Tải bản đầy đủ (.doc) (30 trang)

skkn sử dụng di sản vào phân môn âm nhạc thường thức lớp 6

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (2.29 MB, 30 trang )

Phần 1
THÔNG TIN CHUNG VỀ SÁNG KIẾN
1. Tên sáng kiến:
“ Sử dụng di sản vào dạy phần giới thiệu bài hát dân ca môn Âm nhạc
lớp 8”
2. Lĩnh vực áp dụng sáng kiến: Giảng dạy môn Âm nhạc
3. Tác giả:
Họ và tên: Đặng Việt Nga

Nam (nữ): Nữ.

Ngày tháng/năm sinh: 20/10/1981
Trình độ chuyên môn: Đại học SP Âm nhạc
Chức vụ, đơn vị công tác: Giáo viên
Trường THCS Cổ Thành-thị xã Chí Linh-Tỉnh Hải Dương
Điện thoại: 0976.712.881
4. Đơn vị áp dụng sáng kiến lần đầu (nếu có) : Trường THCS Cổ Thànhthị xã Chí Linh-Tỉnh Hải Dương.
Điện thoại: 0320.3881.031
5. Các điều kiện cần thiết để áp dụng sáng kiến: sách giáo khoa, máy
chiếu đa năng, băng đĩa hình, tài liệu tham khảo...
6. Thời gian áp dụng sáng kiến lần đầu: tháng 02/2014.

HỌ TÊN TÁC GIẢ (KÝ TÊN)

XÁC NHẬN CỦA CƠ QUAN
ĐƠN VỊ ÁP DỤNG SÁNG KIẾN

Đặng Việt Nga

2



TÓM TẮT SÁNG KIẾN
1. Hoàn cảnh nảy sinh sáng kiến
Nước Việt Nam của chúng ta có nền văn hóa lâu đời giàu bản sắc của 54
dân tộc anh em đặc biệt là âm nhạc dân gian hết sức phong phú và đa dạng,
trong đó một số thể loại âm nhạc đạt đến trình độ nghệ thuật đỉnh cao được
UNESCO công nhân là Di sản văn hóa thế giới như: Nhã nhạc Cung đình Huế,
Ca trù, Dân ca Quan họ Bắc Ninh, Đờn ca tài tử Nam Bộ... Tuy nhiên, nhìn từ
thực tế ai cũng thấy rõ xã hội ngày càng phát triển, sự du nhập một cách mạnh
mẽ của nhiều luồng văn hóa đương đại đã làm cho những giá trị văn hóa truyền
thống cả về vật thể và phi vật thể trong thế hệ trẻ hôm nay đang bị mai một.
Nhận thức được vấn đề đó, từ năm học 2013-2014, Bộ GD&ĐT và Bộ Văn hóa
Thể thao và Du lịch triển khai Thông tư số 73/HD-BGDĐT-BVHTHDL ngày
16/1/2013 về Sử dụng Di sản trong dạy học ở trường phổ thông trên toàn quốc,
được thực hiện lồng ghép trong các môn học Lịch sử, Địa lý và Âm nhạc.
Là một giáo viên dạy bộ môn Âm nhạc ở trường THCS, tôi luôn mong
muốn được góp sức mình cùng với những bạn đồng nghiệp xây dựng văn hóa
âm nhạc lành mạnh cho học sinh mà nền móng là âm nhạc truyền thống, đặc
biệt là giúp học sinh biết và hiểu được những giá trị của di sản văn hóa phi vật
thể thuộc lĩnh vực âm nhạc của dân tộc. Đến tháng 12 năm 2013, tôi cùng các
bạn đồng nghiệp đã được tham gia buổi tập huấn “Sử dụng di sản trong dạy học
ở trường phổ thông” do Sở GD&ĐT tổ chức. Qua buổi tập huấn đó đã cung cấp
cho tôi nhiều kiến thức bổ ích; kết hợp với sự tự học, tự nghiên cứu tài liệu,
tham khảo kiến thức qua các kênh thông tin tôi quyết định áp dụng đề tài “Sử
dụng di sản vào dạy phần giới thiệu bài hát dân ca môn Âm nhạc lớp 8”.
2. Điều kiện, thời gian, đối tượng áp dụng sáng kiến
2.1 Điều kiện: Để áp dụng sáng kiến giáo viên cần phải có những điều
kiện tối thiểu như: máy chiếu project, đầu đĩa DVD hoặc VCD, các clip biểu
diễn các thể loại âm nhạc được công nhận di sản văn hóa, các mẫu vật như
quần áo, nhạc cụ...

2.2 Thời gian: Sáng kiến được tôi thực nghiệm bắt đầu từ tháng 02 năm
2014, tiếp tục áp dụng từ tháng 09 năm 2014 và kết thúc tháng 12 năm 2014.
3


2.3 Đối tượng áp dụng: Sáng kiến được áp dụng lần đầu tiên đối với phân
môn Học hát lớp 8, cụ thể là phần giới thiệu bài khi dạy các bài hát Lí dĩa bánh
bò (Dân ca Nam Bộ) và bài hát Hò ba lí (Dân ca Quảng Nam).
3. Nội dung sáng kiến
Phân môn Học hát ở trường THCS thường thực hiện các bước đó là: Giới
thiệu bài Nghe mẫu Tìm hiểu bài Khởi động giọng Tập hát từng câu 
Hát cả bài Củng cố, kiểm tra.
Trong các bước trên thì bước Tập hát từng câu là bước quan trọng nhất,
bên cạnh đó các phần còn lại cũng không kém phần quan trọng góp phần mang
lại thành công cho bài học đặc biệt là phần giới thiệu bài vì nếu giáo viên giới
thiệu bài tốt sẽ làm cho bài giảng được sâu sắc hơn, mang lại hiệu quả giáo dục
cao hơn, đặc biệt là gây hứng thú cho học sinh ngay từ khi bước vào tiết dạy
bài hát. Trong năm học vừa qua, tôi đã mạnh dạn sử dụng các di sản văn hóa
của dân tộc vào dạy phần giới thiệu bài hát dân ca. Qua các tiết dạy có sử dụng
di sản, tôi nhận thấy học sinh học tập hứng thú, tích cực, chủ động hơn; không
khí lớp học sôi nổi hơn, học sinh nắm bài chắc hơn; đặc biệt là các em nhận
biết và hiểu được các giá trị của di sản văn hóa.
4. Khẳng định giá trị, kết quả đạt được của sáng kiến
Trong hơn một năm áp dụng sáng kiến, tôi đã thu được kết quả như mong
muốn. Ngoài việc hoàn thành mục tiêu của các tiết dạy học đảm bảo kiến thức
kỹ năng, thái độ và phát triển năng lực chuyên biệt cho học sinh thì bước đầu
tôi đã trang bị cho học sinh tình yêu nghệ thuật truyền thống, hiểu và trân trọng
những giá trị của di sản văn hóa dân tộc góp phần hình thành nhân cách tốt đẹp
cho các em.
5. Đề xuất kiến nghị để thực hiện áp dụng hoặc mở rộng sáng kiến

