Tiềm năng và thực trạng phát triển du lịch sinh thái vùng đầm phá Tam Giang – Cầu Hai
MỞ ĐẦU
1. Lý do chọn đề tài
Huế được biết đến là một thành phố du lịch nổi tiếng của miền Trung và cả nước
nhờ mang trong mình nhiều giá trị văn hóa đặc trưng, cùng với các công trình lịch sử,
các địa danh nổi tiếng. Ngày nay, bên cạnh những hoạt động du lịch truyền thống nhằm
tìm hiểu về lịch sử, kiến trúc và văn hóa như tham quan Đại Nội, lăng tẩm, đền miếu…
thì hình thức du lịch sinh thái ở các vùng phụ cận cũng là một trải nghiệm mới mẻ đối
với khách du lịch ở trong và ngoài nước. Ở Huế, nhiều địa điểm nổi tiếng, trong đó có
vườn Quốc gia Bạch Mã, suối Tiên, suối Voi, khu du lịch suối nước nóng Thanh Tân,
vịnh Lăng Cô v..v đang xây dựng và phát triển mô hình du lịch sinh thái. Tuy nhiên,
hiệu quả của hình thức du lịch này ở Thừa Thiên Huế còn chưa cao do thiếu vắng kế
hoạch khai thác, quản lý và phát triển dài hạn. Chính điều này đã gây ra tình trạng lãng
phí nguồn tài nguyên tự nhiên, trong đó có cả hệ thống đầm phá giàu tiềm năng của địa
phương.
Với chiều dài gần 70 km và diện tích xấp xỉ 22 ngàn hecta - chiếm 4,3% tổng diện
tích tỉnh Thừa Thiên Huế, hệ đầm phá Tam Giang - Cầu Hai nổi tiếng là một lagoon ven
bờ có diện tích lớn nhất Đông Nam Á và là một trong những lagoon có bề mặt vực nước
lớn nhất thế giới. Hệ bao gồm một chuỗi 5 đầm phá nhỏ kế tiếp nhau: Phá Tam Giang,
đầm An Truyền, đầm Sam, đầm Thủy Tú và đầm Cầu Hai. Đây là vùng có nhiều giá trị
về kinh tế - xã hội, lịch sử - văn hóa, đặc biệt là sinh thái và môi trường rất đặc trưng.
Từ lâu, hệ đầm phá này là nơi sinh sống của cư dân thuộc 32 xã ven vùng đầm phá. Nhờ
điều kiện tự nhiên thuận lợi, nguồn thủy hải sản phong phú và lối sống đặc trưng của
vùng văn hóa sông nước nên phá Tam Giang ngày càng được nhiều du khách ở trong và
ngoài nước tìm đến. Hiện nay, chính quyền địa phương đang đẩy mạnh đầu tư và phát
triển hệ đầm phá này thành vùng du lịch trọng điểm của tỉnh Thừa Thiên Huế, gắn liền
với các yếu tố tự nhiên và văn hóa của vùng. Tuy nhiên, quá trình này lại làm nảy sinh
nhiều vấn đề tiêu cực, ảnh trực tiếp đến các giá trị sinh thái của vùng. Thực tế đó đặt ra
yêu cầu cần phải xây dựng một mô hình du lịch sinh thái bền vững để vừa phát huy hiệu
quả tiềm năng và lợi thế của vùng, vừa bảo tồn dài lâu môi trường tự nhiên và phát triển
ngành du lịch. Xuất phát từ những cơ sở khoa học và thực tiễn nói trên, chúng tôi quyết
định lựa chọn vấn đề: “Tiềm năng và thực trạng phát triển du lịch sinh thái vùng
đầm phá Tam Giang – Cầu Hai” làm đề tài khóa luận tốt nghiệp nhằm làm rõ tiềm
Khóa luận tốt nghiệp
Trang 1
Lê Văn Huy
Tiềm năng và thực trạng phát triển du lịch sinh thái vùng đầm phá Tam Giang – Cầu Hai
năng, đánh giá thực trạng và bước đầu đưa ra một số đề xuất nhằm thúc đẩy phát triển
du lịch sinh thái ở vùng đầm phá Tam Giang - Cầu Hai.
2. Lịch sử nghiên cứu vấn đề
Trong quá trình tìm kiếm thông tin và thu thập tài liệu để thực hiện đề tài này,
chúng tôi nhận thấy có không ít sách, báo, tạp chí, luận văn nghiên cứu về vùng đầm
phá Tam Giang – Cầu Hai nói chung và hoạt động phát triển du lịch của vùng nói riêng,
tựu trung lại có thể chia thành ba nhóm nội dung cơ bản:
Nhóm thứ nhất: Các công trình nghiên cứu về vị trí địa lý, điều kiện tự nhiên và
đặc điểm sinh thái của vùng đầm phá Tam Giang – Cầu Hai, điển hình như tác giả:
Nguyễn Duy Quỳnh Trâm (2014) với “Đặc điểm môi trường và đa dạng của thủy sinh
vật trong hệ sinh thái đầm phá Tam Giang – Cầu Hai” đã trình bày khái quát về đặc
điểm môi trường cũng như sự đa dạng của thủy sinh vật trong hệ sinh thái của vùng
đầm phá bao gồm đặc điểm môi trường từ các thông số đặc trưng như: Nhiệt độ, nồng
độ pH, NH4+, NO3−, Fe,... Đồng thời, tác giả còn thống kê cụ thể và chi tiết số lượng loài
sinh vật sống trong vùng đầm phá; qua đó, giúp người đọc có cái nhìn toàn diện về sự
đa dạng của hệ sinh vật. Ngoài ra, tác giả Nguyễn Đức Thạnh (2015) với nghiên cứu:
“Tiến hóa và động lực hệ đầm phá Tam Giang – Cầu Hai” cũng cung cấp nhiều kiến
thức cơ bản về hệ đầm phá Tam Giang - Cầu Hai như: Giá trị tài nguyên, môi trường
sinh thái, thực trạng khai thác hệ đầm phá v..v. Công trình này còn làm rõ điều kiện kiến
tạo địa chất, quá trình hình thành, phát triển và tiến hóa của Tam Giang - Cầu Hai cũng
như trạng thái tồn tại hiện nay của hệ đầm phá - cửa biển. Một bài viết khác của tác giả
Nguyễn Huy Anh (2012) có tên:“Nghiên cứu xây dựng mạng lưới quan trắc môi trường
nước ở đầm phá Tam Giang - Cầu Hai, tỉnh Thừa Thiên Huế” đã trình bày tổng thể hiện
trạng môi trường nước ở vùng đầm phá Tam Giang - Cầu Hai, từ đó, đưa ra các kết luận
cụ thể về thực trạng của môi trường nước để có hướng khai thác và bảo vệ hệ đầm phá
Tam Giang - Cầu Hai. Nhà nghiên cứu Lưu Văn Diệu (2006) trong bài viết “Hiện trạng
và diễn biến chất lượng môi trường hệ đầm phá Tam Giang - Cầu Hai (Thừa Thiên –
Huế)” cũng có đề cập đến hiện trạng và diễn biến chất lượng nước của hệ đầm phá Tam
Giang – Cầu Hai trên cơ sở các kết quả điều tra trong giai đoạn từ năm 1993 đến năm
2005 do Phân viện Hải dương học Hải Phòng nay là Viện Tài nguyên và Môi trường
Biển thực hiện. Theo đó, các yếu tố về môi trường nước cũng như các đặc điểm sinh
thái liên quan đến vùng đầm phá này được tác giả cụ thể hóa thông qua hệ thống các
Khóa luận tốt nghiệp
Trang 2
Lê Văn Huy
Tiềm năng và thực trạng phát triển du lịch sinh thái vùng đầm phá Tam Giang – Cầu Hai
bảng biểu và độ pH,cũng như nồng độ các chất trong nước… Tuy nhiên, các thông số
này lại luôn có sự biến đổi theo thời gian và có chiều hướng đi xuống, nghĩa là hiện
trạng và chất lượng môi trường hệ đầm phá Tam Giang – Cầu Hai ngày càng bị giảm
sút, dẫn đến nhiều hệ quả nghiêm trọng, ảnh hưởng trực tiếp đến cảnh sinh môi trường
và hệ sinh thái của vùng. Trong nhóm tài liệu thứ nhất này còn có khá nhiều bài nghiên
cứu về sự biến động cửa biển cũng như sự thay đổi về thành phần loài ở vùng đầm phá
Tam Giang – Cầu Hai; trong đó tiêu biểu là hai bài viết:“Nguyên nhân và giải pháp hạn
chế sự biến động cửa đầm phá Tam Giang - Cầu Hai” của Nguyễn Thám (2010) và
“Khảo sát sự biến động về thành phần loài động vật nổi (Zooplankton) ở đầm phá Tam
Giang - Cầu Hai, tỉnh Thừa Thiên Huế” của Võ Văn Phú và Hoàng Đình Trung (2012).
Nếu như công trình khoa học đầu tiên chỉ rõ nguyên nhân gây xói lở bờ biển là do sóng
tác động vuông góc với bờ tại các điểm mực nước cao hoặc nước dâng do bão, áp lực
sóng gây sạt trượt mái bờ thì công trình khoa học thứ hai lại tập trung nghiên cứu về
thành phần loài động vật nổi (Zooplankton) ở đầm phá Tam Giang – Cầu Hai, tỉnh Thừa
Thiên Huế; qua đó, khẳng định thành phần loài động vật nổi ở Tam Giang - Cầu Hai khá
đa dạngvới 43 loài động vật nổi (Zooplankton) thuộc 24 giống của 18 họ và 3 bộ. Có
thể thấy, các công trình nêu trên đã cung cấp nhiều thông tin hữu ích về vị trí địa lý
cũng như đặc điểm môi trường tự nhiên và sinh thái của vùng đầm phá Tam Giang –
Cầu Hai; từ đó, giúp chúng tôi có cách nhìn đầy đủ hơn về đề tài được lựa chọn.
