Tải bản đầy đủ (.doc) (36 trang)

Tiểu luận nghiệp vụ bảo hiểm tiền gửi

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (220.18 KB, 36 trang )

LỜI NÓI ĐẦU
Trong hai thập niên qua, kể từ năm 1986, Việt nam đã thực sự đổi
mới, mở cửa nền kinh tế theo định hướng thị trường có sự quản lý của nhà
nước. Cùng với quá trình chuyển đổi cấu trúc, xây dựng và hoàn thiện các
chính sách quản lý, chúng ta đã vượt qua những khó khăn thử thách, kinh tế
liên tục đạt tốc độ tăng trưởng cao, cải thiện đời sống vật chất và tinh thần
của nhân dân. Để có những thành tựu vĩ đại đó, Chính phủ đã thể hiện rõ
vai trò của người chỉ đạo điều hành nền kinh tế nói chung và đặc biệt là hệ
thống tài chính ngân hàng quốc gia nói riêng trong ổn định tiền tệ, huy
động các nguồn vốn cho tăng trưởng và hội nhập quốc tế.
Với thu nhập ngày càng tăng thì rõ ràng nhu cầu gửi tiền trong ngân
hàng nhằm đảm bảo an toàn cho đồng tiền của mình cũng tăng lên, và với
những rủi ro có thể gặp phải thì việc bảo hiểm cho đồng tiền là rất quan
trọng. Chính vì vậy nghiệp vụ bảo hiểm tiền gửi ra đời như một tất yếu
nhằm cân bằng nền kinh tế cũng như vì mục tiêu phát triển đất nước.
Trong quá trình thực hiện đề tài này, em xin chân thành cảm ơn cô
giáo, Thạc sĩ. Nguyễn Thị Ngọc Hương đã giúp đỡ em hoàn thành đề tài
này. Tuy vậy trong quá trình làm chắc chắn vẫn còn nhiều sai sót. Rất
mong sự thông cảm từ cô giáo.
.

1


NỘI DUNG
I. LÝ LUẬN CHUNG VỀ BẢO HIỂM TIỀN GỬI
1. Sự cần thiết của nghiệp vụ bảo hiểm tiền gửi
Trong các hoạt động kinh tế Việt Nam hiện nay tín dụng là một
trong những hoạt động phát triển rất mạnh mẽ. Hoạt động này đem lại lợi
nhuận cao nhưng những rủi ro cũng có thể xảy ra bất cứ khi nào như:rủi ro
mất khả năng thanh toán, rủi ro lãi suất, rủi ro tỷ giá hối đoái…, gây thiệt


hại cho các tổ chức tín dụng, nhiều khi còn làm phá sản.
Một số nguyên nhân như:
- Do môi trường kinh tế chưa ổn định làm cho 1 số doanh
nghiệp không đứng vững trên thị trường.
- Do quản lí nhà nước còn sơ hở, nhiều hạn chế dẫn đến những
hành vi lừa đảo
- Do trình độ quản lí của các doanh nghiệp chưa cao, nhiều hạn
chế,sơ hở…
Cùng với những nguyên nhân trên, khách hàng cũng góp phần tạo
nên những rủi ro tín dụng. Như: sử dụng vốn vay sai mục đích, sản xuất
kinh doanh thua lỗ, cố tình không trả nợ, hoặc tài sản thế chấp, giấy tờ pháp
lí không đảm bảo
Mặt khác, bản thân các tổ chức tín dụng cũng gây ra các rủi ro như:
Không chấp hành nghiêm túc các thể lệ tín dụng và vi phạm quá trình xét
duyệt cho vay, không kiểm tra được việc sử dụng vốn của người vay, quá
chú trọng về lợi nhuận, đặt lợi nhuận lên trên các nguyên tắc…
Ngoài ra còn có những nguyên nhân khác như sự thay đổi về chính
trị, pháp luật, chế độ của nhà nước…..
Những rủi ro tín dụng xảy ra gây nên những hậu quả khôn lường:
2


- Đối với nền kinh tế: Nếu có rủi ro gây thiệt hại lớn hoặc làm
phá sản một vài tổ chức tín dụng sẽ gây ra tâm lí không an tâm đối với
nhân dân,họ đua nhau rút tiền làm phá sản hàng loạt ngân hàng và tổ chức
tín dụng,làm nhiều doanh nghiệp mất vốn và ảnh hưởng đến cả nền kinh tế
- Đối với ngân hàng và các tổ chức tín dụng: Ảnh hưởng trực
tiếp đến hoạt động kinh doanh của họ:Giảm lợi nhuận, thua lỗ hoặc mất
khả năng chi trả
- Đối với khách hàng: Có thể mất vốn dẫn đến khó khăn trong

sản xuất kinh doanh…
Do đó có thể thấy sự cần thiết của bảo hiểm tiền gửi ra đời như một
sự đảm bảo an toàn tiền gửi cho những người gửi tiền tại các tổ chức tham
gia tiền gửi,góp phần tạo sụ ổn định cho các tổ chức tín dụng, đảm bảo sự
phát triển lành mạnh của ngân hàng va các tổ chức tín dụng
2. Giới thiệu chung về bảo hiểm tiền gửi
2.1 Khái niệm bảo hiểm tiền gửi
Bảo hiểm tiền gửi là cam kết công khai của tổ chức bảo hiểm tiền
gửi đối với tổ chức tham gia bảo hiểm tiền gửi về việc trả tiền gửi (bao
gồm phần gốc và lãi) cho người gửi tiền trong trường hợp tổ chức tham gia
bảo hiểm tiền gửi vì lí do nào đó bị chấm dứt hoạt động và không có khả
năng thanh toán cho người gửi tiền. Do đó sẽ hình thành hợp đồng bảo
hiểm giữa ba đối tượng: tổ chức bảo hiểm tiền gửi, tổ chức tham gia bảo
hiểm và người gửi tiền.
Tổ chức bảo hiểm tiền gửi là tổ chức nhận đóng góp tài chính từ tổ
chức tham gia bảo hiểm tiền gửi và trách nhiệm thực hiện việc chi trả tiền
bảo hiểm tới người có tiền gửi thuộc đối tượng được bảo hiểm tại tổ chức
tham gia bảo hiểm tiền gửi khi tổ chức đó ngừng hoạt động và mất khả
năng thanh toán.
3