Với sáng kiến này có thể áp dụng vào dạy phần giới thiệu các bài hát dân
ca ở phân môn Học hát của tất cả các khối lớp ở trường THCS. Tuy nhiên trong
quá trình sử dụng di sản, giáo viên cần linh hoạt để sao cho vẫn đảm bảo được
nội dung của bài và hoàn thành mục tiêu bài học trên lớp.
Để áp dụng được tốt cần có các trang thiết bị dạy học hiện đại như: máy
chiếu đa năng, đầu đĩa DVD, máy nghe nhạc; một số mẫu vật thật như: trang
phục, nhạc cụ dân tộc..
4


PHẦN 2: MÔ TẢ SÁNG KIẾN
I. NHỮNG VẤN ĐỀ CHUNG VỀ DI SẢN

1. Khái niệm, đặc điểm và phân loại di sản văn hóa
1.1. Khái niệm về di sản văn hóa:
Di sản văn hóa Việt Nam bao gồm di sản văn hóa phi vật thể và di sản văn
hóa vật thể (bao gồm di sản văn hóa và di sản thiên nhiên) là sản phẩm tinh
thần, vật chất có giá trị lịch sử, văn hóa, khoa học, được lưu truyền từ thế hệ
này qua thế hệ khác.
1.2. Đặc điểm của di sản văn hóa Việt Nam:
Di sản văn hóa Việt Nam là những giá trị kết tinh từ sự sáng tạo văn hóa
của cộng đồng 54 dân tộc, trải qua một quá trình lịch sử lâu đời, được trao
truyền, kế thừa và tái sáng tạo từ nhiều thế hệ cho tới ngày nay. Di sản văn hóa
Việt Nam là bức tranh đa dạng văn hóa, là tài sản quý giá của cộng đồng các
dân tộc Việt Nam và là một bộ phận của di sản văn hóa nhân loại. Di sản văn
hóa Việt Nam có vai trò to lớn trong sự nghiệp dựng nước và giữ nước của
nhân dân ta.
Di sản văn hóa Việt Nam là những giá trị sáng tạo từ việc học hỏi, giao
lưu và kế thừa từ các nền văn hóa và văn minh của nhân loại. Những giá trị đó
là sự kết hợp nhuần nhuyễn giữa văn hóa và văn minh của nhân loại với nền

văn hóa bản địa lâu đời của các dân tộc Việt Nam.
Di sản văn hóa Việt Nam, đặc biệt là di sản văn hóa phi vật thể có sức
sống mạnh mẽ, đang được bảo tồn và phát huy trong đời sống của cộng đồng
các dân tộc Việt Nam. Nhà nước Cộng hòa xã hội chủ nghĩa Việt Nam bảo vệ
và phát huy giá trị di sản văn hóa thông qua Luật di sản văn hóa năm 2001 (có
hiệu lực từ 01/01/2002), được sửa đổi, bổ sung năm 2009.
1.3. Phân loại di sản:
Di sản văn hóa Việt Nam được chia thành hai loại: Di sản văn hóa vật thể
và di sản văn hóa phi vật thể.
Di sản văn hóa vật thể là sản phẩm vật chất có giá trị lịch sử, văn hóa,
khoa học, bao gồm di tích lịch sử - văn hóa, danh lam thắng cảnh, di vật, cổ vật
và bảo vật quốc gia.
5


Di sản văn hóa phi vật thể là sản phẩm tinh thần gắn với cộng đồng hoặc
cá nhân, vật thể và không gian văn hóa liên quan, có giá trị lịch sử, văn hóa,
khoa học, thể hiện bản sắc của cộng đồng, không ngừng được tái tạo và được
lưu truyền từ thế hệ này sang thế hệ khác bằng truyền miệng, truyền nghề, trình
diễn và các hình thức khác.
Di sản văn hóa phi vật thể bao gồm: Tiếng nói, chữ viết của các dân tộc
Việt Nam; Ngữ văn dân gian; Nghệ thuật trình diễn dân gian (bao gồm: Âm
nhạc, múa, hát, sân khấu và các hình thức trình diễn dân gian khác); Tập quán
xã hội, bao gồm luật tục, hương ước, chuẩn mực đạo đức, nghi lễ và các phong
tục khác; Lễ hội truyền thống; Nghề thủ công truyền thống...
2. Ý nghĩa của di sản đối với hoạt động dạy học, giáo dục phổ thông
Di sản văn hóa, dù dưới dạng vật thể hoặc phi vật thể đều có thể sử dụng
trong quá trình giáo dục, dạy học dưới hình thức tạo môi trường; tạo công cụ
hoặc là nguồn cung cấp chất liệu để xây dựng nội dung dạy học, giáo dục.
Dưới dạng công cụ, thiết bị dạy học, di sản văn hóa giúp cho quá trình học tập

của HS trở nên hấp dẫn hơn, HS hứng thú học tập và hiểu bài sâu sắc hơn, phát
triển tư duy độc lập sáng tạo, giáo dục tư tưởng, đạo đức cho HS. Ý nghĩa, vai trò
của các di sản văn hóa có thể được phân tích dưới các góc độ sau:
- Về vai trò: Di sản là một nguồn nhận thức, một phương tiện trực quan
quý giá trong dạy học nói riêng, giáo dục nói chung. Vì vậy, sử dụng di sản
trong dạy học ở trường phổ thông có ý nghĩa toàn diện:
+ Góp phần đẩy mạnh, hướng dẫn hoạt động nhận thức cho HS:
Các di sản văn hóa sử dụng trong dạy học, giáo dục đều góp phần nâng
cao tính trực quan giúp người học mở rộng khả năng tiếp cận với đối tượng,
hiện tượng liên quan đến bài học tồn tại trong di sản. Tiếp cận với di sản, HS sử
dụng hệ thống tín hiệu thứ nhất (sử dụng các giác quan như mắt-nhìn, tai
nghe…) để nghe được, thấy được, cảm nhận được và qua đó tiếp thu được
những kiến thức cần thiết từ di sản. Ngoài ra, các giá trị có trong di sản còn
được GV khai thác bằng cách đặt các câu hỏi mang tính định hướng hoặc gợi ý
cho HS tìm hiểu chúng qua đó di sản được sử dụng như là phương tiện điều
khiển quá trình nhận thức của HS.
6


