Tải bản đầy đủ (.doc) (50 trang)

Làng nghề truyền thống vấn đề phát triển du lịch làng nghề thành phố hội an

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (385.04 KB, 50 trang )

Chuyên đề tốt nghiệp
GVHD: ThS. Trần Ngọc Quyền

LỜI CAM ĐOAN
Tôi xin cam đoan Chuyên đề được thực hiện bằng công sức của mình,
không sao chép từ công trình khác. Mọi thông tin tham khảo đều được trích dẫn
đầy đủ. Nếu có gì gian dối tôi xin chịu hoàn toàn trách nhiệm.

Hội An, ngày 4 tháng 5 năm 2016
Sinh viên thực hiện

Trần Thị Ngân Hà

SVTH: Trần Thị Ngân Hà
K46 TC&QLSK


Chuyên đề tốt nghiệp
GVHD: ThS. Trần Ngọc Quyền

LỜI CẢM ƠN
Qua quá trình nghiên cứu tìm hiểu tài liệu và thực tế về hiện trạng phát triển
du lịch làng nghề tại các làng nghề thành phố Hội An hiện nay tôi đã có những tư
liệu để hoàn thành đề tài nghiên cứu của mình.
Một lần nữa cho tôi gửi lời cảm ơn của mình đến Ban Giám Hiệu Khoa Du
Lịch - Đại Học Huế, đến các thầy cô trong Khoa đã giúp tôi trong suốt quá trình
thực hiện đề tài mà trực tiếp là Thầy Trần Ngọc Quyền – giáo viên hướng dẫn.
Đồng thời, tôi xin cảm ơn Trung tâm VH_TT , phòng Thương mại- du lịch
thành phố Hội An đã giúp đỡ cung cấp thông tin, số liệu cho tôi trong quá trình
nghiên cứu để tôi có thể hoàn thành đề tài nghiên cứu của mình.
Đề tài này chắc sẽ còn nhiều thiếu sót, rất mong có được ý kiến nhận xét,


đánh giá của hội đồng để đề tài của tôi được hoàn chỉnh hơn và có thể đưa vào áp
dụng trong thực tiễn phát triển du lịch làng nghề tại thành phố Hội An.
Tôi xin chân thành cảm ơn!

Hội An, ngày 4 tháng 5 năm 2016
Sinh viên thực hiện

Trần Thị Ngân Hà

SVTH: Trần Thị Ngân Hà
K46 TC&QLSK


Chuyên đề tốt nghiệp
GVHD: ThS. Trần Ngọc Quyền

MỤC LỤC
PHẦN I. ĐẶT VẤN ĐỀ................................................................................................................................................ 1
1. LÍ DO CHỌN ĐỀ TÀI
2. MỤC TIÊU NGHIÊN CỨU

1
2

PHẦN II. NỘI DUNG VÀ KẾT QUẢ NGHIÊN CỨU........................................................................................................ 4
CHƯƠNG 1. CƠ SỞ LÝ LUẬN VỀ VẤN ĐỀ NGHIÊN CỨU..............................................................................................4
1.1. KHÁI NIỆM LÀNG NGHỀ VÀ LÀNG NGHỀ TRUYỀN THỐNG
4
1.2. DU LỊCH LÀNG NGHỀ TRUYỀN THỐNG
5

1.3. MỐI QUAN HỆ GIỮA LÀNG NGHỀ TRUYỀN THỐNG VÀ HOẠT ĐỘNG DU LỊCH
7
1.3.1. Sự cần thiết trong việc khôi phục và phát triển làng nghề truyền thống trong việc phát triển du lịch..........7
1.3.2. Mối quan hệ giữa làng nghề truyền thống và hoạt động du lịch...................................................................9
1.4. LÀNG NGHỀ TRUYỀN THỐNG VIỆT NAM
11
CHƯƠNG 2: THỰC TRẠNG CÁC LÀNG NGHỀ TRUYỀN THỐNG PHỤC VỤ DU LỊCH Ở THÀNH PHỐ HỘI AN..................15
2.1. TIỀM NĂNG DU LỊCH THÀNH PHỐ HỘI AN
15
2.2. LÀNG NGHỀ TRUYỀN THỐNG THÀNH PHỐ HỘI AN
19
2.2.1. Giới thiệu chung về làng nghề truyền thống Hội An.....................................................................................19
2.2.2. Thực trạng phát triển làng nghề và du lịch làng nghề truyền thống Hội An................................................21
2.2.3. Những vấn đề tồn tại trong việc phát triển làng nghề.................................................................................25
2.3. NHẬN XÉT CHUNG
28
CHƯƠNG III. GIẢI PHÁP PHÁT TRIỂN DU LỊCH LÀNG NGHỀ TRUYỂN THỐNG THÀNH PHỐ HỘI AN............................30
3.1. MỤC TIÊU VÀ ĐỊNH HƯỚNG PHÁT TRIỂN
30
3.1.1. Định hướng...................................................................................................................................................30
3.1.2. Mục tiêu........................................................................................................................................................31
3.2. ĐỊNH HƯỚNG CHUNG VỀ PHÁT TRIỂN LÀNG NGHỀ VÀ LÀNG NGHỀ TRUYỀN THỐNG HỘI AN
31
3.2.1. Đẩy mạnh công tác bảo tồn làng nghề truyền thống...................................................................................31
3.2.2. Đầu tư xây dựng phát triển làng nghề và du lịch làng nghề truyền thống Hội An.......................................32
3.2.3. Đầu tư để xây dựng, cải tạo, nâng cấp hệ thống cơ sở hạ tầng, cơ sở vật chất kĩ thuật phục vụ phát triển
làng nghề và du lịch làng nghề...............................................................................................................33
3.2.4. Đa dạng hóa sản phẩm du lịch làng nghề....................................................................................................33
3.2.5. Tăng cường hoạt động quảng bá, quảng cáo du lịch cho làng nghề truyền thống......................................34
3.2.6. Phát triển nguồn nhân lực tại các làng nghề truyền thống..........................................................................35

3.3. GIẢI PHÁP CHO CÁC LÀNG NGHỀ
36
3.3.1. Giải pháp chung............................................................................................................................................36
3.3.2. Giải pháp riêng cho từng làng nghề.............................................................................................................38
3.3.2.1. Làng gốm Thanh Hà..............................................................................................................................................38
3.3.2.2. Làng rau Trà Quế...................................................................................................................................................39
3.3.2.3. Làng mộc Kim Bồng...............................................................................................................................................40

PHẦN III. KẾT LUẬN VÀ KIẾN NGHỊ.......................................................................................................................... 42
1. KẾT LUẬN
2. KIẾN NGHỊ

42
43

SVTH: Trần Thị Ngân Hà
K46 TC&QLSK


Chuyên đề tốt nghiệp
GVHD: ThS. Trần Ngọc Quyền

SVTH: Trần Thị Ngân Hà
K46 TC&QLSK


Chuyên đề tốt nghiệp
GVHD: ThS. Trần Ngọc Quyền
DANH MỤC BẢNG BIỂU
BẢNG 1. SỐ HỘ LÀM NGHỀ TRUYỀN THỐNG GIAI ĐOẠN 2013-2015

BẢNG 2. DOANH THU TỪ CÁC LÀNG NGHỀ
BẢNG 3. SỐ LƯỢT KHÁCH ĐẾN THAM QUAN LÀNG NGHỀ

22
23
24

SVTH: Trần Thị Ngân Hà
K46 TC&QLSK


Chuyên đề tốt nghiệp
GVHD: ThS. Trần Ngọc Quyền

PHẦN I. ĐẶT VẤN ĐỀ
1. Lí do chọn đề tài
Trong xu thể hội nhập và mở cửa, làng nghề truyền thống đang dần lấy lại vị
trí quan trọng của mình trong đời sống kinh tế, văn hóa, xã hội của mỗi địa phương.
Những làng nghề này như một hình ảnh đầy bản sắc, khẳng định nét riêng biệt, độc
đáo không thể thay thế. Một cách giới thiệu sinh động về đất nước và con người của
mỗi vùng, miền, địa phương. Phát triển dịch vụ du lịch làng nghề truyền thống
chính là một hướng đi đúng đắn và phù hợp, được nhiều địa phương ưu tiên trong
chính sách quảng bá và phát triển du lịch. Những lợi ích to lớn của việc phát triển
du lịch làng nghề truyền thống không chỉ giúp tăng trưởng lợi nhuận kinh tể, giải
quyết việc làm cho lao động địa phương mà hơn thế nữa, còn là một cách thức gìn
giữ và bảo tồn những giá trị văn hóa của dân tộc. Đó là những lợi ích lâu dài không
thể tính được trong ngày một ngày hai.
Nền kinh tế xã hội ngày càng phát triển, nhu cầu về sản phẩm thủ công ngày
càng cao, việc yêu cầu các sản phẩm đó giá cả phù hợp, bền, đẹp lại không gây tác
dụng phụ cho con người, thân thiện với môi trường là hoàn toàn cần thiết. Vì vậy,

