Tải bản đầy đủ (.doc) (27 trang)

skkn một số biện pháp trong công tác chủ nhiệm lớp tiểu học

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (4.82 MB, 27 trang )

UBND THỊ XÃ CHÍ LINH
PHÒNG GIÁO DỤC VÀ ĐÀO TẠO

BẢN MÔ TẢ SÁNG KIẾN
Một số biện pháp trong công tác chủ nhiệm lớp 4
Lĩnh vực: Công tác chủ nhiệm

Năm học 2014 – 2015


I. THÔNG TIN CHUNG VỀ SÁNG KIẾN
1. Tên sáng kiến: Một số biện pháp trong công tác chủ nhiệm lớp
2. Lĩnh vực áp dụng sáng kiến: Đề tài áp dụng cho các thầy cô làm chủ nhiệm
lớp.
3. Tác giả:
Họ và tên:

Nguyễn Thị Mai Phương

Nữ

Ngày tháng/năm sinh: 10/01/1975
Trình độ chuyên môn: Cao đẳng sư phạm
Chức vụ, đơn vị công tác: Giáo viên trường Tiểu học Cộng Hòa
Điện thoại: 0982528911
4. Đồng tác giả: Không.
5. Chủ đầu tư tạo ra sáng kiến: Trường Tiểu học Cộng Hòa – Chí Linh – Hải
Dương.
Điện thoại: 03203882666
6. Đơn vị áp dụng sáng kiến lần đầu: Trường Tiểu học Cộng Hòa– Chí Linh –
Hải Dương.


Điện thoại: 03203882666
7. Các điều kiện cần thiết để áp dụng sáng kiến: Có sự quan tâm chỉ đạo của
Ban giám hiệu, tổ chuyên môn, sự tâm huyết nhiệt tình của giáo viên, sự ham
học hỏi của học sinh.
8. Thời gian áp dụng sáng kiến: Sáng kiến tích lũy dần qua các năm học.

- Hoàn thành tháng 3 năm học 2014 - 2015
TÁC GIẢ

XÁC NHẬN CỦA ĐƠN VỊ ÁP DỤNG
SÁNG KIẾN

Nguyễn Thị Mai Phương
II.TÓM TẮT SÁNG KIẾN
2


1. Hoàn cảnh nảy sinh sáng kiến:
Chúng ta đang sống trong thời đại mà trí tuệ con được coi là tài sản quý báu
tạo nên mặt bằng cao về dân trí. Trong đó giáo dục đóng vai trò quan trọng để
thực hiện mục tiêu chiến lược quốc gia "Phát triển giáo dục nhằm nâng cao dân
trí, đào tạo nhân lực, bồi dưỡng nhân tài đào tạo những con ngửời có kiến thức
văn hoá, khoa học kỹ thuật, lao động tự chủ, sáng tạo và có kỷ luật, giàu lòng
nhân ái, yêu nửớc, sống lành mạnh đáp ứng được những yêu cầu phát triển đất
nửớc". Muốn học tập và làm theo tấm gương đạo đức Hồ Chí Minh, thực hiện
theo lời dạy của Bác trong sự nghiệp giáo dục thì học sinh phải tích cực chủ
động , gia đình và xã hội phải quan tâm đúng mức, người giáo viên (đặc biệt là
giáo viên chủ nhiệm lớp) phải chủ đạo phối kết hợp thúc đẩy các hoạt động tích
cực trong các mối quan hệ này.
Cùng với yêu cầu nhiệm vụ của thời đại, người giáo viên hơn bao giờ hết

cần thể hiện rõ đửợc vai trò của mình trong nhiệm vụ mới. Ngay trong thời
điểm năm học này: các trường tiểu học có sự đổi mới áp dụng mô hình dạy học
VNEN, Thông tư 30 đổi mới trong việc đánh giá học sinh,...trọng trách của
giáo viên chủ nhiệm lớp lại tăng thêm. Người góp phần vào việc đào tạo cho
đất nước trong tương lai một lớp nhân lực nhiệt tình trong lao động, sống có
trách nhiệm, giàu lòng yêu thương con người, có chí cầu tiến vươn lên trong
cuộc sống . Bản thân tôi có giải pháp giúp các em có ý thức tự giác học tập tích
cực, có ý chí vươn lên trong học tập, lĩnh hội các kiến thức kĩ năng cơ bản của
cấp học làm nền tảng để tự tin bước tiếp các bậc học sau.
Để phát huy vai trò sức mạnh của thầy và trò trong việc thực hiện mục
tiêu của nhà trửờng, tôi tiến hành nghiên cứu vấn đề giáo dục học sinh phát
triển toàn diện thông qua công tác chủ nhiệm lớp, xây dựng tập thể lớp thành
một tập thể đoàn kết, sáng tạo có năng lực, có hiệu quả. Đó cũng là lý do tôi đã
nghiên cứu và đưa ra sáng kiến: Một số biện pháp trong công tác chủ nhiệm
lớp .
2. Điều kiện, thời gian, đối tượng áp dụng sáng kiến
Thời gian nghiên cứu: + Tích lũy dần qua các năm học.
3


+ Hoàn thành tháng 3 năm học 2014 - 2015
Đối tượng áp dụng nghiên cứu: Giáo viên trong trường Tiểu học.
3. Nội dung sáng kiến: Công việc của giáo viên chủ nhiệm lớp là vô vàn,
không thể thống kê hết được. Theo lựa chọn của tôi có bốn nội dung cần đặc
biệt quan tâm khi làm giáo viên chủ nhiệm:
- Xây dựng đội ngũ cán bộ lớp tốt.
- Hình thành nề nếp nghiêm túc cho học sinh.
- Quản lí tốt việc học tập của học sinh.
- Tạo uy tín của giáo viên chủ nhiệm.
Tính mới, tính sáng tạo của sáng kiến: Kết quả học tập của học sinh ngày