+ Kích thích hứng thú nhận thức của HS:
Hứng thú nhận thức là một trong những yếu tố ảnh hưởng lớn đến cường
độ và hiệu quả của quá trình học tập. Trong quá trình tiếp cận với di sản văn
hóa theo sự hướng dẫn của GV, các hiện tượng sự vật, các giá trị ẩn chứa trong
di sản sẽ được các em tìm hiểu. Những điều tưởng như quen thuộc sẽ trở nên
hấp dẫn hơn, sống động hơn và HS sẽ có hứng thú với chúng, từ đó các em có
được động cơ học tập đúng đắn, trở nên tích cực và phấn đấu tiếp nhận kiến
thức mới cũng như có thái độ và hành vi thân thiện, bảo vệ di sản văn hóa tốt
hơn.
+ Phát triển trí tuệ của HS
Trong quá trình học tập, trí tuệ của HS được phát triển nhờ sự tích cực hóa

các mặt khác nhau của hoạt động tư duy, nhờ việc tạo ra những điều kiện thuận
lợi cho sự phát triển khác nhau của hoạt động tâm lí: tri giác, biểu tượng, trí
nhớ,….cho HS tiếp cận di sản đúng mục đích, đúng lúc với những phương
pháp dạy học phù hợp, với sự hướng dẫn chi tiết mang tính định hướng, kích
thích tư duy, GV sẽ giúp HS phát triển khả năng quan sát, khả năng xử lý thông
tin, khả năng phân tích, tổng hợp và so sánh, qua đó phát triển trí tuệ của các
em.
+ Giáo dục nhân cách HS
Di sản văn hóa là một trong những phương tiện dạy học đa dạng sống
động nhất. Ẩn chứa trong di sản là những giá trị lịch sử, văn hóa, khoa học,
được lưu truyền từ thế hệ này qua thế hệ khác nên nó có khả năng tác động
mạnh tới tình cảm, đạo đức, tới việc hình thành nhân cách của HS. Khai thác
được những giá trị ẩn chứa trong các di sản, chuyển giao cho HS để các em
cũng nhận thức được những giá trí đó, GV giúp hình thành ở HS một hệ thống
các quan điểm, các khái niệm về nhận thức thế giới xung quanh, giúp các em
nhận thức được bản chất và có cơ sở giải thích một cách khoa học các sự vật,
hiện tượng liên quan đến di sản. Tiến hành nghiên cứu di sản một cách nghiêm
túc, kỹ lưỡng cũng chính là rèn cho các em tác phong làm việc nghiêm túc,
khoa học.
+ Góp phần phát triển một số kỹ năng sống ở HS:
7


Dạy học với di sản văn hóa tạo điều kiện phát triển một số kỹ năng sống
như: Kỹ năng giao tiếp, kỹ năng lắng nghe tích cực; kĩ năng trình bày suy
nghĩ, ý tưởng, kỹ năng hợp tác, kỹ năng tư duy phê phán...
II. THỰC TRẠNG VẤN ĐỀ SỬ DỤNG DI SẢN TRONG DẠY MÔN ÂM
NHẠC Ở TRƯỜNG PHỔ THÔNG

Tính đến năm 2014, nước ta có 18 di sản văn hóa vật thể và phi vật thể

được UNESCO công nhận. Điều đó cho thấy di sản văn hóa (DSVH) Việt Nam
rất phong phú và đa dạng. Tuy nhiên việc hiểu biết, tiếp cận về di sản văn hóa
phi vật thể chỉ mới dừng lại ở các khu vực, các địa phương có di sản văn hóa
hoặc tập trung vào di sản vật thể, quan tâm tới lễ hội và văn hóa dân gian. Đối
với địa phương không có di sản văn hóa thế giới được công nhận thì còn xa lạ
đối với nhân dân địa phương nói chung và các nhà trường phổ thông nói riêng.
Bản thân tôi và các bạn đồng nghiệp, trong quá trình giảng dạy bộ môn
Âm nhạc ít sử dụng di sản văn hóa trong các tiết học do vậy dẫn đến học sinh
còn xa lạ và chưa biết đến những di sản văn hóa cũng như cái hay của di sản
văn hóa phi vật thể trong lĩnh vực âm nhạc.
Tiến hành điều tra khảo sát về sự hiểu biết của các em về di sản văn hóa
phi vật thể trong lĩnh vực âm nhạc cũng như hiểu biết về giá trị của di sản văn
hóa đó, tôi thu được kết quả như sau:
Lớp

Sĩ số

8A
8B

35
35

Số HS biết từ 05

Số HS biết từ

Số HS biết từ Số HS chưa biết

DSVH trở lên


3-4 DSVH

1-2 DSVH

về DSVH

04
05

05
07

09
07

17
16

Từ kết quả khảo sát cho thấy HS không biết đến các DSVH thì không thể
hiểu và cảm nhận được cái hay cái đẹp của DSVH dân tộc. Từ thực tế trên, tôi
đã tiến hành áp dụng đề tài “Sử dụng di sản vào dạy phần giới thiệu bài hát
dân ca môn Âm nhạc lớp 8” với mục đích trang bị cho các em kiến thức về
DSVH, về cái hay và những giá trị tinh thần to lớn của di sản đối với dân tộc
Việt Nam nói riêng và đối với thế giới nói chung.
Di sản văn hóa có thể sử dụng vào các phân môn của môn Âm nhạc ở
trường THCS đó là: phân môn Học hát và Âm nhạc thường thức. Với đề tài
này, bước đầu tôi áp dụng vào phần giới thiệu bài trong phân môn Học hát.
8



Sở dĩ tôi chọn phần giới thiệu bài hát trong phân môn Học hát vì trước đây
bước này không được tôi coi trọng trong quá trình dạy bài hát mới; vì đây là
bước gây hứng thú cho học sinh và vì các bài hát dân ca lớp 8 là những bài hát
ngắn nên giáo viên có thể áp dụng có thời gian tương đối rộng rãi để cung cấp
nhiều thông tin về di sản văn hóa cho học sinh mà không ảnh hưởng gì đến thời
lượng của tiết học và vì là bài hát dân ca nên sử dụng di sản văn hóa là rất hợp
lý và có hiệu quả cao.
III. MỤC ĐÍCH, ĐỐI TƯỢNG, PHẠM VI VÀ PHƯƠNG PHÁP NGHIÊN
CỨU

1. Mục đích nghiên cứu
- Giúp cho HS có hiểu biết về những giá trị của các di sản, qua đó giáo
dục HS ý thức gìn giữ, bảo vệ các di sản của đất nước, giáo dục đạo đức, tư
tưởng cho học sinh;
- Tìm biện pháp để quá trình học của HS trở nên hấp dẫn hơn, tạo hứng
thú trong học tập, hiểu bài sâu sắc, phát triển tư duy độc lập, rèn luyện tính tích
cực chủ động, sáng tạo; phát triển một số kỹ năng như: kỹ năng giao tiếp, kỹ
năng hợp tác, kỹ năng khai thác và xử lí thông tin...
- Thực hiện đổi mới phương pháp dạy học, đa dạng hóa hình thức tổ chức
dạy học góp phần nâng cao chất lượng, hiệu quả giáo dục, phát hiện, bồi dưỡng
nâng cao kiến thức cho học sinh.
- Phát huy năng lực tổ chức hoạt động dạy học trong và ngoài nhà trường,
nâng cao sự hiểu biết về Di sản văn hóa của Việt Nam và thế giới.
2. Đối tượng, phạm vi nghiên cứu:
- Đối tượng: Học sinh khối lớp 6 trường THCS.
- Phạm vi: Giới hạn ở phân môn Âm nhạc thường thức.
3. Phương pháp nghiên cứu: Kết hợp các phương pháp như:
+ Điều tra; Khảo sát.
+ Nghiên cứu tài liệu