Tổ chức tham gia bảo hiểm tiền gửi là các ngân hàng và tổ chức tài
chính phi ngân hàng có thực hiện huy động tiền gửi. Các tổ chức này khi
tham gia bảo hiểm tiền gửi có trách nhiệm đóng góp tài chính cho tổ chức
bảo hiểm tiền gửi và được quyền yêu cầu tổ chức bảo hiểm tiền gửi chi trả
tiền bảo hiểm cho người gửi tiền tại tổ chức đó trong trường hợp tổ chức
này mất khả năng thanh toán . Hiện nay trên thế giới có 3 hình thức đóng
góp tài chính :
-


Đóng góp một khoản tiền khi được chấp nhận tham gia bảo

hiểm tiền gửi
-

Đóng phí bảo hiểm tiền gửi

-

Khi có một tổ chức tham gia bảo hiểm tiền gửi bị đổ vỡ tổ

chức bảo hiểm tiền gửi sẽ yêu cầu các tổ chức tham gia bảo hiểm tiền gửi
đóng góp để hỗ trợ.
Tham gia bảo hiểm tiền gửi là quy định bắt buộc với các tổ chức tín
dụng và các tổ chức không phải là tín dụng nhưng được phép thực hiện một
số hoạt động ngân hàng theo quy định của luật các tổ chức tín dụng có
nhận tiền gửi của tổ chức, cá nhân.Công ty bảo hiểm nhận trách nhiệm của
các tổ chức tín dụng đối với các khoản tiền gửi. Tổ chức tín dụng là doanh
ngiệp được thành lập theo quy định của Luật tổ chức tín dụng và các quy
định khác của pháp luật để hoạt động kinh doanh tiền tệ, thực hiện các dịch
vụ ngân hàng với nội dung nhận tiền gửi và sử dụng tiền gửi để cấp tín
dụng, cung ứng các dịch vụ thanh toán.
Người gửi tiền thuộc đối tượng được bảo hiểm là những người đã
gửi tiền tại tổ chức tham gia bảo hiểm tiền gửi và khoản tiền đó thuộc đối
tượng được bảo hiểm theo quy định. Những người gửi tiền này không phải
tham gia đóng góp cho tổ chức bảo hiểm tiền gửi nhưng sẽ được tổ chức
bảo hiểm tiền gửi thanh toán tiền gửi kể cả tiền lãi tích luỹ trên tiền gửi đó

4



trong hạn mức chi trả tiền bảo hiểm tiền gửi (nếu chi trả tiền bảo hiểm tiền
gửi có xác định hạn mức), hoặc thanh toán toàn bộ tiền gửi (nếu chi trả tiền
bảo hiểm tìn gửi không có xác định giới hạn) khi có sự kiện chấm dứt hoạt
động của tổ chức nhận tiền gửi.
2.2. Mục đích của bảo hiểm tiền gửi
Tuỳ thuộc vào tình hình kinh tế- xã hội của mỗi nước mà hoạt động
bảo hiểm tiền gửi ở đó đáp ứng nhiều mục đích khác nhau, song nhìn
chung lại những mục đích cơ bản cần hướng đến là:
- Bảo vệ quyền của người gửi tiền thông qua nhiều khía cạnh khác
nhau như đảm bao hoạt động của ngân hàng, thực hiện chi trả cho người
gửi tiền khi có sự cố xảy ra đối với các tổ chức nhận tiền gửi, đặc biệt bảo
vệ quyền lợi cho những người gửi tiền ít có điều kiện tiếp cận thông tin về
điều hành và tình hình hoạt động của tổ chức tín dụng.
- Giảm thiểu tình trạng đổ vỡ ngân hàng, từ đó xây dựng một hệ
thống tài chính ổn định, góp phần ổn đinh xã hội.
- Tạo nên một thị trường cạnh tranh bình đẳng cho các tổ chức tài
chính dù quy mô và trình độ phát triển khác nhau
- Tạo nên một cơ chế pháp lí trong đó quy định rõ rang trách nhiệm
và quyền của các bên có liên quan nhằm giảm bớt gánh nặng tài chính cho
người đóng thuế trong trường hợp ngân hàng đổ vỡ.
2.3. Vai trò của hoạt động bảo hiểm tiền gửi
Chúng ta xem xét vai trò của bảo hiểm tiền gửi dưới 3 góc độ:
2.3.1. Đối với người gửi tiền
Hoạt động bảo hiểm tiền gửi tạo sự an tâm, tin cậy cho người gửi
tiền và đảm bảo quyền lợi cho họ. Điều này được lí giải bởi các nguyên
nhân sau:

5



Thứ nhất, tổ chức bảo hiểm tiền gửi cung cấp cho công chúng những
thông tin về các ngân hàng ở một mức độ nào đó giúp họ nắm bắt được tình
hình hoạt động của các ngân hàng. Khi đó họ chọn lựa được nơi gửi tiền
mà họ cảm thấy yên tâm nhất
Thứ hai, những người gửi tiền tại các ngân hàng sẽ không bị thiẹt hại
nếu như ngân hàng đó lâm vào tình trạng bị đóng cửa hay mất khả năng
thanh toán. Với bản chất chuyển giao rủi ro của bảo hiểm thì các tổ chức
bảo hiểm tiền gửi sẽ chi trả cho người gửi tiền theo quy định, hơn nữa tổ
chức bảo hiểm tiền gửi còn tham gia vào quá trình thanh lí tài sản của tổ
chức tham gia bảo hiểm tiền gửi sau khi đổ vỡ để tiếp tục chi trả cho những
người gửi tiền có số tiền gửi thuộc đối tượng được bảo hiểm lớn hơn hạn
mức chi trả. Nhờ vậy, họ có thể tiếp tục hoạt động sản xuất kinh doanh mà
không bị ảnh hưởng đáng kể.
Đặc biệt, những người đã tích luỹ cả đời để có được số tiền ít ỏi lo
tuổi già, đã gửi toàn bộ mồ hôi công sức của mình vào tổ chức tín dụng với
một niềm tin tuyệt đối rằng tổ chức tín dụng là nơi cất giữ an toàn nhất cho
mình. Vì thế nếu vì một nguyên nhân nào đó mà tổ chức này không thể trả
lại số tiền đó thì niềm tin của họ sẽ bị đổ vỡ nghiêm trọng. Do đó vai trò
của bảo hiểm tiền gửi không chỉ tính bằng tièn mà còn cả niềm tin của
người gửi tiền.
2.3.2. Đối với hệ thống ngân hàng
Vai trò của bảo hiểm tiền gửi rất quan trọng bởi hệ thống ngân hàng
được ví như hệ thống thần kinh của một nền kinh tế, hệ thống này có hoạt
động thông suốt, lành mạnh và hiệu quả thì các nguồn lực tài chính mới có
thể được luân chuyển , phân bổ và sử dụng có hiệu quả, kích thích tăng
trưởng kinh tế một cách bền vững.
Trước đây, hoạt động ngân hàng chưa có hệ thống đánh giá rủi ro


6


đầy đủ, chưa được phép trích dự phòng rủi ro,và cũng không được hỗ trợ
khi có rủi ro xảy ra. Từ khi có bảo hiểm tiền gửi tất cả các yếu tố trên đều
được đảm bảo, hoạt động ngân hàng yên tâm hơn, tăng thêm uy tín với
khách hàng. Cụ thể:
• Hoạt động bảo hiểm tiền gửi đảm bảo cho hệ thống ngân hàng
hoạt động an toàn và hiệu quả, góp phần củng cố và tăng cường uy tín của
các ngân hàng. Thông qua các quy định an toàn và cơ chế giám sát hoạt
động ngân hàng, bảo hiểm tiền gửi đã góp phần nâng cao khả năng quản trị
rủi ro, khả năng điều hành ngân hang nói riêng và nghành tài chính nói
chung. Nhờ có quỹ bảo hiểm tiền gửi, tổ chức bảo hiểm tiền gửi đủ khả
năng hỗ trợ tài chính cũng như chi trả tiền gửi kịp thời khi tổ chức tham gia
bảo hiểm tiền gửi lâm vào tình trạng khó khăn, qua đó ngăn chặn việc rút
tiền hàng loạt và tránh dẫn đến sự sụp đổ của hệ thống ngân hàng khi một
vài tổ chức ngân hàng gặp rắc rối.
• Hoạt động bảo hiểm tiền gửi tạo điều kiện thuạn lợi cho tất cả các
ngân hàng cạnh tranh một cách bình đẳng, từ đó phát triển tốt hơn. Bởi
thông thường trong nèn kinh tế thị trường các ngân hàng có ưu thế về quy
mô hoạt động lớn, uy tín và bề dày phát triển sẽ tạo được niềm tin cho
người gửi tiền, nhờ đó vốn huy động dễ dàng hơn. Như vậy các ngân hàng
mới ra đời hoặc có quy mô nhỏ sẽ bị thiệt thòi do chưa tạo được vị thế. Tuy
nhiên khi có hoạt động bảo hiểm tiền gửi với quy định bắt buộc mọi đối
tượng tham gia thì người gửi tiền sẽ được bảo vệ cho dù họ gửi tiền ở bất
cứ ngân hàng nào.
• Tạo động lực để các ngân hàng giám sát lẫn nhau, thúc đẩy nhau
nâng cao chất lượng hoạt động. Tổ chức bảo hiểm tiền gửi hoạt động trên
cơ chế hỗ trợ lẫn nhau trong cộng đồng các tổ chức huy động tiền gửi để
giải quyết các khó khăn (đặc biệt là tình trạng khó khăn gây đóng cửa ngân