càng tiến bộ rõ rệt. Các em ngày càng chăm ngoan, sống hòa động, năng động,
mạnh dạn hơn trong học tập và giao tiếp. Tình cảm thầy- trò, bạn bè ngày càng
gắn bó và thân thiện .
4. Khẳng định giá trị, kết quả đạt được của sáng kiến
Đối với bản thân: Đây cũng chính là vấn đề tôi quan tâm trong suốt 20 năm
làm chủ nhiệm của mình, sự tích lũy lâu dài hữu ích cho bản thân, một hình
thức tự bồi dưỡng để trau dồi, nâng cao trách nhiệm của mỗi người giáo viên,
góp phần nâng cao chất lượng giáo dục toàn diện cho học sinh tiểu học.
Đối với đồng nghiệp: Đây cũng có thể là một tài liệu nhỏ để các đồng
nghiệp tham khảo, và áp dụng có chọn lọc nhằm thực hiện tốt công tác làm chủ
nhiệm lớp.
Đối với học sinh: Các em sẽ có hứng thú học tập. Các em thích được tới
lớp, tới trường và coi mỗi ngày đến trường là một ngày vui. Từ đó kết quả học
tập, giáo dục của học sinh cũng theo đó mà đi lên.
5. Đề xuất kiến nghị để thực hiện áp dụng hoặc mở rộng sáng kiến
Thiết nghĩ sáng kiến của tôi có thể áp dụng rộng rãi công tác chủ nhiệm lớp.
Mong nhận được những lời góp ý, nhận xét từ cán bộ quản lí nhà trường, từ
Ban Giám khảo của Phòng Giáo dục và từ các bạn đồng nghiệp, để tôi phát huy
những mặt mạnh, điều chỉnh, khắc phục những thiếu sót cho hoàn thiện hơn.
III. MÔ TẢ SÁNG KIẾN
4


1. Hoàn cảnh nảy sinh sáng kiến:
Bác Hồ đã từng dạy: "Vì lợi ích mười năm trồng cây, vì lợi ích trăm năm
trồng người". Câu nói của Bác đã thấm nhuần vào đường lối của Đảng và nhà
nước ta. Hiện nay Đảng và nhà nước ta đã nêu ra việc phát triển toàn diện giáo dục toàn diện - đặc biệt là sự nghiệp “ trồng người ’’. Giáo dục – Đào tạo
luôn góp phần quan trọng đào tạo con người mới Xã hội chủ nghĩa “ vừa hồng,
vừa chuyên”. Tất cả những chủ chương đó không ngoài việc nhắm đáp ứng
mục tiêu giáo dục đào tạo thế hệ chủ nhân tương lai của đất nước có “đủ đức,

đủ tài” để có thể “sánh vai cùng với các cường quốc năm châu’’.
Vậy mỗi người giáo viên chủ nhiệm lớp phải có nhận thức hết sức đúng đắn
về vai trò của người thầy trong lớp học. Người giáo viên chủ nhiệm lớp cũng
như người chỉ huy ngoài chiến trường, muốn dành thắng lợi thì người đó phải
biết tổ chức, bao quát, xử lí các tình huống mới có được thắng lợi. Đối với
người giáo viên việc chỉ đạo, điều khiển lớp không chỉ dạy các em về kiến
thức, văn hoá mà còn dạy các em về nề nếp, cách sống, cách làm người và làm
chủ tương lai của đất nước. Vì vậy bản thân tôi đã chọn sáng kiến “Một số biện
pháp trong công tác chủ nhiệm lớp”.
2. Cơ sở lí luận của vấn đề:
Trước hết, mỗi thầy cô giáo trong trường tiểu học cần nắm được rõ đặc điểm
tâm sinh lý, khả năng tự học của trẻ, từ đó mới có thể tìm ra những biện pháp
thi đua nâng cao tính tự giác cho học sinh một cách phù hợp.
2.1. Hoạt động của học sinh tiểu học:
- Nếu như ở bậc mầm non hoạt động chủ đạo của trẻ là vui chơi, thì đến tuổi
tiểu học hoạt động chủ đạo của trẻ đã có sự thay đổi về chất: chuyển từ hoạt
động vui chơi sang hoạt động học tập. Tuy nhiên, song song với hoạt động học
tập ở các em còn diễn ra các hoạt động khác như:
2.1.1. Hoạt động vui chơi: Trẻ thay đổi đối tượng vui chơi từ chơi với đồ
vật sang các trò chơi vận động.
2.1.2.Hoạt động lao động: Trẻ bắt đầu tham gia lao động tự phục vụ bản
thân và gia đình như tắm giặt, nấu cơm, quét dọn nhà cửa,...Ngoài ra, trẻ còn
5


còn tham gia lao động tập thể ở trường lớp như trực nhật, trồng cây, trồng
hoa,...
2.1.3. Hoạt động xã hội: Các em đã bắt đầu tham gia vào các phong trào
của trường, của lớp và của cộng đồng dân cư, của Đội thiếu niên tiền phong,...
2.2. Những thay đổi kèm theo:

2.2.1. Trong gia đình: Các em luôn cố gắng là một thành viên tích cực, có
thể tham gia các công việc trong gia đình. Điều này được thể hiện rõ nhất trong
các gia đình neo đơn, hoàn cảnh, các vùng kinh tế đặc biệt khó khăn,...các em
phải tham gia lao động sản xuất cùng gia đình từ rất nhỏ.
2.2.2.Trong nhà trường: Do nội dung, tích chất, mục đích của các môn học
đều thay đổi so với bậc mầm non đã kéo theo sự thay đổi ở các em về phương
pháp, hình thức, thái độ học tập. Các em đã bắt đầu tập trung chú ý và có ý thức
học tập tốt.
2.2.3. Ngoài xã hội: Các em đã tham gia vào một số các hoạt động xã hội
mang tính tập thể (đôi khi tham gia tích cực hơn cả trong gia đình). Đặc biệt là
các em muốn thừa nhận mình là người lớn, muốn được nhiều người biết đến
mình.
Biết được những đặc điểm nêu trên, cần phải tạo điều kiện giúp đỡ trẻ phát
huy những khả năng tích cực của các em trong công việc gia đình, quan hệ xã
hội và đặc biệt là trong học tập.
2.3. Sự phát triển của quá trình nhận thức (sự phát triển trí tuệ):
2.3.1. Nhận thức cảm tính: Tri giác của học sinh tiểu học mang tính đại
thể, ít đi vào chi tiết và mang tính không ổn định: ở đầu tuổi tiểu học tri giác
thường gắn với hành động trực quan, đến cuối tuổi tiểu học tri giác bắt đầu
mang tính xúc cảm, trẻ thích quan sát các sự vật hiện tượng có màu sắc sặc sỡ,
hấp hẫn, tri giác của trẻ đã mang tính mục đích, có phương hướng rõ ràng - Tri
giác có chủ định (trẻ biết lập kế hoạch học tập, biết sắp xếp công việc nhà, biết
làm các bài tập từ dễ đến khó,...)