+ Thực hành.
IV. HÌNH THỨC SỬ DỤNG DI SẢN VÀ CÁC DI SẢN ĐƯỢC SỬ DỤNG
TRONG DẠY MÔN ÂM NHẠC Ở TRƯỜNG PHỔ THÔNG

1. Hình thức sử dụng di sản trong dạy học môn Âm nhạc
9


Việc sử dụng di sản trong dạy học ở trường phổ thông coi như là một
phương tiện để dạy học, có nhiều ưu điểm và hiệu quả. Có nhiều hình thức sử
dụng di sản trong dạy học khác nhau. Song đặc trưng nhất vẫn là hai hình thức,
đó là Sử dụng di sản dạy học trên lớp và Dạy học tại di sản.
1.1. Sử dụng di sản dạy học trên lớp:
Đây là hình thức dễ thực hiện và thuận lợi hơn cả, không tốn kém về chi
phí đi lại. Để thực hiện giờ dạy, giáo viên lại rất vất vả vì phải đầu tư về nhiều
về thời gian để tìm hiểu kỹ nội dung bài dạy; tìm hiểu sưu tầm và chọn lọc tư
liệu phù hợp để phục vụ cho bài dạy và phải phù hợp với điều kiện của nhà
trường và của địa phương. Tư liệu về di sản được sưu tầm dưới nhiều hình thức
khác nhau:
- Băng đĩa âm thanh;
- Băng, đĩa video;
- Tranh ảnh;
- Hiện vật cụ thể;
- Các bài báo, bài nói chuyện...
Kết hợp với các phương tiện như: máy vi tính, đầu video, máy chiếu, các
nhạc cụ, loa máy...
Giáo viên cũng nên yêu cầu, giao nhiệm vụ cho HS sưu tầm các tư liệu
cần thiết phục vụ cho bài học và chuẩn bị trước ở nhà.
Trong quá trình thực hiện sáng kiến tôi đã vận dụng hình thức Sử dụng di
sản dạy học trên lớp đã mang lại hiệu quả cao trong tiết dạy âm nhạc cũng như

hiệu quả trong việc giáo dục tư tưởng, tình cảm, đạo đức và hình thành nhân
cách cho học sinh.
1.2. Dạy học tại di sản (hay còn gọi là dạy học tại thực địa):
Đây là một hình thức tương đối khó khăn và phức tạp. Nó phụ thuộc vào
điều kiện của nhà trường như: kinh phí, phương tiện, số học sinh và khả năng
tổ chức của giáo viên, thời gian để thực hiện. Để tiến hành một bài dạy học tại
di sản cần rất nhiều yếu tố, từ khâu chuẩn bị phải thật chu đáo, kĩ lưỡng. Phải
chọn địa điểm dạy học thuận lợi, phù hợp với nội dung và mục tiêu của bài học.
Giáo viên cần phải lập kế hoạch cụ thể, chi tiết và đi khảo sát thực tế địa điểm
tổ chức giờ dạy. Có những yêu cầu cụ thể và chuẩn bị trước cho HS về tư
10


tưởng, kiến thức chuyên môn và những kĩ năng cần thiết khi đi ra ngoài nhà
trường. Không nên hiểu về dạy học tại di sản như là một hình thức tổ chức cho
học sinh đi tham quan tại di sản, bảo tàng. Sau giờ học tại di sản, học sinh thu
hoạch được là kết quả đạt được như thế nào? Có những điều gì tốt hơn, hiệu
quả hơn so với giờ dạy trên lớp.
2. Các di sản được sử dụng trong dạy học Âm nhạc
Cũng như một số môn học, âm nhạc là môn học có nhiều liên quan, có khả
năng sử dụng di sản trong dạy học rất phong phú. Với môn Âm nhạc, Di sản
văn hóa dưới dạng vật thể hay phi vật thể đều có thể sử dụng tốt trong quá trình
dạy học.
2.1. Di sản văn hóa phi vật thể:
Có đến 6 di sản thế giới tại Việt Nam gắn liền với sinh hoạt văn hóa và âm
nhạc đó là: Nhã nhạc Cung đình Huế, Không gian văn hóa Cồng chiêng Tây
Nguyên, Dân ca Quan họ Bắc Ninh-Bắc Giang, Ca trù, Hát Xoan, Đờn ca tài tử
Nam Bộ.
2.1.1. Nhã nhạc Cung đình Huế


Nhã nhạc Cung đình Huế là di sản văn hóa phi vật thể đầu tiên của Việt
Nam được thế giới công nhận. Trong phần nhận định về nhã nhạc, tổ chức
Unesco đánh giá Nhã nhạc Việt Nam mang ý nghĩa “âm nhạc tao nhã”.
11


Nhã nhạc đã đề cập đến âm nhạc cung đình Việt Nam được trình diễn tại
các lễ thường niên bao gồm các lễ kỉ niệm và những ngày lễ tôn giáo cũng như
các sự kiện đặc biệt như lễ đăng quang, lễ tang hay những dịp đón tiếp chính
thức.
Năm 2003, Nhã nhạc cung đình Huế đã được Unesco công nhận là “Di
sản văn hóa phi vật thể đại diện của nhân loại”.
2.1.2. Không gian văn hóa cồng chiêng Tây Nguyên
Không gian văn hóa cồng chiêng Tây Nguyên trải dài trên 5 tỉnh gồm: Gia
Lai, Kon Tum, Đắk Lắk, Đắk Nông và Lâm Đồng. Chủ thể của không gian văn
hóa này gồm nhiều dân tộc khác nhau như Ê-đê, Bana, Mạ, Lặc...
Văn hóa cồng chiêng là loại hình nghệ thuật gắn với lịch sử văn hóa của
các dân tộc thiểu số sống dọc Trường Sơn-Tây Nguyên. Mỗi dân tộc ở Tây
Nguyên sử dụng cồng chiêng theo cách thức riêng để chơi những bản nhạc của
riêng dân tộc mình, nhất là vào dịp lễ hội, chào đón năm mới, mừng nhà mới...
Trải qua bao năm tháng, cồng chiêng đã trở thành nét văn hóa đặc trưng, đầy
sức quyến rũ và hấp dẫn của vùng đất Tây Nguyên.
Năm 2005, Không gian văn hóa cồng chiêng Tây Nguyên đã chính thức
được Unesco công nhận là “Kiệt tác di sản truyền khẩu và phi vật thể của nhân
loại”.