đã có rất nhiều người chuyển sang làm nghề thủ công, họ truyền nghề cho nhau dần
dần hình thành các làng nghề. Làng nghề chính là một nét đặc trưng của nông thôn
Việt Nam. Khắp mọi miền trên Tổ quốc đâu đâu cũng có làng nghề thủ công, mỗi
làng nghề lại sản xuất một mặt hàng thủ công truyền thống khác nhau, mang tính
đơn nhất. Ta có thể kể ra đây những làng nghề nổi tiếng như: Làng gốm Bát Tràng
(Hà Nội); làng gốm Chu Đậu, làng thêu Xuân Nẻo (Hải Dương); làng tranh Đông
Hồ, làng gỗ Đồng Kị (Bắc Ninh),…
Mặt khác, trong công cuộc hiện đại hóa đất nước hiện nay, cuộc sống đô thị
chật chội cùng với sự ô nhiễm môi trường, ô nhiễm tiếng ồn, căng thẳng trong công
việc làm cho con người tìm đến những không gian thoáng đãng, không khí trong
lành ngày càng nhiều. Có những người tìm về những vùng núi non có những rừng
cây xanh mát hay những làng quê thanh bình. Ở Việt Nam với nhiều làng quê và
những làng nghề truyền thống đã thu hút được nhiều khách du lịch. Và ở đây, chúng
ta không thể không nhắc đến Hội An.
SVTH: Trần Thị Ngân Hà

1

K46 TC & QLSK


Chuyên đề tốt nghiệp
GVHD: ThS. Trần Ngọc Quyền
Hội An là một trong những điểm du lịch hấp dẫn của khu vực miền Trung và
cả nước, trở thành đô thị loại III vào năm 2006, là đô thị văn hóa đầu tiên và điển
hình của cả nước. Ở dải đất miền Trung với nhiều di sản thế giới, trong đó, phố cổ
Hội An được UNESCO công nhận là di sản thế giới, hàng năm đón hàng triệu du
khách trong và ngoài nước đến thăm. Du khách đến với Hội An không chỉ biết đến
các địa danh du lịch nổi tiếng như: Khu Phố cổ Hội An, khu du lịch sinh thái Thuận
Tình, Cẩm Thanh…mà còn biết đến một số làng nghề thủ công truyền thống nổi

tiếng như: Làng gốm Thanh Hà, Làng mộc Kim Bồng, Làng rau Trà Quế, Làng lụa
Mã Châu, đúc đồng Phước Kiều...
Mỗi làng nghề ở Hội An đều mang phong thái và màu sắc riêng. Trải qua
hàng trăm năm, nghề và các làng nghề đã tồn tại và phát triển ở đây như một phần
không thể tách rời lịch sử mỗi làng quê, thôn xóm của vùng đất này.
Bên cạnh đó, Hội An là một di sản văn hóa thế giới, là địa bàn có vị trí thuận
lợi ở gần 2 di sản văn hoá thế giới: Cố đô Huế và khu đền tháp Mỹ Sơn, là trung
điểm giao lưu của cả nước tạo điều kiện thuận lợi cho việc giao lưu hàng hoá, du
lịch; con người Hội An lại cần cù, chịu khó, có tay nghề cao...
Xuất phát từ những lí do trên, tôi đã lựa chọn đề tài “ Làng nghề truyền
thống- vấn đề phát triển du lịch làng nghề thành phố Hội An” nhằm tìm hiểu về
các làng nghề truyền thống thành phố Hội An, phản ánh thực trạng sản xuất hàng
thủ công ở các làng nghề và ý nghĩa đối với việc phát triển du lịch; đánh giá tiềm
năng phát triển du lịch của làng nghề để từ đó đưa ra các giải pháp nhằm bảo tồn,
duy trì và phát triển các làng nghề truyền thống, dựa vào những lợi thế có sẵn để
phát triển du lịch làng nghề truyền thống Hội An.
2. Mục tiêu nghiên cứu
a. Mục tiêu chung
Nghiên cứu, rà soát và đánh giá một số chính sách phát triển làng nghề gắn
với du lịch, từ đó, đề xuất giải pháp hoàn thiện chính sách thúc đẩy phát triển bền
vững làng nghề thành phố Hội An trong thời gian tới.
b. Mục tiêu cụ thể

SVTH: Trần Thị Ngân Hà

2

K46 TC & QLSK



Chuyên đề tốt nghiệp
GVHD: ThS. Trần Ngọc Quyền
- Hệ thống hóa lý luận về làng nghề truyền thống và du lịch làng nghề
truyền thống.
- Đánh giá thực trạng ban hành và thực hiện chính sách phát triển làng nghề
thành phố Hội An trong giai đoạn 2013-2015;
- Đề xuất giải pháp hoàn thiện chính sách thúc đẩy phát triển bền vững làng
nghề Hội An trong thời gian tới.
c. Đối tượng và phạm vi nghiên cứu
- Đối tượng nghiên cứu: Nghiên cứu về ba làng nghề (gốm Thanh Hà, mộc
Kim Bồng, rau Trà Quế) có những sản phẩm mang đầy đủ nét văn hóa truyền thống
và khả năng phục vụ khai thác du lịch.
- Phạm vi nghiên cứu:

+ Về không gian : Địa bàn thành phố Hội An
+ Về thời gian: Giai đoạn 2013- 2015

d. Phương pháp nghiên cứu
Nghiên cứu và xây dựng đề tài là một nghiên cứu khoa học đòi hỏi chính xác
cao, phải dựa trên một cơ sở lí luận nhất định. Để xây dựng và hoàn thành đề tài,
người viết đã dựa trên những phương pháp nghiên cứu sau:
- Phương pháp khảo sát thực địa và thu thập tài liệu: Để thực hiện đề tài này
tôi tiến hành thu thập tài liệu liên quan từ sách, báo, tài liệu, số liệu thống kê, báo
cáo của thành phố Hội An và các phòng, ban liên quan của thành phố.
- Phương pháp thống kê, phân tích, tổng hợp
e. Bố cục
Ngoài phần mở đầu, kết luận, tài liệu tham khảo, phục lục khóa luận được
chia làm 3 chương:
- Chương I: Cơ sở lí luận về làng nghề truyền thống và du lịch làng nghề
truyền thống.

- Chương II: Thực trạng làng nghề truyền thống Hội An
- Chương III: Một số giải pháp phát triển du lịch làng nghề truyền thống.

SVTH: Trần Thị Ngân Hà

3

K46 TC & QLSK


Chuyên đề tốt nghiệp
GVHD: ThS. Trần Ngọc Quyền

PHẦN II. NỘI DUNG VÀ KẾT QUẢ NGHIÊN CỨU
CHƯƠNG 1. CƠ SỞ LÝ LUẬN VỀ VẤN ĐỀ NGHIÊN CỨU
1.1. Khái niệm làng nghề và làng nghề truyền thống
Làng nghề là một cụm dân cư sinh sống trong một thôn (làng) có một hay một
số nghề được tách ra khỏi nông nghiệp để sản xuất kinh doanh độc lập. Thu nhập từ
các nghề đó chiếm tỷ trọng cao trong tổng giá trị sản phẩm của toàn làng. Còn nếu nói
về làng nghề truyền thống thì có rất nhiều quan điểm được đưa ra bàn luận.
Quan niệm về làng nghề truyền thống:
Quan niệm thứ nhất: Làng nghề truyền thống là một cộng đồng dân cư, cư trú
trong một phạm vi địa bàn tại các vùng nông thôn tách rời khỏi sản xuất nông nghiệp,
cùng làm một hoặc nhiều nghề thủ công có truyền thống lâu đời, để sản xuất ra một
hoặc nhiều loại sản phẩm bán ra thị trường để thu lợi. Quan niệm này mới thể hiện
được yếu tố truyền thống lâu đời của làng nghề, còn những làng nghề mới, những
tuân thủ yếu tố truyền thống của vùng hay của khu vực chưa được đề cập đến.
Quan niệm thứ hai: Làng nghề truyền thống là những làng nghề làm nghề
thủ công, thường là qua nhiều thế hệ. Quan niệm này cũng chưa đầy đủ bởi vì khi
nói đến làng nghề truyền thống ta không thể chỉ chú ý đến các mặt đơn lẻ, mà phải

chú trọng đến nhiều mặt trong cả không gian và thời gian, nghĩa là quan tâm đến
tính hệ thống, toàn diện của làng nghề đó, trong đó, yếu tố quyết định là nghệ nhân,
sản phẩm, kỹ thuật sản xuất và thủ pháp nghệ thuật.
Quan niệm thứ ba: Làng nghề truyền thống là những làng có tuyệt đại đa số
bộ phận dân số làm nghề cổ truyền. Nó được hình thành, tồn tại và phát triển lâu đời
trong lịch sử, được nối tiếp từ thế hệ này sang thế hệ khác kiểu cha truyền con nối
hay ít nhất cũng tồn tại hàng chục năm. Trong làng sản xuất mang tính tập trung, có
nhiều nghệ nhân tài hoa và một nhóm người có tay nghề giỏi làm hạt nhân để phát
triển nghề. Đồng thời, sản phẩm làm ra mang tính tiêu biểu độc đáo, tinh xảo, nổi
tiếng và đậm nét văn hóa dân tộc. Giá trị sản xuất và thu nhập tiểu thủ công nghiệp
ở làng chiếm tỷ lệ 50% so với tổng giá sản xuất và thu nhập của làng trong năm.
Đây là khái niệm được xem là tương đối đầy đủ, bởi vì những làng nghề
được coi là làng nghề truyền thống hay cổ truyền phải là những làng nghề có các
làng nghề thủ công truyền thống, được hình thành, tồn tại, phát triển lâu đời, được