Nhóm thứ hai: Các công trình nghiên cứu về hoạt động nuôi trồng, đánh bắt thủy
hải sản trong vùng đầm phá Tam Giang – Cầu Hai, điển hình là: “Thực trạng và một số
giải pháp cho hoạt động đánh bắt thủy sản tự nhiên tại vùng đầm phá Tam Giang”của
tác giả Nguyễn Ngọc Châu (2013) cung cấp nhiều thông tin như hoạt động đánh bắt tự
nhiên trên đầm phá Tam Giang có rất nhiều sản phẩm, trong đó hai loại chính yếu là
tôm và cá, có số người tham gia khai thác nhiều nhất, đem lại thu nhập cao và ổn định
nhất. Tuy nhiên, các số liệu điều tra về mức thu nhập bình quân nhân khẩu thông qua
hoạt động đánh bắt hải sản là rất thấp, ước đạt khoảng 141.000 đồng/người/tháng
(2005), thấp hơn chuẩn nghèo hiện hành của Việt Nam (TCTK, 2005). Như vậy, đây là
nhóm đang gặp phải rất nhiều khó khăn trong đời sống kinh tế. Cùng tập trung nghiên
cứu về chủ điểm này, tác giả Lê Thị Nam Thuận (2014) có bài viết:“Bảo vệ và phát
triển nguồn tài nguyên thủy sản với sự tham gia của cộng đồng trong quy hoạch sắp xếp
lại nò sáo khu vực Sam Chuồn hệ đầm phá Tam Giang - Cầu Hai, tỉnh Thừa Thiên
Khóa luận tốt nghiệp
Trang 3
Lê Văn Huy
Tiềm năng và thực trạng phát triển du lịch sinh thái vùng đầm phá Tam Giang – Cầu Hai
Huế” đã nêu rõ tính cấp thiết trong việc mở rộng thủy đạo và sắp xếp lại nò sáo khu vực
đầm Sam Chuồn, nguyên nhân là do phát triển thiếu quy hoạch nên hiện nay luồng lạch
bị ách tắc, chằng chịt, gây cản dòng thoát lũ ở hạ lưu sông Hương và sông Lợi Nông,
môi trường ô nhiễm, ảnh hưởng đến hiệu quả nuôi trồng thủy sản của khu vực. Tác giả
còn nhấn mạnh cần phải có sự quy hoạch tổng thể về mật độ nuôi trồng cũng như
phương hướng khai thác hợp lý để bảo tồn được nguồn lợi thủy sản cũng như tạo thu
nhập ổn định cho người dân. Cùng chung quan điểm đó, hai tác giả Tôn Nữ Hải Âu và
Bùi Dũng Thế (2011) đã cụ thể hóa nội dung nói trên bằng việc đưa ra các hình thức
nuôi trồng hiệu quả nhằm bảo tồn nguồn nước cũng như đem lại thu nhập ổn định cho
người dân. Cụ thể, với bài viết “Hiệu quả kỹ thuật của mô hình nuôi xen tôm sú - cá
kình ở phá Tam Giang”, nhóm tác giả đã phân tích tính hiệu quả trong việc nuôi xen kẽ
tôm sú - cá kình ở vùng đầm phá có thể đem lại thu nhập lớn cho người dân. Tuy nhiên,
do các hộ quy hoạch vùng nuôi thiếu hợp lý nên hiệu quả kinh tế chưa cao.
Về hoạt động đánh bắt thủy hải sản trong vùng, tác giả Nguyễn Chí Duyên (2014)
có bài viết:“Tác động của nghề lừ lên hệ đầm phá Tam Giang - Cầu Hai” với việc tập
trung phân tích nhiều khía cạnh và tác động của nghề lừ đến nguồn lợi thủy hải sản
trong hoạt động săn bắt ở vùng đầm phá Tam Giang - Cầu Hai. Đây là một loại hình
đánh bắt có xuất xứ từ Trung Quốc, có tính tận diệt và “sát thương” rất cao. So với lừ
truyền thống, miền Bắc thường gọi là “lờ”, “rọ”, ngư cụ này tuy hiệu quả đánh bắt
không cao nhưng lại góp phần bảo vệ nguồn lợi thủy sản đầm phá, trong khi đó lừ có
xuất xứ từ Trung Quốc này có khả năng “thâu tóm” toàn bộ thủy sản dù lớn hay nhỏ.
Với mật độ và số lượng ngày càng dày đặc, hình thức này đã làm cạn kiệt nghiêm trọng
nguồn lợi thủy hải sản nơi đây. Điểm nổi bật của bài viết này là đã nghiên cứu một cách
sâu sắc về tác động của nghề lừ lên hệ đầm phá Tam Giang – Cầu Hai, một hình thức
khai thác được sử dụng một cách tràn lan và nguy cơ “tận diệt” nguồn lợi thủy hải sản
rất cao. Đây là nguồn tài liệu quan trọng cung cấp rất nhiều thông tin hữu ích cho chúng
tôi về hoạt động đánh bắt thủy hải sản hiện nay để có cái nhìn cụ thể hơn về những tác
động tiêu cực của hoạt này trong quá trình nghiên cứu đề tài.
Nhóm thứ ba: Các công trình nghiên cứu về tiềm năng du lịch và hoạt động khai
thác, phát triển du lịch ở vùng đầm phá Tam Giang – Cầu Hai. Nổi bật trong nhóm này
là bài viết:“Nhu cầu tiềm năng đối với du lịch dựa vào cộng đồng ở vùng đầm phá Tam
Giang - Cầu Hai” của tác giả Bùi Thị Tám (2011). Công trình này chỉ ra rằng: Nhu cầu
Khóa luận tốt nghiệp
Trang 4
Lê Văn Huy
Tiềm năng và thực trạng phát triển du lịch sinh thái vùng đầm phá Tam Giang – Cầu Hai
tiềm năng và tính khả thi của các tour du lịch cộng đồng ở vùng Tam Giang - Cầu Hai là
khá cao, thể hiện ở mức độ quan tâm của du khách đối với các tài nguyên du lịch vùng
đầm phá, tầm quan trọng của các yếu tố thuộc tính sản phẩm du lịch cộng đồng. Do vậy,
để thúc đẩy phát triển du lịch vùng đầm phá, bên cạnh các giải pháp có tính chiến lược
về quy hoạch và đầu tư phát triển du lịch, địa phương cũng cần tập trung triển khai các
giải pháp phát triển sản phẩm, tăng cường quảng bá cho du lịch của vùng. Tác giả định
hướng thiết kế các tour cần phải thay đổi từ việc duy trì mức giá hợp lý đến việc tập
trung nâng cao giá trị trải nghiệm cho du khách, khai thác thị trường tham quan và trải
nghiệm phong cảnh và cuộc sống đầm phá, kết hợp các hoạt động giúp đỡ và giao lưu
với cộng đồng địa phương. Tuy nhiên, công trình nói trên lại chưa nghiên cứu chuyên
sâu về các tiềm năng hiện có trong vùng đầm phá Tam Giang – Cầu Hai cũng như chưa
tận dụng những nét đặc trưng trong văn hóa sinh hoạt của cư dân để đưa vào khai thác
du lịch theo hướng bền vững và dựa vào cộng đồng.
Các công trình nêu trên đã giúp chúng tôi hiểu biết sâu sắc, toàn diện về vùng đầm
phá Tam Giang – Cầu Hai. Đây là nguồn tài liệu quý giá giúp chúng tôi nghiên cứu hiệu
quả hơn về thực trạng cũng như tiềm năng phát triển du lịch sinh thái ở vùng đầm phá
này. Mặc dù vậy, không ít các nghiên cứu vẫn tồn tại một số hạn chế cơ bản sau:
Một là, các công trình chỉ tập trung làm rõ đặc điểm sinh thái, môi trường tự nhiên
và những biến động diễn ra trên vùng đầm phá mà chưa thực sự đi sâu phân tích chuỗi
hoạt động kinh tế; truyền thống sinh hoạt văn hóa, cũng như vai trò và tác động của các
yếu tố này đến mô hình du lịch sinh thái tại địa phương.
Hai là, các bài nghiên cứu về hoạt động nuôi trồng và đánh bắt thủy hải sản, chưa
chỉ ra các tác động tiêu cực làm ảnh hưởng trực tiếp đến môi trường do nuôi trồng, đánh
bắt trái phép và thiếu đồng bộ. Bên cạnh đó, các công trình này mới chỉ tập trung nghiên
cứu vùng đầm phá Tam Giang - Cầu Hai ở một số khía cạnh đơn lẻ như: Môi trường,
môi sinh, du lịch… chứ chưa có sự liên kết giữa các nội dung này, do đó, tính tổng hợp
còn chưa cao.
Ba là, vùng đầm phá Tam Giang – Cầu Hai hiện nay có nhiều điều kiện thuận lợi
để phát triển du lịch, nhất là hoạt động du lịch sinh thái. Tuy nhiên, nội dung này vẫn
chưa được đề cập trọn vẹn và phản ánh thỏa đáng trong các công trình nghiên cứu nói
trên.