2.1.3. Dân ca Quan họ Bắc Ninh-Bắc Giang
Dân ca quan họ (còn gọi là dân ca quan họ Bắc Ninh, dân ca quan họ Bắc
Giang hay dân ca quan họ Kinh Bắc) là những làn điệu dân ca của vùng Đồng
12



bằng Bắc Bộ-Việt Nam; chủ yếu phát triển mạnh ở vùng ven song Cầu, một
ranh giới tự nhiên của hai tỉnh Bắc Ninh và Bắc Giang ngày nay.
Ý nghĩa của từ “Quan họ” thường được tách thành hai từ rồi lí giải nghĩa
đne về mặt từ nguyên của “quan” và của “họ”. Điều này dẫn đến những kiến
giải về Quan họ xuất phát từ “âm nhạc cung đình”, hay gắn với sự tích một ông
quan khi đi qua vùng Kinh Bắc đã ngây ngất bởi tiếng hát của liền anh liền chị
ở đó và đã dừng bước để thưởng thức (“họ”). Tuy nhiên cách lí giải này đã bỏ
qua những thành tố của không gian văn hóa quan họ như hình thức sinh hoạt
(nghi thức các phường kết họ khiến anh hai, chị hai suốt đời chỉ là bạn, không
thể thành duyên vợ chồng), diễn xướng, cách thức tổ chức giao lưu, lối sử dụng
từ ngữ đối nhau về nghĩa và thanh điệu trong sinh hoạt văn hóa đối đáp dân
gian.

Một số quan điểm lại cho rằng Quan họ bắt nguồn từ những nghi lễ tôn
giáo mang yếu tố phồn thực chú không phải là quan họ có nguồn gốc từ âm
nhạc cung đình.
Nhận định khác dựa trên phân tích ngữ nghĩa từ ngữ trong các làn điệu và
không gian diễn xướng lại cho rằng Quan họ là “quan hệ” của một nhóm những
người yêu quan họ ở vùng Kinh Bắc.
13


Tuy vậy vẫn chưa có quan điểm nào được đa số các nhà học giả chấp
nhận. Quan họ ngày nay không chỉ là lối hát giao duyên (hát đối) giữa “liền
anh” (bên nam, người nam giới hát quan họ) và “liền chị” (bên nữ, người phụ
nữ hát quan họ) mà còn là hình thức trao đổi tình cảm giữa liền anh, liền chị
với khán giả. Một trong những hình thức biểu diễn hát quan họ mới là kiểu hát
đối đáp giữa liền anh và liền chị. Kịch bản có thể diễn ra theo nội dung các câu

hát đã được chuẩn bị từ trước hoặc tùy theo khả năng ứng biến của hai bên hát.
Ngày 30 tháng 09 năm 2009, tại kỳ họp thứ 4 của Ủy ban liên chính phủ
Công ước Unesco Bảo vệ di sản văn hóa phi vật thể, Quan họ đã được công
nhận là “Di sản văn hóa phi vật thể đại diện của nhân loại”.
2.1.4.Ca trù
Hát ca trù (hay hát “ả đào”, hát “cô đầu”) là bộ môn nghệ thuật truyền
thống của miền Bắc Việt Nam, rất phổ biến trong đời sống sinh hoạt văn hóa ở
khu vực này từ thế kỷ XV. Ca trù sử dụng ba nhạc khí đặc biệt (không chỉ về
cấu tạo mà còn về cách thức diễn tấu) là đàn đáy, phách và trồng chầu. Về mặt
văn học, ca trù làm nảy sinh một thể loại văn học độc đáo là hát nói.

Hội đồng chuyên môn của Unesco đánh giá về ca trù: Ca trù đã trải qua
một quá trình phát triển ít nhất từ thế kỷ thứ XV cho đến nay, được biểu diễn
trong không gian văn hóa đa dạng gắn liền với nhiều giai đoạn lịch sử khác
14


nhau. Ca trù thể hiện một ý thức về bản sắc và sự kế tục trong nghệ thuật biểu
diễn, có tính sáng tạo, được chuyển giao từ thế hệ này sang thế hệ khác thông
qua các tổ chức giáo phường. Mặc dù trải qua nhiều biến động lịch sử, xã hội
nhưng ca trù vẫn có một sức sống riêng bởi giá trị của nghệ thuật đối với văn
hóa Việt Nam.
Ngày 1/10/2009, ca trù của Việt Nam được Unesco ghi danh vào Danh
sách “Di sản văn hóa phi vật thể đại diện của nhân loại”.
2.1.5.Hát xoan

Hát xoan là loại hình dân ca lễ nghi phong tục hát thờ thần, thành hoàng
với hình thức nghệ thuật đa yếu tố: có nhạc, hát, múa; thường được biểu diễn
vào dịp đầu xuân, phổ biến ở vùng đất tổ Hùng Vương-Phú Thọ, một tỉnh thuộc
vùng trung du Việt Nam.

Nguồn gốc của Hát xoan gắn với những giai thoại của thời đại Vua Hùng
dựng nước. Các làng xoan gốc đều là những ngôi làng cổ nằm trên địa bàn
trung tâm nước Văn Lang, vì vậy hát xoan còn được lưu truyền yếu tố văn hóa
cổ thời đại bình minh dựng nước.

15


Thường vào mùa xuân, có các phường xoan (phường xoan là một tổ
chức văn nghệ của làng, phần lớn là người có họ hàng, đứng đầu phường là
ông trùm phường-người dạy hát đồng thời là người tổ chức biểu diễn, sau ông
trùm là các cô đào trẻ) lần lượt khai xuân ở đình, miếu làng. Vào ngày mùng 5
âm lịch thường hát ở hội đền Hùng. Thời điểm hát được quy định tại một điểm
nhất định, mỗi “phường” chọn một vị trí cửa đình với mục đích là phục vụ
nhân dân địa phường kết nghĩa với nhau. Theo lệ làng tại chỗ là vai anh, họ
(làng khác) là vai em. Khi kết nghĩa rồi cấm trai gái hai bên dân và họ kết hôn
với nhau do là anh em.
Có 3 hình thức hát xoan: hát thờ cúng các Vua Hùng và thần thành
hoàng làng, hát nghi lễ cầu mùa tốt tươi, cầu sức khỏe và hát lễ hội là hình thức
để nam nữ hát giao duyên. Hát xoan có lối hát đối giao duyên nam nữ giữa đào
xoan và trai làng, hát múa mời rượu, hát tiều ngư canh mục-còn gọi là mò cá,
điệu múa hát ước vọng sinh sôi.
Ngày 24 tháng 01 năm 2011, tại Hội nghị lần thứ 6 của Ủy ban liên
chính phủ về Bảo tồn Di sản văn hóa phi vật thể của Unesco tổ chức tại Bali
(Indonesia), Hồ sơ Hát xoan Phú Thọ của Việt Nam được công nhận là “Di sản
văn hóa phi vật thể cần được bảo vệ khẩn cấp đại diện của nhân loại”.
2.1.6. Đờn ca tài tử Nam Bộ
Nghệ thuật Đờn ca tài tử Nam Bộ đã được Unesco vinh danh là “Di sản
văn hóa phi vật thể đại diện của nhân loại” vào tháng 12 năm 2013.
Đờn ca tài tử hình thành và phát triển từ cuối thế kỉ 19, bắt nguồn từ