SVTH: Trần Thị Ngân Hà

4

K46 TC & QLSK


Chuyên đề tốt nghiệp
GVHD: ThS. Trần Ngọc Quyền
truyền từ đời này sang đời khác, sản xuất tập trung, có nhiều thế hệ nghệ nhân tài ba
và đội ngũ thợ lành nghề, sản phẩm mang tính tiêu biểu và độc đáo.
Để xác định một làng nghề là làng nghề tuyền thống chỉ cần có những tiêu
thức sau:
• Số hộ và số lao động làm nghề truyền thống ở làng đạt trên 50% trở lên so
với tổng số hộ và lao động của làng.

• Giá trị sản xuất và thu nhập từ ngành nghề truyền thống ở làng đạt trên
50% tổng giá trị sản xuất và thu nhập của làng trong năm.
• Sản phẩm làm ra có tính mỹ nghệ mang đậm nét yếu tố văn hóa và bản sắc
văn hóa dân tộc Việt Nam.
• Sản xuất có quy trình công nghệ nhất định, được truyền từ thế hệ này sang
thế hệ khác.
Như vậy, từ những cách tiếp cận trên, có thể định nghĩa làng nghề truyền
thống là những thôn/làng có một hay nhiều nghề thủ công truyền thống được tách ra
khỏi nông nghiệp để sản xuất kinh doanh và đem lại nguồn thu nhập chiếm chủ yếu
trong năm. Những nghề thủ công đó được truyền từ đời này sang đời khác, thường
là nhiều thế hệ. Cùng với thử thách của thời gian, các làng nghề thủ công này đã trở
thành nghề nổi trội, một nghề cổ truyền, tinh xảo, có quy trình công nghệ nhất định
và sống chủ yếu bằng nghề đó. Sản phẩm làm ra có tính mỹ nghệ và đã trở thành
hàng hóa trên thị trường.
1.2. Du lịch làng nghề truyền thống
Nhìn chung, khái niệm du lịch làng nghề truyền thống vẫn còn khá mới mẻ ở
nước ta. Du lịch làng nghề truyền thống thuộc loại hình du lịch văn hóa. Du lịch
làng nghề truyền thống đang là loại hình du lịch thu hút được sự quan tâm của nhiều
du khách trong và ngoài nước. Xu hướng hiện đại ngày nay, với cuộc sống căng
thẳng nhiều áp lực, thì con người quay về với những giá trị văn hóa truyền thống
của dân tộc. Nhu cầu đi du lịch về những miền nông thôn, làng nghề truyền thống
ngày càng cao, vậy du lịch làng nghề truyền thống là gì? Trước hết phải hiểu thế
nào là du lịch văn hóa, vậy du lịch văn hóa là:
Theo Tiến sĩ Trần Nhạn trong: “Du lịch và kinh doanh du lịch” thì: “ Du lịch
văn hóa là loại hình du lịch mà du khách muốn thẩm nhận bề dày lịch sử, di tích văn

SVTH: Trần Thị Ngân Hà

5


K46 TC & QLSK


Chuyên đề tốt nghiệp
GVHD: ThS. Trần Ngọc Quyền
hóa, những phong tuc tập quán còn hiện diện…Bao gồm hệ thống đình, chùa, nhà
thờ, lễ hội, các phong tục tập quán về ăn, ở, mặc, giao tiếp,…”[1, tr15]
Đối với làng nghề truyền thống thì đó là nơi chứa đựng kho tàng kinh
nghiệm kỹ thuật, bí quyết nghề nghiệp từ việc sử dụng nguyên liệu, kỹ thuật chế tác
đến chủ đề sáng tạo trong việc tạo ra một sản phẩm thủ công truyền thống. Đó chính
là phần văn hóa phi vật thể. Ngoài ra làng nghề truyền thống còn có các giá trị văn
hóa vật thể khác như: Đình, chùa, các di tích có liên quan trực tiếp đến các làng
nghề, các sản phẩm thủ công của làng nghề thủ công truyền thống…
Khách du lịch đến đây chính là để tìm hiểu các giá trị văn hóa đó. Vì vậy mà
du lịch làng nghề truyền thống được xếp vào loại hình du lịch văn hóa. Từ đó, ta có
thể hiểu du lịch làng nghề truyền thống như sau:
“Du lịch làng nghề truyền thống là một loại hình du lịch văn hóa mà qua đó
du khách được thẩm nhận các giá trị văn hóa vật thể và phi vật thể có liên quan mật
thiết đến một làng nghề cổ truyền của một dân tộc nào đó”.
Điều kiện phát triển du lịch làng nghề truyền thống:
Xu hướng ngày nay con người đi du lịch hướng về các giá trị văn hóa cổ
xưa, việc phát triển du lịch làng nghề là vô cùng cần thiết vì nó sẽ mang lại rất
nhiều thuận lợi cho cả hoạt động du lịch và sự phát triển của làng nghề. Phát triển
du lịch làng nghề đem lại lợi nhuận cho địa phương đó, giải quyết được công ăn
việc làm cho một lượng lớn lao động tại chỗ, cải thiện đời sống Nhân dân, góp phần
bảo tồn, phát triển các làng nghề thủ công truyền thống, giữ lại những nét đẹp văn
hóa độc đáo có một không hai của dân tộc.
Làng nghề truyền thống là nguồn tài nguyên du lịch nhân văn vô cùng quý
giá, để phát triển được du lịch làng nghề truyền thống cần có những điều kiện nhất
định. Trước hết, phải có những điều kiện tồn tại và phát triển làng nghề:

- Thuận tiện cho việc giao thương: Đây là yếu tố quan trọng để một làng
nghề có thể phát triển, vì gần đường giao thông sẽ thuận lợi cho việc vận chuyển,
thông thương giữa làng nghề và các vùng khác.
- Gần nguồn nguyên liệu để có thể liên tục phát triển sản xuất.
- Lao động và tập quán sản xuất của từng vùng. Muốn du lịch làng nghề
truyền thống phát triển cần những điều kiện sau:
+ Làng nghề đó phải có sản phẩm độc đáo, đặc trưng.
+ Gần các danh lam thắng cảnh để có thể kết nối tour du lịch.
SVTH: Trần Thị Ngân Hà

6

K46 TC & QLSK


Chuyên đề tốt nghiệp
GVHD: ThS. Trần Ngọc Quyền
+ Phải có các cơ sở vật chất kĩ thuật, cơ sở hạ tầng phục vụ cho du lịch.
1.3. Mối quan hệ giữa làng nghề truyền thống và hoạt động du lịch
1.3.1. Sự cần thiết trong việc khôi phục và phát triển làng nghề truyền thống
trong việc phát triển du lịch
Trong điều kiện hiện nay, khi cuộc cách mạng khoa học công nghệ hiện đại
phát triển như vũ bão, tác động vào quá trình công nghiệp hóa, hiện đại hóa ở nước
ta cùng với xu thế hội nhập kinh tế toàn cầu thì làng nghề truyền thống có nguy cơ
bị mai một dần theo thời gian. Với lợi thế thiên nhiên ban tặng cho nước ta thì việc
phát triển du lịch được xem là một trong những lĩnh vực hàng đầu góp phần vào sự
phát triển nhanh nền kinh tế của đất nước.
Nhìn chung, các làng nghề truyền thống vẫn tồn tại nhưng chủ yếu là phát
triển một cách tự phát nên thiếu ổn định và kém bền vững. Ngoài ra, Nhà nước chưa
có các chính sách đồng bộ, phù hộ với thực trạng các làng nghề hiện nay nên chưa

