ thấy. Hay câu: “Tắt đèn,
tắt quạt khi không cần thiết bạn nhé ! ” Xây dựng đủ các góc học tập, các bảng,
biểu mẫu đúng qui định của lớp VNEN.
2. Thành lập ban “Hội đồng tự quản” làm việc có hiệu quả.
Giáo viên phải xây dựng được Hội đồng tự quản học sinh, tìm hiểu kĩ về
từng học sinh của lớp mình. Coi trọng công tác tổ chức lớp ngay từ đầu năm
học. Xây dựng được Hội đồng tự quản HS nhiệt tình có năng lực chỉ đạo lớp.
Đây là mô hình không những đổi mới về tổ chức lớp học, về trang trí lớp mà
quá trình dạy học cũng được đổi mới từ dạy - học cả lớp sang dạy - học theo
nhóm. Nhằm nâng cao chất lượng giảng dạy, tăng cường phát huy tính tích cực,
chủ động, sáng tạo của học sinh. Lấy học sinh làm trung tâm trong các hoạt
động dạy học giúp các em tự chiếm lĩnh kiến thức và tạo mọi điều kiện tốt nhất

để mọi học sinh được tham gia vào quá trình học tập. Ngoài ra mô hình trường
Tiểu học kiểu mới giúp học sinh rèn phương pháp tự học, tự giác, tự quản, tự
trọng, tự tin, tự đánh giá, tự hợp tác, tự rèn luyện kỹ năng, vận dụng kiến thức
vào thực tiễn, tác động đến tình cảm đem lại niềm vui hứng thú học tập cho HS.
Hội đồng tự quản học sinh là một biện pháp giáo dục nhằm thúc đẩy sự phát
triển về đạo đức, tình cảm và xã hội của học sinh thông qua những kinh nghiệm
hoạt động thực tế của các em trong nhà trường và mối quan hệ với bạn bè và
những người xung quanh.
Cách lập hội đồng tự quản của học sinh theo sơ đồ sau:

8


HĐTQHS
CHỦ TỊCH HĐTQ

PHÓ CT HĐTQ

PHÓ CT HĐTQ

BAN
HỌC TÂP

BAN
THƯ VIỆN

BAN
QUYỀN LỢI
HỌC SINH


BAN
ĐỐI NGOẠI

BAN
SỨC KHỎE
VỆ SINH

BAN
VĂN NGHỆ
TDTT

Sự thay đổi của tổ chức lớp học theo mô hình VNEN với Hội đồng tự quản
học sinh đã thay đổi căn bản vai trò, nhiệm vụ của học sinh trong tổ chức của
mình; thể hiện được tính tự chủ, tự giác, phát huy sáng tạo và tôn trọng ý kiến
của các em nhiều hơn. Nhóm là một bộ phận gắn kết cơ bản xuyên suốt cả quá
trình dạy và học nó tạo điều kiện để rèn luyện các kĩ năng và hợp tác của nhóm.
3. Phát huy vai trò của một nhóm trưởng:
Học theo mô hình VNEN, bàn ghế sẽ được sắp xếp cho HS ngồi đối diện
nhau. HS tự thảo luận, tự tìm vướng mắc và tự đưa ra phương án giải quyết.
Ưu điểm của phương pháp học nhóm được phát huy rất rõ nét trong học nhóm
theo mô hình VNEN, tất cả học sinh trong nhóm đều được luân phiên nhau làm
nhóm trưởng, hướng dẫn các bạn trong nhóm để điều hành các hoạt động do
giáo viên yêu cầu và không có một bất cứ học sinh nào ngoài cuộc, không một
học sinh nào ngồi chơi. Tuy nhiên để tiết học dạy theo mô hình VNEN thành
công hay không thì phụ thuộc rất nhiều vào các nhóm trưởng. Và công việc
chính của nhóm trưởng đó là: thay giáo viên điều hành các bạn hoạt động nhóm.
Xác định được mục tiêu của hoạt động nhóm. Phân công nhiệm vụ cho công
bằng giữa các thành viên trong nhóm.
Một điều quan trọng nữa đó là nhóm trưởng phải biết tự mình làm thế nào để
huy động được sự tham gia của mọi thành viên vào giải quyết nhiệm vụ nhóm

