Tải bản đầy đủ (.doc) (44 trang)

skkn tổ chức hoạt động luyện nói trong việc dạy học tiếng việt 1

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (237.14 KB, 44 trang )

THÔNG TIN CHUNG VỀ SÁNG KIẾN

1. Tên sáng kiến: “Tổ chức hoạt động luyện nói trong việc dạy học
Tiếng Việt lớp 1”.
2. Lĩnh vực áp dụng sáng kiến: Rèn luyện kỹ năng nói cho học sinh lớp 1.
3. Tác giả:
Họ và tên: Nguyễn Thị Tính
Sinh ngày 19 tháng 6 năm 1969
Trình độ chuyên môn: Cao đẳng sư phạm Tiểu học
Chức vụ, đơn vị công tác: Giáo viên- Tổ phó tổ 1- Chủ tịch công đoàn
Trường Tiểu học Hoàng Tân- Chí Linh- Hải Dương.
Điện thoại 0972817043
4. Đồng tác giả: Không
5. Chủ đầu tư: Trường Tiểu học Hoàng Tân- Chí Linh- Hải Dương.
6. Đơn vị áp dụng sáng kiến lần đầu: Trường Tiểu học Hoàng Tân- Chí
Linh- Hải Dương.
7. Các điều kiện cần thiết để áp dụng sáng kiến: Cơ sở vất chất của Nhà
trường, sách tài liệu tham khảo, sách Tiếng Việt 1,...
8. Thời gian áp dụng sáng kiến lần đầu: Thời gian là 2 năm( Bắt đầu từ
Năm học 2013- 2014 đến Năm học 2014- 2015)Tại Trường Tiểu học Hoàng
Tân- Chí Linh- Hải Dương
XÁC NHẬN CỦA CƠ QUAN ĐƠN VỊ
HỌ TÊN TÁC GIẢ( KÝ TÊN)

ÁP DỤNG SÁNG KIẾN

Nguyễn Thị Tính

1



TÓM TẮT SÁNG KIẾN

Sáng kiến: “Tổ chức hoạt động luyện nói trong việc dạy học Tiếng Việt
lớp 1”.Nhằm mục đích giúp cho học sinh được rèn luyện 4 kỹ năng : nghe,
nói, đọc, viết.
- Hoàn cảnh nảy sinh: Nội dung của sáng kiến đi sâu nghiên cứu thực
trạng nguyên nhân của môn Tiếng Việt đặc biệt là hoạt động luyện nói trong
việc dạy học Tiếng Việt lớp 1 đối với lớp 1 Trường Tiểu học nơi tôi đang
công tác. Trong quá trình dạy học luyện nói cho học sinh, giáo viên đã gặp
không ít khó khăn bởi nhiều lí do: nội dung luyện nói còn mới mẻ và được coi
là khó học, khó dạy bởi nội dung có tính chất “mở”; học sinh lớp 1 là đối
tượng bước đầu có kĩ năng nói, song kĩ năng này ở mỗi em mỗi khác và chưa
hoàn thiện; học sinh không phải lúc nào cũng mạnh dạn, tự tin; dạy nói cho
học sinh lớp 1 phải gắn với cả việc dạy đọc, dạy viết, dạy nghe. Do vậy, khi
dạy nội dung này, giáo viên phải có nhiều sáng tạo, nhạy bén, linh hoạt trong
quá trình lên lớp.
- Điều kiện, thời gian, đối tượng áp dụng: Các điều kiện cần thiết để áp
dụng sáng kiến: Cơ sở vất chất của Nhà trường, sách tài liệu tham khảo, sách
Tiếng Việt 1,...
Thời gian áp dụng sáng kiến lần đầu: Năm học 2013- 2014 Tại Trường
Tiểu học nơi tôi công tác.
Đối tượng áp dụng: Áp dụng cho học sinh lớp 1; Phạm vi áp dụng của
sáng kiến phổ biến khá rộng rãi. Sáng kiến không chỉ bó hẹp đối với học sinh
lớp 1 mà còn vận dụng khá linh hoạt đối với các đối tượng học sinh lớp 2, 3,
4, 5 của Trường Tiểu học nơi tôi công tác.
- Tính mới, tính sáng tạo của sáng kiến: Muốn học sinh có hứng thú, có
động cơ nói theo một chủ đề luyện nói trong giờ Tiếng Việt, trước hết phải
làm cho học sinh thấy việc học luyện nói là có ích, là cần thiết, biết biến đổi
những nhiệm vụ học tập khô khan cho phù hợp với những mong muốn, nhu
cầu, sở thích, nguyện vọng tích cực, chính đáng của học sinh.


2


Hứng thú là một thuộc tính tâm lí, nhân cách quan trọng của con người.
Cùng với sự tự giác, hứng thú làm nên tính tích cực nhận thức, giúp học sinh
học tập đạt kết quả cao, có khả năng khơi dậy mạch nguồn của sự sáng tạo.
Hứng thú không có tính tự thân, không phải là thiên bẩm. Hứng thú được hình
thành, duy trì và phát triển nhờ môi trường giáo dục với vai trò dẫn dắt,
hướng dẫn, tổ chức của giáo viên. Giáo viên là người có vai trò quyết định
trong việc phát hiện, hình thành, bồi dưỡng hứng thú học tập cho học sinh,
bởi sự nỗ lực chủ quan không có ở tất cả các học sinh mà “chỉ có ở các em
được học thầy giáo giỏi, biết khéo léo giáo dục cho học sinh sự tìm tòi, ham
thích hiểu biết”.
- Khẳng định giá trị, kết quả đạt được của sáng kiến: Trong quá trình
nghiên cứu và thực nghiệm tôi đã nhận thấy sau khi áp dụng sáng kiến với
những giải pháp thực nghiệm trong nội dung của sáng kiến đã đề cập đến hiệu
quả thu được là rất tốt, thấy được sự tiến bộ rõ rệt của học sinh được khẳng
định một cách rõ nét hơn. Qua thực tế thực hiện Sáng kiến, tôi thấy cùng một
tiết dạy, cùng một chủ đề, cùng những gợi ý của sách giáo khoa và sách giáo
viên nhưng việc sử dụng các phương pháp, hình thức tổ chức để thể hiện các
ý tưởng dạy học của mỗi giáo viên lại mang tính sáng tạo, tính đa dạng và
phong phú ở mức độ nhất định. Điều đó đã mang lại hiệu quả rất khác nhau
cho tiết học mà không có tài liệu nào nói đủ. Có thể nói tổ chức thành công
hoạt động luyện nói cho học sinh lớp 1 là quá trình thể hiện nhuần nhuyễn
giữa các yếu tố: trình độ chuyên môn của giáo viên với năng lực sư phạm; với
những thao tác thực hành khéo léo; với ngôn ngữ giảng giải ngắn gọn, rõ
ràng. Tất cả những điều này không thể hình thành ngày một, ngày hai, mà
phải có quá trình tích luỹ lâu dài, liên tục. Để góp phần nâng cao chất lượng
dạy học, bản thân người giáo viên cần tự học hỏi, tự bồi dưỡng nâng cao trình

độ chuyên môn của mình. Không những thế, người giáo viên cần phải tâm
huyết với nghề, không ngừng tìm tòi, sáng tạo. Tôi thấy thật đáng mừng bởi
vì khi áp dụng Sáng kiến này vào giảng dạy thì hầu hết các em đã nói được
thành câu đúng nội dung chủ đề luyện nói một cách rõ ràng, lưu loát, rất nhiều

3


em còn có khả năng khái quát để nói được thành một đoạn văn ngắn từ 2 đến
3 câu về chủ đề luyện nói.
- Đề xuất, kiến nghị: Nhà trường – Phòng gíáo dục cần tổ chức chuyên đề
hoặc mở các đợt tập huấn để giáo viên có thể tiếp cận, trao đổi, học hỏi kinh
nghiệm của sáng kiến về phương pháp, hình thức tổ chức thành công hoạt
động luyện nói cho học sinh lớp 1.
Sáng kiến sẽ hoàn thiện hơn khi nhân rộng việc áp dụng đối với các đối
tượng học sinh trong nhà trường với sự vận dụng khéo léo, linh hoạt phù hợp
với từng đối tượng học sinh.