tạo lập được thị trường tiêu thụ các sản phẩm thủ công truyền thống, chưa phát triển
được đội ngũ nghệ nhân tài hoa trong các làng nghề truyền thống... Vì vậy, việc các
làng nghề truyền thống ngày càng mai một, đội ngũ nghệ nhân tài hoa ngày càng
giảm, một số nghề truyền thống mất hẳn,...là điều tất yếu xảy ra. Điều này đã ảnh
hưởng rất lớn đến phát triển du lịch ở nước ta. Do đó, việc phải khôi phục và phát
triển làng nghề truyền thống hiện nay là rất cần thiết, đóng vai trò quan trọng trong
việc phát triển du lịch ở nước ta, biểu hiện cụ thể là:
Thứ nhất, phát triển ngành nghề tiểu thủ công nghiệp và làng nghề là một
trong những nhân tố có tính quyết định đến sự phát triển, nhất là khu vực nông thôn.
Bởi vì, phát triển ngành nghề tiểu thủ công nghiệp và làng nghề trong nông thôn sẽ
góp phần thúc đẩy phát triển cơ sở hạ tầng nông thôn, cải tạo và giữ gìn môi trường
sinh thái trong các cộng đồng dân cư nhất là trong quá trình phát triển các ngành
nghề và làng nghề truyền thống gắn với du lịch sinh thái và du lịch làng nghề, cải
thiện và nâng cao mức sống cho cư dân nông thôn.
Thứ hai, do nhu cầu, thị hiếu của du khách ngày càng hướng về các sản
phẩm và dịch vụ ở các làng nghề truyền thống cung cấp. Sự phát triển của các nghề
và làng nghề truyền thống đã góp phần đáp ứng thỏa mãn nhu cầu tiêu dùng một số
sản phẩm thiết yếu của xã hội, đồng thời từng bước đa dạng hóa sản phẩm phục vụ
SVTH: Trần Thị Ngân Hà

7

K46 TC & QLSK


Chuyên đề tốt nghiệp
GVHD: ThS. Trần Ngọc Quyền
du lịch trên địa bàn. Do mức sống của người dân trong nước ngày càng được nâng
cao cùng với việc phát triển giao lưu văn hóa giữa các nước trong quá trình hội
nhập và mở cửa nên nhu cầu hàng thủ công mỹ nghệ ngày càng lớn, đặc biệt là các

trung tâm du lịch trong nước và địa phương.
Thứ ba, do sự phát triển theo hướng ngày càng đa dạng hóa các loại hình du
lịch. Ngày nay, ngoài những loại hình du lịch cổ điển thì du lịch làng nghề là loại
hình du lịch phổ biến trên thế giới và ở Việt Nam. Nó có ý nghĩa to lớn về mặt kinh
tế- xã hội, văn hóa và giáo dục. Nhu cầu của du khách theo đó mà phát triển ngày
càng đa dạng, phong phú từ sản phẩm đặc trưng của từng vùng miền, từng làng
nghề cho đến dịch vụ phục vụ cho chuyến du lịch...
Vì vậy, việc khôi phục và phát triển của làng nghề truyền thống cũng là một
trong những nội dung quan trọng nhằm phục vụ và đáp ứng nhu cầu của du khách
ngày một phong phú hơn, mặt khác tạo ra nhiều sản phẩm mới độc đáo, đặc trưng
riêng có của từng làng nghề để phục vụ du khách... Qua đó, thương hiệu du lịch
Việt Nam được quảng bá với các nước trong khu vực và trên thế giới.
Thứ tư, là giải quyết việc làm cho lao động ở các vùng nông thôn.Sự khôi
phục, phát triển các làng nghề truyền thống đã thu hút được hàng ngàn lao động
nông thôn có việc làm ổn định, tăng thu nhập cho các hộ lao động, nâng cao đời
sống cho cư dân nông thôn tại các địa phương nói riêng và trên cả nước nói chung.
Trong điều kiện hiện nay, ở nông thôn đất đai canh tác ngày càng ít, nguồn
vốn hạn hẹp...do đó, lượng lao động dư thừa ngày càng lớn. Vì vậy, phát triển làng
nghề truyền thống ở nông thôn là biện pháp hữu hiệu để giải quyết việc làm cho
người lao động. Việc phát triển làng nghề truyền thống ở nông thôn với nhiều
ngành nghề phong phú với nhiều loại hình đa dạng thì không chỉ thu hút lao động ở
gia đình, làng xã mình mà còn thu hút được nhiều lao động từ các địa phương khác
đến làm thuê đồng thời kéo theo nhiều dịch vụ khác phát triển, tạo thêm nhiều việc
làm mới cho người lao động.
Thứ năm, nhằm giữ gìn bản sắc văn hóa dân tộc Việt Nam trước xu thế hội
nhập kinh tế và văn hóa với các nước trong khu vực và trên thế giới, tránh “ hòa
nhập chứ không hòa tan”. Từ xa xưa, người nước ngoài hiểu Việt Nam, quan hệ mật
thiết với Việt Nam, trước hết là từ yếu tố văn hóa. Làng nghề truyền thống là một sự

SVTH: Trần Thị Ngân Hà


8

K46 TC & QLSK


Chuyên đề tốt nghiệp
GVHD: ThS. Trần Ngọc Quyền
kết tinh giá trị văn hóa văn minh lâu đời của dân tộc Việt Nam. Các sản phẩm thủ
công truyền thống vừa phản ảnh những nét văn hóa chung của dân tộc, vừa có
những nét riêng của làng nghề.
Làng nghề truyền thống là cả một môi trường kinh tế- xã hội và văn hóa, nó
bảo lưu những tinh hoa văn hóa nghệ thuật và kỹ thuật truyền thống mang đậm bản
sắc văn hóa dân tộc. Bởi vậy, việc khôi phục, bảo tồn và phát triển các làng nghề
truyền thống là góp phần tích cực, quan trọng vào việc giữ gìn bản sắc văn hóa dân
tộc Việt Nam trong quá trình công nghiệp hóa, hiện đại hóa.
1.3.2. Mối quan hệ giữa làng nghề truyền thống và hoạt động du lịch
Hệ thống làng nghề truyền thống là một trong những tài nguyên du lịch quan
trọng của nước ta. Theo các chuyên gia, tiềm năng du lịch làng nghề truyền thống
Việt Nam hiện nay rất lớn, mỗi làng nghề gắn với một vùng văn hóa, hệ thống di
tích và truyền thống riêng. Tuy nhiên, để làng nghề du lịch phát triển tương xứng về
tiềm năng còn là cả một quá trình lâu dài.
Điểm chung của các làng nghề truyền thống là thường nằm ở trung tâm hoặc
gần các đô thị lớn, các trục giao thông đường bộ, đường sông, do đó rất thuận tiện
cho việc xây dựng các tour, tuyến du lịch làng nghề. Hiện nay, các tỉnh thành như
Hà Tây, Hồ Bình, Bắc Ninh, Thừa Thiên- Huế, Đà Nẵng....đang triển khai mạnh mẽ
loại hình du lịch này. Tuy nhiên, nhìn chung hiệu quả còn chưa cao. Một số làng
nghề như gốm Bát Tràng, lụa Vạn Phúc, mộc Đồng Kỵ, tranh Đông Hồ, đá Non
Nước...đã thu hút khá nhiều khách du lịch, nhưng vẫn chỉ ở mức độ tự phát.
Nguyên nhân trước hết là sự thiếu phối hợp giữa các ngành liên quan trong

xây dựng, quy hoạch du lịch làng nghề. Sự biến động của thị trường, khó khăn
trong cạnh tranh, tiêu thụ hàng hóa khiến nhiều làng nghề chỉ còn hoạt động cầm
chừng, không tạo được môi trường du lịch có sức hút mạnh. Bên cạnh đó, các yếu
tố về cơ sở hạ tầng, vệ sinh môi trường cảnh quan cũng cần được chú trọng.
Thực tế hiện nay, du khách muốn đến tận làng nghề để tham quan, tìm hiểu về
các vị tổ nghề hoặc danh nhân văn hóa. Và hơn thế, nhiều người muốn tận tay tham gia
vào quá trình sản xuất ra sản phẩm ấy, thậm chí đó là một sản phẩm theo ý tưởng, mẫu
thiết kế riêng của du khách. Đáp ứng được những nhu cầu đó. Các làng nghề nước ta sẽ