Khóa luận tốt nghiệp
Trang 5
Lê Văn Huy
Tiềm năng và thực trạng phát triển du lịch sinh thái vùng đầm phá Tam Giang – Cầu Hai
Trên cơ sở chọn lọc, kế thừa và bước đầu khắc phục những hạn chế từ kết quả của
các công trình khoa học đi trước, chúng tôi đã xác lập được phương pháp và nội dung
nghiên cứu. Từ đó, tiếp tục triển khai đánh giá, phân tích khả năng phát triển du lịch
sinh thái ở vùng đầm phá Tam Giang – Cầu Hai.
3. Mục tiêu nghiên cứu
3.1. Mục tiêu chung
Đề tài “Tiềm năng và thực trạng phát triển du lịch sinh thái vùng đầm phá
Tam Giang – Cầu Hai” nhằm đánh giá tiềm năng và phân tích thực trạng phát triển du
lịch sinh thái ở vùng đầm phá Tam Giang – Cầu Hai. Trên cơ sở đó, định hướng xây
dựng địa bàn nghiên cứu trở thành vùng du lịch sinh thái điển hình ở Việt Nam.
3.2. Mục tiêu cụ thể
Để hoàn thành những mục tiêu chungnói trên, trong quá trình triển khai nội
dung, chúng tôi cần đạt được những mục tiêu cụ thể như sau:
[i] Nghiên cứu thực trạng ô nhiễm nguồn nước ở ven bờ và xung quanh khu vực
cư dân sinh sống.
[ii] Tiềm hiểu các hoạt động khai thác trái phép, làm mất cân đối nguồn thủy hải
sản trong vùng.
[iii] Tiềm hiểu tác động tiêu cực của các hoạt động kinh doanh, buôn bán trên
mặt nước.
[iv] Nghiên cứu những đặc trưng vốn có trong sinh hoạt của người dân địa
phương, chẳng hạn: Hoạt động buôn bán, đánh bắt đánh bắt thủy sản v..v để từ đó định
hướng xây dựng mô hình du lịch sinh thái bền vững cho vùng.
4. Nhiệm vụ nghiên cứu
[i] Tìm hiểu tiềm năng hiện có để phát triển hoạt động du lịch vùng đầm phá Tam
Giang - Cầu Hai theo mô hình du lịch sinh thái.
[ii] Phân tích thực trạng, làm rõ những vấn đề đang tồn tại trong hoạt động du lịch
sinh thái ở vùng đầm phá Tam Giang - Cầu Hai.
[iii] Đề xuất kiến nghị, định hướng bảo vệ môi trường, cảnh quan tự nhiên xung
quanh của vùng (đối tượng hướng đến là người dân địa phương sinh sống quanh đầm
phá).
5. Đối tượng và phạm vi nghiên cứu
5.1. Đối tượng nghiên cứu
Đề tài tập trung nghiên cứu về môi trường và con người sinh sống trên vùng đầm
phá Tam Giang – Cầu Hai.
Khóa luận tốt nghiệp
Trang 6
Lê Văn Huy
Tiềm năng và thực trạng phát triển du lịch sinh thái vùng đầm phá Tam Giang – Cầu Hai
5.2. Phạm vi nghiên cứu
Để thực hiện đề tài này, chúng tôi tập trung nghiên cứu các vấn đề liên quan trong
phạm vi khu vực hai vùng đầm phá Tam giang và Cầu Hai. Ngoài ra, chúng tôi còn
khảo sát và nghiên cứu thêm một số địa danh lân cận như Chợ nổi Ngư Mỹ Thạnh, Đầm
Chuồn v..v nhằm đảm bảo tính khoa học và hệ thống của vấn đề.
6. Phương pháp nghiên cứu
[i] Nghiên cứu điểm: Xác định địa bàn nghiên cứu là vùng đầm Tam Giang và
Cầu Hai, trong đó tập trung nghiên cứu tiềm năng và thực trạng phát triển du lịch sinh
thái.
[ii] Điền dã, thu thập thông tin:
Tài liệu thành văn: Những bài báo, bài nghiên cứu khoa học, báo cáo khoa học,
báo cáo hội thảo về đầm phá Tam Giang – Cầu Hai và những tài liệu liên quan đến hoạt
động du lịch, khai thác thủy sản của vùng.
Nguồn tài liệu Internet: Tham khảo nhiều thông tin trên một số trang điện tử của
Tổng cục du lịch, Bộ Văn hóa – Thể thao – Du lịch, Sở Văn hóa – Thể thao – Du lịch
Thừa Thiên Huế và một số trang đề cập đến vùng đầm phá Tam Giang – Cầu Hai khác.
Tài liệu điền dã: Thực tế, quan sát các hoạt động diễn ra trên vùng đầm phá Tam
Giang – Cầu Hai nhằm đưa ra những cứ liệu cụ thể và khách quan về vấn đề nghiên
cứu.
[iii] Phương pháp phân tích, tổng hợp: Trên cơ sở kế thừa và tiếp thu có chọn
lọc những công trình nghiên cứu liên quan cộng với các cứ liệu thu thập, tác giả khóa
luận tiến hành phân tích, tổng hợp để xử lý thông tin nhằm cụ thể hóa, mô hình hóa vấn
đề. Qua đó, giúp đề tài đạt được những mục tiêu và nhiệm vụ nghiên cứu đã đề ra.
7. Giả thiết nghiên cứu
7.1. Về mặt khoa học
Với đề tài này, chúng tôi mong muốn góp phần vào quá trình nghiên cứu việc phát
triển du lịch vùng đầm phá Tam Giang - Cầu Hai. Tìm hiểu thực trạng cũng như những
tiềm năng du lịch của vùng. Trên cơ sở đó, khẳng định vùng đầm phá Tam Giang - Cầu
Hai có điều kiện và khả năng phát triển mô hình du lịch sinh thái một cách bền vững.
7.2. Về mặt thực tiễn
Kết quả nghiên cứu của đề tài có thể được sử dụng làm tài liệu tham khảo, góp
phần bổ trợ kiến thức cho sinh viên chuyên ngành: Văn hóa – Du lịch, khoa Việt Nam
học, trường Đại học Ngoại ngữ, Đại học Huế.
Trong một chừng mực nhất định, kết quả nghiên cứu còn gợi mở một số ý tưởng
và giải pháp thực tiễn nhằm quản lý, phát triển du lịch có hiệu quả ở địa bàn nghiên cứu.
Khóa luận tốt nghiệp
Trang 7
Lê Văn Huy
Tiềm năng và thực trạng phát triển du lịch sinh thái vùng đầm phá Tam Giang – Cầu Hai
8. Bố cục
Ngoài phần Mở đầu (8 trang), Kết luận (2 trang), Tài liệu tham khảo (3 trang), nội
dung Khóa luận được chia làm ba chương:
Chương 1. Cơ sở khoa học về vấn đề nghiên cứu
Chương 2. Tiềm năng và thực trạng phát triển du lịch sinh thái ở vùng đầm
phá Tam Giang – Cầu hai
Chương 3. Một số đề xuất phát triển du lịch sinh thái vùng đầm phá Tam
Giang – Cầu Hai
Khóa luận tốt nghiệp
Trang 8
Lê Văn Huy
Tiềm năng và thực trạng phát triển du lịch sinh thái vùng đầm phá Tam Giang – Cầu Hai
CHƯƠNG 1.
CƠ SỞ KHOA HỌC VỀ VẤN ĐỀ NGHIÊN CỨU
1.1. Khái niệm du lịch và du lịch sinh thái
1.1.1. Du lịch
1.1.1.1. Khái niệm du lịch
Du lịch đã được hình thành và phát triển theo nhu cầu đời sống của con người.
Ngày nay, khi cơ sở vật chất và đời sống xã hội ngày càng cao thì yêu cầu phát triển du
lịch trở thành một ngành kinh doanh tổng hợp ngày càng lớn. Hoạt động kinh doanh du
lịch phát đạt kéo theo sự phát triển của nhiều hoạt động sản xuất và kinh doanh phụ trợ.
Nhờ vậy, chất lượng cuộc sống của người dân ở các khu du lịch từng bước được nâng
cao.
Nếu nói du lịch là sự di chuyển của một cá nhân hay một tập thể từ vùng này đến
vùng khác, từ nước này đến nước khác để thỏa mãn những nhu cầu về vật chất và tinh
thần thì phục vụ du lịch lại là một “guồng máy sản xuất và cung ứng” các dịch vụ từ
công tác tuyên truyền, quảng cáo, vận chuyển, hướng dẫn đến phục vụ nhu cầu: Ăn,
ngủ, vui chơi giải trí… được tiến hành một cách đồng bộ, ăn khớp nhịp nhàng và yêu
cầu ngày một được cải tiến, nâng cao phù hợp với thị hiếu của khách du lịch [20; tr. 9].
Du lịch bắt nguồn từ tiếng Pháp theo từ “Tour” mà chúng ta thường hiểu là một
cuộc hành trình bao giờ cũng trở lại điểm xuất phát. Từ những năm 30 của thế kỷ XXI,
các nhà khoa học đã nghiên cứu nhiều mặt khác nhau của hiện tượng du lịch để đưa ra
một định nghĩa chính xác, nhưng nhìn chung việc tìm ra một định nghĩa cho du lịch vẫn
chưa thống nhất vì:
[i] Du lịch có hai nghĩa. Một mặt khi nhắc đến du lịch người ta thường hiểu rằng
đó là cuộc hành trình và lưu trú tạm thời của con người ở một nơi khác (cách xa nơi cư
trú thường xuyên của họ) để nghỉ dưỡng, chữa bệnh, thỏa mãn các nhu cầu về văn hóa,
nghệ thuật, lịch sử, giao lưu tình cảm, công vụ… Mặt khác, du lịch còn được hiểu là tập
hợp các hoạt động kinh doanh nhằm giúp đỡ việc thực hiện các cuộc hành trình và lưu
trú tạm thời của con người, thông qua việc tổ chức phục vụ vận chuyển, phục vụ lưu trú,
phục vụ ăn uống, phục vụ hướng dẫn tham quan… Tất cả những hoạt động nêu trên đều
tạo nên ngành du lịch.