4


MÔ TẢ SÁNG KIẾN
1. Hoàn cảnh nảy sinh sáng kiến.
1.1. Đổi mới căn bản toàn diện giáo dục đào tạo.
Như chúng ta đã biết, học tập là một hoạt động đòi hỏi phải có nỗ lực rất
lớn mới có thể tiếp nhận những kiến thức ngày càng phong phú. Đó là một
quá trình học sinh phải rèn luyện và thích nghi dần với cuộc sống của nhà
trường, với những điều mới lạ, hấp dẫn, đầy bí ẩn và cả những điều không
phải lúc nào cũng tạo hứng thú với các em. Đối với học sinh lớp 1, đi học
thực sự là một bước chuyển, một bước ngoặt có ý nghĩa lớn lao đối với sự

phát triển trí tuệ, tâm lí và nhân cách của các em. Đa số trẻ em khi mới
chuyển từ Mẫu giáo sang Tiểu học đều khao khát đến trường và rất mong đợi
buổi học đầu tiên. Tuy nhiên, hứng thú của các em lần đầu đến trường mới chỉ
là thái độ nhận thức mang màu sắc cảm tính. Hứng thú ở thời kì này chưa bền
vững, còn mang tính nhất thời, dễ bị mất đi nếu không có sự tác động của các
nhà giáo dục. Đó là chưa kể một số trường hợp học sinh chưa thích ứng, kém
hứng thú với hoạt động học tập khi bước chân vào trường học. Trẻ rơi vào
tình trạng “choáng học đường”, dễ bất lực khi vấp phải những khó khăn ban
đầu của việc học tập, dẫn đến không hoàn thành nhiệm vụ học tập được giao.
Chính vì vậy nhiệm vụ của năm học 2014- 2015 là tổ chức dạy học theo
chuẩn kiến thức kĩ năng và những định hướng phát triển năng lực học sinh,
giáo viên cần phải điều chỉnh nội dung dạy học phù hợp với đặc điểm tâm
sinh lý học sinh tiểu học, tăng cường đạo đức, kĩ năng sống cho học sinh; đổi
mới đồng bộ phương pháp dạy và phương pháp học.
1.2. Nhận định chung về tình hình giáo dục.
Đất nước ta đang trong thời kì“ Công nghiệp hoá- Hiện đại hoá”. Muốn
cho nền giáo dục được phát triển toàn diện thì khoa học kĩ thuật đã trở thành
một lực lượng sản xuất quan trọng. Phương pháp dạy học phải được đặt lên
hàng đầu trong vấn đề cải cách giáo dục. Bởi chính phương pháp chứ không
5


phải là nội dung hay yếu tố nào khác quyết định chất lượng đào tạo con người
mới. Vậy có thể nói rằng việc đổi mới phương pháp dạy học nói chung thì
phương pháp dạy học Tiếng Việt ở Tiểu học nói riêng là việc làm cần thiết.
Đổi mới phương pháp dạy học là học sinh là chủ thể của hoạt động học,
các em cần được cuốn hút vào những hoạt động trong tiết học do người thầy
tổ chức, qua đó tự khám phá những kiến thức chưa biết chứ không thụ động
tiếp thu những tri thức đã được sắp đặt. Nhằm nâng cao năng lực phát hiện,
tính chủ động tiếp thu kiến thức của học sinh, giáo viên cần tổ chức tiết học

thành tiết trao đổi kiến thức giữa thầy và trò, thầy gợi mở những vấn đề để trò
tự phát hiện và kết luận…
1.3. Từ thực tế quá trình công tác.
Khả năng giao tiếp của học sinh lớp 1vẫn còn rất nhiều hạn chế, các em
còn nhút nhát, ít phát biểu, chưa tự tin trong luyện nói, đa số các em chỉ biết
trả lời theo câu hỏi một cách thụ động, khả năng diễn đạt ý kém, thậm chí trả
lời chưa đầy đủ, chưa trọn vẹn một câu. Qua hoạt động luyện nói, với sự
hướng dẫn gợi mở, khuyến khích của giáo viên nhằm giúp cho các em mạnh
dạn, tự tin và có khả năng giao tiếp tốt hơn trong tiết học, bài học và cả trong
cuộc sống hàng ngày.
2. Cơ sở lý luận của vấn đề.
Trong cuộc sống hàng ngày, ở mọi ngành nghề đều cần đến các hoạt động
giao tiếp. Giao tiếp qua việc sử dụng ngôn ngữ sao cho chọn lọc để diễn đạt ý
của mình nhằm giúp người khác biết và hiểu những thông tin đến đối tượng
cần giao tiếp, nhằm đạt đến thành công trong công việc. Đặc biệt, trong lĩnh
vực giáo dục cũng đòi hỏi người giáo viên hướng dẫn, giảng dạy sao cho học
sinh của mình có được kỹ năng giao tiếp thật tốt. Chính vì lí do đó, đối với
học sinh bất cứ ở bậc học nào cũng đều được rèn luyện 4 kỹ năng : nghe, nói,
đọc, viết.
Vấn đề phát triển lời nói cho học sinh không phải gần đây mới được đề
cập đến. Như Bác Hồ của chúng ta cũng đã từng nói: “Trường học có trách
6


nhiệm lớn lao trong việc giữ gìn sự trong sáng của Tiếng Việt. Phải làm cho
thế hệ trẻ nói và viết tốt hơn chúng ta”. Muốn thực hiện được lời dạy đó,
trường Tiểu học cần phải có cách thức tổ chức, phương pháp dạy học hợp lí
và tích cực nhằm nâng cao chất lượng dạy học môn Tiếng Việt, giúp học sinh
sử dụng thành thạo Tiếng Việt.
Đáp ứng nhu cầu phát triển của giáo dục, sách giáo khoa theo chương

trình mới đã được biên soạn theo hướng vận dụng quan điểm giao tiếp và thể
hiện khá rõ trong sách giáo khoa Tiếng Việt 1, luyện nói được coi như một
nội dung độc lập. Điển hình là trong tiết 2 của một bài học vần hay tập đọc có
hẳn 1 hoạt động riêng cho phần luyện nói. Việc dạy kĩ năng nói bước đầu
hình thành và rèn luyện cho học sinh một trong những kĩ năng giao tiếp quan
trọng của con người.
3. Thực trạng của vấn đề.
Trong quá trình dạy học luyện nói cho học sinh, giáo viên đã gặp không ít
khó khăn bởi nhiều lí do: nội dung luyện nói còn mới mẻ và được coi là khó
học, khó dạy bởi nội dung có tính chất “mở”; học sinh lớp 1 là đối tượng
bước đầu có kĩ năng nói, song kĩ năng này ở mỗi em mỗi khác và chưa hoàn
thiện; học sinh không phải lúc nào cũng mạnh dạn, tự tin; dạy nói cho học
sinh lớp 1 phải gắn với cả việc dạy đọc, dạy viết, dạy nghe. Do vậy, khi dạy
nội dung này, giáo viên phải có nhiều sáng tạo, nhạy bén, linh hoạt trong quá
trình lên lớp.
Kỹ năng nói đã giúp cho trẻ có khả năng giao tiếp, biết ứng xử và nhận xét
sự vật, sự việc trên những nhận thức riêng, bằng sự cảm nhận ngây ngô của
con mắt trẻ thơ. Vì thế, để học sinh luyện nói lưu loát, đạt hiệu quả, giáo viên
cần phải có cách tổ chức dạy để khơi gợi, kích thích học sinh có hứng thú bộc
lộ cảm xúc, ý nghĩ của mình nhằm phát huy kỹ năng nói của các em, nhằm
giúp trẻ sớm có tính cách mạnh dạn, cởi mở và tự tin hơn trong quá trình giao
tiếp.
3.1. Nguyên nhân.