và phải tạo ra những tương tác đa chiều giữa các thành viên trong nhóm. Hướng
dẫn các bạn biết cách tìm kiếm hỗ trợ và giải quyết được một số khó khăn gặp
9


phải; Biết quản lí và sử dụng thời gian hiệu quả; Biết sử dụng và bảo quản tài
liệu học tập; Biết tổ chức và quản lí công việc; Biết giơ thẻ khi đã hoàn thành
công việc và biết giơ thẻ cứu trợ khi không tự giải quyết được công việc.
Cách 1: Vào cuối hoặc đầu mỗi buổi học giáo viên cần mời các nhóm trưởng
ngồi lại tạo thành một nhóm và hướng dẫn các em cụ thể từng bước một.
Ví dụ: Sau khi đã ghi xong đề bài, nhóm trưởng điều khiển nhóm đọc mục tiêu:
- Nhóm trưởng nói to đủ cho cả nhóm nghe (Mời các bạn đọc mục tiêu. Bạn nào
đọc xong thì giơ tay lên báo cho nhóm trưởng và các bạn biết).
- Nhóm trưởng nói: Mình mời bạn A đọc mục tiêu, mời bạn B đọc mục tiêu…
(Sau khi các bạn trong nhóm mình đọc xong thì giơ thẻ hoàn thành lên để giáo
viên biết và sẽ đến nhóm đó kiểm tra).
Cách 2: Đối với những nhóm còn yếu, nhóm trưởng làm việc còn lúng túng,
người giáo viên phải là người “làm mẫu” và đóng vai trò là một nhóm trưởng
chứ không phải vai trò là một người giáo viên.
Cách 3: Giáo viên chọn ra một số học sinh học giỏi, nhanh nhẹn trong học tập
xếp cho các em này ngồi vào một nhóm để giáo viên huấn luyện khi học sinh đã
biết việc và biết cách điều hành nhóm rồi thì chia các bạn này đến mỗi nhóm
mỗi bạn làm nhóm trưởng các nhóm.
Cách 4: Hoặc có thể cho nhóm làm tốt làm mẫu thảo luận một hoạt động nào đó
và các nhóm còn lại chú ý để học tập theo. Giáo viên cũng không quên động
viên, tuyên dương kịp thời các nhóm làm tốt. Một điều nữa cần phải lưu ý đó là
vị trí đứng của giáo viên khi các nhóm thảo luận cũng hết sức quan trọng. Qua
kinh nghiệm dự giờ nhiều lớp, tôi nhận thấy giáo viên nên bao quát lớp, vừa
đánh giá đúng nhóm nào làm nhanh nhất, chậm nhất, nhóm nào giơ thẻ hoàn
thành lên trước hoặc nhóm nào chậm nhất, nhóm nào giơ thẻ cần cứu trợ, để từ

đó GV kịp thời đến kiểm tra hay giúp đỡ.
4. Xây dựng tập thể lớp hòa đồng trong giờ giải lao.
Muốn xây dựng được mối đoàn kết giữa các bạn trong lớp với nhau, thì vai
trò của hội đồng tự quản cũng không kém phần quan trọng đặc biệt là ban văn
nghệ của lớp. Ban văn nghệ dưới sự hướng dẫn của giáo viên, vào giờ ra chơi
10


ban văn nghệ tự tổ chức, tự khởi xướng ra các hoạt động, các trò chơi và giáo
viên cùng tham gia chơi với học sinh. Trước khi chơi, giáo viên thường đưa ra
những giải thưởng thú vị, giải nhất có thể là gói bánh, gói kẹo, hộp phấn…. để
kích thích tinh thần chơi của các em.
Ví dụ: Trò chơi “Kéo co” không chỉ đòi hỏi sức mạnh, sự khéo léo mà còn đòi
hỏi tinh thần đoàn kết cao. Nếu như không có sự hợp tác - đoàn kết cao thì chắc
chắn sẽ thua.
Qua trò chơi, giáo viên vừa giúp ban văn nghệ thêm mạnh dạn, tự tin, rèn
luyện thêm kỹ năng điều hành lớp vui chơi, văn nghệ, vừa giúp các em thể hiện
sự đoàn kết, hợp tác, giúp đỡ nhau để cùng nhau hoàn thành tốt nhiệm vụ.
Thông qua những giờ giải trí thú vị ấy, HS càng thân thiết, quý mến nhau hơn và
chắc chắn rằng các em sẽ sẵn sàng giúp đỡ nhau khi gặp khó khăn trong học tập
cũng như trong cuộc sống.
Qua một thời gian áp dụng phương pháp trên, bản thân tôi nhận thấy công tác
tự quản trong các lớp học mang lại những lợi ích cụ thể, sát thực như sau:
- Nền nếp lớp học ngày một tốt hơn, có quy củ hơn. Học sinh tự giác trong việc
tự học, trình bày bài trong vở.
- Kỹ năng giao tiếp của các em trôi chảy, lưu loát hơn, các em tự tin hơn trong
giao tiếp, học tập…
Học sinh ý thức được tinh thần trách nhiệm trong các hoạt động, phong trào
thi đua của lớp; tinh thần đoàn kết, kĩ năng hợp tác và khả năng làm việc theo
nhóm hiệu quả cao hơn.