SVTH: Trần Thị Ngân Hà

9

K46 TC & QLSK


Chuyên đề tốt nghiệp
GVHD: ThS. Trần Ngọc Quyền
là điểm dừng chân thú vị và độc đáo của du khách trong nước lẫn quốc tế, bởi đó sẽ là
kỷ niệm thú vị với họ, tránh sự nhàm chán, đơn điệu cho du khách.
Trong khai thác du lịch làng nghề, các đơn vị đưa khách đến cần thực hiện
phân chia lợi nhuận thu được qua các hình thức đóng góp xây dựng đối với cộng
đồng làng nghề. Đồng thời, nên bố trí một hệ thống dịch vụ, bán sản phẩm, đồ lưu
niệm cho du khách, giúp tăng thu nhập cho nhân dân trong vùng.
Việc phát triển các làng nghề truyền thống có lợi thế về du lịch thành các
làng nghề truyền thống phục vụ du lịch sẽ thực sự hấp dẫn với du khách khi ngành
du lịch các địa phương quan tâm thực hiện những dự án đầu tư đúng mức, thiết
thực, mang tính bền vững. Bên cạnh đó là công tác quảng bá, thu hút khách và giúp
các làng nghề tiêu thụ sản phẩm, duy trì sản xuất.
Đối với kinh tế - xã hội, du lịch có nhiều tác động mạnh mẽ, du lịch đóng vai

trò rất quan trọng trong việc phát triển các làng nghề truyền thống:
-Du lịch giúp tạo ra nhiều công ăn việc làm cho dân cư địa phương, thu hút
nguồn lao động từ các vùng lân cận, tăng thêm thu nhập và góp phần cải thiện đời
sống cho nhân dân.
- Góp phần làm tăng doanh thu và tăng doanh số bán sản phẩm thủ công truyền
thống trong các làng nghề thông qua việc bán hàng lưu niệm cho du khách. Đây cũng
là một hình thức xuất khẩu tại chỗ không phải chịu thuế và hạn chế được rủi ro.
- Du lịch phát triển tạo thêm cơ hội đầu tư cho các làng nghề truyền thống. Tạo cơ hội xuất khẩu sản phẩm thủ công truyền thống tại làng nghề.
- Tăng cường thu nhập ngoại tệ.
- Phân phối lại nguồn thu nhập.
- Tạo cơ hội giao lưu văn hóa bản địa và văn hóa của khách du lịch nước ngoài.
- Góp phần chuyển dịch cơ cấu kinh tế ở nông thôn, chuyển dịch lao động
nông nghiệp sang lĩnh vực dịch vụ.
- Kích thích phát triển cơ sở hạ tầng thông qua hoạt động du lịch.
- Bảo tồn các giá trị văn hóa truyền thống quý báu của làng nghề.
- Khôi phục và phát triển các ngành nghề thủ công truyền thống đã bị mai một
trong nền kinh tế thị trường và quá trình công nghiệp hóa, hiện đại hóa đất nước.
Du lịch và làng nghề có mối quan hệ qua lại tác động lẫn nhau. Du lịch góp
phần thúc đẩy phát triển kinh tế xã hội làng nghề truyền thống theo hướng tích cực
bền vững, nâng cao chất lượng cuộc sống cho người dân bản địa phương. Ngược
lại, đối với hoạt động du lịch làng nghề truyền thống cũng có tác động tích cực.

SVTH: Trần Thị Ngân Hà

10

K46 TC & QLSK


Chuyên đề tốt nghiệp

GVHD: ThS. Trần Ngọc Quyền
Làng nghề truyền thống là một loại tài nguyên du lịch nhân văn có khả năng thu hút
khách du lịch, làm phong phú thêm tài nguyên du lịch góp phần vào mục tiêu phát
triển chung. Cụ thể là:
Các làng nghề truyền thống thường ở vùng nông thôn, mỗi làng nghề là một
môi trường văn hóa kinh tế xã hội và công nghệ truyền thống lâu đời.
Bên trong làng nghề chứa đựng những nét văn hóa thuần Việt, không gian
văn hóa nông nghiệp cây đa, giếng nước, sân đình, những câu hát dân gian, cánh cò
trắng lũy tre xanh,…Đằng sau lũy tre làng là những mảng màu trầm mặc, những nét
tinh hoa văn hóa của dân tộc, hiền hòa, yên ả khiến cho du khách ghé thăm đều có
cảm giác yên lành thư thái. Có thể nói rằng du lịch làng nghề truyền thống sẽ là địa
chỉ lí tưởng để du khách tham quan tìm hiểu các giá trị văn hóa, các phong tục tập
quán lễ hội…Đặc biệt du khách sẽ không khỏi ngỡ ngàng khi bắt gặp những sản
phẩm thủ công độc đáo và có thể mua những món đồ lưu niệm tinh tế.
- Ngoài ra làng nghề còn là nơi sản xuất ra những sản phẩm thủ công mỹ
nghệ đặc biệt, có giá trị sử dụng và giá trị nghệ thuật cao, đặc trưng cho cả một dân
tộc, địa phương…Du khách đến du lịch làng nghề truyền thống không chỉ thỏa mãn
được nhu cầu được chiêm ngưỡng tìm hiểu các giá trị văn hóa độc đáo mà còn có
dịp mua sắm cho mình hoặc người thân những món đồ thủ công tinh tế, độc đáo đáp
ứng nhu cầu mua sắm lớn của du khách.
- Làng nghề truyền thống là tài nguyên du lịch nhân văn góp phần thu hút số
lượng lớn khách du lịch, làm cho hoạt động du lịch thêm phong phú đa dạng, nhiều
lựa chọn hấp dẫn cho du khách.
- Ngoài ra làng nghề truyền thống còn làm đa dạng hóa sản phẩm du lịch.
1.4. Làng nghề truyền thống Việt Nam
* Quá trình hình thành các làng nghề truyền thống Việt Nam
Việt Nam nằm trong khu vực có điều kiện tự nhiên, khí hậu phù hợp, động
thực vật đa dạng, phong phú, thuận lợi cho săn bắt hái lượm; nhiều quặng sắt, thiếc,
đồng thuận lợi chế tác đồ thủ công. Việt Nam còn là đất nước hình thành Nhà nước
sớm nhất Đông Nam Á. Việt Nam có một cộng đồng văn hóa khá rộng lớn được

hình thành vào khoảng nửa đầu thiên niên kỉ thứ hai trước công nguyên và phát
triển rực rỡ vào cuối thế kỉ 15 của Đại Việt.

SVTH: Trần Thị Ngân Hà

11

K46 TC & QLSK


Chuyên đề tốt nghiệp
GVHD: ThS. Trần Ngọc Quyền
Các làng nghề truyền thống ở Việt Nam đã được hình thành từ rất sớm, qua
thời gian và các giai đoạn thăng trầm của lịch sử làng nghề truyền thống Việt Nam
vẫn tồn tại và phát triển mạnh mẽ. Có thể tóm tắt sơ lược như sau:
Theo dấu vết khảo sát nghiên cứu các di chỉ khảo cổ, vết tích người Vượn ở
di chỉ khảo cổ núi Đọ (Thanh Hóa) có thể thấy hàng vạn công cụ đồ đá ghè, đẽo,
thô sơ như mảnh tước, rìu tay, nạo,…Chứng tỏ đã có sự chế tác, dùng các công cụ
bằng tre như: gậy, lao, cung tên, thừng bện,…Nghề thủ công đã sớm hình thành và
có vai trò nhất định ngay từ thời nguyên thủy.
Ngay từ thời văn hóa Phùng Nguyên một nền văn hóa tiền sử thuộc sơ kì thời
đại đồ đồng, cuối thời đại đồ đá mới, cách đây gần 4000 đến 3500 năm người ta đã
tìm thấy nhiều cổ vật. Cư dân Phùng Nguyên đã biết chế tạo đồ gốm đơn giản và đồ
trang sức bằng đá bán quý, đã có khuôn đúc đồng, rìu đá mài nhỏ, vòm đá, hạt
chuỗi đá, chuốt gọt tinh vi. Theo đánh giá của các nhà khảo cổ học thì dân cư Phùng
Nguyên là những người đã định cư ổn định và sống theo từng cụm dân cư làng xã
chặt chẽ và thực sự có những khu vực sản xuất thủ công, mỹ nghệ. Người ta đã tìm
thấy ở di chỉ Phùng Nguyên 1138 chiếc rìu, 59 đục, 3 giáo, 2 mũi nhọn, 7 mũi tên, 1
cưa, 189 bàn mài, 540 vòng tay, 8 khuyên tai, 34 hạt chuỗi, 3 đồ trang sức và hàng
chục vạn mảnh gốm.