7


Đặc điểm của học sinh lớp 1 có khả năng tự trả lời các câu hỏi đơn giản
và một số em có khả năng phát triển lời nói thành một câu.
Đồ dùng dạy học là tranh ảnh đẹp kích thích học sinh ham học, ham tìm

hiểu.
Đa số các chủ đề luyện nói gần gũi với thực tế cuộc sống của học sinh
(Chủ đề về bản thân bé, bạn bè xung quanh, ba mẹ, ông bà, những sinh hoạt
thông thường của các em : phim hoạt hình, đọc truyện, chuối, bưởi, vú sữa
…).
Giáo viên được tham gia tập huấn, dự giờ, từ đó giúp giáo viên nắm được
các mục tiêu chính trong phần luyện nói cho học sinh.
3.2. Khó khăn- Giải pháp.
Còn thiếu một số tranh ảnh để minh hoạ cho chủ đề cần luyện nói. Tranh
vẽ minh hoạ một số chủ đề luyện nói chưa thể hiện rõ nội dung cần rèn học
sinh nói như chủ đề “Vừa vui vừa học”.
Một số chủ đề lạ, chưa gần gũi với cuộc sống của các em : le le; thung
lũng, suối, đèo; Ba Vì,… nên các em khó hình dung để phát huy khả năng
nói của mình một cách phong phú.
Thời lượng dành cho phần luyện nói còn ít nên học sinh không được luyện
nói nhiều.
Xuất phát từ những khó khăn trên, tôi mạnh dạn đi sâu nghiên cứu sáng
kiến “Tổ chức hoạt động luyện nói trong việc dạy học Tiếng Việt lớp 1”.
Mục đích rèn kỹ năng luyện nói cho học sinh nhằm giúp cho trẻ mạnh
dạn, tự tin muốn bộc lộ cảm xúc của mình.
Tìm hiểu thực tế việc dạy học luyện nói và nhu cầu giao tiếp hiện nay để
thấy rõ vấn đề bức xúc cần phải có biện pháp tổ chức hoạt động luyện nói cho
học sinh lớp 1 góp phần nâng cao chất lượng dạy học Tiếng Việt ở Tiểu học.
Thấy được tác dụng của việc dạy cho học sinh luyện nói tốt. Giúp giáo
viên nắm chắc chương trình sách giáo khoa, các phương pháp dạy học tích
cực, sáng tạo trong tổ chức các hoạt động học tập cho học sinh.

8



3.3. Nhiệm vụ nghiên cứu
Tìm hiểu nội dung các chủ đề và phương pháp dạy học Tiếng Việt 1 phần
luyện nói.
Tìm hiểu vai trò, tác dụng và một số yêu cầu cơ bản của việc dạy luyện
nói cho học sinh lớp 1.
Tìm hiểu thực trạng việc dạy luyện nói cho học sinh lớp 1.
Đề xuất một số biện pháp trong việc dạy luyện nói cho học sinh lớp 1 góp
phần nâng cao chất lượng dạy và học Tiếng Việt ở Tiểu học.
3.4. Phạm vi nghiên cứu
- Đối tượng nghiên cứu: Học sinh lớp 1 và các phương pháp, biện pháp và
các bước khi tổ chức hoạt động luyện nói trong dạy học Tiếng Việt 1.
- Phạm vi nghiên cứu: Tổ chức hoạt động luyện nói cho học sinh lớp 1
trong tiết Tiếng Việt.
3.5. Giải pháp cụ thể.
Các em còn nhỏ nên khả năng giao tiếp còn hạn chế : các em còn nhút
nhát, ít phát biểu, chưa tự tin trong luyện nói, đa số các em chỉ biết trả lời theo
câu hỏi một cách thụ động, khả năng diễn đạt ý kém, thậm chí trả lời chưa đầy
đủ, chưa trọn vẹn một câu.
Số học sinh tự giác tích cực học tập chưa nhiều. Mặc dù chương trình Tiểu
học mới quan tâm đến việc rèn luyện khả năng diễn đạt, giải quyết tình huống
có vấn đề song bản thân các em ít được thực hành nên đôi khi lúng túng, vụng
về thiếu tự tin khi được thể hiện khả năng của mình.
* Qua việc điều tra thực trạng chung, tôi tiến hành khảo sát một tiết dạy
học cụ thể bằng hình thức sau: Khi dạy bài 18 "x, ch" đến phần tổ chức cho
học sinh hoạt động luyện nói, tôi tiến hành khảo sát kết quả luyện nói của 2
lớp 1 do tôi dạy “lớp 1C” và 1 lớp do đồng nghiệp dạy “lớp 1B” để đối chứng
về chủ đề " Xe bò, xe, lu, xe ô tô " theo nội dung sau:
- GV treo tranh minh hoạ SGK.
- Chủ đề luyện nói là gì?


- HS QS.
- Xe bò, xe, lu, xe ô tô.

9


- Xe bò dùng để làm gì?

- Xe bò dùng để chở lúa, chở tre,

- Xe bò có mấy bánh?
- Xe bò dùng cho ai kéo?

chở gỗ, ...
- Xe bò có 2 bánh
- Xe bò dùng cho bò kéo, có thể

- Xe lu dùng để làm gì?

dùng sức người kéo.
- Xe lu dùng để lu phẳng cho

- Xe ô tô dùng để làm gì?

những con đường.
- Xe ô tô dùng để chở người, chở

hàng hoá, ...
- Gọi học sinh nói thành đoạn văn từ 2 đến - HS thực hành luyện nói
3 câu về một loại xe hay các loại xe theo

chủ đề " Xe bò, xe, lu, xe ô tô "
* Cách thức đánh giá khảo sát như sau:
+ Học sinh không trả lời được nội dung câu hỏi của cô( Cần cố gắng)
+ Học sinh trả lời được nội dung câu hỏi của cô nhưng diễn đạt không rõ
ràng, dễ hiểu( Hoàn thành)
+ Học sinh trả lời được nội dung câu hỏi của cô và diễn đạt rõ ràng, dễ
hiểu, nói lưu loát( Hoàn thành khá tốt)
+ Học sinh nói được thành đoạn văn từ 1 đến 3 câu về một loại xe hay các
loại xe theo chủ đề " Xe bò, xe, lu, xe ô tô " một cách rõ ràng lưu loát( Hoàn
thành tốt)
Kết quả cụ thể sau khi khảo sát như sau:
Lớp
1C
1B

TSHS
32
31

Hoàn thành
tốt
SL
%
5
15,6
5
16,1

Hoàn thành
khá tốt

SL
%
7
21,9
6
19,4

Hoàn thành

Cần cố gắng

SL
12
13

SL
8
7

%
37,5
41,9

%
25
22,6

Từ kết quả khảo sát điều tra trên tôi nhận thấy rằng mặt bằng chung ở 2
lớp mà tôi tiến hành khảo sát là tương đương như nhau. Các em đều mắc lỗi là
chưa nói được đúng nội dung chủ đề luyện nói, em hiểu được thì chưa biết

cách diễn đạt ý hiểu của mình. Hầu hết các em chưa có khả năng nói thành 1
đoạn văn ngắn.