6


Nhận thấy điều này chúng ta cần phải thu hút trẻ bằng các hoạt động mới,
mang màu sắc, tính chất đặc biệt khác lạ so với bình thường, khi đó sẽ kích
thích trẻ cảm nhận, tri giác tích cực và chính xác.

2.3.2. Nhận thức lý tính:
- Tư duy: Tư duy mang đậm màu sắc xúc cảm và chiếm ưu thế ở tư duy
trực quan hành động. Các phẩm chất tư duy chuyển dần từ tính cụ thể sang tư
duy trừu tượng khái quát. Học sinh lớp 4, 5 bắt đầu biết khái quát hóa lý luận.
Tuy nhiên, hoạt động phân tích, tổng hợp kiến thức còn sơ đẳng ở phần đông
học sinh tiểu học.
- Tưởng tượng: Tưởng tượng của học sinh tiểu học đã phát triển phong phú
hơn so với trẻ mầm non nhờ có bộ não phát triển và vốn kinh nghiệm ngày
càng dầy dạn. Ở cuối tuổi tiểu học, tưởng tượng tái tạo đã bắt đầu hoàn thiện,
từ những hình ảnh cũ trẻ đã tái tạo ra những hình ảnh mới. Tưởng tượng sáng
tạo tương đối phát triển ở giai đoạn cuối tuổi tiểu học, trẻ bắt đầu phát triển khả
năng làm thơ, làm văn, vẽ tranh,.... Đặc biệt, tưởng tượng của các em trong giai
đoạn này bị chi phối mạnh mẽ bởi các xúc cảm, tình cảm, những hình ảnh, sự
việc, hiện tượng đều gắn liền với các rung động tình cảm của các em.
Vì thế, cần hiểu rõ để tìm biện pháp phát triển tư duy và trí tưởng tượng của
các em bằng cách biến các kiến thức "khô khan" thành những hình ảnh có cảm
xúc, đặt ra cho các em những câu hỏi mang tính gợi mở, thu hút các em vào các
hoạt động nhóm, hoạt động tập thể để các em có cơ hội phát triển quá trình
nhận thức lý tính của mình một cách toàn diện.
2.4. Ngôn ngữ và sự phát triển nhận thức của học sinh tiểu học:
Hầu hết học sinh tiểu học có ngôn ngữ nói thành thạo. Nhờ có ngôn ngữ
phát triển mà trẻ có khả năng tự đọc, tự học, tự nhận thức thế giới xung quanh
và tự khám phá bản thân thông qua các kênh thông tin khác nhau. Ngôn ngữ có
vai trò hết sức quan trọng như vậy nên các nhà giáo dục phải trau dồi vốn ngôn
ngữ cho trẻ trong giai đoạn này bằng cách hướng hứng thú của trẻ vào các loại
sách báo có lời và không lời, có thể là sách văn học, truyện tranh, truyện cổ
tích, báo nhi đồng,....đồng thời cũng có thể kể cho trẻ nghe hoặc tổ chức các
7



cuộc thi kể truyện đọc thơ, viết báo, viết truyện, dạy trẻ cách viết nhật kí,...Tất
cả đều có thể giúp trẻ có được một vốn ngôn ngữ phong phú và đa dạng.
2.4.1. Chú ý và sự phát triển nhận thức của học sinh tiểu học:
Ở cuối tuổi tiểu học trẻ dần hình thành kĩ năng tổ chức, điều chỉnh chú ý của
mình. Chú ý có chủ định phát triển dần và chiếm ưu thế, ở trẻ đã có sự nỗ lực
về ý chí trong hoạt động học tập như học thuộc một bài thơ, một công thức toán
hay một bài hát dài,...Trong sự chú ý của trẻ đã bắt đầu xuất hiện giới hạn của
yếu tố thời gian, trẻ đã định lượng được khoảng thời gian cho phép để làm một
việc nào đó và cố gắng hoàn thành công việc trong khoảng thời gian quy định.
Biết được điều này các nhà giáo dục nên giao cho trẻ những công việc hay
bài tập đòi hỏi sự chú ý của trẻ và nên giới hạn về mặt thời gian. Chú ý áp dụng
linh động theo từng độ tuổi và chú ý đến tính cá thể của trẻ, điều này là vô cùng
quan trọng và ảnh hưởng trực tiếp đến kết quả giáo dục trẻ.
2.4.2. Trí nhớ và sự phát triển nhận thức của học sinh tiểu học:
Loại trí nhớ trực quan hình tượng chiếm ưu thế hơn trí nhớ từ ngữ - logic.
Giai đoạn lớp 4: ghi nhớ có ý nghĩa và ghi nhớ từ ngữ được tăng cường. Ghi
nhớ có chủ định đã phát triển. Tuy nhiên, hiệu quả của việc ghi nhớ có chủ định
còn phụ thuộc vào nhiều yếu tố như mức độ tích cực tập trung trí tuệ của các
em, sức hấp dẫn của nội dung tài liệu, yếu tố tâm lý tình cảm hay hứng thú của
các em...
Nắm được điều này, các nhà giáo dục phải giúp các em biết cách khái quát
hóa và đơn giản mọi vấn đề, giúp các em xác định đâu là nội dung quan trọng
cần ghi nhớ, các từ ngữ dùng để diễn đạt nội dung cần ghi nhớ phải đơn giản dễ
hiểu, dễ nắm bắt, dễ thuộc và đặc biệt phải hình thành ở các em tâm lý hứng
thú và vui vẻ khi ghi nhớ kiến thức.
2.4.3. Ý chí và sự phát triển nhận thức của học sinh tiểu học:
Đến cuối tuổi tiểu học các em đã có khả năng biến yêu cầu của người lớn
thành mục đích hành động của mình, tuy vậy năng lực ý chí còn thiếu bền
vững, chưa thể trở thành nét tính cách của các em. Việc thực hiện hành vi vẫn
chủ yếu phụ thuộc vào hứng thú nhất thời.