nhạc lễ, Nhã nhạc cung đình Huế và văn học dân gian. Đờn ca tài tử là loại
hình nghệ thuật dân gian đặc trưng của vùng Nam Bộ. Đây là một loại hình
nghệ thuật của đàn và ca, do những người bình dân, thanh niên nam nữ nông
thôn Nam Bộ hát ca sau những giờ lao động.
Đờn ca tài tử xuất hiện hơn 100 năm trước, là loại hình diễn tấu có ban
nhạc gồm 4 loại là đàn kìm, đàn cò, đàn tranh và đàn bầu (gọi là tứ tuyệt), sau
này, có cách tân bằng cách thay thế độc huyền cầm bằng cây guitar phím lõm.
Những người tham gia đờn ca tài tử phần nhiều là bạn bè, chòm xóm với nhau.
Họ tập trung lại để cùng chia sẻ thú vui tao nhã nên thường không câu nệ về
trang phục.
16


Nghệ thuật Đờn ca tài tử Nam Bộ của Việt Nam được Unesco công nhận
theo các tiêu chí: Đây là loại hình nghệ thuật do cộng đồng 21 tỉnh thành miền
Nam Việt Nam cùng nhau tạo ra. Đờn ca tài tử là một phần bản sắc của người
dân phía Nam và được trao truyền từ đời này qua đời khác, được đảm bảo tính
tiếp nối liên tục.
2.2. Di sản văn hóa vật thể
Có 05 Di sản văn hóa vật thể của Việt Nam được Unesco công nhận đó
là Quần thể di tích Cố đô Huế (năm 1993), Phố Cổ Hội An (năm 1999), Thánh
địa Mỹ Sơn, (năm 1999), Khu di tích trung tâm Hoàng thành Thăng Long (năm
2010) và Thành nhà Hồ (năm 2011). Trong đó Thánh địa Mỹ Sơn có thể sử
dụng vào giảng dạy môn Âm nhạc ở THCS.
2.2.1. Thánh địa Mỹ Sơn
Thánh địa Mỹ Sơn thuộc xã Duy Phú, huyện Duy Xuyên, tỉnh Quảng
Nam, cách thành phố Đà Nẵng khoảng 69 km và cách thành cổ Trà
Kiệu khoảng 20 km, là tổ hợp bao gồm nhiều đền đài Chăm Pa, trong một
thung lũng đường kính khoảng 2 km, bao quanh bởi đồi núi. Đây từng là nơi tổ
chức cúng tế của vương triều Chăm pa cũng như là lăng mộ của các vị vua

Chăm pa hay hoàng thân, quốc thích. Thánh địa Mỹ Sơn được coi là một trong
17


những trung tâm đền đài chính của Ấn Độ giáo ở khu vực Đông Nam Á và là di
sản duy nhất của thể loại này tại Việt Nam.
Mỹ Sơn có lẽ được bắt đầu xây dựng vào thế kỷ IV. Trong nhiều thế kỷ,
Thánh địa này được bổ sung thêm các ngọn tháp lớn nhỏ và đã trở thành khu di
tích chính của văn hóa Chămpa tại Việt Nam. Ngoài chức năng hành lễ, giúp
các vương triều tiếp cận với các Thánh thần, Mỹ Sơn còn là trung tâm văn hóa
và tín ngưỡng của các triều đại Chămpa và là nơi chôn cất các vị vua, thầy tu
nhiều quyền lực. Những di vật đầu tiên được tìm thấy ghi dấu thời đại
vua Bhadravarman I (Phạm Hồ Đạt) (trị vì từ năm 381 đến 413), vị vua đã xây
dựng một Thánh đường để thờ cúng linga và Shiva. Mỹ Sơn chịu ảnh hưởng rất
lớn của Ấn Độ cả về kiến trúc - thể hiện ở các đền tháp đang chìm đắm trong
huy hoàng quá khứ, và về văn hóa - thể hiện ở các dòng bia ký bằng chữ Phạn
cổ trên các tấm bia.

Dựa trên các tấm bia văn tự khác, người ta biết nơi đây đã từng có một
đền thờ đầu tiên được làm bằng gỗ vào thế kỷ IV. Hơn 2 thế kỷ sau đó, ngôi
đền bị thiêu hủy trong một trận hỏa hoạn lớn. Vào đầu thế kỷ VII,
vua Sambhuvarman (Phạm Phạn Chi) (trị vì từ năm 577 đến năm 629) đã dùng
gạch để xây dựng lại ngôi đền còn tồn tại đến ngày nay (có lẽ sau khi dời đô
18


từ Khu Lật về Trà Kiệu). Các triều vua sau đó tiếp tục tu sửa lại các đền tháp cũ
và xây dựng các đền tháp mới để thờ các vị thần. Gạch là vật liệu tốt để lưu giữ
ký ức của một dân tộc kỳ bí và kỹ thuật xây dựng tháp của người Chàm cho tới
nay vẫn còn là một điều bí ẩn. Người ta vẫn chưa tìm ra lời giải đáp thích hợp

về chất liệu gắn kết, phương thức nung gạch và xây dựng. Thông thường người
ta hay so sánh Thánh địa này với các tổ hợp đền đài chính khác ở Đông Nam Á
như Borobudur (Java,Indonesia), Pagan (Myanma), Angkor Wat (Campuchia)
và Ayutthaya (Thái Lan).
Từ năm 1999, Thánh địa Mỹ Sơn đã đượcUNESCO chọn là một trong
các di sản thế giới tân thời và hiện đại tại phiên họp thứ 23 của Ủy ban di sản
thế giới theo tiêu chuẩn C (II) như là một ví dụ điển hình về trao đổi văn hoá và
theo tiêu chuẩn C (III) như là bằng chứng duy nhất của nền văn minh châu Á
đã biến mất.
3. Những lưu ý khi sử dụng di sản trong dạy học Âm nhạc ở THCS
- Di sản là phương tiện để hỗ trợ các nội dung trong chương trình Âm
nhạc hiện hành, chứ không phải dạy về di sản. Như vậy nội dung chương trình,
chuẩn kiến thức, kĩ năng của môn Âm nhạc không thay đổi, chỉ thay đổi về
phương tiện dạy học...
- Việt Nam có nhiều di sản, nhưng trong dạy học Âm nhạc ở THCS, chủ
yếu là dùng 5 di sản gắn liền với sinh hoạt văn hóa và âm nhạc, đó là: Nhã nhạc
cung đình Huế, Không gian văn hóa cồng chiêng Tây Nguyên, Dân ca quan họ
Bắc Ninh- Bắc Giang, Ca trù và Hát xoan. Ngoài ra, các loại di sản khác cũng
có thể được khai thác và sử dụng sao cho linh hoạt và hiệu quả.
- Các loại tư liệu về di sản:
Tư liệu về
di sản
Hình ảnh về
di sản

Mô tả
- Hình ảnh về kinh đô Huế, dàn nhã nhạc cung đình Huế,
các loại nhạc cụ dùng trong dàn nhã nhạc, ...
- Hình ảnh về không gian văn hóa cồng chiêng Tây
Nguyên: lễ hội, cồng chiêng, nhà rông, ...