hàng) của mỗi tổ chức trong cộng động các tổ chức tham gia bảo hiểm tiền
7


gửi bằng chíng nguồn lực huy động từ các thành viên của cộng đồng. Điều
này làm cho các ngân hàng tham gia bảo hiểm tiền gửi có nhu cầu giám sát
lẫn nhau trong hoạt động
2.3.3. Đối với xã hội
Nhờ có hoạt động bảo hiểm tiền gửi nguồn vốn cho đầu tư phát triển
được huy động dễ dàng hơn. Các ngân hàng vốn là trung gian trong việc
huy động tiền gửi của nhân dân và cho các cá nhân tổ chức vay vốn. Thông
thường nhiều người dân thích lựa chọn việc gửi tiền vào ngân hàn hơn là
việc đầu tư vào lĩnh vực khác vì đã xác định trước mức lãi suất, thu nhập từ
đó sẽ ổn định hơn, ngoài ra viẹc gửi tiền vào ngân hàng không đòi hỏi kiến
thức chuyên môn nhiều như các hình thức đầu thư khác, do đó việc huy
động tiền gửi từ dân là khá dễ dàng. Khi có bảo hiểm tiền gửi tính rủi ro
của việc gửi tiền càng thấp vì đã đươc bảo hiểm ở một phạm vi nhất định
đối với tiền gửi của công chúng trong hệ thống ngân hàng, rất thích hợp với
các nhà đầu tư không thích mạo hiểm. Nhờ vào công cụ này mà hệ thống
ngân hàng đã thực hiện chức năng trung gian tài chính một cách tích cực.
Hơn nữa, tiền gửi của dân cư có tính ổn định cao và thường gửi có kì hạn
nên rất ưu việt để ngân hàng huy động cho đầu tư có kì hạn. Vì thế nếu
ngân hàng có hoạt động hiệu quả, xá định mức lãi suất thoả đáng, thủ tục
gửi tiền và rút tiền nhanh gọn, đảm bảo an toàn tiền gửi của người gửi tiền
thì ngân hàng đó sẽ chiếm được ưu thế trong viẹc huy động tiền gửi của các
cá nhân. Tổ chức bảo hiểm tiền gửi với vai trò đối với hệ thống ngân hàng
như đã nói trên sẽ tạo điều kiện để hệ thống ngân hàng huy động vốn có
hiệu quả.
Mặt khác, trong trường hợp có sự đổ vỡ của các tổ chức nhận tiền
gửi, do đã được sự bảo vệ của tổ chức bảo hiểm tiền gửi nên sẽ không gây

tâm lí hoang mang, lo lắng cho người gửi tièn, tránh sự hỗn loạn, gây mất
trật tự xã hội.
8


2.4. Những rủi ro ảnh hưởng đến hoạt động bảo hiểm tiền gửi
Rủi ro là một yếu tố thường được nhắc đến đầu tiên trong các loại
hình bảo hiểm. Rủi ro ám chỉ một số hình thức không chắc chắn về một hậu
quả của một tình huống nhất định.
Có rất nhiều định nghĩa về rủi ro, chẳng hạn:
- Rủi ro là khả năng xảy ra một sự cố không may
- Rủi ro là sụ kết hợp các nguy cơ
- Rủi ro là sự không thể đoán trước một khuynh hướng dẫn
đến kết quả thực khác với dự đoán,
- Rủi ro là sự không chắc chắn về tổn thất
- Rủi ro là khả năng xảy ra tổn thất
Trong hoạt động bảo hiểm tiền gửi cũng tồn tại nhiều rủi ro nhưng
người ta chia thành 3 loại chính: Rủi ro đạo đức, rủi ro thông tin không đối
xứng, rủi ro của tổ chức bảo hiểm tiền gửi.
2.4.1. Rủi ro đạo đức
Rủi ro đạo đức được nói đến trong hoạt động bảo hiểm tiền gửi là
cách cư xử thiếu đạo đức khi tiếp cận và sử dụng các dịch vụ ngân hàng,
gây ra những ảnh hưởng không tốt tới hoạt động bảo hiểm tiền gửi và sự
thiếu an toàn của hệ thống ngân hàng.
Trong hoạt động bảo hiểm tiền gửi có rất nhiều đối tượng thụ hưởng
từ chính sách này nhưng được phân thành đối tượng thụ hưởng trực tiếp (là
những người gửi tiền thuộc đối tượng được bảo hiểm) và đối tượng thụ
hưởng gián tiếp (gồm những người làm viẹc trong ngân hàng, người đi vay
vốn trong ngân hàng và rộng hơn là toàn thể dân cư của quốc gia). Tất cả
các đối tượng nói trên đều gây ra rủi ro đạo đức cho hoạt động bảo hiểm

tiền gửi. Chẳng hạn:
9


- Người gửi tiền được bảo hiểm không quan tâm đến việc thu thập
thông tin của tổ chức mà họ gửi tiền. Nhờ thế, với việc ấn định mức lãi suất
cao thì bất kì tổ chức nhận tiền gửi nào cũng dễ dang huy động được tiền
gửi từ người dân
- Về phía các ngân hàng, do có sự hỗ trợ, đảm bảo từ tổ chức bảo
hiểm tiền gửi họ có thể chấp nhận rủi ro cao hơn trong hoạt động, giảm
vốn, dự trữ từ đó khó khăn hơn trong việc giải quyết các vấn đề về thanh
khoản, đặc biệt là trong các tình huống có khủng hoảng xảy ra.
- Người vay tiền có thể quyết định vay ở ngân hàng yếu kém với thủ
tục có thể được châm chước và lãi suát mềm hơn la vay ở ngân hàng tốt với
thủ tục đầy đủ và lãi suất hợp lí. Bởi vì, khi có hoạt động bảo hiểm tiền gửi
họ không còn lo sợ xảy ra trường hợp ngân hàng yếu có thể bị đóng cửa và
tiền vay của họ có thể bị đòi hoàn trả đột ngột trước hạn làm ảnh hưởng tới
hoạt động sản xuất kinh doanh của họ.
* Tác hại của cư xử thiếu đạo đức có thể được xem xét dưới 2 góc
độ:
Thứ nhất, ảnh hưởng tới quy luật cung cầu về tiền gửi. Lãi suất mà
ngân hàng ấn định khi huy động tiền gửi là giá cả của việc sử dụng vốn, các
ngân hàng sẽ trả cho người gửi tiền ngoài phần gốc còn them một khoản
tính theo mức lãi suất này.Khi ngân hàng có nhu cầu vốn lớn họ thường
tăng lãi suất để kích thích người gửi tiền vào ngân hàng.Hơn nữa, nếu đầu
tư vào ngân hàng mà độ rủi ro không đáng kể so với đầu tư ở lĩnh vực khác
thì sự lựa chọn để gửi tiền là tối ưu với họ.
Hoạt động bảo hiểm tiền gửi chỉ nhằm hạn chế rủi ro thông qua các
biện pháp kiểm tra, giám sát của tổ chức bảo hiểm tiền gửi và thông qua
việc chia sẻ rủi ro chứ không thể xoá bỏ được hoàn toàn rủi ro. Song trên