8


Để bồi dưỡng năng lực ý chí cho học sinh tiểu học đòi hỏi ở nhà giáo dục sự
kiên trì bền bỉ trong công tác giáo dục, muốn vậy thì trước hết mỗi bậc cha mẹ,
thầy cô phải trở thành tấm gương về nghị lực trong mắt trẻ.
2.4.4. Sự phát triển tình cảm của học sinh tiểu học:
Tình cảm của học sinh tiểu học mang tính cụ thể trực tiếp và luôn gắn liền
với các sự vật hiện tượng sinh động, rực rỡ,...Lúc này khả năng kiềm chế cảm
xúc của trẻ còn non nớt, trẻ dễ xúc động và cũng dễ nổi giận, biểu hiện cụ thể là
trẻ dễ khóc mà cũng nhanh cười, rất hồn nhiên vô tư... Vì thế có thể nói tình
cảm của trẻ chưa bền vững, dễ thay đổi.
Chính vì thế, việc giáo dục tình cảm cho học sinh tiểu học cần ở nhà giáo
dục sự khéo léo, tế nhị khi tác động đến các em; nên dẫn dắt các em đi từ hình
ảnh trực quan sinh động, hấp dẫn và đặc biệt phải luôn chú ý củng cố tình cảm
cho các em thông qua các hoạt động cụ thể như trò chơi nhập vai, đóng các tình
huống cụ thể, các hoạt động tập thể ở trường lớp, khu dân cư,...
2.4.5 Sự phát triển nhân cách của học sinh tiểu học:
Nhìn chung việc hình thành nhân cách của học sinh tiểu học mang những
đặc điểm cơ bản sau: Nhân cách của các em lúc này mang tính chỉnh thể và hồn
nhiên, trong quá trình phát triển trẻ luôn bộc lộ những nhận thức, tư tưởng, tình
cảm, ý nghĩ của mình một cách vô tư, hồn nhiên, thật thà và ngay thẳng; nhân
cách của các em lúc này còn mang tính tiềm ẩn, những năng lực, tố chất của
các em còn chưa được bộc lộ rõ rệt, nếu có được tác động thích ứng chúng sẽ
bộc lộ và phát triển; và đặc biệt nhân cách của các em còn mang tính đang hình
thành, việc hình thành nhân cách không thể diễn ra một sớm một chiều, với học
sinh tiểu học còn đang trong quá trình phát triển toàn diện về mọi mặt vì thế mà
nhân cách của các em sẽ được hoàn thiện dần cùng với tiến trình phát triển của
mình.
Hiểu được những điều này mà cha mẹ hay thầy cô giáo tuyệt đối không

được "chụp mũ" nhân cách của trẻ, trái lại phải dùng những lời lẽ nhẹ nhàng
mang tính gợi mở và chờ đợi, phải hướng trẻ đến với những hình mẫu nhân

9


cách tốt đẹp mà không đâu xa, chính cha mẹ và thầy cô là những hình mẫu
nhân cách ấy.
3. Thực trạng vấn đề:
3.1.

Khó khăn chung trong các trường tiểu học:

3.1.1. Học sinh lớp 4 là học sinh gần cuối cấp ở tiểu học. Ở lứa tuổi này các
em có nhiều thay đổi về nhận thức, về tâm sinh lí, tình cảm ...Có em phát triển
sớm đã ở ngưỡng cửa của tuổi dậy thì. Ở giai đoạn này các em dễ bị lôi kéo, dụ
dỗ, bị xâm hại. Mà trong khi đó các em vẫn chưa có đủ khả năng để tự bảo vệ
mình. Vì vậy , các em rất cần được giáo dục và rèn luyện kĩ năng sống để tự tin
trong học tập, trong giao tiếp.
3.1.2. Năm học áp dụng Thông tư số 30/2014/TT-BGDĐT quy định việc
đánh giá học sinh (HS) tiểu học được chuyển từ điểm số sang nhận xét trong
đánh giá thường xuyên và áp dụng dạy học mới.
3.1.3. Hiện nay ở một số trường học công tác chủ nhiệm lớp ở một số thầy
cô còn chưa đạt được hiệu quả cao về nề nếp, công tác tổ chức lớp học và các
hoạt động khác. Có những thầy cô về chuyên môn rất chắc chắn, có năng lực,
nhiệt tình giảng dạy nhưng về công tác chủ nhiệm thì chưa có sự sáng tạo, mềm
dẻo nên ít nhiều cũng ảnh hưởng tới sự phát triển toàn diện của các em học
sinh.
3.2.


Những thuận lợi và khó khăn của lớp:

3.2.1. Thuận lợi :
Năm học 2014 – 2015, tôi được phân công dạy lớp 4. Sĩ số của lớp là 35 em,
trong đó có 16 em nữ. Về thành phần gia đình, đa số là dân địa phương, chỉ có
vài em mới từ nơi khác chuyển đến, do đó, việc liên lạc giữa gia đình và nhà
trường tương đối thuận tiện. Lớp tôi học 2 buổi/ ngày nên thời gian để tôi và
các em ở bên cạnh nhau rất nhiều. Ngoài những giờ học tập chính, tôi luôn có
nhiều điều kiện để quan sát các em giao tiếp với bạn bè, vui chơi, hoạt động
ngoại khoá, tham gia phong trào, .... Thông qua những việc làm cụ thể, tôi có
thể nắm được tâm tư, tình cảm và nguyện vọng của các em và có những điều
chỉnh những hành vi không đúng của các em một cách kịp thời, triệt để.
10


3.2.2. Khó khăn:
Đa phần các em trong lớp đều là con em nông dân phải thường xuyên bận
bịu đi làm. Kiến thức các em càng lên lớp cao càng khó, nhiều phụ huynh
không thể kèm được con nên còn phó mặc con em họ cho thầy cô, cho nhà
trường . Trong đó có 2 em học sinh thuộc hộ nghèo, 3 em học sinh đã mất bố
(hoặc mẹ), 3 em bố (mẹ) đi làm ăn ở xa (nước ngoài), ở chung với ông (bà) đã
cao tuổi. Một số em nam thì còn hiếu động, nghịch ngợm, hay chêu các bạn nữ.
Có em thì nhút nhát quá nên luôn là tâm điểm cho các bạn khác chêu đùa mà
chỉ biết khóc, đôi khi còn tè dầm tại chỗ.
4. Các giải pháp, biện pháp thực hiện:
4.1. Giải pháp:
4.1.1.Từ thực trạng đã nêu trên, giáo viên chủ nhiệm lớp hết sức quan trọng
trong việc hướng dẫn, chỉ đạo lớp và đào tạo thế hệ trẻ theo mục đích giáo dục
toàn diện. Người giáo viên chủ nhiệm lớp đóng rất nhiều vai trò: vừa là thầy
dạy học vừa là người cha, người mẹ và cũng có lúc phải là người bạn tốt nhất