[ii] Trong Hội nghị do Liên hiệp quốc tổ chức tại Rome (Ý) năm 1963, khi thảo
luận về du lịch, các chuyên gia đã xác định phạm trù khách du lịch quốc tế như sau:
“Là công dân của một nước sang thăm và lưu trú tại nước khác trong khoảng thời gian
Khóa luận tốt nghiệp
Trang 9
Lê Văn Huy
Tiềm năng và thực trạng phát triển du lịch sinh thái vùng đầm phá Tam Giang – Cầu Hai
ít nhất là 24 giờ mà ở đó họ không có nơi ở thường xuyên”. Tuy nhiên, Hội nghị này lại
nói rõ: Không công nhận những người ở nước ngoài quá một năm hoặc những người đi
ra nước ngoài thực hiện hợp đồng lao động, hoặc tìm nơi cư trú của mình cũng như
những người ở vùng biên giới, sống ở nước này sang làm việc ở nước khác.
Từ thực tế trên, có thể thấy, khái niệm “khách du lịch” phải xuất phát từ những
đặc điểm riêng và giai đoạn cụ thể của từng nước. Điều này đóng một vai trò rất quan
trọng trong việc hình thành cơ sở lý luận cũng như vận dụng vào thực tế sản xuất kinh
doanh của ngành. Ngày nay, bên cạnh việc đi du lịch ở nước ngoài, con người cũng có
nhu cầu du lịch trong nước với nhiều hình thức phong phú và đa dạng. Như vậy, khái
niệm chung về du lịch nên được nghiên cứu xuất phát từ đối tượng hoạt động của du
lịch, đó chính là du khách.
Có thể dẫn ra một số khái niệm khác liên quan đến du lịch tùy thuộc vào từng
khía cạnh nghiên cứu cụ thể, từng cách tiếp cận khác nhau, chẳng hạn:
Về mặt địa lý: Du lịch là sự khởi hành và lưu trú tạm thời của con người ngoài nơi
cư trú thường xuyên của họ.
Về mặt kinh tế: Du lịch là tổng hòa việc tổ chức và chức năng của nó không chỉ về
phương diện khách vãng lai mà chính về phương diện giá trị do khách tạo ra và của
những khách vãng lai đến với một túi tiền đầy tiêu dùng trực tiếp, trước hết trong khách
sạn, và tiêu dùng gián tiếp cho các chi phí của họ nhằm thỏa mãn nhu cầu hiểu biết và
giải trí (Picara Edmol).
Ý nghĩa hiện đại: Du lịch là một hiện tượng thời đại, dựa trên sự tăng trưởng về
nhu cầu khôi phục sức khỏe và sự thay đổi của môi trường xung quanh, dựa vào sự phát
sinh, phát triển tình cảm đối với vẻ đẹp thiên nhiên (Guer Freuler).
Tiếp cận cộng đồng: Du lịch là quan hệ tương hỗ do sự tương tác của 4 nhóm:
khách du lịch, đơn vị cung ứng, chính quyền và dân cư tại nơi du lịch tạo nên (Coltman)
[37; tr. 9].
Du lịch là một hiện tượng: Trước thế kỷ thứ XIX đến tận đầu thế kỷ XX, du lịch
hầu như vẫn được coi là đặc quyền của tầng lớp giàu có, quý tộc và người ta chỉ coi đây
như một hiện tượng cá biệt trong đời sống kinh tế - xã hội. Trong thời kỳ này, người ta
coi du lịch là một hiện tượng xã hội góp phần làm phong phú thêm cuộc sống và mở
rộng nhận thức của con người. Đó là hiện tượng con người rời khỏi nơi cư trú thường
xuyên của mình để đến một nơi xa lạ vì nhiều mục đích khác nhau ngoại trừ mục đích
kiếm tiền, kiếm việc làm và ở đó họ phải tiêu tiền mà họ đã kiếm được ở nơi khác.
Khóa luận tốt nghiệp
Trang 10
Lê Văn Huy
Tiềm năng và thực trạng phát triển du lịch sinh thái vùng đầm phá Tam Giang – Cầu Hai
Du lịch là một hoạt động: Theo Mill và Morrison [15, tr. 30] du lịch là hoạt động
xảy ra khi con người vượt qua biên giới một nước, hay ranh giới một vùng, một khu vực
để nhằm mục đích giải trí hoặc công vụ và lưu lại tại đó ít nhất 24 giờ nhưng không quá
một năm. Như vậy, có thể xem xét du lịch thông qua các hoạt động đặc trưng mà con
người mong muốn trong các chuyến đi của họ.
Ngoài ra, các giáo sư Thụy Sỹ cũng khái quát: Du lịch là tổng hợp các hiện tượng
và các mối quan hệ nảy sinh từ việc đi lại và lưu trú của những người ngoài địa phương
- những người không có mục đích định cư và không liên quan tới bất cứ hoạt động kiếm
tiền nào. Với quan niệm này, du lịch mới chỉ giải thích ở hiện tượng đi du lịch, tuy
nhiên đây cũng là một khái niệm làm cơ sở để xác định người đi du lịch và là cơ sở để
hình thành nên các nhu cầu về du lịch sau này.
Tựu trung lại, khái niệm du lịch theo Luật Du lịch Việt Nam ghi rõ: “Du lịch là
các hoạt động có liên quan đến chuyến đi của con người ngoài nơi cư trú thường xuyên
của mình nhằm đáp ứng nhu cầu tham quan, tìm hiểu, giải trí, nghỉ dưỡng trong một
khoảng thời gian nhất định” [16; tr. 13].
1.1.1.2. Khách du lịch
Xuất phát từ định nghĩa du lịch được xác định tại Hội nghị Liên hợp quốc về du
lịch năm 1963 ở Roma, khách du lịch được hiểu là những người hội tụ 3 tiêu chuẩn:
- Người đi khỏi nơi cư trú thường xuyên của mình.
- Không phải theo đuổi mục đích kinh tế mà cụ thể là động cơ lao động kiếm tiền.
- Thời gian và khoảng cách từ nơi cư trú đến nơi du lịch, thời gian kéo dài trong
khoảng 24h đến 1 năm.
Khách du lịch là một trong 4 nhóm nhân tố chính, tham gia vào quá trình diễn ra
hoạt động du lịch: Khách du lịch, nhà cung ứng dịch vụ du lịch, cư dân tại địa phương
và chính quyền nơi đón khách du lịch.
Khách du lịch thường được chia thành: Khách du lịch quốc tế và khách du lịch nội
địa. Tại điều 20, chương IV của Pháp lệnh du lịch Việt Nam ban hành năm 1999:
“Khách du lịch nội địa là công dân Việt Nam và người nước ngoài cư trú tại Việt
Nam đi du lịch trong phạm vi lãnh thổ Việt Nam”.
“Khách du lịch quốc tế là người nước ngoài, người Việt Nam định cư ở nước
ngoài vào Việt Nam du lịch và công dân Việt Nam, người nước ngoài cư trú tại Việt
Nam ra nước ngoài du lịch”.
Khóa luận tốt nghiệp
Trang 11
Lê Văn Huy
Tiềm năng và thực trạng phát triển du lịch sinh thái vùng đầm phá Tam Giang – Cầu Hai
1.1.2. Du lịch sinh thái
1.1.2.1. Khái niệm
Du lịch sinh thái (DLST) là một khái niệm tương đối mới và rộng, ngày càng thu
hút sự quan tâm của nhiều nhà nghiên cứu, tiếp cận ở những góc độ khác nhau và đã
đưa ra những định nghĩa khác nhau. Đối với một số người, DLST được hiểu đơn giản là
sự kết hợp của 2 từ ghép “du lịch” và “sinh thái” vốn đã quen thuộc. Song ở phạm vi
rộng thì nhiều người lại quan niệm DLST là du lịch thiên nhiên, là khái niệm mà trong
thực tế đã có từ đầu những năm 1800. Theo đó, mọi hoạt động du lịch có liên quan đến
thiên nhiên như: tắm biển, nghỉ núi… đều được hiểu là DLST.
Du lịch sinh thái còn có thể được hiểu dưới những tên gọi khác như [17; tr. 5]:
-
Du lịch thiên nhiên (Nature Tourism)
Du lịch dựa vào thiên nhiên (Nature – based Tourism)
Du lịch môi trường (Enviromental Tourism)
Du lịch đặc thù (Particular Tourism)
Du lịch xanh (Green Tourism)
Du lịch thám hiểm (Adventure Tourism)
Du lịch bản xứ (Indigenous Tourism)
Du lịch có trách nhiệm (Responsible Tourism)
Du lịch nhạy cảm (Sensitized Tourism)
Du lịch nhà tranh (Cottage Tourism)
Du lịch bền vững (Sustainable Tourism)
Về cơ bản, DLST được hiểu là loại hình du lịch tham quan, thám hiểm, đưa du
khách tới những môi trường còn tương đối nguyên vẹn, về các vùng thiên nhiên hoang
dã, đặc sắc để tìm hiểu, nghiên cứu các hệ sinh thái và các nền văn hóa bản địa độc đáo,
làm thức dậy ở du khách tình yêu và trách nhiệm bảo tồn phát triển đối với tự nhiên và
cộng đồng địa phương. Hay nói một cách khác, DLST là loại hình du lịch với những
hoạt động có nhận thức mạnh về thiên nhiên và ý thức trách nhiệm đối với xã hội. Ở
đây thuật ngữ “Du lịch trách nhiệm” luôn gắn liền với khái niệm DLST. Vậy, DLST là
hình thức du lịch trách nhiệm, không làm ảnh hưởng đến các ý nghĩa bảo tồn thiên
nhiên, không ảnh hưởng đến môi trường mặt khác còn góp phần vào việc duy trì,
phát triển cuộc sống cộng đồng người dân địa phương [37; tr. 19].