10


4. Các giải pháp, biện pháp thực hiện.
4.1. Một số yêu cầu cơ bản khi tiến hành hoạt động luyện nói
Hoạt động nói năng bao giờ cũng bắt nguồn từ một nhu cầu giao tiếp nhất
định. Học sinh sẽ không thể nói được hoặc nói không đạt hiệu quả khi phải
trình bày bài nói của mình một cách “gượng ép”. Điều đó sẽ làm cho hiệu quả
của bài luyện nói không cao. Vì thế, việc tạo ra nhu cầu nói năng cho học sinh
hết sức quan trọng. Khi có nhu cầu biểu đạt, các em sẽ mạnh dạn, hứng thú
hơn, trình bày chân thực hơn những suy nghĩ riêng của mình về đề tài đang
được bàn đến, tránh được tình trạng mượn lời hoặc nói lại lời người khác.
Giáo viên phải kích thích nhu cầu nói của học sinh bằng cách sử dụng
phương tiện trực quan, tạo tình huống giao tiếp phù hợp, động viên học sinh
tham gia tích cực khi luyện nói. Bởi:
Để có được nhu cầu giao tiếp cho học sinh, giáo viên cần phải tạo ra
những tình huống giao tiếp giả định song phải có tính chân thực, không
gượng ép, khô cứng; tình huống giao tiếp phải gần gũi và có sức hấp dẫn, lôi
cuốn, kích thích nhu cầu nói của các em. Khi đã hoà mình vào hoàn cảnh và
nhập được vai giao tiếp thì lúc ấy các em sẽ thể hiện hết mình, muốn nói thực
sự hết mình. Muốn vậy, người giáo viên cần phải nắm vững nhu cầu nói năng
của học sinh. Nhu cầu đó rất đa dạng, phong phú như: nhu cầu muốn bộc lộ
sự hiểu biết, muốn thể hiện kết quả học tập, rèn luyện, nhu cầu muốn tranh
luận hoặc bàn bạc với bạn bè về một vấn đề gì đó, ... Tất cả những nhu cầu đó
đều là động lực kích thích các em nói trong lúc luyện nói. Chính vì thế, giáo
viên cần quan tâm tìm hiểu nhu cầu nói của học sinh để có biện pháp kích
thích nhu cầu đó, tạo hứng thú học tập, từ đó góp phần quan trọng làm tăng

hiệu quả dạy học luyện nói cụ thế là:
Phải tạo ra được hoàn cảnh giao tiếp tốt. Hoàn cảnh giao tiếp để học sinh
luyện nói trong giờ Tiếng Việt chính là điều kiện lớp học trong thời điểm
luyện nói. Điều kiện này bao gồm: không khí lớp học, tư thế của giáo viên,
các hoạt động nghe của học sinh, trật tự lớp học và những hoạt động khác có

11


ảnh hưởng trực tiếp hay gián tiếp tới việc luyện nói của học sinh. Giáo viên
cần giáo dục cho học sinh trong lớp biết cách lắng nghe và có thái độ đúng
khi nghe bạn nói. Giáo viên phải là người động viên, khích lệ kịp thời để học
sinh phấn khởi trong khi nói.
Trong lúc luyện nói, nếu lớp học ồn ào hoặc người nghe không có thái độ
tôn trọng người nói, không có ý thức cộng tác hội thoại thì người nói sẽ không
nói được. Các em sẽ khó diễn đạt một cách gãy gọn khi phải nói trước ánh
mắt nghiêm khắc của giáo viên hoặc những cái nhìn xét nét của bạn bè trong
lớp ... Nhưng, các em sẽ phấn khởi, tự tin khi nói nếu có một lời động viên,
một ánh mắt trìu mến, khích lệ của giáo viên, sự lắng nghe chăm chú của bạn
bè. Vì thế, để tăng hiệu quả giờ luyện nói, giáo viên cần hết sức chú ý đến
hoạt động chung về mọi mặt của cả lớp, đảm bảo những điều kiện tốt cho học
sinh luyện nói.
Cần giúp học sinh xác định được những việc cần làm để thực hiện tốt bài
tập luyện nói. Đó là: Nói về đề tài gì? (nội dung bài nói); Nói cho ai nghe?
( hội thoại); Nói để làm gì? ( hội thoại). Chỉ khi nào tìm được câu trả lời chính
xác cho những câu hỏi này thì các em mới làm được bài luyện nói của mình.
Ở đây, chúng ta xem xét nội dung trong bài tập luyện nói của các em, nội
dung nói có thể được quan niệm khá rộng, từ những điều cần phải nói tới
trong bài này đến những hiểu biết về tự nhiên, đời sống xã hội, những nghi
thức lời nói. Tuy nhiên, với học sinh lớp 1, nội dung luyện nói thường là các

chủ đề gần gũi với các em hoặc nghi thức lời nói đơn giản. Nếu học sinh hiểu
biết nhiều thì các em sẽ mạnh dạn, tự tin khi nói và nhờ đó, lời nói của các em
sẽ rõ ràng, mạch lạc giúp người nghe dễ tiếp thu. Tất nhiên, không phải mọi
hiểu biết của học sinh về cuộc sống, về các nghi thức xã hội đều được đưa vào
nội dung bài luyện nói mà phải căn cứ vào từng trường hợp hội thoại cụ thể
để chọn lọc và quyết định đưa vào bài nói của mình những nội dung gì và
bằng cách nào. Với học sinh lớp 1, việc làm này cần có sự định hướng của
giáo viên.

12


Khi học sinh đang nói thì không nên ngắt lời một cách tuỳ tiện, kể cả việc
tiếp lời các em nếu không đúng lúc, đúng chỗ cũng sẽ gây khó khăn cho học
sinh. Sự đứt mạch trong suy nghĩ hoặc lời nói bị gián đoạn sẽ làm các em cảm
thấy lúng túng, nhiều khi không nói tiếp được nữa. Vì thế giáo viên cần phải
bình tĩnh, tôn trọng “lượt lời” của học sinh, chỉ nên uốn nắn, sửa chữa trong
từng trường hợp tối cần thiết hoặc đợi khi các em kết thúc lượt lời của mình.
4.2. Tạo hứng thú cho học sinh trước khi luyện nói.
Hứng thú là nhân cách rất quan trọng của con người. Cùng với tự giác,
hứng thú làm nên tính tích cực nhận thức, giúp học sinh học tập đạt kết quả
cao, có khả năng khơi dậy mạch nguồn của sự sáng tạo.
Theo các nhà tâm lí học: Thì hứng thú không có tính tự thân, không phải
là thiên bẩm. Hứng thú được hình thành, duy trì và phát triển nhờ môi trường
giáo dục với vai trò dẫn dắt, hướng dẫn, tổ chức của giáo viên. Giáo viên là
người có vai trò quyết định trong việc phát hiện, hình thành, bồi dưỡng hứng
thú học tập cho học sinh, bởi sự nỗ lực chủ quan không có ở tất cả các học
sinh mà “chỉ có ở các em được học thầy giáo giỏi, biết khéo léo giáo dục cho
học sinh sự tìm tòi, ham thích hiểu biết”. Theo các nhà tâm lí học
Hứng thú là một thuộc tính tâm lí mang tính đặc thù cá nhân. Hứng thú có

tính lựa chọn. Đối tượng của hứng thú chỉ là “những cái cần thiết, có giá trị,
có sức hấp dẫn với cá nhân”. Vậy vấn đề gì thu hút sự quan tâm, chú ý tìm
hiểu của các em? Trả lời được câu hỏi này tức là người giáo viên đã sống
cùng với đời sống tinh thần của các em, biết biến đổi những nhiệm vụ học tập
khô khan cho phù hợp với những mong muốn, nhu cầu, sở thích, nguyện vọng
tích cực, chính đáng của học sinh.
Muốn học sinh có hứng thú, có động cơ nói theo một chủ đề trong giờ
Tiếng Việt, trước hết phải làm cho học sinh thấy việc học luyện nói là có
ích, là cần thiết.
* Chủ đề “Bé tự giới thiệu” (TV tập 1. T 85)