của các em. Từ đó có thể uốn nắn các em đi theo quỹ đạo của mình. Giáo viên
có chỉ đạo, quản lí lớp tốt thì mới dẫn đến việc giảng dạy tốt. Khi mọi hoạt
động của lớp đã đi vào nề nếp thì việc học tập của các em chắc chắn sẽ tốt hơn.
Đã nhiều năm làm giáo viên chủ nhiệm lớp, phần nào đã có chút ít kinh nghiệm
nhưng tôi vẫn thấy công việc của một giáo viên chủ nhiệm lớp ở tiểu học là rất
nặng nhọc, rất phức tạp. Mỗi giáo viên muốn làm tốt công tác chủ nhiệm thì
phải vừa là một giáo viên giỏi về chuyên môn, vừa phải là một nhà tâm lí giỏi
để hiểu học sinh, để xử lí các tình huống rắc rối sao cho khéo léo, tế nhị và đạt
hiệu quả giáo dục cao. Nếu giáo viên không tâm huyết với nghề, không có tinh
thần trách nhiệm cao thì khó mà hoàn thành nhiệm vụ. Chất lượng học tập của
học sinh, nhân cách, đạo đức, lối sống…của học sinh rồi sẽ ra sao? Chính vì
hiểu rõ điều đó nên trong những năm học qua, song song với việc giảng dạy tốt
các môn học theo qui định, tôi luôn cố gắng phấn đấu làm tốt vai trò, nhiệm vụ
của một giáo viên chủ nhiệm lớp.

11


Ngoài ra, không thể không xét đến sự khác nhau cơ bản giữa lượng kiến
thức ở giai đoạn đầu lớp 1-2-3 và giai đoạn lớp 4 đã thật sự gây một “cú sốc”
lớn đối với các bậc cha mẹ và chính các em. Nếu như ở các lớp học trước, số
lượng môn học chỉ ở Toán, Tiếng Việt, TNXH và một số bộ môn nghệ thuật
khác, các em dễ dàng vươn đến danh hiệu học sinh giỏi cuối năm học; đến lớp
4, ngoài hai môn chính, các em còn buộc phải học thuộc và nắm vững kiến thức
các phân môn Khoa học, Lịch sử, Địa lí. Từ những năm học trước, nhiều em
đạt danh hiệu Giỏi, Tiên tiến nhưng khi lên lớp 4 hàng loạt học sinh tuột tay
khỏi danh hiệu học sinh Giỏi, thậm chí là học sinh Tiên tiến vì lượng kiến thức
quá nhiều. Điều này dẫn đến cha mẹ các em hoang mang, lo lắng. Chính các
em cũng đang bị choáng ngợp và loay hoay với hướng học tập mới. Năm học
2014-2015, trung tuần tháng 10/2014 trên toàn quốc áp dụng Thông tư

30...đánh giá học sinh có sự đổi mới, điểm nổi bật là không chấm điểm và
không giao bài tập về nhà. Cấm học thêm theo mọi hình thức vì vậy gây ít
nhiều lo lắng cho cả phụ huynh, giáo viên và học sinh...
4.1.2. Công việc của giáo viên chủ nhiệm lớp là vô vàn, không thể thống kê
hết được. Theo lựa chọn của tôi có bốn nội dung cần đặc biệt quan tâm khi làm
giáo viên chủ nhiệm:
- Xây dựng đội ngũ cán bộ lớp tốt.
- Hình thành nề nếp nghiêm túc cho học sinh.
- Quản lí tốt việc học tập của học sinh.
- Tạo uy tín của giáo viên chủ nhiệm.
4.2. Các biện pháp thực hiện:
Có thể nói, việc hướng các em đến khả năng tự giác trong mọi hoạt động
học tập, sinh hoạt, vui chơi, v.v.... đều đòi hỏi rất nhiều thời gian từ khâu chuẩn
bị, triển khai, giám sát, kiểm tra đến khen thưởng (trách phạt nếu có). Từ đó, tôi
đã thực hiện các biện pháp theo trình tự sau:
4.2.1: Xây dựng đội ngũ cán bộ lớp tốt.
4.2.1.1.Tôi tự đặt câu hỏi :“Đội ngũ cán bộ lớp gồm những thành phần nào ?
Nếu bạn được giao chủ nhiệm một lớp mình sẽ tìm bằng những cách nào?” Tôi
12


đã chú ý đến kĩ năng quan sát của giáo viên chủ nhiệm và thông qua bản sơ yếu
lí lịch, tôi có thể hiểu rõ phần nào hoàn cảnh gia đình, môi trường sống của em,
mức độ quan tâm của gia đình dành cho em. Từ đó, có sự quan tâm sát sao,
uốn nắn kịp thời.
GIỚI THIỆU BẢN THÂN
1. Họ và tên:……………………………………………………………..
2. Là con thứ……trong gia đình.
3. Hoàn cảnh gia đình (khá giả, đủ ăn, nghèo)............................................
4. Kết quả học tập năm lớp 3: (Giỏi, Tiên tiến, trung bình)........................

5. Môn học yêu thích:..................................................................................
6. Môn học cảm thấy khó:...........................................................................
7. Góc học tập ở nhà: (Có, không)..............................................................
8. Những người bạn thân nhất trong lớp:....................................................
....................................................................................................................
9. Sở thích:..................................................................................................
10. Địa chỉ gia đình: ...................................................................................
Số điện thoại của gia đình:......................................................................
4.2.1.2. Áp dụng hình thức dạy học theo mô hình VNEN: Coi quá trình tự
học của học sinh là trung tâm hoạt động giáo dục, giáo viên là người hướng
dẫn, đồng hành với học sinh, giúp học sinh tự tìm hiểu và lĩnh hội kiến thức.
Chọn lựa được một Chủ tịch Hội đồng tự quản và các Phó chủ tịch cùng
các trưởng Ban năng động, có ý thức trách nhiệm cao không chỉ đem lại nhiều
lợi ích cho tập thể mà còn giúp đỡ phần nào gánh nặng công việc cho giáo viên
chủ nhiệm. Điều đáng bất ngờ ở đây là: Thường ngày một số em hiếu động hay
nhút nhát là thế mà thông qua hoạt động này các em rất hăng hái dơ tay để
mình được giới thiệu nhân sự, người bạn mà mình yêu quý. Đặc biệt có em cò
mạnh dạn xin ra ứng cử. Khi bình chọn đủ số người vào tranh cử thì với những
bài hùng biện mà các em phát biểu trước lớp thật hồn nhiên nhưng mang đậm
tính chất ngây thơ trong sáng của tuổi học trò “ Nếu được bình chọn làm Chủ
tịch hội đồng tự quản tớ sẽ đãi các bạn mỗi người một gói bim bim.” Hoặc “
13