thực tế những người thụ hưởng chính sách bảo hiểm tiền gửi cho rằng

10


những rủi ro này được chuyển hoàn toàn cho tổ chức bảo hiểm tiền gửi nên
họ chỉ quan tâm đến tiện lợi khi gửi tiền và mức lãi suất hấp dẫn. Các ngân
hàng muốn huy động nhiều tiền gửi chỉ việc tạo điều kiện thuận lợi và lãi
suất hấp dẫn là có thể thu hút được nhiều vốn . Điều này đã ảnh hưởng
khách quan đến sự vận động của quy luật cung cầu tiền gửi.
Thứ hai, ảnh hưởng tới tính ổn định trong hoạt động của hệ thống
ngân hàng. Việc tăng lãi suất một cách tuỳ tiện cao hơn cho phép như trên
đã nói khiến các ngân hàng phải cho vay vào các lĩnh vực có lãi suất cao để
có thể có lãi . Trong những lĩnh vực đó rủi ro la rất cao, dẫn đến đổ vỡ là
vấn đề không thể tránh khỏi.
2.4.2. Rủi ro thông tin không đối xứng
Bất cứ hoạt động nào cũng chịu ảnh hưởng của thông tin không đối
xứng, song với hoạt động bảo hiểm thì rủi ro này gây ra những hậu quả
nghiêm trọng. Trong hoạt động bảo hiểm tiền gửi, thông tin không đối
xứng là việc tổ chức bảo hiểm và tổ chức tham gia bảo hiểm hiểu rõ về hoạt
động của chính mình nhưng khó khăn trong viẹc thu thập thông tin và điều
chỉnh hành vi của đối tác. Điều này gây rủi ro rất lớn cho tổ chức bảo hiểm
tiền gửi, dễ dẫn đến trường hợp phải chi trả tiền bảo hiểm. Do đó để ngăn
chặn tình trạng này, các tổ chức bảo hiểm tiền gửi đưa ra nhiều biện pháp
ngăn chặn tình trạng này, trong đó hữu hiệu nhất là tăng cường công tác
kiểm tra giám sát tổ chức tham gia bảo hiểm tiền gửi
Những tổn thất gây ra:
Thứ nhất, gây áp lực tài chính lớn đối với tổ chức bảo hiểm tiền gửi.
Khi tổ chức tham gia bảo hiểm tiền gửi chỉ là ngân hàng yếu kém, quy mô
nhỏ, độ rủi ro cao thì khả năng đổ vỡ của ngân hang tham gia bảo hiểm tiền

gửi ở hệ thống này là lớn hơn và như vậy việc tổ chức bảo hiểm tiền gửi
phải chi trả là không thể tránh khỏi.

11


Thứ hai, phá vỡ cơ chế cộng đồng tương trợ - cơ chế đảm bảo sự bền
vững của hoạt động bảo hiểm tièn gửi. Do việc tham gia bảo hiểm tiền gửi
chủ yếu là các ngân hàng yếu kém chỉ có một số ít ngân hàng hoạt động tốt,
do đó nguồn đóng quỹ bảo hiểm tiền gửi không đảm bảo quy luật số đông
bù số ít.
2.4.3. Rủi ro của tổ chức bảo hiểm tiền gửi
Tổ chức bảo hiểm tiền luôn hướng tới những mục tiêu cơ bản đã đề
ra, vì vậy cần quan tâm đến 3 khía cạnh sau :
-

Nguồn lực tài chính

-

Quy định về vai trò và trách nhiệm của tổ chức bảo hiểm tiền

gửi
- Mô hình tổ chức
Tổ chức bảo hiểm tiền gửi cần đảm bảo có được nguồn vốn hoạt
động hiệu quả và không ngừng tăng cường nguồn lực tài chính dưới nhièu
hình thức để có thể duy trì bộ máy hoạt động có hiệu quả, thực hiện hỗ trợ
kịp thời đối với khách hàng tham gia bảo hiểm tiền gửi cũng như chi trả kịp
thời cho người gửi tiền thuộc đối tượng được bảo hiểm khi có ngân hàng bị
đóng cửa và mất khả năng thanh toán, từ đó tránh sự đổ vỡ hàng loạt của

ngân hàng.
Có nhiều nguyên nhân gây ra việc thiếu hụt vốn hoạt động cho tổ
chức bảo hiểm tiền gửinhư xác định không đủ quy mô vốn nhằm triển khai
có hiệu qủa hoạt động bảo hiểm tiền gửi, xác định tỉ lệ phí quá thấp hoặc
thu không đầy đủ, công tác quản lí hành chính kém hiệu quả, khách hàng
tham gia hoạt động có rủi ro lớn hơn mức cho phép, trống tránh nghĩa vụ
đóng góp tài chính cho tổ chức bảo hiểm hoặc gặp rủi ro khách quan mang
tính thảm hoạ, hệ thống.
Ở một khía cạnh khác, quy định về trách nhiệm, vai trò của tổ chức
12