Ngoài ra, người ta còn đưa ra một số cách hiểu khác về DLST như sau:
Theo tổ chức bảo tồn thực vật hoang dã (World Wide Fund): DLST đề cập tới các
hoạt động du lịch đi tới những khu vực tự nhiên hoang dã, gây tác động tối thiểu tới môi
trường tự nhiên và cuộc sống của các loài động thực vật hoang dã trong khi mang lại
Khóa luận tốt nghiệp
Trang 12
Lê Văn Huy
Tiềm năng và thực trạng phát triển du lịch sinh thái vùng đầm phá Tam Giang – Cầu Hai
một số lợi ích kinh tế cho cộng đồng địa phương và những người địa phương phục vụ
tại đó.
Theo tổ chức du lịch thế giới (UNWTO): DLST là loại hình du lịch được thực hiện
tại những khu vực tự nhiên còn ít bị can thiệp bởi con người, với mục đích chính là để
chiêm ngưỡng, học hỏi về các loài động thực vật cư ngụ trong khu vực đó, giúp giảm
thiểu và tránh được các tác động tiêu cực tới khu vực mà khách đến thăm. Ngoài ra,
DLST phải đóng góp vào công tác bảo tồn những khu vực tự nhiên và phát triển những
khu vực cộng đồng lân cận một cách bền vững đồng thời phải nâng cao được khả năng
nhận thức về môi trường và công tác bảo tồn đối với mỗi người dân địa phương và du
khách đến thăm.
Theo hội thảo xây dựng chiến lược Quốc gia về phát triển DLST 9/1999 tại Hà
Nội: DLST là một loại hình du lịch dựa vào thiên nhiên và văn hóa địa phương, có tính
giáo dục môi trường và đóng góp cho các nỗ lực bảo tồn và phát triển với sự tham gia
tích cực của cộng đồng địa phương.
Theo Luật Du lịch Việt Nam:“DLST là hình thức du lịch dựa vào thiên nhiên,
gắn với bản sắc văn hóa địa phương với sự tham gia của cộng đồng nhằm phát triển
bền vững”.
Qua các định nghĩa nêu trên, có thể thấy rằng khái niệm du lịch sinh thái dù có
nhiều khía cạnh khác nhau nhưng vẫn tồn tại nhiều nét tương đồng và thống nhất cao về
nội dung. Điều này được biểu hiện cụ thể thông qua cấu trúc sau:
Sơ đồ 1. Cấu trúc du lịch sinh thái
Du lịch hỗ Trợ
Du lịch
thiên nhiên
Khóa luận tốt nghiệp
Du Lịch
Trang 13
bảo tồn
Lê Văn Huy
Tiềm năng và thực trạng phát triển du lịch sinh thái vùng đầm phá Tam Giang – Cầu Hai
Định nghĩa về
Du lịch
sinh thái
Du lịch
Du lịch hỗ trợ
có giáo dục
cộng đồng
môi trường
Nguồn: Sở Tài nguyên và Môi trường Thừa Thiên Huế
Như vậy, định nghĩa về du lịch sinh thái chung quy lại phải chứa đựng cả bốn
yếu tố:
Thứ nhất: DLST phát triển dựa vào những giá trị (hấp dẫn) của thiên nhiên và văn
hóa bản địa.
Thứ hai: DLST được quản lý bền vững về môi trường sinh thái.
Thứ ba: Có giáo dục và diễn giải về môi trường.
Thứ tư: Có đóng góp cho những nỗ lực bảo tồn và phát triển cộng đồng.
1.1.2.2. Đặc điểm du lịch sinh thái
DLST về thực chất là loại hình có quy mô không lớn, nhưng có khả năng hòa
nhập với môi trường tự nhiên ở điểm du lịch, khu du lịch và nền văn. Đây cũng là
một loại hình du lịch bền vững mà hiện nay Tổ chức Du lịch thế giới đã khẳng định:
Nó nhằm đáp ứng các nhu cầu hiện tại của du khách và người dân ở vùng có du
khách đến tham quan, nghỉ dưỡng,… đồng thời chú trọng việc tôn tạo nhằm bảo tồn
các nguồn tài nguyên du lịch để có điều kiện phát triển hoạt động của du lịch trong
tương lai [9, tr. 125].
Dựa trên địa bàn hấp dẫn về tự nhiên của các yếu tố văn hóa bản địa: Đối tượng
của DLST là những khu vực hấp dẫn về tự nhiên, kể cả những nét văn hóa bản địa đặc
sắc. Đặc biệt, những khu vực tự nhiên còn tương đối nguyên sơ, ít bị tác động lớn.
Chính vì vậy, hoạt động DLST thường diễn ra và thích hợp tại lãnh thổ của các vườn
Quốc gia và các khu bảo tồn tự nhiên có giá trị.
Một số đặc trưng riêng của DLST:
Khóa luận tốt nghiệp
Trang 14
Lê Văn Huy
Tiềm năng và thực trạng phát triển du lịch sinh thái vùng đầm phá Tam Giang – Cầu Hai
Một là, đảm bảo bền vững về sinh thái, ủng hộ bảo tồn: vì hình thức du lịch này
được phát triển trong môi trường có những hấp dẫn ưu thế về mặt tự nhiên. Vì thế, trong
DLST, hình thức, địa điểm và mức độ sử dụng cho các hoạt động du lịch phải được duy
trì và quản lý cho sự bền vững của cả hệ sinh thái và bản thân ngành du lịch. Điều này
được thể hiện ở quy mô nhóm khách tham quan thường có số lượng nhỏ, yêu cầu sử
dụng các phương tiện, dịch vụ về tiện nghi của du khách thường thấp hơn các yêu cầu
về đảm bảo kinh nghiệm du lịch có chất lượng. Các hoạt động trong DLST thường ít
gây tác động đến môi trường và du khách sẵn sàng chi trả cho việc bảo vệ môi trường.
Hai là, có giáo dục môi trường: Đặc điểm giáo dục môi trường trong DLST là một
yếu tố cơ bản phân biệt DLST với các loại hình du lịch khác. Giáo dục và thuyết minh
môi trường bằng các nguồn thông tin, truyền tải thông tin đến du khách thông qua tài
liệu, hướng dẫn viên, các phương tiện trên điểm, tuyến tham quan là những hình thức
quan trọng trong việc làm giàu kinh nghiệm du lịch, nâng cao nhận thức về môi trường
và bảo tồn. Giáo dục môi trường trong DLST có tác dụng trong việc làm thay đổi thái
độ của du khách, cộng đồng và chính ngành du lịch đối với giá trị bảo tồn, và sẽ góp
phần tạo nên sự bền vững lâu dài của những khu tự nhiên.
Ba là, khuyến khích cộng đồng địa phương tham gia và hưởng lợi ích du lịch:
DLST cải thiện đời sống, tăng thêm lợi ích cho cộng đồng địa phương trên cơ sở cung
cấp về kiến thức, những kinh nghiệm thực tế để đa số người dân có khả năng tham gia
vào quản lý, vận hành dịch vụ DLST. Đó cũng là cách để người dân có thể trở thành
những người bảo tồn tích cực.
Bốn là, cung cấp các kinh nghiệm du lịch với chất lượng cao cho du khách: Việc
thỏa mãn những mong muốn của du khách là nâng cao hiểu biết và những kinh nghiệm
du lịch lý thú, là sự tồn tại sống còn lâu dài của ngành DLST. Vì vậy, các dịch vụ du
lịch trong DLST thường tập trung nhiều vào việc đáp ứng những nhu cầu nhận thức và
kinh nghiệm du lịch hơn là các dịch vụ cho nhu cầu tiện nghi của du khách.
1.2.Thế mạnh và hạn chế của du lịch sinh thái
1.2.1. Thế mạnh chủ yếu
Về kinh tế
Khóa luận tốt nghiệp
Trang 15
Lê Văn Huy
Tiềm năng và thực trạng phát triển du lịch sinh thái vùng đầm phá Tam Giang – Cầu Hai
[i] Với việc tổ chức DLST, các khu thiên nhiên, đặc biệt các khu bảo tồn thiên
nhiên sẽ được đưa vào phục vụ du lịch, giúp tăng thêm nguồn tài nguyên thiên nhiên
cho ngành du lịch, góp phần đa dạng hóa các sản phẩm du lịch.
[ii] DLST phát triển góp phần tạo ra công ăn việc làm, nâng cao thu nhập cho các
cộng đồng ở trong và quanh khu vực tổ chức hoạt động DLST. Qua đó, phát triển kinh
tế địa phương, xóa đói giảm nghèo ở các vùng xa xôi, hẻo lánh.
[iii] Góp phần cải thiện và nâng cao cơ sở hạ tầng của các khu DLST, nâng cao đời
sống tinh thần và vật chất của cộng đồng tại địa phương.