Nếu các bạn chọn mình là Chủ tịch Hội đồng tự quản mình sẽ rất vui, mình sẽ
cố gắng hết mình làm hết tất cả những gì mang lại niềm vui cho các bạn…”
Thiết nghĩ: Một Chủ tịch Hồi đồng tự quản tốt không nhất thiết là người đã
từng làm ban cán sự lớp, cũng không phải là học sinh học giỏi nhất lớp tuy rằng
điều đó sẽ thuận lợi hơn, mà trước tiên phải là người năng nổ, biết cách điều
hành hoạt động tập thể, biết sẻ chia và sẵn sàng làm việc vì tập thể....

- Qua hoạt động này tôi thấy các em tham gia rất hào hứng, lớp đã bình
chọn được Chủ tịch và Phó chủ tịch Hội đồng tự quản và các Trưởng ban dựa
trên sự hùng biện của các bạn mang lại quyền lợi cho tập thể lớp. Kết hợp với
Hộp thư Điều em muốn nói (Có hình ảnh minh họa ở phần phụ lục). Hoạt
động này được tổ chức trong các tiết Sinh hoạt lớp cuối tuần. Điều mà các em
thích thú hơn nữa là được ghi ra giấy những ước mơ của mình, những tâm sự
nho nhỏ, những ý kiến thắc mắc, lời chúc dành cho thầy cô giáo, mà em ngại
nói trước đông người qua Hộp thư này. Đây là điều đổi mới mà tôi thấy tâm
đắc trong năm học này. Nó giúp học sinh mạnh dạn, tự tin, thân thiện hơn trong
giao tiếp hàng ngày.
4.2.2. Hình thành nề nếp nghiêm túc cho học sinh.
4.2.2.1. Nội dung thứ hai không kém phần quan trọng chính là quản lí tốt kỉ
luật của lớp học. Ngay từ đầu năm học tôi tổ chức cho học sinh trong lớp tự xây
dựng nội quy lớp học. Khi trong lớp có những vấn đề đặc biệt tôi hướng dẫn
học sinh trong lớp tổ chức các buổi sinh hoạt lớp theo chủ đề. Theo tôi thầy cô
chủ nhiệm có trách nhiệm theo dõi tình hình lớp học đồng thời nên phối hợp
với cha mẹ học sinh, giáo viên bộ môn và các bộ phận quản lý khác như Tổng
phụ trách Đội, bác bảo vệ, cô lao công để nắm bắt kịp thời những hoạt động
của học sinh để chọn phương án xử lý đúng đắn và công bằng.
4.2.2.2. Nên tạo cơ hội tối đa để cán bộ lớp tự tìm cách xử lí khi có những
tình huống bất thường trong lớp với mục đích làm cho nề nếp lớp học tốt lên
chứ không nên áp đặt cán bộ lớp phải thông báo cho giáo viên chủ nhiệm tất cả
lỗi của các bạn trong lớp. Tuy nhiên, có những cách xử lí của học sinh tuy

14


không phải lúc nào cũng phù hợp nhưng lại mang lại hiệu quả tốt hơn nhiều
việc áp đặt của giáo viên chủ nhiệm.
4.2.2.3.Vì các em đã có tinh thần kỉ luật tốt nên khi Nhà trường kết hợp Hội

cha mẹ học sinh tổ chức cho các em đi viếng nghĩa trang liệt sĩ, tham gia hoạt
động ngoại khóa Thăm Lăng Bác Hồ, Văn Miếu Quốc Tử Giám,..các em thực
hiện nghiêm túc, an toàn vui vẻ đạt được mục tiêu đề ra của lớp, của trường.
Đây cũng là một trong những mảng nổi bật mà năm nào nhà trường cũng thực
hiện giúp các em có tình cảm yêu quê hương đất nước, được tìm hiểu sâu hơn
về các nhân vật lịch sử và khám phá những điều mới lạ.
4.3. Quản lý tốt việc học tập của học sinh.
Ngoài sự kế tiếp các hoạt động học tập như các năm học trước thì ở năm học
này có sự đổi mới: Ngày 28.8.2014, Bộ GD-ĐT ban hành Thông tư số
30/2014/TT-BGDĐT quy định việc đánh giá học sinh (HS) tiểu học được
chuyển từ điểm số sang nhận xét trong đánh giá thường xuyên (hiệu lực thi
hành từ ngày 15.10.2014).
4.3.1. Ưu điểm của việc đánh giá HS theo Thông tư 30 là đối với những em
có học lực yếu hơn so với các bạn trong lớp không phải chịu áp lực, tự ti vì
thua sút bạn bè, ngược lại các em được khích lệ và động viên rất nhiều. Từ đó,
giúp các em có hướng phấn đấu, mặc dù là không bằng các bạn có học lực giỏi
nhưng đó là niềm tin để cho các em vươn lên trong học tập.
4.3.2. Bên cạnh đó cũng có những bất cập mà giáo viên và phụ huynh cũng
như học sinh còn gặp khó khăn trong quá trình đánh giá: GV phải chọn lọc từ
ngữ cô đọng, nổi bật, sử dụng những lời nhận xét vừa phải đúng với trình độ
HS, vừa phải phù hợp với từng em nhưng tránh chung chung, mơ hồ, và đảm
bảo rõ ràng để PH có thể theo dõi quá trình học của con em mình. Điều này đòi
hỏi GV phải tích cực, theo dõi sát sao hơn với HS trong lớp. Nhận xét trong vở
các em cũng không thể đọc được. Vì vậy GV phải tìm cách phối hợp với PH để
đánh giá. Bên cạnh đó, GV phải vận dụng cách dặn dò nhiều lần, yêu cầu các
em nhắc lại trước khi về để các em ghi nhớ. Để quản lý tốt việc học tập của học
sinh, tôi luôn khích lệ, động viên học sinh bằng lời nhận xét trong vờ ghi hay
15