bảo hiểm tiền gửi là nhân tố chủ quan song cũng có thể dẫn đến rủi ro khi
quy định không đầy đủ hoặc thiếu tính hiệu lực làm cho tổ chức ấy không
đạt được những mục tiêu đã đề ra.
Rủi ro về mô hình tổ chức thực ra là nguyên nhân của khía cạnh thứ
hai. Rủi ro này của tổ chức bảo hiểm tiiền gửi phản ánh tình trạng xây dựng
mô hình tổ chức không phù hợp va gây khó khăc, cản trở họ thực hiện có
hiệu quả vai trò và chức năng đã đề ra. Vì thế tổ chức bảo hiểm tiền gửi đòi
hỏi phải có tính độc lập cao trong hoạt động, có nguồn lực tài chính đủ
mạnh, có cơ sở pháp lí đầy đủ và mang tính hiệu quả cao. Các vấn đề đó
chỉ có thể đạt được khi có một mô hình tổ chức bảo hiểm tiền gửi được
thành lập phù hợp với đặc điểm, lịch sử và trình độ phát triển của quốc gia
đó

II. HOẠT ĐỘNG TIỀN GỬI Ở VIỆT NAM
1. Giới thiệu về tổ chức bảo hiểm tiền gửi Việt Nam
Bảo hiểm tiền gửi Việt Nam (Deposit Inusurance of Vietnam - DIV)
là tổ chức tài chính Nhà nước được thành lập theo Quyết định số
218/1999/QĐ-TTg ngày 09/11/1999 của Thủ tướng Chính phủ và chính

thức hoạt động từ ngày 07/7/2000.
Hoạt động của Bảo hiểm tiền gửi Việt Nam không vì mục tiêu lợi
nhuận mà nhằm bảo vệ quyền và lợi ích hợp pháp của người gửi tiền, góp
phần duy trì sự ổn định của các tổ chức tham gia bảo hiểm tiền gửi và sự
phát triển an toàn lành mạnh hoạt động ngân hàng.
Bảo hiểm tiền gửi Việt Nam có trụ sở chính tại Thủ đô Hà Nội và 6
chi nhánh tại các khu vực kinh tế trọng điểm của đất nước: Chi nhánh khu
vực Hà Nội trụ sở tại thành phố Hà Nội, Chi nhánh khu vực thành phố Hồ
Chí Minh trụ sở tại thành phố Hồ Chí Minh, Chi nhánh khu vực Đông Bắc
Bộ trụ sở tại thành phố Hải Phòng, Chi nhánh khu vực Bắc Trung Bộ trụ sở

13


tại thành phố Vinh- Nghệ An, Chi nhánh khu vực Đồng bằng Sông Cửu
Long trụ sở tại thành phố Cần thơ, Chi nhánh khu vực Nam Trung bộ và
Tây Nguyên trụ sở tại thành phố Nha Trang – Khánh Hòa.
Những năm qua, được sự quan tâm của Chính phủ, sự phối hợp và
giúp đỡ có hiệu quả của các bộ, ban, ngành chức năng, sự quan tâm tạo
điều kiện của cấp ủy, chính quyền các cấp, sự nỗ lực cố gắng của tập thể
cán bộ, viên chức trong toàn hệ thống, hoạt động của Bảo hiểm tiền gửi
Việt Nam đã thực sự góp phần quan trọng vào công cuộc đổi mới đất nước,
tái cấu trúc hệ thống ngân hàng, duy trì sự ổn định, phát triển an toàn lành
mạnh của hệ thống các tổ chức tham gia bảo hiểm tiền gửi, bảo vệ được
quyền và lợi ích hợp pháp của người gửi tiền, là nhân tố quan trọng trong
việc phát huy nguồn vốn nội lực để phát triển kinh tế, giữ vững ổn định, an
ninh kinh tế, chính trị và trật tự an toàn xã hội.
Chính sách về bảo hiểm tiền gửi được kiểm nghiệm bằng thực tế
hoạt động của Bảo hiểm tiền gửi Việt Nam hơn 7 năm qua đã thực sự đi
vào cuộc sống, được cuộc sống chấp nhận. Đó là minh chứng khẳng định vị

trí, vai trò, sự cần thiết của một định chế tài chính quan trọng đối với nền
kinh tế nói chung và mạng an toàn tài chính quốc gia nói riêng.
Để hoạt động bảo hiểm tiền gửi ngày càng đáp ứng tốt hơn yêu cầu
phát triển và hội nhập của nền kinh tế khi mà đất nước đã gia nhập Tổ chức
thương mại thế giới (WTO), Bảo hiểm tiền gửi Việt Nam đã xây dựng và
triển khai thực hiện Chiến lược phát triển giai đoạn 2007 – 2010, định
hướng đến năm 2020 với mục tiêu, nhiệm vụ tổng quát được xác định là:
Xây dựng Bảo hiểm tiền gửi Việt Nam trở thành một định chế tài chính lớn
mạnh; hội nhập và phát triển bền vững; bảo vệ tốt nhất quyền lợi người gửi
tiền, nâng cao niềm tin công chúng và sự ổn định của hệ thống tài chính
quốc gia bằng các công cụ bảo hiểm tiền gửi theo mô hình của tổ chức
giảm thiểu rủi ro và được triển khai thực hiện đồng bộ trên cơ sở của Luật
14