[iv] Với việc giáo dục môi trường, DLST giúp cộng đồng địa phương có được kế
hoạch phát triển nguồn tài nguyên mà không bị xuống cấp trong quá trình khai thác và
sử dụng.
[v] DLST góp phần khôi phục và phát triển ngành nghề thủ công, mỹ nghệ truyền
thống, thúc đẩy các ngành nghề khác cùng phát triển và từng bước chuyển dịch cơ cấu
kinh tế.
Tóm lại, DLST có thể mang lại lợi ích kinh tế rất lớn, đóng góp vào sự phát triển
kinh tế của đơn vị kinh doanh du lịch, địa phương và quốc gia.
Về xã hội
[i] Loại bỏ mâu thuẫn đối kháng giữa khu bảo tồn thiên nhiên với cộng đồng địa
phương. DLST “đóng góp tích cực vào việc bảo vệ môi trường” bằng cách cải thiện mối
quan hệ này, giúp khu bảo tồn thiên nhiên cùng tồn tại và phát triển.
[ii] Nhờ việc “dựa vào văn hóa bản địa”, DLST không những giúp bảo tồn văn hóa
mà còn có thể góp phần khôi phục và phát triển ngành nghề thủ công truyền thống, phát
huy bản sắc văn hóa và niềm tự hào dân tộc của cộng đồng địa phương.
[iii] Cùng với sự phát triển do đô thị hóa, con người ngày càng bị tách rời với môi
trường thiên nhiên, nhiều hình ảnh thiên nhiên chỉ còn trong kí ức. Với việc đưa ra các
khu bảo tồn thiên nhiên vào khai thác du lịch, nhu cầu tìm hiểu thiên nhiên của con
người sẽ được đáp ứng và thỏa mãn.
Về thẩm mỹ
[i] Mỗi một cảnh quan là một vẻ đẹp, sự sinh động của thế giới tự nhiên, phản ánh
khả năng thích ứng với tự nhiên của con người. Do vậy, nơi DLST phát triển sẽ có nhiều
cảnh quan thiên nhiên được phát hiện, phát triển và bảo tồn.
Khóa luận tốt nghiệp
Trang 16
Lê Văn Huy
Tiềm năng và thực trạng phát triển du lịch sinh thái vùng đầm phá Tam Giang – Cầu Hai
[ii] DLST tạo điều kiện cho các nhà thiết kế tour tiến hành khảo sát các tuyến điểm
du lịch nhằm bảo vệ nguồn tài nguyên thiên nhiên và tôn tạo nguồn tài nguyên nhân
văn. Quá trình khảo sát này kèm theo những quy tắc chặt chẽ như nghiêm cấm mọi hành
vi phá hoại nguồn tài nguyên thiên nhiên, cấm sờ mó vào các thạch nhũ, các công trình
kiến trúc, văn hóa cổ,… thúc đẩy bảo tồn nguồn tài nguyên nhân văn.
Về sinh thái
[i] DLST phát triển tạo điều kiện cho các loài động thực vật quý hiếm được khôi
phục, góp phần bảo vệ khu bảo tồn thiên nhiên, gìn giữ và duy trì sự đa dạng của hệ
sinh học trên toàn thế giới.
[ii] Cảm nhận được nét đẹp tinh tế của thiên nhiên và thông qua các hoạt động
giáo dục môi trường, du khách sẽ hiểu biết thêm về thiên nhiên, về sự phong phú và đa
dạng của thiên nhiên, sự cân bằng mong manh trong mỗi hệ sinh thái. Thông qua đó,
DLST góp phần giúp con người sống nhạy cảm và sống có trách nhiệm hơn với môi
trường, với hành tinh xanh của chính mình.
Tóm lại, DLST đóng vai trò tích cực trong việc kết hợp hài hòa cả ba mục tiêu:
Kinh tế, xã hội và sinh thái. Do đó, DLST là một loại hình du lịch bền vững, nó đảm
bảo cho môi trường tự nhiên và xã hội không những không bị suy thoái mà còn được
củng cố và phát triển lâu dài. Tuy nhiên, bên cạnh những mặt tích cực, DLST vẫn còn
tiềm ẩn một số vai trò tiêu cực trong quá trình xây dựng và khai thác, ảnh hưởng trực
tiếp đến nhiều khía cạnh ở các lĩnh vực văn hóa - xã hội, kinh tế và môi trường.
1.2.2. Hạn chế cơ bản
Đối với môi trường
Nếu không được quản lý tốt, DLST có nguy cơ trở thành một loại hình du lịch đến
rồi đi một cách vô trách nhiệm. Nếu việc thu gom, phân loại và xử lý rác thải không
được thực hiện tốt thì sẽ phá vỡ tính thống nhất và cân bằng của hệ sinh thái. Tác động
về môi trường của hoạt động DLST được thể hiện một cách rõ nét nhất ở những bộ
phận: tài nguyên nước, tài nguyên đất, tài nguyên không khí, tài nguyên sinh học. Việc
phát triển thiếu quy hoạch, khai thác không hợp lý các tài nguyên du lịch tự nhiên có thể
làm hỏng các bờ biển, phá vỡ hệ sinh thái của sông biển, nước, đảo, làm cho nguồn tài
nguyên bị nghèo đi hoặc bị thu hẹp. Đồng thời, việc xây dựng các công trình hạ tầng
Khóa luận tốt nghiệp
Trang 17
Lê Văn Huy
Tiềm năng và thực trạng phát triển du lịch sinh thái vùng đầm phá Tam Giang – Cầu Hai
phục vụ cho DLST, các cơ sở lưu trú hay ăn uống, cũng là nguyên nhân gây ra ô nhiễm
môi trường nếu không được quản lý tốt.
Phát triển du lịch nói chung hay DLST nói riêng cũng có thể gây sức ép lớn đối
với nguồn tài nguyên thiên nhiên. Các hoạt động của khách du lịch ở vườn quốc gia,
khu bảo tồn tự nhiên có thể làm giảm đa dạng sinh học. Việc tổ chức các hoạt hoạt động
DLST có thể có thể làm cho số lượng các cá thể động thực vật bị giảm sút, thậm chí đẩy
một số loài sinh vật vốn có trong hệ sinh thái đó bị tiêu diệt hoặc đe dọa tuyệt chủng.
Với loại hình DLST, nhân tố quan trọng nhất đó là dựa vào thiên nhiên, dựa vào những
tiềm năng hiện có để phát triển du lịch. Tuy nhiên, nếu nhân tố này không được bảo vệ
một cách có hiệu quả thì cũng gây ra nhiều hệ lụy trong quá trình hoạt động, đồng thời
cũng làm mất đi ý nghĩa ban đầu của mô hình DLST là bảo tồn và phát huy nguồn tài
nguyên thiên nhiên hiện có.
Đối với văn hóa và xã hội
Có thể làm xói mòn các giá trị văn hóa truyền thống của cộng đồng do sự thẩm
thấu, sự giao thoa văn hóa của người dân địa phương, làm thương mại hóa các hoạt
động văn hóa truyền thống nhằm thu hút du khách. Trong DLST, yếu tố bản địa cũng là
một trong những thành phần quan trọng thu hút du khách đến tìm hiểu và tham quan,
nhờ vào những hoạt động mang tính đặc trưng như lễ hội, tập tục văn hóa địa phương.
Đối với cộng đồng dân cư địa phương, DLST là cơ hội để tạo việc làm, tạo thu nhập;
đồng thời họ cũng là những nhân tố hấp dẫn khách du lịch bởi lòng hiếu khách và
phong tục tập quán, bản sắc văn hóa. Mặt khác, cộng đồng cư dân nơi khác đến tham
quan cũng chịu tác động nhiều chiều của hoạt động DLST. Cộng đồng ở đây được hiểu
là một nhóm dân cư cùng sinh sống trên một lãnh thổ qua nhiều thế hệ và có những đặc
điểm chung về sinh hoạt và văn hóa truyền thống, sử dụng các nguồn tài nguyên, môi
trường. Cộng đồng là nền tảng của phát triển xã hội, cuộc sống của cộng đồng dựa trên
việc khai thác tài nguyên nơi mình sinh sống với việc phát triển các phong tục, tập quán
riêng mang đậm bản sắc của mỗi cộng đồng. DLST hoạt động ngay trong những nét văn
hóa đặc trưng đó, vì vậy mức độ ảnh hưởng và tác động lẫn nhau giữa văn hóa địa
phương và văn hóa ngoại lai sẽ rất cao nếu không được quản lý đồng bộ và có hiệu quả.
Mặt khác, trong một số các dự án phát triển du lịch nói chung hay DLST nói riêng,
vì một số lý do nào đó mà người dân địa phương bị buộc phải rời bỏ nơi cư trú và phải
rời bỏ các ngành nghề truyền thống gắn bó với họ qua nhiều thế hệ. Cộng đồng dân cư
Khóa luận tốt nghiệp
Trang 18
Lê Văn Huy
Tiềm năng và thực trạng phát triển du lịch sinh thái vùng đầm phá Tam Giang – Cầu Hai
địa phương sẽ không được chia sẻ hoặc chia sẻ không thỏa đáng lợi nhuận trong việc
phát triển DLST. Ngoài ra, nếu như các nhà kinh doanh không tuân thủ theo nguyên tắc
phát triển du lịch theo hướng bền vững, mâu thuẫn xã hội sẽ được nảy sinh giữa các
thành viên của cộng đồng do có sự tranh chấp các lợi thế để có được nguồn thu hút lớn
hơn từ DLST. Điều này sẽ ảnh hưởng đến mối quan hệ gắn bó đặc trưng cho cuộc sống
truyền thống của cộng đồng. Bên cạnh đó, các lối sống mới được khách du nhập sẽ có
tác động nhiều mặt đến cộng đồng. Nét truyền thống văn hóa của địa phương có thể sẽ
bị “thương mại hóa” để đáp ứng nhu cầu của du khách.