Như vậy xây dựng lớp học tự quản là việc làm cần thiết của bất cứ giáo viên
nào, người giáo viên cần chủ động đóng vai trò là người cố vấn, hướng dẫn, điều
khiển từ xa trợ giúp học sinh nuôi dưỡng ý thức, tạo dựng môi trường tự quản.
Bởi vì chỉ có học sinh, chính các em chứ không phải ai khác mới là người có
quyền lợi và trách nhiệm gắn bó, xây dựng, điểm tô cho lớp học - ngôi nhà thứ
hai của mình trở lên thân thiện, gần gũi và đẹp hơn trong mắt mọi người. Học
theo nhóm là chủ yếu, học ở trong lớp và cả ở ngoài lớp học.
*Biện pháp 2: Đổi mới phương pháp dạy của giáo viên.
11


1. Người giáo viên phải hiểu đổi mới phương pháp dạy học theo mô hình
VNEN là như thế nào?
Phương pháp dạy học theo mô hình VNEN là phương pháp dạy học lấy học
sinh làm trung tâm, vừa là giá đỡ, vừa là trụ cột chi phối các hoạt động sư phạm
trong nhà trường VNEN. Tổ chức lớp học không chỉ phù hợp với phương pháp
của VNEN mà còn tạo ra môi trường sư phạm thân thiện, dân chủ, hợp tác giữa
các thành viên trong trường và với cộng đồng. Mô hình VNEN sẽ tạo điều kiện
cho giáo viên và học sinh phát huy tốt nhất các năng lực cá nhân và giá trị đích
thực của các em. Kiểu cấu trúc bài học được khuyến khích sử dụng trong mô
hình VNEN, đó là tổ chức dạy học người ta thường khuyến khích sử dụng quy
trình thông qua các hoạt động trải nghiệm, khám phá, phát hiện của HS, quy
trình gồm 5 bước chủ yếu sau:
Gợi động cơ, tạo hứng thú
bài học

Thực hành

Trải nghiệm


Phân tích, khám phá, rút ra

vận dụng. Để làm tốt 5 bước này, đòi hỏi bản thân

người giáo viên phải tự thiết kế, đạo diễn các hoạt động học tập để giúp học sinh
tự phát hiện kiến thức, phân tích kiến thức và sử dụng kiến thức. Chẳng hạn:
2. Tạo hứng thú cho học sinh.
Muốn không khí lớp học vui tươi, kích thích sự tò mò, khơi dậy hứng thú của
học sinh về chủ đề sẽ học. Giáo viên phải nghiên cứu thật kỹ tài liệu để lựa chọn
hình thức sao cho phù hợp, có thể là: Đặt câu hỏi, câu đố vui, kể chuyện, một
tình huống, tổ chức trò chơi hoặc sử dụng các hình thức khác…Ví dụ : Bài 5:
Ôn tập các bảng nhân và bảng chia ( tài liệu Toán lớp 3 trang 15)
Trước khi vào tiết học, GV tổ chức HS chơi trò chơi “Kết bạn”. Các em sẽ biết
nếu “kết 4” mà lớp mình có 24 bạn thì sẽ thành lập được 6 nhóm, nếu “kết 5” thì
lớp mình sẽ thành lập được 4 nhóm còn dư 4 bạn ( bạn bị dư sẽ bị phạt). Thông
qua trò chơi, HS sẽ cảm thấy trò chơi mà mình vừa được tham gia rất gần gũi
với bản thân, không chỉ thế trò chơi còn kích thích tính tò mò, khơi dậy hứng thú
trong học tập giúp các em muốn tiếp tục được trải nghiệm kiến thức mới.
3. Đổi mới phương pháp dạy của giáo viên:

12


Tăng cường việc sử dụng phối hợp các phương pháp dạy học, các kỹ thuật
dạy học để phát huy tính tích cực, sáng tạo của học sinh, gắn nội dung dạy học
với các tình huống thực tiễn cũng như để giải quyết các chủ đề phức hợp của
thực tiễn. Trước tiên mỗi GV phải nắm chắc các phương pháp dạy học tích cực
và các kỹ thuật dạy học tích cực được áp dụng rộng rãi ở nhiều vùng miền và đã
mang lại kết quả cao đó là :
* Các phương pháp dạy học tích cực :

- Phương pháp đặt và giải quyết vấn đề.
Đối với phương pháp này, giáo viên đặt ra vấn đề, HS suy nghĩ, giáo viên có thể
đưa ra những đồ dùng trực quan, những phương tiện kỹ thuật, những công thức,
quy tắc... tuỳ thuộc nội dung để giải quyết vấn đề đó một cách khoa học, vừa sức
cho HS, vạch ra tiến trình suy nghĩ khi vận động theo con đường giải quyết đó,
còn HS kiểm tra tính đúng đắn của vấn đề đó, theo dõi có suy nghĩ logic.
Ví dụ: Khi học bài: Diện tích hình vuông – Lớp 3, học sinh đã biết hình vuông
từ lớp 1, biết đặc điểm của hình vuông, biết hình vuông là trường hợp đặc biệt
của hình chữ nhật, nhưng chưa biết cách tiến hành tính diện tích của hình vuông
như thế nào? Giáo viên dẫn dắt từ cách tính diện tích hình chữ nhật, rồi dẫn dắt
đến các Công thức, quy tắc tính diện tích hình vuông, học sinh sẽ dễ hiểu và
khắc sâu được cách tính.
- Phương pháp hợp tác theo nhóm nhỏ; Phương pháp trò chơi và Phương pháp
đóng vai. Các phương pháp dạy học này là những PPDH mà "Học sinh được
phân chia thành từng nhóm nhỏ riêng biệt, chịu trách nghiệm về một mục tiêu
duy nhất, được thực hiện thông qua nhiệm vụ riêng biệt của từng người. Các
hoạt động cá nhân riêng biệt được tổ chức lại, liên kết hữu cơ với nhau nhằm
thực hiện một mục tiêu chung".
Các phương pháp này được sử dụng nhằm giúp cho mọi học sinh tham gia
một cách chủ động vào quá trình học tập, vui chơi , tạo cơ hội cho các em có thể
chia sẻ kiến thức, kinh nghiệm, ý kiến để giải quyết các vấn đề có liên quan đến
nội dung bài học; tạo cơ hội cho các em được giao lưu, học hỏi lẫn nhau; cùng
nhau hợp tác giải quyết những nhiệm vụ chung.
13


Ví dụ: Khi học sinh thực hiện trò chơi “ Ghép thành phép tính” ( trang 64 tài
liệu hướng dẫn học Toán 3 – tập 1B).
+ Hai bạn trong nhóm lần lượt đặt 2 thẻ ghi số rồi ghép một thẻ ghi dấu phép
tính ( +, −, ×, : ) xen vào giữa 2 số trên để được phép tính. Đọc phép tính vừa lập