bảo hiểm tiền gửi (đang xúc tiến xây dựng).
Nhiệm vụ, mục tiêu tổng quát trên đây đã, đang và sẽ được Bảo hiểm
tiền gửi Việt Nam triển khai thực hiện bằng sự nỗ lực, cố gắng của đội ngũ
cán bộ Bảo hiểm tiền gửi Việt Nam đảm bảo các tiêu chuẩn về năng lực
chuyên môn, đạo đức nghề nghiệp, có khả năng làm việc năng động, sáng
tạo, hiệu quả trên tinh thần hợp tác và gắn bó với tổ chức. Vì vậy, chắc
chắn Bảo hiểm tiền gửi Việt Nam sẽ hoàn thành được, nhiệm vụ, mục tiêu
đề ra.
2. Cơ cấu tổ chức
Bảo hiểm tiền gửi Việt Nam là một tổ chức tài chính Nhà nước , hoạt
động không vì mục tiêu lợi nhuận, hoạch toán độc lập, đảm bảo an toàn về
vốn, tự bù đắp chi phí và được mở chi nhánh tại các địa bàn trong cả nước,
nhằm bảo vệ quyền lợi và lợi ích hợp pháp của người gửi tiền, góp phần
duy trì sự ổn định của tổ chức tín dụng, đảm bảo sự an toàn, lành mạnh cho
hoạt động ngân hàng.

DIV có cơ cấu tổ chức bộ máy gồm Hội đồng quản trị, ban điều
hành, phòng, ban, bộ phận ở hội sở chính và 6 chi nhánh khu vực. Trong
đó, cơ quan trung ương của DIV là hội sở chính, có trụ sở tại Hà nội. Hoạt
động của hội sở chính la hoạch định các chính sách, chiến lược phát triển
và các quy định để triển khai các hoạt động của DIV và giám sát kiểm tra
việc thực hiện các chính sách và quy định được ban hành.
Trong những năm qua, cùng với việc ổn định bộ máy và triển khi
đầy đủ các hoạt động nghiệp vụ về bảo hiểm tiền gửi, DIV đã mở rộng
mạng lưới hoạt động của mình tới các khu vực thuộc phạm vi cả nước, đó
là thành lập 6 chi nhánh bảo hiểm tiền gửi khu vực gồm: chi nhánh tại
TPHCM, chi nhánh khu vực Hà nội, chi nhánh khu vực đồng bằng sông
Cửu Long (tại Cần Thơ), chi nhánh khu vực Nam trung bộ và Tây nguyên

15


(tại Nha Trang), chi nhánh khu vực Đông bắc bộ (tại Hải Phòng), và chi
nhánh khu vực Bắc trung bộ (tại Nghệ An). Đây là những địa bàn kinh tế
trọng điểm của cả nước, đồng thời là nơi tập trung nhiều tổ chức tài chính
và tổ chức tín dụng.
Các chi nhánh của DIV khu vực trên từng địa bàn chịu trách nhiệm
uản lí khách hàng tham gia bảo hiểm tiền gửi ở địa bàn đó. Ngoài ra Hội sở
chính quản lí trực tiếp các khách hàng ở một số địa bàn chưa có chi nhánh
khu vực. Các tổ chức thuộc đối tượng bắt buộc tham gia bảo hiểm tiền gửi
phải làm thủ tục đăng kí tham gia tại các chi nhánh DIV trên địa bàn hay
Hội sở chính theo phân vùng đảm nhận.
Khi được chấp nhận tham gia bảo hiểm tiền gửi, tổ chức này sẽ thực
hiện trách nhiệm của tổ chức tham gia bảo hiểm tiền gửi, chi nhánh DIV
khu vực sẽ thực hiện các nghiệp vụ của mình đối với các tổ chức tham gia
bảo hiểm tiền gửi trên địa bàn.

Hệ thống các ngân hàng thương mại nhà nước có 4 ngân hàng lớn,
đó là ngân hàng ngoại thương Việt Nam, Ngân hàng công thương Việt
Nam, Ngân hàng đầu tư và phát triển Việt Nam, Ngân hàng Nông nghiệp
và phát triển Việt Nam thuộc diện khách hàng trực tiếp tại hội sở chính của
bảo hiểm tiền gửi Việt Nam nhưng từ tháng 1/2004, 4 ngân hàng này được
chuyển giao cho chi nhánh DIV khu vực Hà Nội quản lí.
3. Hoạt động bảo hiểm tiền gửi ở Việt Nam
3.1. Quy định hoạt động ở Việt Nam
Ngay từ khi ra đời hoạt động bảo hiểm tiền gửi ở Việt Nam đã được
điều chỉnh bởi Nghị định 89/NĐ-CP ngày 1/9/1999 của Chính phủ về bảo
hiểm tiền gửi, từ đó đến nay đã có nhiều Quyết định, Nghị định ,Thông tư
ra đời để ngày càng hoàn thiện hơn chính sách về bảo hiểm tiền gửi cũng
như để đảm bảo quyền lợi cho người gửi tiền. Và gần đây nhất là sự ra đời