Đối với kinh tế
DLST sẽ làm ảnh hưởng đến không gian sống của cộng đồng địa phương, làm tăng
sự phân hóa xã hội trong cộng đồng về thu nhập, làm nảy sinh những mâu thuẫn giữa
các nhóm người trong cộng đồng địa phương, giữa cộng đồng địa phương với hoạt động
du lịch [15, tr. 19]. Để thu hút du khách, nhiều tổ chức du lịch tự ý “cải tạo” và “sáng
tạo mới” rất nhiều thứ vốn có trong sắc thái văn hóa dân tộc và địa phương để tạo nên
một “hàng hóa mới” hấp dẫn du khách. Mặt khác, vì lợi ích kinh tế mà nhiều hoạt động
văn hóa truyền thống được trình diễn một cách thiếu tự nhiên và chuyên nghiệp, đôi khi
chỉ làm trò cười cho du khách. Phong tục tập quán dân gian và hoạt động lễ hội truyền
thống có thể được tổ chức bất kỳ lúc nào và bất kỳ ở đâu. Do chạy theo số lượng, không
ít các mặt hàng truyền thống được chế tác để làm hàng lưu niệm cho du khách được sản
xuất một cách cẩu thả và làm méo mó giá trị chân thực của truyền thống, làm sai lệch
hình ảnh của một nền văn hóa bản địa. Bên cạnh đó, hoạt động DLST vẫn còn tại nhiều
hệ lụy của hoạt động du lịch nói chung, đó là dưới con mắt của người dân bản xứ, du
khách là những kẻ giàu sang, lắm tiền. Vì vậy, chính du khách trở thành mục tiêu béo
bở cho việc tống tiền, trộm cướp. Theo thời gian, ngược với sự gia tăng của nguồn
khách, tình cảm nồng hậu mà du khách đón chờ bị giảm dần. Quan hệ tình cảm giữa du
khách và dân địa phương ngày càng trở nên nguội lạnh và thay vào quan hệ tình cảm đó
là quan hệ buôn bán. Đại đa số du khách được tiếp đón với nghi lễ xã giao. Nếu vào giai
đoạn đầu, những hành vi, cách biểu cảm khác lạ của du khách làm cho người dân thấy
ngộ nghĩnh và buồn cười thì nay có thể cũng với hành động ấy của du khách lại bị xem
là lố bịch. Nếu như vào giai đoạn đầu, do cơ sở vật chất kỹ thuật chưa có, du khách
được tiếp đón ở những điều kiện sẵn có ở địa phương như nhà dân, quán bình dân thì
nay họ dần dần bị cô lập trong các điều kiện được tạo nên để phục vụ riêng cho họ.
Khóa luận tốt nghiệp
Trang 19
Lê Văn Huy
Tiềm năng và thực trạng phát triển du lịch sinh thái vùng đầm phá Tam Giang – Cầu Hai
Điều kiện tiếp xúc, giao tiếp cộng đồng giảm và do vậy sự cảm thông, đồng cảm cũng
hạn chế rất nhiều. Tồi tệ hơn là khi xuất hiện tư tưởng và hành động chống đối du
khách.
Những tác động không thuận lợi nói trên sẽ là nguyên nhân gây ra xung đột du
lịch và kết quả là quá trình phát triển DLST không được bền vững và sẽ không đem lại
hiệu quả kinh tế, văn hóa, xã hội như mong muốn. Ngay cả khi không xảy ra xung đột
giữa cộng đồng và phát triển DLST nhưng nếu thiếu kiểm soát và không có sự tham gia
tích cực của cộng đồng thì sự suy thoái về môi trường tự nhiên và thay đổi các giá trị
văn hóa sẽ làm mất dần tính hấp dẫn của các hoạt động du lịch. Để loại trừ những tác
động ngược chiều của hoạt động DLST đối với cộng đồng dân cư và ngược lại, cần phải
xây dựng một mô hình DLST theo hướng bền vững. Mục tiêu của việc phát triển DLST
là đem lại lợi ích cho cộng đồng và hoạt động DLST chỉ có thể thực hiện được khi có sự
tham gia của cộng đồng. Để phát triển DLST cần phải có kế hoạch quản lý các nguồn
tài nguyên để thỏa mãn các nhu cầu kinh tế, xã hội và thẩm mỹ của con người trong khi
vẫn duy trì được sự phát triển lâu dài cho thế hệ mai sau. Để có thể ngăn chặn và giảm
thiểu những tác động tiêu cực của DLST, yêu cầu đặt ra là phải có những nguyên tắc cơ
bản trong quá trình phát triển DLST. Đây là mục tiêu quan trọng nhằm bảo tồn những
giá trị hiện có cũng như giữ gìn những nét bản sắc văn hóa ở các khu du lịch sinh thái.
1.2.3. Những nguyên tắc cơ bản của hoạt động du lịch sinh thái
Để phát triển mô hình DLST thành công phải đảm bảo được các nguyên tắc cơ bản
sau:
- Cộng đồng địa phương tham gia hoặc chịu trách nhiệm ra quyết định, thực thi và
điều hành các dự án, cùng với du khách có trách nhiệm bảo vệ tài nguyên văn hóa và
thiên nhiên của địa phương.
- DLST phải cải thiện được chất lượng cuộc sống của cộng đồng dân cư địa
phương; các sản phẩm, dịch vụ du lịch được phát triển phù hợp với điều kiện tự nhiên
và văn hóa của địa phương.
- Khuyến khích sự giao lưu văn hóa giữa khách du lịch và cộng đồng dân cư địa
phương; đảm bảo sự bền vững về môi trường tự nhiên, kinh tế, văn hóa – xã hội, các tác
động du lịch có hại được giảm thiểu.
Khóa luận tốt nghiệp
Trang 20
Lê Văn Huy
Tiềm năng và thực trạng phát triển du lịch sinh thái vùng đầm phá Tam Giang – Cầu Hai
Để đảm bảo thực hiện các nguyên tắc trên khi phát triển mô hình DLST tại địa
phương, điều cần thiết phải làm đầu tiên đó là: xây dựng năng lực quản lý du lịch cho
cộng đồng địa phương. Bên cạnh đó, công tác tiếp thị phải cần nhấn mạnh vào sự khác
biệt giữa sản phẩm DLST với các loại hình du lịch khác. Đồng thời giáo dục nhận thức
cho du khách người dân địa phương về tâm quan trọng của DLST, một loại hình du lịch
bảo vệ được tài nguyên và sự toàn vẹn về văn hóa.
1.3. Khái quát về tình hình phát triển du lịch sinh thái hiện nay ở Thừa Thiên Huế
1.3.1. Số lượng khách du lịch sinh thái
DLST là một bộ phận của du lịch ở Thừa Thiên Huế, du khách đến với DLST chủ
yếu qua các tour, tuyến kết hợp với các loại hình du lịch văn hóa và lịch sử. Đó là sự
kéo dài, mở rộng của các tour, tuyến nổi tiếng và quen thuộc với du khách. Vì thế lượng
khách đến với DLST ở đây không nhiều, chỉ chiếm một phần nhỏ trong tổng lượng
khách đến Huế.
Năm 2000, lượng khách DLST đến Thừa Thiên Huế là gần 45.000, chiếm 9,6%
tổng lượng khách du lịch. Đây là một con số khiêm tốn, còn kém xa so với tiềm năng,
thực trạng DLST mà tỉnh đang có. Năm 2005, lượng khách tăng lên đáng kể, đạt
147.000 lượt người, tăng gấp 4 so với năm 2000, chiếm 14% so với lượng khách toàn
tỉnh (Nguồn: Sở Văn hóa - Thể thao và Du lịch Thừa Thiên Huế năm 2008). Có thể nói,
lượng khách DLST đã có những bước tiến đáng kể, tăng nhanh về cả số lượng lẫn tỉ lệ
so với tổng lượng khách du lịch đến Huế. Điều này có được là nhờ sự động viên, quan
tâm của các cấp chính quyền, cũng như công tác xúc tiến đầu tư của các doanh nghiệp
và địa phương tại địa điểm DLST.
Đến năm 2008, con số khách DLST là hơn 294.000 lượt, tăng gần gấp đôi năm
2005 và chiếm 17,5% tổng lượng khách đến tỉnh tham quan. Mặc dù đã có tăng trưởng
khá, nhưng lượng khách DLST đến Huế còn khá thấp, nhất là so với tiềm năng sinh thái
phong phú như hiện nay.
1.3.2. Sản phẩm du lịch sinh thái
Các tour, tuyến du lịch
Tour du lịch thu hút khách du lịch và phổ biến nhất hiện nay là Lăng Cô - Bạch
Mã. Với hai địa điểm DLST hấp dẫn và khá nổi tiếng, đây là tuyến du lịch vàng đối với
DLST nói riêng và du lịch ở Thừa Thiên Huế nói chung.