được. Các bạn khác kiểm tra, giáo viên làm trọng tài theo dõi đánh giá chung và
tuyên dương đội thắng cuộc…
* Các kỹ thuật dạy học tích cực:
- Kĩ thuật hỏi và trả lời.
- Kĩ thuật mảnh ghép.
- Kĩ thuật KWL.
- Kĩ thuật khăn trải bàn.
- Kĩ thuật trình bày 1 phút
Trao đổi với GV, đồng nghiệp, chuyên môn để tuỳ theo theo từng môn, từng
bài, từng lớp tuỳ theo từng hoạt động để vận dụng phương pháp dạy học nào, kỹ
thuật dạy học nào cho phù hợp đặc biệt gắn bài học với thực tế cuộc sống. Mỗi
giáo viên phải tự học, tự bồi dưỡng để biết cách khai thác những yếu tố tích cực
của các phương pháp dạy học truyền thống một cách phù hợp và có hiệu quả,
đồng thời đưa các quan điểm, phương pháp dạy học theo mô hình VNEN. Bồi
dưỡng năng lực tổ chức dạy học theo nhiều hình thức đa dạng, khuyến khích và
tạo điều kiện thuận lợi (cả tinh thần và vật chất) cho giáo viên và HS để tổ chức
một cách hiệu quả các hoạt động dạy học. Cụ thể như sau:
4. Tổ chức dạy học phân hoá theo năng lực của học sinh dựa trên tài liệu
hướng dẫn thực hiện chuẩn kiến thức kĩ năng.
Tài liệu chuẩn kiến thức giúp cho giáo viên chủ động lượng kiến thức cho
bài dạy. Bởi vậy khi dạy thực nghiệm, tôi đã phân loại học sinh theo năng lực
thông qua kết quả học tập. Khi thấy lượng kiến thức quy định theo chuẩn kiến
thức kỹ năng ở một số tiết không phù hợp tôi đã đề xuất với Hiệu trưởng chỉ đạo
tổ chuyên môn cùng với giáo viên phương án điều chỉnh phù hợp.
Sử dụng tài liệu hướng dẫn học hợp lý khi giảng bài trên lớp. GV chú trọng
khai thác đầy đủ nội dung tài liệu hướng dẫn học và cập nhật thêm kiến thức các
14


nội dung tích hợp như giáo dục môi trường, giáo dục môi trường biển đảo, giáo

dục kỹ năng sống...
Sử dụng hợp lý công nghệ thông tin trong các bài học, khai thác tối đa thiết
bị dạy học. Bên cạnh đó, để dạy học theo mô hình VNEN đạt hiệu quả thì giáo
viên phải phối kết hợp chặt chẽ với phụ huynh cùng tham gia vào hoạt động giáo
dục của nhà trường. Ngoài ra, bản thân mỗi giáo viên phải ghi chép nghiêm túc,
đầy đủ những thành công hoặc những khó khăn vướng mắc, những điều chỉnh...
khi thực hiện các bước dạy học trên lớp.
- Giáo viên tự học, tự bồi dưỡng, tự chủ, linh hoạt trong phương pháp dạy học.
- Trong sinh hoạt tổ chuyên môn kịp thời đưa ra những khó khăn, vướng mắc
để mọi người trong tổ sẽ cùng nhau thảo luận để tìm ra cách giải quyết tốt nhất.
Thường xuyên tự học hỏi qua sách báo, thông tin đại chúng, qua đồng nghiệp
thông qua các tiết học tốt, chuyên đề, thao giảng... nhằm nâng cao tay nghề, tìm
ra phương pháp giảng dạy cho phù hợp với đối tượng học sinh...
*Biện pháp 3: Chỉ đạo đổi mới về cách học của học sinh.
Trước hết giáo viên phải rèn cho học sinh các kĩ năng làm việc có hiệu quả
ngay từ đầu năm học. Để thực hiện có hiệu quả phương pháp dạy học theo mô
hình VNEN người giáo viên cần chú trọng rèn cho học sinh một số kĩ năng học
tập. Trước hết phải rèn cho học sinh kĩ năng tự học theo nhóm. Mỗi hướng dẫn
học trong sách bao gồm một chuỗi các hoạt động được thiết kế nhằm giúp học
sinh tự học bằng cách thực hiện các yêu cầu, các chỉ dẫn, trong bài học. Vì vậy,
trước hết người giáo viên cần quan tâm luyện tập cho học sinh các kĩ năng sau:
+ Kĩ năng đọc - hiểu tài liệu, giáo viên cần cho học sinh hiểu được các câu
lệnh, các chỉ dẫn, các yêu cầu, các loại dạng hoạt động học tập.
+ Kĩ năng làm việc cá nhân, khi học sinh hoạt động cá nhân giáo viên phải
rèn cho học sinh ý thức tập trung suy nghĩ để hoàn thành nhiệm vụ của cá nhân,
tự mình trình bày ý kiến cá nhân và tự đánh giá kết quả hoạt động của cá nhân.
+ Kĩ năng làm việc hợp tác theo cặp, theo nhóm, giáo viên phải rèn cho học sinh
biết tổ chức hoạt động nhóm, nhận nhiệm vụ, lên kế hoạch, phân công, đảm
nhận trách nhiệm, phối hợp trong nhóm để hoàn thành tốt công việc của nhóm.
15