13


Qua lời giới thiệu dẫn dắt của giáo viên giúp các em thấy được ích lợi của
việc luyện nói theo chủ đề “Bé tự giới thiệu” là:
Qua việc tự giới thiệu để các bạn, cô giáo biết được tên, tuổi, sở thích, sở
trường của mình.
Mạnh dạn, tự tin trước tập thể.
Rèn cách diễn đạt một ý trọn vẹn.
Củng cố được vần vừa được học.
4.3. Tạo tinh thần thoải mái cho học sinh trước khi luyện nói.
Tạo tinh thần thoái mái và sẵn sàng học tập cho học sinh. Bởi vì để có
được bài nói tốt, người nói cần có sự chuẩn bị tốt, tức là cần xác định được
những việc cần làm để thực hiện bài tập luyện nói có hiệu quả. Giáo viên cần
tạo cho học sinh một không khí hào hứng, sôi nổi để bước vào giờ học. Bởi lẽ
nội dung luyện nói thường khó đối với học sinh, mặt khác phần luyện nói
được sắp xếp vào cuối tiết học, các em thường mệt mỏi, sự chú ý không cao.
Vì vậy, Giáo viên cần tạo không khí học tập tự nhiên, nhẹ nhàng và duy trì
trong suốt thời gian luyện nói.

Giáo viên nên chú ý chuẩn bị tốt các hoạt động cho giờ luyện nói nhằm
tạo không khí hào hứng, hấp dẫn trong giờ học, kích thích học sinh tham gia
nói.
Giáo viên cần nắm bắt thực tế về khả năng giao tiếp của từng em để đưa ra
phương pháp, hình thức dạy luyện nói phù hợp với từng đối tượng học sinh
trong lớp của mình.
4.4. Chuẩn bị phương tiện dạy học cho hoạt động luyện nói.
Đối với học sinh lớp 1 thì dạy học bằng phương tiện trực quan sẽ đem lại
hiệu quả cao nhất. Vì vậy việc chuẩn bị đồ dùng dạy học là rất cần thiết.
Chuẩn bị tranh ảnh, phương tiện dạy học phục vụ cho phần luyện nói thêm
sinh động, hứng thú. Ngoài những tranh ảnh được cung cấp, tôi cùng với các
bạn trong khối sưu tầm thêm một số tranh ảnh, đồ dùng khác liên quan đến
bài dạy để phần luyện nói thêm phong phú, gần gũi. Ví dụ : Ở chủ đề nói về :
14


cây cối, hoa trái (đưa những vật thật, tranh ảnh của những tờ ap-phích, hình
trên lịch, hình chụp…)
Phải chuẩn bị một hệ thống câu hỏi gợi ý cho từng nhóm đối tượng tuỳ nội
dung từng bài. Tùy theo từng chủ đề mà có định hướng cho học sinh khi
luyện nói. Khi đặt câu hỏi để giúp các em biết cách nói cho sát nội dung bài,
giáo viên phải chuẩn bị và dự trù thêm một số câu hỏi cho từng đối tượng, các
câu hỏi được sắp xếp có hệ thống từ câu hỏi tổng quát, rồi mới gợi ý bằng
những câu hỏi nhỏ (Khi các em lúng túng sẽ rất dễ dàng nếu có sự định hướng
của cô để rèn nói tiếp).
* Chủ đề “Mai sau khôn lớn” (TV tập1. T 95)
Giáo viên chuẩn bị tranh như sách giáo khoa được phóng to.
Cho học sinh nhìn sách giáo khoa của mình nêu chủ đề luyện nói (Mai sau
khôn lớn).
Giáo viên treo tranh đã chuẩn bị - cho học sinh quan sát và trả lời các câu

hỏi về chủ đề.
Giáo viên chuẩn bị hệ thống câu hỏi như sau:
+ Trong tranh vẽ gì ?
+ Chú bộ đội trong tranh đang canh gác ở đâu ? (với câu hỏi này nếu học
sinh không trả lời được thì giáo viên giới thiệu chú bộ đội trong tranh đang
canh gác ở vùng biên giới của tổ quốc ta, chú là chiến sĩ biên phòng).
+ Bạn nhỏ trong tranh mơ ước mai sau lớn lên làm gì ?
+ Mai sau khôn lớn, em thích làm gì ?
+ Tại sao em thích làm nghề đó ?
+ Đến câu hỏi 4 nếu học sinh không trả lời được, thì tuỳ theo các nghề
học sinh đưa ra, giáo viên gợi ý về ích lợi của nghề đó để học sinh trả lời
được câu hỏi Tại sao ?
+ Em đã nói với bố mẹ về mơ ước của em chưa ?
+ Muốn ước mơ trở thành hiện thực, bây giờ em phải làm gì ?

15


4.5. Phân các chủ đề ra thành nhiều nhóm khác nhau để lựa chọn phương
pháp và hình thức tổ chức cho phù hợp.
Đối với những chủ đề gần gũi với học sinh như chủ đề: Ba má; Bà cháu;
Quà quê; Bé và bạn bè; Người bạn tốt; Nói lời cảm ơn; Bữa cơm; … Giáo
viên chọn lựa những hình thức học tập, trò chơi gợi mở cho học sinh nói qua
vốn hiểu biết thực tế của các em. Chẳng hạn như: Chủ đề nói về gia đình “Bố
mẹ, Ba má”, “Bà cháu”… có thể cho học sinh sắm vai nhân vật thể hiện tình
cảm của ông bà, cha mẹ đã yêu thương, quan tâm, chăm sóc em . Hoặc những
tình cảm, việc làm của em thể hiện sự hiếu thảo của một người cháu, người
con đối với ông bà, cha mẹ của mình.
Với chủ đề “Nói lời cảm ơn” (TV tập 1. T 123)
Cho học sinh nhìn sách giáo khoa nêu chủ đề luyện nói.