Khóa luận tốt nghiệp
Trang 21
Lê Văn Huy
Tiềm năng và thực trạng phát triển du lịch sinh thái vùng đầm phá Tam Giang – Cầu Hai
Ngoài Lăng Cô - Bạch Mã, hầu hết các tuyến DLST còn lại đều là những tuyến
đơn lẻ, rời rạc, kết hợp ít các địa điểm DLST nhỏ với nhau, hoặc kết hợp với các loại
hình du lịch khác. Có thể kể đến tuyến du lịch Thác Mơ - Thác Trượt với du lịch cộng
đồng ở huyện miền núi Nam Đông, tuyến hồ nước ngọt Suối Voi - Nhị Hồ, hay tuyến du
lịch nghỉ dưỡng ở suối nước nóng Thanh Tân kết hợp với tham quan, khám phá hệ sinh
thái rừng nhiệt đới cùng các loại động thực vật ở xã Phong Mỹ, Phong Điền…
Các loại hình du lịch
Ở Thừa Thiên Huế vẫn chưa phát triển đầy đủ các loại hình DLST. Phát triển nhất
vẫn là DLST phổ biến với những yêu cầu và đặc tính dễ thực hiện, phù hợp với điều
kiện tài nguyên DLST cũng như khả năng tổ chức của các đơn vị kinh doanh du lịch.
Hai loại hình còn lại là du lịch tiên phong và du lịch nhóm nhỏ vẫn chưa được đầu tư
khai thác hợp lý, chưa tương xứng với những điều kiện tự nhiên mà Thừa Thiên Huế
vốn có.
Các cơ sở lưu trú
Các địa điểm DLST thường nằm ở những nơi hoang sơ, cách xa khu dân cư sinh
sống. Một số khác nằm ở nơi có địa hình hiểm nghèo, giao thông cách trở, phương tiện
đi lại khó khăn. Nên thực tế, các cơ sở lưu trú tại các địa điểm du lịch này rất nghèo
nàn, chất lượng thấp và thường là không đáp ứng đầy đủ nhu cầu của du khách.
Khu vực vườn Quốc gia Bạch Mã là địa điểm có sơ sở lưu trú nhiều và chất lượng
nhất trong các địa điểm DLST ở Huế. Vốn được chú ý đầu tư từ hơn 10 năm nay, tại đây
đã có hàng chục khách sạn quy mô và nhiều nhà nghỉ chất lượng cao phục vụ nhu cầu
tham quan hàng năm của khách du lịch
Các cơ sở ăn uống và vui chơi giải trí
Do đặc thù của các điểm DLST, cơ sở ăn uống và vui chơi giải trí cũng còn thiếu,
chưa phục vụ đầy đủ nhu cầu nghỉ ngơi giải trí của du khách. Có thể điểm qua một số
địa điểm vui chơi như: hồ Thủy Tiên thuộc khu vực đồi Thiên An, gần đồi Vọng Cảnh,
hay khu suối nước nóng Thanh Tân. Tuy nhiên, đó chỉ là một số địa điểm hiếm hoi, nằm
rải rác và không bám sát các điểm DLST tạo sự thuận tiện cho du khách.
Bên cạnh đó, các cơ sở ăn uống quanh khu vực DLST còn thiếu nhiều, chất lượng
phục vụ còn kém và vẫn còn hiện tượng cò, ép giá đối với du khách. Một số địa điểm có
Khóa luận tốt nghiệp
Trang 22
Lê Văn Huy
Tiềm năng và thực trạng phát triển du lịch sinh thái vùng đầm phá Tam Giang – Cầu Hai
vị trí địa lý không thuận lợi hoặc xa nơi dân cư thì các cơ sở ăn uống này càng ít và nếu
có thì giá cả rất cao, chất lượng lại kém làm rất nhiều du khách không vừa lòng.
Vận chuyển khách du lịch
Các địa điểm DLST thường ở xa trung tâm thành phố Huế, đường xá đi lại khó
khăn, địa hình hiểm trở. Điều này ảnh hưởng lớn đến vấn đề vận chuyển khách du lịch.
Các điểm du lịch đã được du khách biết đến như vườn Quốc gia Bạch Mã, suối Voi, thác
Nhị Hồ,… đều đã có tuyến đường thuận lợi. Dù vậy, đối với các địa điểm du lịch tiềm
năng thì đây lại là một trở ngại lớn trong việc thu hút khách du lịch. Hiện tại, tuyến
đường đến các điểm này chủ yếu vẫn là đường đất heo hút, một số nơi khá hơn thì có
thể là đường đổ bê-tông với chất lượng kém và rất nhỏ hẹp.
1.3.3. Doanh thu từ du lịch sinh thái
Hàng năm, DLST chỉ đóng góp một phần nhỏ bé vào doanh thu du lịch của toàn
tỉnh. Năm 2000, doanh thu DLST đạt 15.960 triệu đồng, chiếm 8,4% doanh thu du lịch
toàn tỉnh, trong đó nộp gần 1.000 triệu cho ngân sách của tỉnh. Năm 2003, doanh thu
tăng khá, đạt 28.560 triệu, chỉ chiếm 10,2% tổng doanh thu và chỉ nộp cho ngân sách
1.500 triệu đồng. Năm 2005, con số này là 70.642 triệu đồng, chiếm 13% tổng doanh
thu du lịch của cả tỉnh. Năm 2008 vừa qua, doanh thu DLST tăng trưởng khá, đạt
1.738.120 triệu đồng, chiếm 15,2% tổng doanh thu (Nguồn: Sở Văn hóa – Thể Thao và
Du lịch Thừa Thiên Huế năm 2008)
So sánh kết quả kinh doanh của DLST với các loại hình du lịch khác của Thừa
Thiên Huế, có thể thấy, thấy tỉ trọng của DLST thấp, chưa tương xứng với tiềm năng
hiện có của tỉnh. Tốc độ tăng của doanh thu DLST chưa cao, dù tỉ lệ khách DLST so với
tổng lượng khách du lịch đến Huế đã có tăng lên đáng kể, đạt 17,5% nhưng kết quả kinh
doanh của nó chỉ chiếm 15,2%. Điều này chứng tỏ hoạt động kinh doanh sản phẩm
DLST ở Thừa Thiên Huế vẫn chưa thực sự hiệu quả.
Tiểu kết chương 1:
DLST là loại hình du lịch đặc biệt tổng hợp các mối liên hệ giữa môi trường tự
nhiên và nhân văn, tìm đến những vùng thiên nhiên nhiều tiềm năng về môi trường sinh
thái để cải thiện kinh tế, phúc lợi xã hội, sức khoẻ và hưởng thụ, khám phá những cái
mới, cái đẹp và sự trong lành của thế giới tự nhiên, tạo ra mối quan hệ hữu cơ, hoà đồng
giữa con người với thiên nhiên và môi trường. Ở Thừa Thiên huế, hoạt động DLST
Khóa luận tốt nghiệp
Trang 23
Lê Văn Huy
Tiềm năng và thực trạng phát triển du lịch sinh thái vùng đầm phá Tam Giang – Cầu Hai
ngày càng phát triển nhờ vào những tiềm năng và lợi thế sẵn có của vùng. Tuy nhiên, về
quy mô cũng như doanh thu của mô hình DLST chưa thực sự hiệu quả, thiếu tính đồng
bộ và chưa phát huy hết những tiềm năng hiện có trong quá trình phát triển du lịch.
Khóa luận tốt nghiệp
Trang 24
Lê Văn Huy
Tiềm năng và thực trạng phát triển du lịch sinh thái vùng đầm phá Tam Giang – Cầu Hai
CHƯƠNG 2.
TIỀM NĂNG VÀ THỰC TRẠNG PHÁT TRIỂN DU LỊCH SINH THÁI VÙNG
ĐẦM PHÁ TAM GIANG – CẦU HAI
2.1. Khái quát về vùng đầm phá Tam Giang – Cầu Hai
Đầm phá Thừa Thiên Huế bắt đầu hình thành vào thời Holocence muộn (khoảng
sau văn hóa Bàu Tró đến văn hóa Sa Huỳnh), cách đây khoảng 2.500 năm. Lúc mới
hình thành, đầm phá rộng hơn bây giờ nhiều, bao gồm các vùng đất thấp thuộc cửa sông
Đại Giang, sông Hương và cửa sông Ô Lâu, kéo dài tới tận Hải Lăng, tỉnh Quảng Trị.
Giai đoạn đầm phá chỉ tồn tại với một cửa biển Tư Hiền mà trước đây còn gọi là cửa Ô
Long, Tư Dung, Tư Khách, được coi là giai đoạn trẻ của đầm phá Tam Giang.
Hình 1. Bản đồ vệ tinh ở đầm phá Tam Giang- Cầu Hai
Nguồn: Sở Tài nguyên và Môi Trường Thừa Thiên Huế
Phá Tam Giang còn có tên là Hải Nhi (biển nhỏ) hay là Hải Hạt (vùng biển rộng
mênh mông) [4, tr. 762], từ nam chí bắc dài 30 dặm, từ đông sang tây rộng chừng 6
dặm. Từ hạ lưu nguồn Ô Lâu - Thọ Lai (hệ thống sông Lương Ðiền) chảy xuống Phá về
phía tây nam có 3 cửa sông đổ vào là sông Tả, sông Trung và sông Hữu nên vua Minh
Mạng đổi tên gọi là Tam Giang. Năm Giáp Thân (1404) do một trận lũ cực phát, sông
Yêu Lục ở Châu Hóa bị vỡ, mở thành cửa Nhuyễn, tục gọi là cửa Eo. Kể từ đó đến nay,
hệ đầm phá được xem đang ở giai đoạn trưởng thành và phát triển, đặc trưng bởi tính
phân dị phức tạp về khối nước, trầm tích và môi trường lắng đọng trầm tích, xu thế phát
triển, tính không ổn định của cửa và sự giảm trao đổi với biển. Năm 1904, một trận lũ
Khóa luận tốt nghiệp
Trang 25
Lê Văn Huy