- Hình ảnh về hát quan họ Bắc Ninh - Bắc Giang: hội Lim,
trang phục, hình thức hát quan họ, các liền anh liền chị, ...
19


- Hình ảnh về hát ca trù: nhạc cụ, trang phục, các nghệ
nhân...
- Hình ảnh về hát xoan ở Phú Thọ: trang phục, hát múa, ...
- Hình ảnh về đờn ca tài tử: trang phục, nhạc cụ...
- Hình ảnh Thánh địa Mỹ Sơn
- Đĩa nhạc, video về nhã nhạc cung đình Huế.
- Đĩa nhạc, video về không gian văn hóa cồng chiêng Tây
Âm thanh về
di sản

Nguyên.
- Đĩa nhạc, video về quan họ Bắc Ninh - Bắc Giang.
- Đĩa nhạc, video về hát ca trù.
- Đĩa nhạc, video về hát xoan.
- Đĩa nhạc, video trình diễn đờn ca tài tử.
- Bài viết, câu chuyện hoặc xuất xứ về nhã nhạc cung đình
Huế.
- Bài viết, câu chuyện hoặc thông tin về không gian văn hóa
cồng chiêng Tây Nguyên.

Thông tin về
di sản

- Bài viết, câu chuyện hoặc lịch sử về quan họ Bắc Ninh Bắc Giang.
- Bài viết, câu chuyện hoặc thông tin về hát ca trù.

- Bài viết, câu chuyện hoặc truyền thuyết về hát xoan.
- Bài viết, thông tin về đờn ca tài tử...
- Thông tin về Thánh địa Mỹ Sơn
- Các nhạc cụ trong dàn nhã nhạc cung đình Huế.

Hiện vật về
di sản

- Cồng chiêng Tây Nguyên.
- Bản nhạc quan họ, trang phục quan họ.
- Các nhạc cụ trong hát ca trù: đàn đáy, phách, trống chầu.
- Lời ca của bài hát xoan, trang phục biểu diễn...

4. Sử dụng di sản dạy phần giới thiệu bài hát dân ca môn Âm nhạc
lớp 8.
4.1. Quy trình dạy một bài hát: Gồm các bước sau
Bước 1: Giới thiệu bài hát
20


Bước 2: Nghe mẫu
Bước 3: Tìm hiểu bài
Bước 4: Khởi động going
Bước 5: Tập hát từng câu
Bước 6: Hát cả bài
Bước 7: Củng cố, kiểm tra.
4.2. Mục đích của giới thiệu bài
- Giới thiệu bài để học sinh biết tên bài hát, xuất xứ hoặc nội dung bài
hát. Lời giới thiệu hay sẽ gợi nên không khí tích cực và hứng thú học hát của
học sinh.

Với các bài hát dân ca hoặc bài hát nước ngoài, giáo viên nên dùng bản
đồ, tranh ảnh để giới thiệu thêm về vị trí, thiên nhiên và đời sống con người ở
nơi đó. Đôi khi cũng có thể giới thiệu mở rộng tới một số bài hát khác của cùng
tác giả, hoặc cùng chủ đề hoặc cùng vùng miền, có thể cung cấp cho học sinh
những kiến thức văn hóa cần thiết khác. Ví dụ đó là dân ca miền nào, phong tục
tập quán, đặc điểm của địa phương đó...
4.3. Sử dụng di sản vào dạy phần giới thiệu bài hát dân ca
Trên cơ sở mục tiêu của bước giới thiệu bài và căn cứ vào nội dung kiến
thức và các yêu cầu của tiết học, tôi đã sử dụng di sản văn hóa vào dạy phần
giới thiệu khi tiến hành dạy bài hát Lí dĩa bánh bò (tiết 6) và bài Hò ba lí (tiết
12).
4.3.1. Tiết 6: Học hát: Bài Lí dĩa bánh bò (Dân ca Nam Bộ)
Đối với tiết học này, tôi sử dụng di sản Đờn ca tài tử Nam Bộ để dạy
phần giới thiệu bài, kết hợp với các phương pháp trực quan, phương pháp đặt
câu hỏi, phương pháp thuyết trình...cách thức tiến hành cụ thể như sau:
- GV chiếu ảnh về dàn nhạc Đờn ca tài tử Nam Bộ (có cả các loại nhạc
cụ được sử dụng, trang phục...)
GV hỏi: ? Hình ảnh trên nhắc đến loại hình âm nhạc nào của dân tộc
ta?
HS trả lời: Cải lương, hoặc Đờn ca tài tử Nam Bộ (GV sẽ gợi ý nếu HS
trả lời chưa đúng).
21


- GV cho HS xem video trích đoạn bản “Dạ cổ hoài lang” (của Cao Văn
Lầu)
GV hỏi: ? Em hãy cho biết tên của trích đoạn trên?
? Em hãy giới thiệu vài nét về Đờn ca tài tử Nam Bộ?
=> HS trả lời
=> GV chốt và cung cấp kiến thức

? Đờn ca tài tử Nam Bộ được nhận danh hiệu rất cao quy đó là danh
hiệu gì?
- Di sản văn hóa đại diện của nhân loại
- GV chiếu tranh các tỉnh có Đờn ca tài tử
? Em hãy kể tên các tỉnh có nghệ thuật Đờn ca tài tử?
- HS kể tên
? Em có nhận xét gì về phạm vi của nghệ thuật Đờn ca tài tử?
- Phổ biến rộng rãi ở các tỉnh Nam Bộ, là đặc sản của vùng đất Nam Bộ.
- GV cho HS nghe bản nhạc Đờn ca tài tử Nam Bộ
? Em có cảm nhận gì về Đờn ca tài tử Nam Bộ?
=> HS trả lời, GV gợi y câu trả lời của HS.
? Ngoài Đờn ca tài tử Nam Bộ, em hãy kể tên các loại hình sinh hoạt âm
nhạc được Unesco công nhận là Di sản văn hóa đại diện của nhân loại ử Việt
Nam?
- GV chiếu hình ảnh và cho HS xem video về các di sản văn hóa thế giới
ở Việt Nam.
? Em có nhận xét gì về di sản văn hóa thế giới của Việt Nam?
? Là học sinh em sẽ làm gì để bảo tồn phát huy những giá trị của di sản
văn hóa của dân tộc?
=> HS tự liên hệ.
4.3.2. Tiết 12: Học hát: Bài Hò ba lí (Dân ca Quảng Nam)
Với tiết 12, tôi sử dụng di sản văn hóa vật thể Thánh địa Mỹ Sơn để giới
thiệu bài hát Hò ba lí, cụ thể như sau:
- GV chiếu tranh ảnh về Thánh địa Mỹ Sơn.
GV hỏi: ? Bức ảnh trên giới thiệu với các em địa danh nào của nước ta?
? Em có thể giới thiệu vài nét về khu Thánh địa Mỹ Sơn?
22


=> HS giới thiệu, GV bổ sung và cung cấp thêm thông tin.