+ Kĩ năng sử dụng đồ dùng học tập ở các góc học tập, sử dụng tài liệu tham
khảo ở thư viện trong lớp học.
+ Kĩ năng tự học ở môi trường xung quanh, gia đình và cộng đồng.
Hoạt động tự học của HS vừa rèn luyện tính độc lập tích cực của học sinh,
đồng thời thúc đẩy sự tham gia hợp tác, tăng cường ý thức tập thể của học sinh .
Việc học tập tích cực trong nhóm cũng hình thành cho các em kĩ năng lắng
nghe, kĩ năng ra quyết định… trước khi đưa ra vấn đề, tạo sự tương tác thân
thiện giữa các bạn cùng nhóm, luôn có thái độ hỗ trợ, tương trợ lẫn nhau. Tăng
cường tính tích cực, chủ động, linh hoạt hơn và học sinh thật sự tham gia vào
quá trình chiếm lĩnh kiến thức.
+ Tuy nhiên để HS dễ nhớ, dễ vận dụng và thuận tiện cho GV trong tổ chức
trong hoạt động tự học, HS thực hiện triệt để 10 bước học tập như đã quy định.
Với hình thức học nhóm trong quá trình học tập, học sinh có nhiều cơ hội độc
lập suy nghĩ, bộc lộ ý kiến riêng khi làm việc cá nhân và có nhiều cơ hội phát
huy năng lực hợp tác khi học nhóm, được tranh luận, tự đánh giá bản thân và
đánh giá các bạn. Học sinh đã quen với học nhóm; tự điều khiển hoạt động trong
nhóm từ đó đã giúp HS có ý thức để chủ động trong học tập. Học sinh đã thể
hiện được khả năng của mình khi điều khiển nhóm. Một điều dễ nhận thấy, đó là
HS đã mạnh dạn, linh hoạt và sáng tạo hơn trong học tập, tư duy độc lập, hợp tác
để phát hiện chiếm lĩnh kiến thức bài học trên lớp.
Cụ thể các hình thức học có hiệu quả nhất:
- Trải nghiệm: Học qua thực tế, học từ những kinh nghiệm thông qua việc làm
và qua khám phá tìm tòi của các em.
- Giao tiếp: Thông qua trao đổi, tranh luận các em có thể chia sẻ cho nhau
những gì mình biết được, học được và cách học của mình cho bạn bè. “ Học
thầy không tày học bạn”
- Học qua tương tác: ( Sự qua lại) Chia sẻ với bạn bè những kinh nghiệm của
mình và học kinh nghiệm từ bạn bè cũng như người lớn.

- Rút kinh nghiệm: Sau những lần thất bại, các em cố gắng làm lại lần nữa,
lần sau sẻ tốt hơn lần trước và các em có thể áp dụng vào các tình huống khác.
16


* Một vài ví dụ cụ thể về cách học của học sinh theo mô hình VNEN.
Ví dụ 1 : Khi dạy bài 24C trang 82 (Hướng dẫn học TViệt 3 tập 2A)
Hoạt động cơ bản.
Hoạt động 5. Mỗi em đọc một đoạn.Tiếp nối nhau đến hết bài.
Hoạt động 6. Thảo luận và trả lời câu hỏi:
a) Thủy làm những gì để chuẩn bị vào phòng thi ? ( Đọc đoạn 1)
b) Cử chỉ, nét mặt của Thủy khi kéo đàn thể hiện điều gì ? ( Đoạn 2 )
Hoạt động 7: Thi viết nhanh ý kiến của nhóm.
Đến góc học tập lấy bảng nhóm đã kẻ sẵn.
a) Điền các từ ngữ tả tiếng đàn của Thủy : ..............................................
b) Những nét đẹp của thiên nhiên khi có tiếng đàn của Thủy :
- Hoa mười giờ : ..................................................................................
- Chim bồ câu : ....................................................................................
Mỗi nhóm tìm các từ ngữ thích hợp để viết nhanh vào bảng nhóm kẻ sẵn.
Như vậy nhóm trưởng điều hành các bạn trong nhóm mình tìm được các từ
ngữ, nhanh, đúng ghi vào bảng. Khi hết thời gian quy định các nhóm treo bảng
lên và tự báo cáo kết qủa của nhóm mình so sánh với nhóm bạn và các em tự
đánh giá kết quả học tập của nhóm mình để tiết sau điều chỉnh tốt hơn.
Ví dụ 2 : Toán Lớp 3: Tập 1 (Tiết 1 - Hoạt động cơ bản ) VNEN
Bài 8: Chia số có hai chữ số cho số có một chữ số.
Hoạt động 3
Giáo viên phát cho 5 nhóm 5 ngôi sao lớn khác màu Xanh; Đỏ; Vàng; Tím;
Nâu; Cùng mỗi nhóm 5 ngôi sao nhỏ khác màu Xanh; Đỏ; Vàng; Tím; Nâu;
nhóm trưởng chia nhóm sao nhỏ cho các bạn trong nhóm. Khi nghe hiệu lệnh cô
giáo giao em nào có sao cùng màu với sao lớn thì ngồi vào cùng 1 nhóm khi đi