- Yêu cầu học sinh quan sát tranh sách giáo khoa và trả lời câu hỏi:
+ Bức tranh vẽ gì ? (Cô (chị) cho bạn nhỏ quả bóng bay rất đẹp.)
+ Theo em, bạn nhỏ sẽ nói gì với cô (chị) ? (Bạn sẽ nói cảm ơn cô (chị)).
+ Em đã nói cảm ơn ai chưa, trong trường hợp nào ?
- Nếu học sinh đưa ra trường hợp mình đã nói cảm ơn thì giáo viên xem
xét và cho học sinh đóng vai theo tình huống đã gặp. Nếu học sinh không đưa
ra được thì giáo viên đưa ra một vài tình huống cho học sinh đóng vai theo
nhóm, mỗi nhóm đóng vai một tình huống. Tình huống phải thật đơn giản,
phù hợp với từng đối tượng học sinh trong lớp.
* Tình huống 1: Trời mưa, em không đem áo mưa bạn cho em cùng che
áo mưa.
* Tình huống 2: Em không may bị ngã, bạn chạy đến đỡ em dậy và phủi
quần áo, cặp sách bị bẩn cho em.
* Tình huống 3: Em bị ốm không đi học được, bạn đến nhà thăm và hướng
dẫn cho em bài học.
- Giáo viên động viên, khuyến khích để học sinh tự nhiên khi đóng vai.Học sinh đóng vai mỗi tình huống, giáo viên cùng các học sinh khác nhận xét:
Bạn đã tự nhiên khi đóng vai chưa ? Bạn đã biết nói lời cảm ơn phù hợp với

16


tình huống chưa ?
+ Vậy khi nào ta cần nói lời cảm ơn ?
- Giáo viên chốt: Cần nói lời cảm ơn khi được người khác quan tâm, giúp
đỡ, cho quà chính mình.
- Với những chủ đề lạ, khó hơn như chủ đề: Vó bè; Rừng, thung lũng,
suối, đèo; Le le; Đất nước ta tuyệt đẹp; Ba Vì; Ruộng bậc thang…Giáo viên
cho học sinh quan sát tranh thật kĩ và dùng hệ thống câu hỏi gợi mở khai thác
nội dung tranh.
Chủ đề luyện nói “Rừng, thung lũng, suối, đèo” (TV tập1. T 111)

- Giáo viên chuẩn bị tranh như sách giáo khoa được phóng to.
- Cho học sinh nêu chủ đề luyện nói.
- Treo tranh đã chuẩn bị và yêu cầu học sinh quan sát.
- Giáo viên giúp học sinh khai thác nội dung tranh bằng hệ thống câu hỏi:
+ Tranh vẽ những gì ? (học sinh có thể chỉ kể ra được những gì nhìn thấy:
rừng, núi đồi, nhà cửa, ruộng, suối).
+ Trong rừng thường có những gì ? (cây cối, chim, thú rừng,...)
- Gọi học sinh lên chỉ tranh đâu là rừng, suối, đồi núi.
+ Các em có biết nước suối như thế nào không ? (nước suối chảy suốt
ngày đêm.)
+ Các em có biết đâu là thung lũng, đâu là đèo không ?
- Giáo viên chỉ tranh và giới thiệu: phần đất trũng nằm giữa các quả đồi,
núi có thể trồng trọt là thung lũng; con đường đi qua các sườn núi là đèo.
4.6. Dạy học sinh luyện nói.
4.6.1. Xác định chủ đề luyện nói.
Giáo viên cần định hướng để học sinh hiểu rõ chủ đề luyện nói và nắm rõ
mục tiêu chính của chủ đề cần luyện nói là gì ? Chính chủ đề là điểm tựa, gợi
ý cho phần luyện nói.
Chủ đề “le le” (TV tập1. T 19)
- Giáo viên cho học sinh nêu chủ đề luyện nói (qua sách giáo khoa học
sinh nêu được chủ đề luyện nói là “le le”)

17


- Giáo viên treo tranh - yêu cầu học sinh quan sát và trả lời :
+ Trong tranh vẽ con vật gì ? (thực tế học sinh chưa biết gì về con le le
nhưng qua việc xác định tên chủ đề luyện nói, thì học sinh đều trả lời được
tranh vẽ con le le.)
- Câu hỏi gợi ý giáo viên đưa ra sao cho tất cả học sinh đều được nói và

nói được mà không đi quá xa với chủ đề.
* Khi dạy một số chủ đề luyện nói như: “Biển cả”; “Rừng, thung lũng,
suối, đèo”; “Hổ, báo, gấu, hươu, nai, voi”; “Ong, bướm, chim, cá cảnh”;
“Gió, mây, mưa, bão, lũ”, ... dễ lẫn sang việc dạy tự nhiên xã hội. Vì vậy, tôi
cố gắng giúp học sinh bằng cách gợi ý những câu hỏi thật sát với chủ đề mà
không sa đà tìm hiểu về đời sống của các động vật, sự vật, hiện tượng.
* Chủ đề “Biển cả” (TV tập1. T 101)
- Cho học sinh nêu chủ đề luyện nói (Biển cả)
- Giáo viên giúp học sinh nắm chắc mục tiêu chính của phần luyện nói:
Nói về chủ đề “Biển cả” qua những gì con thấy trong tranh và mỗi câu nói
cần chứa tiếng có vần “iên” vừa học.
Treo tranh minh hoạ phần luyện nói - Học sinh quan sát tranh
* Hệ thống câu hỏi gợi ý để học sinh nói về chủ đề:
+ Trong tranh vẽ gì ? (Tranh vẽ biển, trên mặt biển có thuyền buồm.)
+ Em thấy mặt biển thế nào ? (Mặt biển có nhiều sóng cuộn trắng xoá.)
+ Xa xa ngoài biển em còn thấy gì ? (Ở ngoài biển còn có núi.)
+ Nước biển màu gì ? (Nước biển màu xanh)
+ Em thường thấy, thường nghe nói biển có những gì ? (Ở biển có cá, tôm,
cua,...)
+ Những thuyền buồm đang đi trên biển để làm gì ? (Những thuyền buồm
đang đi trên biển để đánh bắt cá.)
+ Em có thích biển không ? Em đã được bố mẹ cho đi biển lần nào chưa ?
Ở đấy em làm gì ? ( Em được bố mẹ cho đi biển để nghỉ mát và tắm biển, em
rất thích.)
Giáo viên không nên đưa ra các câu hỏi gợi ý quá xa chủ đề như:

18


Biển có ích lợi gì ? Bảo vệ biển như thế nào ?

Với chủ đề “Nói lời cảm ơn”; “Giúp đỡ cha mẹ”; “Con ngoan, trò giỏi”,
“Những người bạn tốt” ... Nếu đi quá sâu vào chủ đề sẽ dễ lẫn sang dạy đạo
đức.Vì thế, để khắc phục điều này, tôi chỉ định hướng cho các em câu hỏi gợi
ý xoay quanh vấn đề trọng tâm cần luyện nói.
* Chủ đề “Giúp đỡ cha mẹ” (TV tập 2. T 13)
- Cho học sinh nêu chủ đề luyện nói (Giúp đỡ cha mẹ)
- Giáo viên giúp học sinh xác định mục tiêu chính của phần luyện nói: Kể
những việc em đã làm giúp đỡ cha mẹ và trong các câu luyện nói cần có tiếng
chứa vần vừa học.
- Treo tranh minh hoạ phần luyện nói - Học sinh quan sát tranh
* Các câu hỏi gợi ý để học sinh nói về chủ đề:
+ Các bạn trong tranh đang làm gì giúp đỡ cha mẹ ? (Bạn nam đang giúp
mẹ quét sân, bạn nữ giúp mẹ cho gà ăn)
+ Kể những việc em đã làm để giúp đỡ cha mẹ mình ? (nhiều học sinh kể)
* Không nên đưa ra các câu hỏi gợi ý đi quá sâu vào chủ đề như: Vì sao
em phải giúp đỡ cha mẹ ? Giúp đỡ cha mẹ để làm gì ? Cha mẹ là những người
như thế nào ?
4.6.2. Hình thức tổ chức và phương pháp dạy học luyện nói.
Do đặc điểm tình hình của học sinh đa số các em ở vùng nông thôn nên
khả năng giao tiếp còn hạn chế : các em còn nhút nhát, chưa tự tin trong
luyện nói, rất thụ động ít phát biểu. Hoặc phát biểu thì chỉ dừng lại ở chỗ trả
lời những câu hỏi cô đưa ra và câu trả lời chưa đầy đủ, chưa trọn vẹn để diễn
đạt một ý. Do vậy, để giúp cho các em làm quen và phát triển khả năng nói.
4.6.2.1. Phương pháp quan sát.
- HS quan sát tranh và diễn đạt lại những gì đã được quan sát khi nhìn
tranh. Mỗi hình vẽ trong tranh là 1 tình huống thể hiện chủ đề của bài.
- Khi học sinh đã quen với việc luyện nói, giáo viên sẽ nâng dần hình
thức, mức độ trong quá trình dạy luyện nói:

19



+ Chuẩn bị hệ thống câu hỏi gợi mở thật kỹ. Ban đầu là những câu hỏi dễ
dành cho học sinh chọn và giúp cả lớp có được những ý chính của chủ đề cần
được nói. Sau đó câu hỏi được nâng dần cao hơn, khái quát hơn.
Chủ đề “Chợ Tết” (TV tập 1. T 145)
- Giáo viên cho học sinh nhìn sách giáo khoa nêu tên chủ đề luyện nói.
* Giáo viên đưa ra một số câu hỏi mở để từng cá nhân có thể trả lời dễ
dàng khi quan sát hình vẽ về ngày Tết:
+ Tranh vẽ cảnh gì ?
+ Trong tranh em thấy có những ai và có những gì ? Họ đang làm gì ?
+ Em đã đi chợ Tết bao giờ chưa ?
* Một số câu hỏi khác khái quát hơn:
+ Mọi người khi đi chợ Tết như thế nào?
+ Bố mẹ của em thường mua những gì khi đi chợ ngày Tết ?
4.6.2.2. Phương pháp đàm thoại qua hệ thống câu hỏi.
Bước đầu chỉ dừng lại ở việc: “Thầy hỏi, trò đáp”. Dựa trên lời nói của
học sinh, giáo viên sẽ chỉnh sửa câu nói sao cho rõ, gọn, đủ ý, diễn đạt ý theo
nội dung câu hỏi xoay quanh chủ đề học sinh đã được học.
4.6.2.3. Tổ chức cho học sinh luyện nói theo hình thức cá nhân, nhóm.
- Mỗi chủ đề luyện nói mà giáo viên tổ chức hoạt động luyện nói cho các
em theo một hình thức cá nhân hay nhóm cho phù hợp với từng đối tượng học
sinh.
- Trong việc học tập theo hình thức hợp tác nhóm, trách nhiệm học tập của
mỗi thành viên được chia sẻ. Mỗi thành viên đều có trách nhiệm giúp đỡ,
động viên lẫn nhau để hoàn thành nhiệm vụ. Tổ chức dạy học nhóm là một
hình thức dạy học mới. Đó là một trong những hình thức thực hiện tốt việc
dạy học phát huy tính tích cực và tương tác của học sinh. Với hình thức này,
học sinh được hấp dẫn, lôi cuốn vào các hoạt động học, thu lượm kiến thức
bằng chính khả năng của mình với sự giúp đỡ, hướng dẫn của giáo viên.

- Dạy học theo nhóm đòi hỏi giáo viên phải chuẩn bị kĩ lưỡng kế hoạch dạy
20


học, lựa chọn những nội dung thực sự phù hợp với hoạt động nhóm và thiết
kế được các hoạt động giúp các em lĩnh hội, khám phá kiến thức mới một
cách tốt nhất và rèn luyện được các kĩ năng giao tiếp cho học sinh.
Chủ đề “Hỏi nhau về trường lớp” (TV tập 2. T 47)
- Gọi học sinh nêu yêu cầu của bài luyện nói.
- Cho 1 nhóm hai học sinh hỏi – đáp theo mẫu trong sách giáo khoa.
- Yêu cầu học sinh hoạt động theo nhóm đôi: 1 học sinh hỏi, 1 học sinh trả
lời (tự nghĩ ra các câu hỏi về trường, lớp).
- Giáo viên theo dõi các nhóm, gợi ý học sinh đặt câu hỏi (nếu thấy cần).
* Câu hỏi gợi ý:
+ Bạn học trường nào ? Lớp nào ?
+ Bạn có thích đi học không ?
+ Ở trường, bạn yêu ai nhất ?
+ Trong lớp, ai là bạn thân nhất của bạn ?
+ Bạn thích học môn gì nhất ?
- Gọi một số nhóm hỏi và đáp trước lớp
- Giáo viên cùng cả lớp nhận xét, đánh giá.
4.6.2.4. Phương pháp trò chơi học tập.
- Qúa trình tổ chức hoạt động luyện nói bằng phương pháp trò chơi học
tập sẽ làm thay đổi hình thức hoạt động của các em, tạo nên sự hứng thú, giúp
các em mạnh dạn, tự tin, tích cực tham gia trong quá trình luyện nói. Giúp các
em rèn luyện củng cố kiến thức đồng thời phát triển vốn kinh nghiệm được
tích luỹ. Bởi vì tham gia chơi trò chơi là một nhu cầu cần thiết đối với học
sinh lớp 1, có thể nói nó quan trọng như ăn, ngủ, học tập trong đời sống các
em. Chính vì vậy các em luôn tìm mọi cách và tranh thủ thời gian trong mọi
điều kiện để chơi. Được chơi các em sẽ tham gia hết sức tự giác và chủ động.

Khi chơi các em biểu lộ tình cảm rất rõ ràng như niềm vui khi thắng lợi và
buồn bã khi thất bại, vui mừng khi thấy đồng đội hoàn thành nhiệm vụ, bản
thân các em thấy có lỗi khi không làm tốt được nhiệm vụ của mình. Vì tập thể

21


mà các em khắc phục khó khăn, phấn đấu hết khả năng để mang lại thắng lợi
cho tổ, nhóm trong đó có mình. Khi tham gia chơi trò chơi, học sinh thường
thể hiện hết khả năng về sức lực, tập trung sự chú ý cao độ, trí thông minh và
sự sáng tạo của bản thân mình là rất cao.
Chủ đề “Xếp hàng vào lớp” (TV tập 2. T 11)
- Cho học sinh nêu tên chủ đề luyện nói.
- Cho học sinh quan sát tranh và nhận xét các bạn trong tranh xếp hàng
vào lớp như thế nào ?
- Chia học sinh trong lớp thành 4 tổ.
- Tổ chức cho 4 tổ chơi trò chơi thi xếp hàng vào lớp.
- Tổng kết, đánh giá xem tổ nào xếp hàng vào lớp thẳng, giãn khoảng cách
đều và nhanh nhất là thắng cuộc.
4.6.2.5. Tổ chức cho học sinh luyện nói theo Chuẩn kiến thức kĩ năng và
thể hiện sự phân hoá đối tượng học sinh.
- Khi thiết kế bài giảng và tổ chức cho học sinh luyện nói giáo viên cần
chú ý bám sát yêu cầu về Chuẩn kiến thức kĩ năng môn học, giáo dục lồng
ghép kĩ năng sống trong mỗi bài học bài học để lựa chọn phương pháp, hình
thức tổ chức và chuẩn bị hệ thống câu hỏi sao cho tất cả học sinh trong lớp
đều nói được. Song mức độ, khả năng nói của mỗi em mỗi khác: em thì nói
được 1 câu theo chủ đề, em thì chỉ biết trả lời câu hỏi về chủ đề nhưng cũng
có em có thể nói được 2 đến 3 câu theo chủ đề. Chính vì lẽ đó giáo viên cần
nắm chắc yêu cầu của Chuẩn kiến thức kĩ năng và khả năng giao tiếp của từng
em để gợi ý dẫn dắt học sinh nói hết khả năng của mình.