? Kiến trúc của khu Thánh địa Mỹ Sơn giúp các em nhớ đến kiến trúc
đặc trưng của dân tộc nào?
- Nước Chăm pa xưa, gần giống kiến trúc đền đài của Căm-pu-chia và
Thái Lan.
GV hỏi: ? Em hãy kể tên một số di sản văn hóa vật thể được Unesco
công nhận ngoài Thánh địa Mỹ Sơn?
=> HS kể tên
=> GV chiếu hình ảnh.
? Là học sinh em sẽ làm gì để bảo tồn phát huy những giá trị của di sản
văn hóa của dân tộc?
=> HS tự liên hệ.
V. GIÁO ÁN MINH HỌA SỬ DỤNG DI SẢN TRONG TIẾT DẠY TRÊN
LỚP.

TIẾT 6:
Học hát: Bài Lí dĩa bánh bò
(Dân ca Nam Bộ)
I. MỤC TIÊU
- HS hát đúng giai điệu và lời ca bài hát Lí dĩa bánh bò một bài dân ca
nổi tiếng của Nam Bộ; biết trình bày bài hát qua một vài cách hát tập thể như
hát hoà giọng, hát lĩnh xướng.
- Có những hiểu biết sơ lược về di sản văn hóa thế giới tại Việt Nam nói
chung và thể loại Đờn ca tài tử Nam Bộ nói riêng.
- Giáo dục tình yêu quê hương đất nước, tự hào văn hóa âm nhạc truyền
thống của dân tộc; biết trân trọng, gìn giữ và cùng cộng đồng tham gia bảo vệ
giá trị của di sản văn hóa dân tộc.
- Phát triển năng lực chuyên biệt và rèn kỹ năng lắng nghe tích cực, kỹ
năng trình bày.
II. CHUẨN BỊ
1. Chuẩn bị của GV

- Đàn phím điện tử, máy tính, máy chiếu
23


- Sưu tầm tài liệu, video, đĩa nhạc, tranh ảnh về di sản văn hóa thế giới
tại Việt Nam.
2. Chuẩn bị của HS
- Tìm hiểu trước bài mới ở nhà
- Tìm hiểu về các di sản văn hóa thế giới tại Việt Nam.
III. TIẾN TRÌNH DẠY HỌC
1. Tổ chức: Kiểm tra sĩ số
- Ngày:..............Lớp: 8B:............Sĩ số:......... Vắng:....................................
2. Kiểm tra bài cũ:
- Cả lớp hát tập thể một bài để khởi động
3. Bài mới:
Hoạt động của GV và HS
GV ghi bảng

Nội dung
I/ HỌC HÁT
Bài: LÍ DĨA BÁNH BÒ

HS ghi bài

Dân ca Nam Bộ
1. Giới thiệu bài:

GV thuyết trình:
? Hình ảnh trên nhắc đến loại hình âm
nhạc nào của dân tộc ta?

=> Đờn ca tài tử Nam Bộ.
- GV cho HS xem video trích đoạn bản
“Dạ cổ hoài lang” (của Cao Văn Lầu)
?Em hãy cho biết tên của trích đoạn
trên?
? Em hãy giới thiệu vài nét về Đờn ca tài
tử Nam Bộ?
=> HS trả lời
=> GV chốt và cung cấp kiến thức
?Đờn ca tài tử Nam Bộ được nhận danh
hiệu rất cao quy đó là danh hiệu gì?
=> Di sản văn hóa đại diện của nhân loại
- GV chiếu tranh các tỉnh có Đờn ca tài tử
? Em hãy kể tên các tỉnh có nghệ thuật
24


Đờn ca tài tử?
- 21 tỉnh
? Em có nhận xét gì về phạm vi của nghệ
thuật Đờn ca tài tử?
- Phổ biến rộng rãi ở các tỉnh Nam Bộ, là
đặc sản của vùng đất Nam Bộ.
- GV cho HS nghe bản nhạc Đờn ca tài tử
Nam Bộ
? Em có cảm nhận gì về Đờn ca tài tử
Nam Bộ?
=> HS trả lời
? Ngoài Đờn ca tài tử Nam Bộ, em hãy
kể tên các loại hình sinh hoạt âm nhạc

được Unesco công nhận là Di sản văn
hóa đại diện của nhân loại ử Việt Nam?
- GV chiếu hình ảnh và cho HS xem
video về các di sản văn hóa thế giới ở
Việt Nam.
Dân ca Quan họ Bắc Ninh

Hát xoan Phú Thọ

Nhã nhạc cung đình Huế

25


? Em có nhận xét gì về di sản văn hóa thế
giới của Việt Nam?
? Là học sinh em sẽ làm gì để bảo tồn

Ca trù

phát huy những giá trị của di sản văn
hóa của dân tộc?
=> HS tự liên hệ.
GV mở đĩa nhạc
GV chiếu tranh bài hát.

Cồng chiêng Tây Nguyên

? Em hãy nhận xét về bài hát?


2. Nghe băng mẫu

- Bài viết ở nhịp 2/4 có sử dụng dấu nhắc 3. Tìm hiểu bài:
lại; bài có thể chia làm 2 câu hát.
- Bài chia làm 2 câu hát:
- Bài hát có giai điệu vui tươi, hóm hỉnh.

Câu 1: Hai tay……cho trò.

GV đàn mẫu để HS khởi động

Câu 2: ì i í………i ì i í ì.

GV tiến hành dạy theo lối móc xích:

4. Khởi động giọng:

GV đàn giai điệu câu từng câu khoảng 3

Mi...i...i...i...Ma...a...a...a...a

lần và hát mẫu để HS nghe và hát nhẩm 5. Tập hát từng câu
theo.
Câu 1: “Hai tay......... cho trò”
GV đàn và bắt nhịp cho HS hát từng câu.
GV nghe và dùng đàn sửa sai cho các em Câu 2: “ì i í……i ì i í ì”
(nếu có).
- Hát từng câu theo nhóm; chú ý từ “trời
sợ té” HS hay hát sai.
Sau khi học xong 2 câu GV cho HS hát

nối 2 câu với nhau.
- Hát nối 2 câu theo nhóm: 1-2 nhóm

6. Hát đầy đủ cả bài
26


×