đến nhóm của mình cả lớp hát: « Năm cánh sao ». Hát khi nào các bạn ngồi
xuống ghế thì dừng lại.
Nhóm trưởng phát phiếu cho bạn 2 bạn mỗi phiếu thi làm theo cặp đôi ai nhanh
ai đúng. 84 : 4

63 : 3

17


Các nhóm đôi tự làm, GV đi kiểm tra giúp đỡ những em có thẻ cứu trợ hay còn
yếu. Hỏi HS vì sao em là được kết quả như vậy ? Hay muốn chia số có hai chữ
số cho số có một chữ số ta làm như thế nào ? Đại diện nhóm báo cáo tại nhóm.
* Biện pháp 4: Chỉ đạo đánh giá động viên khuyến khích học sinh kịp thời:
Việc kiểm tra đánh giá kết quả học tập của học sinh phải được xem như là một
bộ phận không chỉ của cả quá trình dạy học mà là một bộ phận của mỗi hoạt
động học tập. Kiểm tra đánh giá phải được tiến hành thường xuyên, liên tục
ngay trong quá trình thực hiện mỗi hoạt động học tập để kịp thời khuyến khích,
động viên và nhất là giúp các em điều chỉnh những sai sót để hoạt động học tập
có hiệu quả. Để đánh giá học sinh học theo mô hình VNEN giáo viên cần kết
hợp hai hình thức đánh giá: Đánh giá thường xuyên và đánh giá định kì. Việc
đánh giá hoạt động chủ yếu do học sinh thực hiện, học sinh tự đánh giá. Có
những hoạt động học sinh tự đánh giá trong cặp, trong nhóm bằng cách đổi bài
cho nhau để cùng rà soát xem kết quả nào đúng và đủ, kết quả nào chưa đúng và
còn thiếu. Có những hoạt động HS tự đánh giá chéo giữa các nhóm. Có những
hoạt động học sinh cùng giáo viên đánh giá theo những tiêu chí GV đã nêu. Giáo
viên luôn tạo điều kiện cho HS tự đánh giá lẫn nhau trong học tập, để từ đó các
em thấy được những việc làm đúng và việc làm sai, những điều mình cần phải
học tập bạn để phát huy và khắc phục. Không nên chê các em trước các bạn khi
các em mắc phải những khuyết điểm như bài làm sai, chữ viết chưa đẹp…

IV. KIỂM NGHIỆM:
Trong một khoảng thời gian không dài, với cách chỉ đạo dạy theo các biện
pháp nêu trên, tôi thấy kết quả khả quan. Học sinh hứng thú học tập tích cực
hơn, mạnh dạn tự tin hơn khi thảo luận bài trong nhóm, chia sẻ và thể hiện các
kỹ năng thành thạo hơn…
Kết quả, chất lượng học sinh tính đến giữa kỳ 2 năm học 2016 – 2017:
Môn