trực tiếp bằng lời : “ Con làm bài rất tốt! Tích cực phát huy nhé! Con làm bài
gần đúng rồi, cẩn thận chút nữa là đúng kết quả. Tính lại giúp cô nhé! . Thầy
cô giáo viên chủ nhiệm không nên “tiết kiệm” lời khen dành cho học sinh của
mình. Học sinh lần trước kiểm tra chưa làm được bài, lần sau học có tiến bộ,
thuộc thêm một chút là khen rồi. Với những học sinh có kết quả chưa tốt giáo
viên chủ nhiệm cùng với học sinh trao đổi về nguyên nhân của điểm kém, đưa
ra giải pháp để tiến bộ hơn vào ngày mai. Nhưng bên cạnh đó cũng có rất nhiều
những ý kiến trái chiều ở các bậc phụ huynh . Họ thắc măc: “Đọc những lời
nhận xét trong vở của con, tôi không biết sức học con mình như thế nào để có
hướng nhắc nhở. Dù biết rằng, được nhận xét “tốt” đồng nghĩa với việc con
đạt 8 - 10 điểm, khá nghĩa là 6 - 7 điểm...Chúng tôi vẫn muốn thầy cô chấm
điểm sẽ khuyến khích học sinh phấn đấu học tập! Đó cũng chính là những chia
sẻ của phụ huynh .
4.3.3.Để các bậc phụ huynh hiểu rõ mà chính vì vậy trong cuộc họp phụ
huynh đầu năm , tôi đã trao đổi kĩ với phụ huynh về vấn đề này để họ làm quen
dần với cách đánh giá mới của con em mình. Bên cạnh đó, tôi cần chủ động
trao đổi với các giáo viên bộ môn để biết được tình hình học tập của học sinh
trong lớp và thể hiện sự hợp tác của mình với các đồng nghiệp. Mỗi tháng tôi
đều lập bảng tổng kết và đề nghị Ban phụ huynh lớp khen thưởng những học
sinh đứng đầu lớp và những học sinh có tiến bộ vượt bậc trong tháng. Sự thành
công trong việc quản lý học tập của giáo viên chủ nhiệm không phải lúc nào
cũng là :“làm cho một học sinh học rất kém trở thành học sinh giỏi” mà đôi khi
chỉ là “một học sinh chưa bao giờ học bài về nhà bỗng nhiên buổi tối biết lôi vở
ra học”. Quá trình thực hiện từ tháng 10/2014 đến nay tháng 3/2015 : GV,
PHHS, HS đã tiếp nhận Thông tư và thực hiện một cách nghiêm túc theo hướng
dẫn của TT. ( Có tranh 3 minh họa)
4.4. Tạo uy tín của giáo viên chủ nhiệm.
4.4.1.Tạo uy tín là nội dung cuối cùng cần đề cập tới. Uy tín của giáo viên
chủ nhiệm là yếu tố quyết định hiệu quả công tác chủ nhiệm. Khả năng điều


16


hành các hoạt động của lớp học, sự công bằng trong ứng xử, lòng tận tâm yêu
nghề, yêu trẻ làm nên uy tín của người giáo viên chủ nhiệm,...
4.4.2.Thầy cô sẽ không được học sinh kính trọng và nghe lời nếu giờ học
bạn dạy học sinh không hiểu gì cả vì vậy ngay từ bây giờ ngoài việc học tốt
kiến thức chuyên môn bạn cần học được phương pháp truyền đạt hiệu quả. Học
sinh rất tinh tế, các em luôn nhận biết được tâm huyết, sự quan tâm của thầy cô
dành cho mình, vì vậy hơn hết trong cách ứng xử với học sinh là thể hiện tình
yêu thương đối với các em. Đối với những học sinh cá biệt giáo viên chủ nhiệm
càng nên thể hiện tình cảm, sự quan tâm nhiều hơn những học sinh khác. Bằng
tình cảm của mình các thầy cô giáo sẽ cảm hóa được các em, làm cho các em
tiến bộ...
4.4.3. Giáo viên chủ nhiệm cho các em hướng dẫn cho các em làm quen và
thực hiện sáng tạo trong công tác xây dựng “lớp học thân thiện học sinh tích
cực”. Trong các tiết học, giáo viên nên xen kẽ kể các mẩu chuyện ngắn có ý
nghĩa giáo dục học sinh về học tập, cách cư xử với mọi người xung quanh.
Trang trí lớp học thân thiện để tạo sự trang trọng, gần gũi giữa thầy cô, phụ
huynh và học sinh trong lớp. Tôi xin kể lại câu chuyện nhỏ trong muôn vàn
câu chuyện đời thường mà tôi là một nhân vật trong câu chuyện này:
Sau 2 tiết học buổi sáng thì có thời gian giữa giờ cho các em tham gia hoạt
động vui chơi. Lúc gần vào lớp thì trời bỗng đột ngột mưa lớn. Các thầy cô
đang loay hoay tìm cách lên lớp thì có hai em học sinh nam lớp tôi vừa mặc
áo mưa, vừa cầm ô chạy xuống . Tôi cảm thấy lo lắng không biết học trò của
mình đã xảy ra điều gì rồi? ( vì các em chạy vào gặp cô đúng lức mưa to). Các
bạn đồng nghiệp của tôi cũng thấy lạ liền hỏi các em. Học trò chào cô và trò
Dương dõng dạc nói to“ Thưa cô, chúng con thấy lúc ra chơi cô không cầm ô,
sợ cô bị ướt lại ốm chúng con xuống đón cô ạ!’’ Sau nét mặt tươi rói vì thấy
mình làm được một điều tốt, trò chạy ào về lớp. Đồng nghiệp nhìn tôi và cùng

khen học sinh ngoan biết quan tâm tới cô giáo. Khi ấy, chỉ một hành động nho
nhỏ vậy thôi mà trong lòng tôi một cảm xúc dâng trào vì tình cảm của các em
dành cho mình. Đó cũng là ngon lửa ấm áp các em dành cho tôi. Qua đây tôi
17