Giai đoạn Đồng Đậu (giữa thời đại Đồng Thau) có khuôn đúc, rìu, mũi tên
bằng đồng có ngạnh,…
Giai đoạn Gò Mun (thời đại Đồng Thau cường thịnh) vô số công cụ sinh
hoạt được đúc thau phát triển, đặc biệt dấu tích thời kì Đông Sơn khẳng định trống
đồng Ngọc Lũ và thạp đồng Đào Thịnh (khai quật ở Yên Bái) đã chứng minh trình
độ thủ công của thời kì dựng nước thật tinh xảo, điều đó cho thấy thời kì này đã có
sự phân công lao động, tổ chức lao động.
Đến giai đoạn các nhà Lý, Trần, Lê - nghề thủ công phát triển rực rỡ cực
thịnh với sự phát triển của nghề đồ gốm, sáng tạo ra nhiều loại men gốm đẹp, quý
hiếm có giá trị nghệ thuật cao. Cùng với đó là nhiều công trình kiến trúc nghệ thuật,
cung điện, công trình tôn giáo,…
Thời Lý tập trung nhiều thợ thủ công giỏi với nhiều sáng tạo độc đáo. Thời
Lý là thời đại phục hưng đất nước, rất nhiều làng nghề phát triển như làng thêu,
làng mộc, làng điêu khắc,…Nhiều vùng đất thông thương, giao lưu với nhau nên
SVTH: Trần Thị Ngân Hà

12

K46 TC & QLSK


Chuyên đề tốt nghiệp
GVHD: ThS. Trần Ngọc Quyền
kinh tế phát triển. Thời Lý có nhiều nghệ nhân tài hoa với nhiều thành tựu về nghề
thủ công mỹ nghệ. Được như vậy là do thời Lý có chế độ công tượng tập trung
nhiều thợ giỏi về Thăng Long chuyên xây dựng chùa chiền, cung điện, Nhà nước
chăm lo cho đời sống của thợ thủ công nên yên tâm sáng tạo.
Văn hóa thời Trần là sự tiếp nối văn hóa thời Lý nhưng sang đến thời Trần do
chiến tranh liên miên nên Nhân dân không thể an cư lạc nghiệp, thợ thủ công ít có cơ
hội sáng tạo, nghệ thuật sản xuất thủ công không thể phát triển mạnh như thời Lý.

Đến thời Lê các nghề thủ công vẫn tiếp tục phát triển, có nhiều thợ thủ công
giỏi, các sản phẩm thủ công cũng đạt được đến độ tinh xảo. Đặc biệt là nghệ thuật
điêu khắc chạm lộng.
Thời Nguyễn do chiến tranh nhiều nên nền kinh tế suy sụp, Nhân dân không
được sống yên ổn, các thợ thủ công giỏi không phát huy được, vì vậy mà thời này
nghề thủ công không thể phát triển được.
Từ khi thực dân Pháp xâm lược, nghề thủ công một lần nữa tàn lụi, thực dân
Pháp đã biến Việt Nam thành thị trường tiêu thụ của chúng. Hàng hóa tư bản Pháp
như: đường, rượu, giấy, vải…tràn ngập thị trường Việt Nam, giá rẻ, chất lượng tốt
lại nhiều mẫu mã mới nên phần lớn hàng thủ công của nước ta không cạnh tranh
được. Nhiều nghề thủ công đã bị phá sản như: kéo sợi, tơ lụa, dệt vải,…Nhiều thợ
thủ công phải bỏ nghề.Tuy vậy, một số nghề thủ công vẫn phát triển vì máy móc tư
bản không thể thay thế được bàn tay tài hoa khéo léo của người nghệ nhân như các
nghề mộc, gốm, khảm trai, mây tre đan, thêu,…vẫn phát triển ngoài ý muốn của
thực dân Pháp.
Từ năm 1954, sau khi hòa bình lập lại, ngành thủ công nghiệp nước ta bước
sang thời kì mới, là giai đoạn được Nhà nước khuyến khích, nhiều ngành nghề thủ
công được phát triển, có một số ngành nghề đã thất truyền nay được khôi phục và tiếp
tục phát triển. Cũng trong thời kì này đã bắt đầu có sự xuất hiện của các nhóm và hợp
tác xã tiểu thủ công nghiệp mới được thành lập. Lúc này không chỉ có “làng nghề”
nữa mà còn xuất hiện cả “hợp tác xã nghề thủ công”. Và đến ngày mùng 6 tháng 6
năm 1961, Đại hội đầu tiên của những người thợ thủ công toàn miền Bắc được tổ
chức, thông qua điều lệ và bầu ban chủ nhiệm Trung ương lãnh đạo toàn ngành. Từ
đó ngành tiểu thủ công nghiệp đã có vị trí xứng đáng trong nền kinh tế quốc dân.

SVTH: Trần Thị Ngân Hà

13

K46 TC & QLSK



Chuyên đề tốt nghiệp
GVHD: ThS. Trần Ngọc Quyền
Ngày nay, khi nền kinh tế xã hội ngày càng phát triển hiện đại hơn thì ngành
tiểu thủ công nghiệp vẫn đang có những đóng góp tích cực không nhỏ vào tổng thể
tăng trưởng chung của nền kinh tế. Các ngành nghề thủ công truyền thống vẫn đang
từng ngày từng giờ góp phần cải thiện đời sống nhân dân, góp phần đắc lực vào
chuyển dịch cơ cấu kinh tế.
* Lịch sử hình thành và phát triển
Làng nghề Việt Nam, làng nghề thủ công, làng nghề truyền thống hoặc làng
nghề cổ truyền,…thường được gọi ngắn gọn là làng nghề, là những làng mà tại đó
hầu hết dân cư tập trung vào làm một nghề duy nhất nào đó; nghề của họ làm
thường có tính chuyên sâu cao và mang lại nguồn thu nhập cho dân làng.
Cùng với sự phát triển của nền văn minh nông nghiệp từ hàng ngàn năm
trước đây, nhiều nghề thủ công cũng đã ra đời tại các vùng nông thôn Việt Nam,
việc hình thành các làng nghề bắt đầu từ những nghề ban đầu được cư dân tranh thủ
làm lúc nông nhàn, những lúc không phải là mùa vụ chính.
Bởi lẽ, trước đây kinh tế của người Việt cổ chủ yếu sống dựa vào việc trồng
lúa nước mà nghề làm lúa không phải lúc nào cũng có việc. Thông thường chỉ những
ngày đầu vụ hay những ngày cuối vụ thì người nông dân mới có việc làm nhiều, vất
vả như: cày bừa, cấy, làm cỏ (đầu vụ) cho đến gặt lúa, phơi khô…, còn những ngày
còn lại thì nhà nông rất nhàn hạ, rất ít việc để làm. Từ đó nhiều người đã bắt đầu tìm
kiếm thêm công việc phụ để làm nhằm mục đích ban đầu là cải thiện bữa ăn và
những nhu cầu thiết yếu hàng ngày về sau là tăng thêm thu nhập cho gia đình.
Theo thời gian, nhiều nghề phụ ban đầu đã thể hiện vai trò to lớn của nó,
mang lại lợi ích thiết thực cho cư dân. Như việc làm ra các đồ dùng bằng mây, tre,
lụa,…phục vụ sinh hoạt hay đồ sắt, đồ đồng phục vụ sản xuất. Nghề phụ từ chỗ chỉ
phục vụ nhu cầu riêng đã trở thành hàng hóa để trao đổi, đã mang lại lợi ích kinh tế
to lớn cho người dân vốn trước đây chỉ trông chờ vào các vụ lúa. Từ chỗ một vài

nhà trong làng làm, nhiều gia đình khác cũng làm theo, nghề từ đó mà lan rộng ra
phát triển trong cả làng, hay nhiều làng gần nhau.
Và cũng chính nhờ những lợi ích khác nhau do các nghề thủ công đem lại
mà trong mỗi làng bắt đầu có sự phân hóa. Nghề đem lại lợi ích nhiều thì phát
SVTH: Trần Thị Ngân Hà

14

K46 TC & QLSK


Chuyên đề tốt nghiệp
GVHD: ThS. Trần Ngọc Quyền
triển mạnh dần, ngược lại những nghề mà hiệu quả thấp hay không phù hợp với
làng thì dần dần bị mai một. Từ đó bắt đầu hình thành nên những làng nghề
chuyên sâu vào một nghề duy nhất nào đó, như làng gốm, làng làm chiếu, làng
làm lụa, làng làm đồ đồng,…
Những phát hiện về khảo cổ học, những cứ liệu lịch sử đã chứng minh được
các làng nghề Việt Nam đã ra đời từ hàng ngàn năm trước đây, các làng nghề
thường tập trung chủ yếu ở các vùng châu thổ lớn như châu thổ sông Hồng, tại Hà
Nội, Hà Tây, Bắc Ninh, Thái Bình, Nam Định…

CHƯƠNG 2: THỰC TRẠNG CÁC LÀNG NGHỀ TRUYỀN THỐNG
PHỤC VỤ DU LỊCH Ở THÀNH PHỐ HỘI AN
2.1. Tiềm năng du lịch thành phố Hội An
Hội An may mắn được thiên nhiên ban tặng cho những điều kiện tự nhiên
thuận lợi và được thừa hưởng một di sản văn hoá thế giới vô giá. Đó là quần thể di
tích kiến trúc khu phố cổ cùng với những giá trị văn hoá phi vật thể độc đáo còn
được bảo tồn khá nguyên vẹn.
* Điều kiện tự nhiên, xã hội, dân cư:

Hội An một thành phố cách thành phố Đà Nẵng 30 km về phía Đông Nam và
cách thành phố Tam Kỳ (tỉnh Quảng Nam) khoảng 55 km về phía Đông Bắc. Phía
Đông nối với biển Đông qua cửa Đại, phía Tây giáp hai huyện Điện Bàn và Duy
Xuyên, phía Nam giáp huyện Duy Xuyên, phía Bắc giáp huyện Điện Bàn, đều
thuộc tỉnh Quảng Nam.
Địa hình Hội An đa dạng và phức tạp, có nhiều sông ngòi, mương lạch, cồn
nổi, rừng dừa nước ngập mặn, cửa sông, cửa biển, biển đảo, núi rừng. Kết quả
nghiên cứu địa chất cho biết các cồn cát cổ nhất của khu vực Hội An được tạo
SVTH: Trần Thị Ngân Hà

15

K46 TC & QLSK


Chuyên đề tốt nghiệp
GVHD: ThS. Trần Ngọc Quyền
thành cách đây 10.000 năm. Môi trường tự nhiên đã ưu đãi cho Hội An các nguồn
tài nguyên như: các loại hải sản như tôm, cá tươi ngon nổi tiếng từ biển Cửa Đại;
rừng Cù Lao Chàm có nhiều lâm sản, dược liệu, động vật quý, đặc biệt có yến sào
– một loại thực phẩm và dược liệu quý; đất đai phù sa ven sông màu mỡ thích hợp
cho nhiều loại cây trồng. Phía đông Hội An là biển Đông, bờ biển dài 7 km có cửa
sông sâu, ngư trường rộng lớn, có đảo Cù Lao Chàm cung cấp nhiều tài nguyên
quý hiếm và là bức bình phong trên biển che chắn sóng, tạo nhiều điều kiện thuận
lợi cho tàu thuyền cập bến. Cù Lao Chàm còn là vùng lõi của khu Dự trữ sinh
quyển thế giới được UNESCO công nhận vào năm 2003 và ngày nay đã trở thành
điểm du lịch hấp dẫn.
Đặc điểm về vị trí địa lý, cấu trúc địa chất và lịch sử làm cho khí tượng, thủy
văn, địa hình, địa mạo của Hội An khá phong phú và đa dạng. Hội An vừa có đô thị
cổ, đô thị mới; vừa có đồng bằng, vừa có biển, hải đảo, tạo nên nguồn tài nguyên

dồi dào về lâm, thổ, hải sản...Phần lớn diện tích tự nhiên của Hội An được bao bọc
bởi hệ thống sông lớn nhỏ, mương lạch chằng chịt và bị chia cắt bởi những bãi, dốc,
cồn cát..và những rừng dừa nước.
Theo kết quả điều tra ngày 01/04/2009, Hội An có diện tích 6.068 km2, dân
số 82.850 người, chia thành 9 phường và 4 xã. Các phường gồm: Cẩm An, Cẩm
Châu, Cẩm Nam, Cẩm Phô, Cửa Đại, Minh An, Sơn Phong, Tân An, Thanh Hà ;
các xã gồm: Cẩm Hà, Cẩm Kim, Cẩm Thanh, Tân Hiệp (xã đảo nằm trên Cù lao
Chàm). Có nhiều đơn vị cơ quan, trường học trực thuộc Tỉnh và Trung ương đóng
trụ sở tại Hội An.
* Các giá trị văn hóa vật thể và phi vật thể của Hội An
Nhờ có các yếu tố trong và ngoài nước, sau thế kỷ XV, thương cảng Hội An
được hình thành. Đến thế kỷ XVII–XVIII, Hội An trở thành một đô thị – thương
cảng phồn thịnh. Thương thuyền các nước đã cập bến đến buôn bán ở Hội An. Qua
bao biến động của lịch sử, tác động bởi thời gian nhưng Hội An vẫn bảo tồn gần
như nguyên trạng quần thể kiến trúc đô thị cổ quý báu cùng những giá trị văn hóa
tinh thần vô giá.
* Không gian kiến trúc phố cổ Hội An:

SVTH: Trần Thị Ngân Hà

16

K46 TC & QLSK


Chuyên đề tốt nghiệp
GVHD: ThS. Trần Ngọc Quyền
Quá trình giao lưu kinh tế – văn hóa trong mấy trăm năm từ thế kỷ XVI đến
thế kỷ XIX, vào thời kỳ đô thị - thương cảng Hội An hình thành và phát triển, đã
tạo cho đô thị cổ Hội An có được hầu hết các loại hình kiến trúc cổ của Việt Nam.

Hội An chính là một mô hình cảng thị truyền thống ở Đông Nam Á được bảo tồn
nguyên vẹn và chu đáo. Hệ thống các di tích với mức độ tập trung khá dày đặc mà
hiếm có nơi nào sánh được. Theo số liệu điều tra của Trung tâm Quản lý bảo tồn di
sản văn hóa Hội An (tính đến cuối năm 2001) trên địa bàn Hội An hiện có 1.352 di
tích, trong đó có 1.268 di tích kiến trúc nghệ thuật thuộc các công trình dân dụng
(nhà ở, cầu, giếng, chợ), công trình tín ngưỡng (đình, chùa, lăng miếu, hội quán,
nhà thờ tộc) và công trình đặc thù (mộ). Mỗi loại hình kiến trúc đều có những đặc
điểm, sắc thái riêng và đều góp phần tăng thêm tính phong phú, đa dạng văn hóa
của đô thị cổ Hội An.
Trong đó, hạt nhân cơ bản là quần thể di tích kiến trúc khu phố cổ được xem
như một “bảo tàng sống”, bởi từ bao đời nay thị dân Hội An vẫn “sống cùng phố cổ,
sống với phố cổ, sống vì phố cổ”. Hàng ngày cuộc sống đời thường diễn ra trong
lòng phố cổ, từng công trình kiến trúc cổ đều in đậm, hằn sâu nếp sống, lối sống
văn hóa đặc trưng của con người Hội An.
* Đời sống sinh hoạt kinh tế, văn hóa, tinh thần:
Ngoài những giá trị văn hoá qua các di sản kiến trúc đa dạng, Hội An còn
lưu giữ một nền tảng văn hoá phi vật thể độc đáo.
Cũng nhờ vai trò lịch sử của mình, cộng với những giá trị độc đáo của một đô
thị cổ từ di sản mà các thế hệ trước đã để lại, cư dân Hội An ngày nay đã xây dựng
nên cơ cấu kinh tế đa ngành nghề và đã biết tận dụng thế mạnh của một di sản văn
hoá thế giới để phát triển các ngành dịch vụ để phục vụ cho du lịch. Dưới tác động
của hoạt động du lịch, các làng nghề cổ truyền ở Hội An lại được hồi sinh và phát
triển mạnh mẽ.
Văn hóa của cộng đồng cư dân Hội An có sự đan xen, hòa quyện giữa các
yếu tố Việt – Hoa, Hoa – Việt, Chăm – Việt... Các lễ hội phong phú, đặc sắc. Ngư
dân có các lễ hội: cầu ngư – tế cá Ông – đua thuyền. Nông dân có các lễ hội nông
nghiệp như: tết Nguyên Đán, tết Nguyên Tiêu, tết Đoan Ngọ, tết Trung Thu, lễ Cầu
Bông, lễ rước Long Chu, ngày hội bắp nếp Cẩm Nam, ngày hội cây Quật cảnh Cẩm