Tổng số

Số HS dự kiểm tra

Hoạt động giáo dục
Hoàn thành
Chưa hoàn thành

Toán

HS
40

40

40

0

T Việt

40


40

40

0

18


Tổng số HS
Số HS kiểm tra
Đạt
Chưa đạt
Năng lực
40
40
40
0
Phẩm chất
40
40
40
0
Kết quả trên so với kết quả thực trạng cho thấy, những biện pháp mà tôi áp
dụng chỉ đạo giáo viên trong quá trình tổ chức dạy học theo mô hình VNEN
phần nào đạt hiệu quả rõ rệt trong công tác dạy học theo mô hình VNEN. Để
việc tổ chức dạy học theo mô hình VNEN đạt kết quả cao, giáo viên phải biết
kết hợp các biện pháp và sử dụng có hiệu quả, có hệ thống kế hoạch đã vạch ra.
Từ kết quả thực nghiệm trên, tôi tiếp tục chỉ đạo nhân rộng các biện pháp trên

trong mô hình dạy học VNEN trong thời gian tiếp theo để nâng cao chất lượng
dạy học theo mô hình trường học mới (GPE - VNEN) đạt hiệu quả trong trường
Tiểu học.
C. KẾT LUẬN VÀ ĐỀ XUẤT
1. Kết luận:
Qua thực tế chỉ đạo giáo viên vận dụng và đổi mới phương pháp dạy học theo
mô hình trường mới ( GPE-VNEN) nói trên, bản thân tôi nhận thấy việc đổi mới
phương pháp dạy học ở trường Tiểu học nói chung và các khối lớp dạy theo mô
hình trường học kiểu mới nói riêng là rất cần thiết. Qua quá trình thực hiện đã
mang lại những kết quả tốt đẹp. Giáo viên sử dụng linh hoạt các phương pháp và
kỹ thuật dạy học nên đã phát huy được tính tích cực, chủ động, tinh thần hợp
tác, chia sẻ để cùng nhau tìm tòi, khám phá kiến thức trong học sinh. Học sinh
luôn tự lập, tự khám phá, tự chiếm lĩnh tri thức, hình thành năng lực tự học,
năng lực sáng tạo. Các em phát triển tốt các kỹ năng sống như kỹ năng giao tiếp,
kỹ năng ứng xử, kỹ năng lắng nghe, kỹ năng phản hồi...Tạo được một môi
trường học tập thân thiện, vui vẻ, thoải mái. Chất lượng học tập ngày càng cao.
2. Đề xuất:
2.1. Đối với các cấp quản lý giáo dục : - Cần tư vấn với các cấp có thẩm quyền
để áp dụng rộng rãi (có điều chỉnh cho phù hợp hơn với từng vùng miền) mô
hình VNEN vì nó thực sự phù hợp hơn với xu thế phát triển của xã hội hiện nay.
2.2. Đối với nhà trường:
19


-Tăng cường tham mưu, hỗ trợ về cơ sở vật chất, trang thiết bị dạy học, đồ
dùng dạy học nhằm nâng cao chất lượng giáo dục toàn diện.
- Tổ chức cho CB, GV thăm quan học hỏi các mô hình tiên tiến trong và ngoài
Tỉnh.
Trên đây là những biện pháp của bản thân trong quá trình nghiên cứu và thực
nghiệm, chắc chắn vẫn không tránh khỏi những thiếu sót. Tôi mong rằng sẽ

được các đồng nghiệp, các cấp lãnh đạo giúp đỡ, góp ý để bản sáng kiến hoàn
thiện hơn, từng bước nâng cao chất lượng giáo dục toàn diện trong nhà trường
Tiểu học.
Xin chân thành cảm ơn!
Thọ Xuân, ngày 15 tháng 5 năm 2017

XÁC NHẬN CỦA THỦ TRƯỞNG ĐƠN VỊ

Tôi xin cam đoan đây là SKKN của
mình viết, không sao chép của người khác.

Người viết

MỤC LỤC
PHẦN
1. Đặt vấn đề

NỘI DUNG
I. Cơ sở lí luận

TRANG
1
20


2. Giải quyết vấn II. Thực trạng

3

đề


6

III. Các Biện pháp và tổ chức thực hiện

Biện pháp 1: Chỉ đạo xây dựng lớp học thân 6
thiện.
Biện pháp 2: Chỉ đạo đổi mới phương pháp dạy 12
của giáo viên.
Biện pháp 3: Chỉ đạo đổi mới về cách học của 15
học sinh.
Biện pháp 4: Chỉ đạo đánh giá động viên khuyến 18
khích học sinh kịp thời.
IV. Kiểm nghiệm

19

1. Kết luận

20

3. Kết luận và đề 2. Đề xuất.

20

xuất

21




×