muốn khẳng định rằng: “Sự tiến bộ và tình cảm của học sinh là niềm hạnh
phúc vô giá của mỗi giáo viên chủ nhiệm. Đôi khi niềm hạnh phúc ấy chỉ là cử
chỉ những tiến bộ nho nhỏ của học sinh”.
IV. KẾT QUẢ ĐẠT ĐƯỢC
Năm học 2014-2015, tôi tiếp nhận học sinh của mình với bao tâm trạng, lo
lắng. Nhưng cho đến thời điểm này, kết quả học tập của học sinh ngày càng
tiến bộ rõ rệt. Các em ngày càng chăm ngoan, sống hòa động, năng động, mạnh
dạn hơn trong học tập và giao tiếp. Tình cảm thầy- trò, bạn bè ngày càng gắn
bó và thân thiện . Sáng kiến của tôi không có gì là to tát, những biện pháp tôi
đã làm cóp lẽ cũng là bình thường với các bạn đồng nghiệp. Nhưng kết quả đạt
được lại rất khả quan. Rõ ràng qua cách làm này, tôi thấy kết quả học tập của
học sinh ngày càng tiến bộ rõ rệt. Các em ngày càng chăm ngoan. Điều đó làm
tôi rất vui mừng và vơi đi những vất vả, mệt nhọc. Tình cảm thầy- trò, bạn bè
ngày càng gắn bó và thân thiện .
Trong lớp học do tôi chủ nhiệm, tuy có nhiều đối tượng học sinh
nghèo, nhận thức chậm nhưng kết quả cuối học kì I vừa qua và cho đến thời
điểm này lớp tôi vẫn luôn duy trì sĩ số 100%, học sinh Đạt đạt 100%, không có
học sinh yếu; tỉ lệ học sinh Đạt Xuất sắc các môn và Đạt Xuất sắc bộ môn luôn
giữ vững và vượt chỉ tiêu của khối và trong toàn trường. Đó là điều mà bất cứ
thầy cô chủ nhiệm nào cũng mong muốn. Sau đây là kết quả vừa qua của lớp
tôi chủ nhiệm:
- Không có học sinh bị trách phạt trước toàn trường; học sinh đến trường
luôn đảm bảo an toàn cả trong giờ học lẫn giờ chơi; không có học sinh gây gổ
đánh nhau trong và ngoài nhà trường, không có học sinh bị tai nạn giao thông.

- Đồ dùng dạy học và bàn ghế của lớp luôn được bảo quản tốt, không
có tình trạng hư hao, mất mát.
- 100% học sinh lớp đều tích cực tham gia các buổi sinh hoạt tập thể
nhà trường phát động.
- Đạt giải Nhì hội thi Tiếng hát dân ca và được lựa chọn tham gia dự thi
cấp Thị xã có giải và được Ban tổ chức đánh giá cao.
18


V. KẾT LUẬN VÀ KHUYẾN NGHỊ
* KẾT LUẬN
Những công việc tôi làm đều bắt nguồn từ tinh thần trách nhiệm của một
giáo viên chủ nhiệm lớp, từ tình yêu đối với học trò của mình. Thành công tôi
đạt được phần lớn đều do sự nổ lực của bản thân. Nhưng bên cạnh đó, tôi cũng
luôn nhận được sự động viên khích lệ của cán bộ quản lí nhà trường, sự chia sẻ
đóng góp từ các giáo viên trong tổ chuyên môn. Một lần nữa tôi luôn khẳng
định:
Giáo dục Tiểu học là vấn đề chính trị - xã hội quan trọng, có giá trị cơ bản
và lâu dài, có tính quyết định đối với cuộc đời cá nhân mỗi người. Vì vậy,
người giáo viên chủ nhiệm lớp ở Tiểu học có một vị trí đặc biệt quan trọng.
Lao động của một giáo viên chủ nhiệm lớp ở Tiểu học là lao động sáng tạo
không ngừng, sự sáng tạo đó đòi hỏi phải toàn diện: sáng tạo trong soạn giảng,
trong tổ chức các hoạt động học tập, vui chơi, trong sinh hoạt tập thể và đặc
biệt là trong các biện pháp giáo dục đạo đức và rèn luyện kĩ năng sống cho học
sinh. Vì vậy chỉ có những giáo viên thực sự tâm huyết với nghề, thực sự thương
yêu học sinh của mình thì mới có thể hoàn thành tốt nhiệm vụ.
* KHUYẾN NGHỊ
Theo tôi, muốn trở thành một nhà sư phạm, một giáo viên chủ nhiệm lớp
giỏi, khéo léo, tinh tế trong ứng xử và thành công trong việc giáo dục học sinh
thì mỗi người giáo viên chủ nhiệm cần phải:

1.Tìm hiểu để biết được một cách toàn diện, sâu sắc về từng học sinh.
Hiểu rõ hoàn cảnh gia đình, đặc điểm tâm lí, tính cách, sở thích, thói quen,...của
từng học sinh để có biện pháp giáo dục phù hợp.
2. Chú trọng xây dựng và bồi dưỡng Ban Cán sự lớp, huấn luyện để các
em trở thành những “người lãnh đạo nhỏ” tài ba.
3. Luôn giữ được sự bình tĩnh trước lỗi lầm của học sinh, tìm hiểu cặn
kẽ thấu đáo nguyên nhân của mỗi tình huống xảy ra để có cách xử lí đúng đắn,
19


hợp tình, hợp lí; tránh trách nhầm, trách oan học sinh làm các em hoang mang,
thiếu niềm tin vào người thầy.
4. Luôn biết khích lệ biểu dương các em kịp thời. Hãy khen ngợi những
ưu điểm sở trường của các em để các em thấy giá trị của mình được nâng cao,
có niềm tin và hứng thú học tập hơn.
5. Luôn thể hiện cho học sinh thấy tình cảm yêu thương của một người
thầy đối với học sinh. Hãy nhớ rằng lòng nhân ái, bao dung, đức vị tha của
người thầy luôn có một sức mạnh to lớn để giáo dục và cảm hóa học sinh.
6. Duy trì và sáng tạo trong công tác xây dựng “lớp học thân thiện học
sinh tích cực”, làm sao để tất cả các em luôn cảm thấy “mỗi ngày đến trường là
một niểm vui.
7. Phối hợp chặt chẽ với phụ huynh học sinh; kiên trì vận động phụ
huynh tích cực tham gia vào công tác giáo dục học sinh.
Trên đây là sáng kiến nghiên cứu “Một số biện pháp trong công tác
chủ nhiệm lớp” và một vài ý kiến của cá nhân tôi. Kính mong sự giúp đỡ cũng
như những đóng góp ý kiến chân thành của các thầy cô và các bạn đồng
nghiệp!
Xin trân trọng cảm ơn !

20



Trang trí lớp học thân thiện

21


22


Tham quan các di tích lịch sử

23


Các hội thi, giao lưu văn nghệ

24


25


×