Chủ đề “Nói về sen” (TV tập 2. T 92)
Cây sen mọc trong đầm. Giáo viên yêu cầu học sinh nhìn tranh và nói về
sen. Đối với học sinh tiếp thu bài chậm có thể nói 1 đến 2 câu về sen qua
những gì nhìn thấy ở tranh: Lá sen màu xanh. Hoa sen màu hồng. Đối với học
sinh chưa hoàn thành nội dung bài học, môn học không nói được thì giáo viên
gợi ý bằng

22


- câu hỏi cho học sinh trả lời câu hỏi để nói về sen:
Giáo viên
+ Lá sen màu gì ?

Học sinh
+ Lá sen màu xanh.

+ Hoa và nụ sen có màu gì ?

+ Hoa và nụ sen có màu hồng.
+ Khi nở hoc sen thơm ngát.

+ Khi nở hoa sen thơm như thế nào ?
Đối với học sinh nhận thức nhanh giáo viên gợi ý để yêu cầu học sinh nói
về sen thành một đoạn từ 2 đến 3 câu.
Ví dụ: Cây sen mọc trong đầm. Lá sen màu xanh mát. Hương sen thơm
ngát, thanh khiết nên người ta dùng sen để ướp trà rất thơm.
4.6.2.6. Phương pháp quan sát, động viên khen thưởng.
- Trọng tâm ở phần luyện nói cho học sinh, tôi thường chú ý rèn kỹ năng
nói to, rõ tiếng; nói thành câu, thành đoạn hoàn chỉnh, hay, giàu cảm xúc. Với

một ngữ điệu tự nhiên, chân thành, tình cảm.
- Trong các tiết dạy, tôi thường quan tâm đến học sinh ít nói, thụ động và
đặt những câu hỏi dễ động viên các em cùng tham gia luyện nói. Đối với
những em tiếp thu bài nhanh tôi sẽ khuyến khích, gợi mở bằng những câu hỏi
khái quát hơn để giúp các em tự tin, mạnh dạn trình bày ý kiến, cảm xúc của
mình một cách chân thành.
- Tạo được không khí lớp học trở nên thân thiện, cởi mở, động viên khen
thưởng kịp thời nhằm kích thích sự hứng thú, ham học hỏi ở nơi các em.
4.6.2.7. Biện pháp tác động quan hệ thân thiện giữa thầy và trò.
Hình thức tổ chức, phương pháp dạy học luyện nói trên thì một biện pháp
dạy học góp phần đem lại hiệu quả trong mọi tiết dạy nói chung và trong khi
tổ chức hoạt động luyện nói nói riêng đó là biện pháp “Tác động vào quan hệ
thân thiện giữa thầy và trò”.
- Mối quan hệ thân thiện giữa thầy trò có ý nghĩa rất quan trọng đối với
học sinh lớp 1. Bởi trước khi vào lớp 1, đa số trẻ đã qua trường Mẫu giáo. Ở

23


đó, trẻ được vui chơi là chính; qua việc vui chơi, rèn luyện, Các em có những
hiểu biết nhất định về cuộc sống. Quan hệ giữa thầy và trò như quan hệ mẹ
với con. Cô luôn nói với trẻ bằng những lời ngọt ngào, âu yếm. Trẻ luôn nhận
được sự cổ vũ, động viên từ thầy giáo, cô giáo và bạn bè.
- Mối quan hệ thân thiện giữa thầy và trò nghĩa là người giáo viên cần
phải biết tạo ra một môi trường học tập sao cho tự nhiện, nhẹ nhàng và thoải
mái nhất. Giáo viên cần mềm hoá các câu lệnh trong giờ học, chú trọng đánh
giá mặt thành công của trẻ, đề cao sức sáng tạo của các em dù là rất nhỏ, đánh
giá thành quả, sự nỗ lực của học sinh trong chính quá trình phát triển và hoàn
thiện nhân cách của bản thân các em. Với sự khích lệ, động viên, nâng đỡ, của
người thầy giúp các em thấy được thế mạnh của mình, đồng thời tạo dựng

niềm tin vào bản thân. Có được sự ham muốn học hỏi, hứng thú với học tập,
tích cực trong nhận thức, tạo cảm giác thích thú khiến học sinh càng thêm tự
tin, phấn đấu hơn trong học tập. Và như vậy kết quả học tập vừa là điều kiện
để gây hứng thú học tập, duy trì hứng thú học tập, vừa là kết quả tất yếu của
hứng thú học tập.
4.7. Yêu cầu đối với học sinh.
- Lực lượng để quyết định lên sự thành công của một tiết dạy nào đó chính
là học sinh. Đối với học sinh thì giáo viên rất cần giúp đỡ các em thực hiện
được yêu cầu sau:
- Khi luyện nói, học sinh phải hết sức bình tĩnh, tự tin, đồng thời phải chú
ý theo dõi thái độ, sự hứng thú diễn biến tâm lí của người nghe đối với lời nói
của mình để kịp thời điều chỉnh cách nói và nội dung nói cho phù hợp yêu cầu
đề bài và hứng thú người nghe. Điều này đối với học sinh lớp 1 là khó, cần
phải giúp đỡ các em hiểu và có thói quen luyện nói hàng ngày.
- Sử dụng và lựa chọn những nghi thức lời nói đúng với cách giao tiếp.
Khi nói, phải đảm bảo tính văn hoá của lời nói: nói phải đúng lúc, đúng chỗ,
tránh thái độ thờ ơ hoặc quá nóng nảy, gay gắt khi không đồng tình với ý kiến
mọi người.
- Tránh cách nói như đọc thuộc lòng; phải nói một cách chủ động, tự

24


nhiên với nội dung phù hợp với từng kiểu lời thoại, từng thời điểm nói.
- Cần giúp học sinh thực hiện được việc giữ bình tĩnh, tự tin và chú ý đến
thái độ của người nghe trong khi mình nói.
- Giáo viên giúp học sinh lựa chọn và sử dụng đúng các nghi thức lời nói,
cũng như các từ ngữ, các kiểu câu khi luyện nói.
- Học sinh sử dụng ngữ điệu phù hợp khi nói, tránh lối nói như đọc thuộc
lòng.

4.8.Dạy thực nghiệm.
4.8.1. Mục đích của dạy thực nghiệm.
Mục đích của việc nghiên cứu Sáng kiến “Tổ chức hoạt động luyện nói
trong việc dạy học Tiếng Việt lớp 1”, thấy được những ưu, nhược điểm cơ
bản. Tôi đã tiến hành dạy thực nghiệm nhằm kiểm chứng tính khả thi của đề
tài. Thông qua kết quả đã đạt được của các tiết thực nghiệm để điều chỉnh và
rút kinh nghiệm cho quá trình dạy học của bản thân tôi.
4.8.2.Nội dung thực nghiệm.
Tôi đã tiến hành dạy 3 tiết:
- Tiết 1: Bài 30 “ua – ưa” (TV tập. T 62) (Tổ chức hoạt động luyện nói
theo hình thức cá nhân )
- Tiết 2: Bài “Bàn tay mẹ” (TV tập 2. T 55) (Tổ chức hoạt động luyện nói
theo nhóm )
- Tiết 3: Bài “Cây bàng” (TV tập 2. T127) (Tổ chức hoạt động luyện nói
thông qua trò chơi)
4.8.3.Hình thức tổ chức và phương pháp dạy thực nghiệm.
Trong ba tiết dạy thực nghiệm, tôi đã vận dụng các hình thức và kết hợp
một số phương pháp dạy học sau:
4.8.3.1. Hình thức tổ chức dạy học.
- Dạy học cá nhân
- Dạy học theo nhóm
25


×