SVTH: Trần Thị Ngân Hà


17

K46 TC & QLSK


Chuyên đề tốt nghiệp
GVHD: ThS. Trần Ngọc Quyền
Hà… Các lễ hội vía Thiên Hậu Thánh Mẫu, Quan Thánh Đế Quân, Tài Thần… của
cư dân thương nghiệp. Các lễ hội này vốn đã hình thành từ lâu, nay lại được khôi
phục. Bên cạnh đó, đời sống ẩm thực với các món ăn truyền thống, kho tàng văn
hóa dân gian muôn hình, muôn vẻ với các truyền thuyết, huyền thoại, cổ tích, huyền
thoại, ngụ ngôn, cùng với những lời hát ru dạt dào, những điệu hò khoan trữ tình,
những câu dân ca bài chòi nồng thắm… đã truyền vào lòng người những tình cảm
sâu lắng, bình dị.
Hội An còn có những làng nghề nổi tiếng như làng mộc Kim Bồng, làng
gốm Thanh Hà, làng khai thác Yến Thanh Châu, làng trồng rau Trà Quế, làng hến bắp nếp Cẩm Nam, các làng chài Thanh Nam, Đế Võng, Phước Trạch, Bãi Làng,
Bãi Hương, các làng buôn Minh Hương, Cẩm Phô... cùng với nguồn văn hóa ẩm
thực đặc sắc, phong phú và vang tiếng khắp nơi. Hội An còn có kho tàng văn nghệ
dân gian muôn màu muôn vẻ như những truyền thuyết, huyền thoại, cổ tích, ngụ
ngôn, những lời hát ru dào dạt, những điệu hò khoan trữ tình, những câu dân ca bài chòi nồng thắm....
Quan trọng hơn cả là con người Hội An với những đặc trưng về tính cách, lối
sống, phong cách ứng xử… vừa bình dị, vừa sâu sắc mang nặng yếu tố truyền
thống của người Việt vốn có cội nguồn từ văn hóa lúa nước, văn minh xóm làng
phương Bắc. Đồng thời qua giao lưu, tiếp xúc, cư dân Hội An cũng thể hiện sắc
thái, cốt cách của riêng mình. “Hội An – Đó là một sự hội thủy, hội nhân và hội tụ
văn hóa vô cùng đa dạng”. Nếu quần thể di tích kiến trúc khu phố cổ được xem như
một “bảo tàng sống”, thì người dân Hội An bao đời nay vẫn được xem là những con
người “sống cùng phố cổ, sống với phố cổ, sống vì phố cổ”. Hàng ngày cuộc sống
đời thường diễn ra ngay trong lòng phố cổ; từng công trình kiến trúc cổ đều in đậm,

hằn sâu nếp sống, lối sống văn hóa đặc trưng của con người Hội An.
Với vị trí địa lý thuận lợi và giàu tiềm năng tài nguyên du lịch, cùng với
những chính sách phù hợp với cơ chế mở cửa, hội nhập, tiềm năng du lịch Hội
An đang được đánh thức để trở thành nguồn lực quan trọng cho sự phát triển
trong thời kỳ mới, đóng góp tích cực vào sự nghiệp phát triển kinh tế của tỉnh và
sự phát triển du lịch của cả nước.

SVTH: Trần Thị Ngân Hà

18

K46 TC & QLSK


Chuyên đề tốt nghiệp
GVHD: ThS. Trần Ngọc Quyền
2.2. Làng nghề truyền thống thành phố Hội An
2.2.1. Giới thiệu chung về làng nghề truyền thống Hội An
Hầu hết du khách đi Hội An đều mong muốn có cơ hội khám phá và trải
nghiệm mình tại các làng nghề nổi tiếng của Hội An và cũng chính các làng nghề
này đã tạo lên một Hội An đầy đủ màu sắc và đặc trưng riêng mà không phải địa
phương nào cũng có được. Với lịch sử phát triển lâu dài của mình, các cư dân sinh
sống ở Hội An đã dần dần phát triển những ngành nghề đa dạng như nghề mộc, làm
gốm mỹ nghệ, trồng rau, nghề thuốc, làm lồng đèn…. để phục vụ nhu cầu đời sống
của mình, đồng thời cũng làm nên sự phồn thịnh, tấp nập cho cảng thị Hội An từ thế
kỷ VII – cuối thế kỷ 18, đầu thế kỷ 19.
Có thể nói các làng nghề truyền thống ở Hội An là một bộ phận rất quan
trọng và không thể tách rời khởi kho tàng di sản văn hóa Hội An. Chúng đươc coi là
sự kết tinh của quá trình lao động đầy sáng tạo, năng động của các tầng lớp cư dân
kế tục nhau trên mảnh đất Hội An… Nếu như ở các địa bàn một số địa phương khác

hoạt động được dựa trên lợi nhuận đơn thuần từ giá trị sản phẩm mang lại, thì ở Hội
An, lợi nhuận mang lại không chỉ là giá trị sản phẩm mà còn từ hoạt động du lịch.
Chính vì thế, hoạt động phát triển du lịch làng nghề Hội An không thể tách rời định
hướng và quy hoạch phát triển của thành phố. Theo thống kê thì hiện nay ở Hội An
có khoảng 12 làng nghề sản xuất các mặt hàng truyền thống như: nghề mộc, làm
gốm mỹ nghệ, trồng rau, nghề thuốc, làm lồng đèn…. để phục vụ cuộc sống cũng
như giao lưu buôn bán…. Ngày nay với sự phát triền của du lịch thì một số làng
nghề nổi tiếng ở Hội An đã tham gia vào phát triển du lịch trong số đó phải kể đến:
Làng mộc Kim Bồng: Thuộc xã Cẩm Kim nằm bên kia sông Hội An. Nghề
mộc Kim Bồng được hình thành từ thế kỷ 15 bởi những người Việt đầu tiên ở đồng
bằng Bắc Bộ và vùng Thanh – Nghệ – Tĩnh vào khai khẩn vùng đất Cẩm Kim – Hội
An thời bấy giờ. Cuối thế kỷ 16, đầu thế kỷ 17, nghề mộc Kim Bồng bắt đầu phát
triển nhờ sự phồn thịnh của thương cảng Hội An. Qua quá trình giao lưu, các nghệ
nhân mộc Kim Bồng đã tiếp thu một số nét tinh hoa của các truyền thống điêu khắc
chạm trổ Chiêm Thành, Trung Hoa, Nhật Bản… kết hợp với tài hoa điệu nghệ của
mình đã làm nên những sản phẩm mang đầy tính mỹ thuật và triết học. Có thể nói
SVTH: Trần Thị Ngân Hà

19

K46 TC & QLSK


Chuyên đề tốt nghiệp
GVHD: ThS. Trần Ngọc Quyền
kỹ thuật của thợ mộc Kim Bồng quả là tuyệt hảo. Những tác phẩm chạm khắc của
họ trên các đầu kèo, trên xiên, trên trính, trên án thư, bàn thờ, và cả bàn ghế, tủ,
khay, đều là những kiệt tác mà bất cứ ai được trông thấy cũng phải trầm trồ, xuýt
xoa thán phục. Riêng với đô thị cổ Hội An, bàn tay tài hoa của người thợ Kim Bồng
đã góp phần tạo nên những công trình kiến trúc cổ kính.

Làng rau Trà Quế: Cách trung tâm phố cổ Hội An khoảng 3 km về phía
Tây Bắc, nằm giữa con sông Đế Võng và đầm rong Trà Quế (thuộc thôn Trà Quế,
xã Cẩm Hà, thành phố Hội An), làng nghề này đã nổi tiếng từ rất lâu với những
sản phẩm rau xà lách, diếp cá, răm, húng, quế, hành, ngò … thường có mặt trong
các món ăn đặc sản Quảng Nam như cao lầu, mì Quảng, tôm hữu, thịt heo cuốn
bánh tráng, bánh xèo, bê thui …Với diện tích đất trồng rau chỉ khoảng vài chục
hécta nhưng trồng rau đã trở thành một nghề chính của cư dân trong làng qua
nhiều thế hệ. Kể từ khi du lịch Hội An bắt đầu khởi sắc, cũng là lúc làng rau phát
triển thịnh vượng nhất. Ngoài việc trồng rau để phục cho các nhà hàng, khách sạn
và các chợ đầu mối trên địa bàn Quảng Nam, Đà Nẵng với doanh thu hàng tỷ đồng
mỗi năm, người dân Trà Quế cũng tham gia vào các hoạt động du lịch. Đến với
làng quê thôn dân dã này, du khách sẽ được hướng dẫn cuốc đất, vun luống, bón
phân, gieo hạt, trồng rau và học chế biến các món ăn từ sản phẩm rau tại làng nghề
như những người nông dân thực sự. Làng rau Trà Quế hiện có hơn 250 hộ gia đình
làm nghề nông nghiệp, trong đó có 150 hộ chuyên trồng rau luân canh, xen canh
trên diện tích 25 hecta.
Làng gốm Thanh Hà: Có nguồn gốc Thanh Hoá, làng gốm Thanh Hà được
hình thành từ cuối thế kỷ 15 và phát triển mạnh cùng với cảng thị Hội An trong các
thế kỷ kế tiếp. Sảm phẩm gốm Thanh Hà được làm từ nguồn nguyên liệu chính là
đất sét bởi những bàn tay điêu luyện của nghệ nhân và kỹ thuật truyền thống của
làng nghề. Sản phẩm chủ yếu là các đồ dùng phục vụ đời sống sinh hoạt hằng ngày
như chén, bát, chum, vại, bình hoa, chậu cảnh, hình thù các con giống … mang
nhiều kiểu dáng, màu sắc rất phong phú và đặc biệt nhẹ hơn so với các sản phẩm
cùng loại của những địa phương khác. Cho đến nay, làng gốm Thanh Hà vẫn tồn tại
và hoạt động sản xuất thủ công với phương tiện và kỹ thuật truyền thống. Chính vì
SVTH: Trần Thị Ngân Hà

20

K46 TC & QLSK



×