16


của Nghị định số 109/2005/NĐ-CP ngày 24/8/2005 về viẹc sửa đổi bổ sung
một số điều của Nghị định số 89/1999/NĐ-Cp. Hiện nay hoạt động bảo
hiểm tiền gửi ở Việt Nam được quy định như sau:
3.1.1. Đối tượng tham gia bảo hiểm tiền gửi
Theo quy định tại khoản 1 điều 2 Nghị định 89/1999/NĐ-CP : “Các
tổ chức tín dụng và tổ chức không phải là tổ chức tín dụng được phép thực
hiện một số hoạt động ngân hàng theo quy định của Luật các tổ chức tín
dụng có nhận tiền gửi của cá nhân phải bắt buộc tham gia bảo hiểm tiền
gửi”.
Mặt khác, theo quy định tại điều 3 của nghị định này : “ Tiền gửi
được bảo hiểm là đồng tiền Việt Nam của cá nhân gửi tại tổ chức tham gia
bảo hiểm tiền gửi”. Hiện nay, theo khoản 2 điều 1 Nghị địng số 109 thì
ngoài cá nhân đối tượng người gửi tiền đã mở rộng thêm gồm : hộ gia

đình, tổ hợp tác, doanh nghiệp tư nhân và công ty hợp doanh.
Có thể thấy viẹc tham gia bảo hiểm tiền gửi là bắt buộc với các tổ
chức có nhận tiền gửi bằng đồng tiền Việt Nam của các cá nhân , hộ gia
đình, tổ hợp tác, doanh nghiẹp tư nhân và công ty hợp doanh.
3.1.2. Đối tượng được bảo hiểm
Các tổ chức tín dụng nhận tiền gửi từ dân cư sau đó đem những
khoản tiền gửi này cho vay hoặc đầu tư vào nền kinh tế, quá trình này tiềm
ẩn nhiều rủi ro có thẻ dẫn đến thua lỗ hoặc các cá nhân tổ chức đi vay
không trả được nợ hoặc trả không đúng hạn . Khi đó việc trả tiền vốn và lãi
cho người gửi tiền sẽ gặp khó khăn thậm chí tổ chức nhận tiền gửi không
thể thanh toán được và dẫn đến đổ vỡ. Các tổ chức tín dụng này tham gia
bảo hiểm tiền gửi nhằm tránh nguy cơ nói trên . Như vậy, về thực chất đối
tượng được bảo hiểm chính là phần trách nhiệm của tổ chức tín dụng đối
với các khoản tiền gửi của dân chúng . Nhưng bảo hiểm tiền gửi cũng chỉ

17


quy định bảo hiểm phần trách nhiệm này đối với một số loại tiền gửi nhất
định.
Theo Điều 3 Nghị định 89 , khoản 2 điều 1 Nghị định 109 và mục II
Thông tư 03/2000/TT-NHNH5 ngày 16/03/2000 về hướng dẫn thi hành
Nghị định 89 quy định tiền gửi được bảo hiểm là tiền gửi bằng đồng Việt
Nam của các cá nhân ( bao gồm người cư trú và người không cư trú ), hộ
gia đình, tổ hợp tác, doanh nghiẹp tư nhân và công ty hợp doanh tham gia
bảo hiểm tiền gửi gồm :
- Tiền gửi tiết kiệm không kì hạn , có kì hạn.
- Tiền gửi không kì hạn , có kì hạn bao gồm cả tiền gửi trên
tài khoản cá nhân hay người đại diện theo pháp luật
- Tiền mua các chứng chỉ tiền gửi và các trái phiếu ghi danh

do cơ quan Nhà nước có thẩm quyền cho phép tổ chức tham gia bảo hiểm
tiền gửi phát hành.
DIV không bảo hiểm đối với các loại chứng chỉ tiền gửi và trái phiếu
vô danh do tổ chức tham gia baỏ hiểm tiền gửi phát hành, không bảo hiẻm
cho các loại tiền gửi bằng ngoại tệ để góp phần thực hiện cơ chế quản lí
ngoại hối của Nhà nước. Tuy nhiên trong điều kiện đầu tư nước ngoài vào
Việt Nam ngày càng nhiều cũng như nhu cầu trao đổi , dự trữ ngoại tệ của
người dân và các tổ chức ngày càng lớn thì việc không bảo hiểm cho các
loại tiền này là rất đáng tiếc .
Theo khoản 2 Điều 1 Nghị định 109 quy định không bảo hiểm tiền
gửi cho những người trực tiếp hoặc gián tiếp có quyền quyết định sự tồn tại
của tổ chức nhận tiền gửi, gồm :
- Tìền gửi của người là cổ đông sở hữu trên 10% vốn điều lj
hoặc nắm giữ trên 10% cốn cổ phần có quyền bỏ phiếu của tổ chức tham
gia bảo hiẻm tiền gửi đó
18


- Tiền gửi của thành viên hội đồng quản trị , Ban kiểm soát ,
Tổng giám đốc (giám đốc), Phó tổng giám đốc (Phó giám đốc) của tổ chức
tham gia bảo hiểm tiền gửi đó
Việc không bảo hiểm tièn gửi cho những người trực tiếp tham gia
vào việc quản trị, điều hành của chính tổ chức tiín dụng mà mình gửi tiền là
đúng mục tiêu của chính sách bảo hiểm tiền gửi, tránh sự lạm dụng , có thể
trực tiếp hoặc gián tiếp tham gia vào những quyết sách dẫn đến sự phá ssản
của ngân hàng.
3.1.3. Các rủi ro được bảo hiểm
• Sự phá sản của tổ chức tín dụng
Phá sản là trường hợp các tổ chức tín dụng không thể trả nợ một
cách đày đủ hoặc quỹ tín dụng không thể trực tiếp kinh doanh vì thiếu

vốn.Trong trường hợp này ,các công việc của tổ chức kinh doanh phải
được giao cho ban thanh lí tài sản xử lí các tài sản còn lại theo quy định
pháp lí về phá sản của nhà nước.
• Sự giải thể bắt buộc của tổ chức tín dụng
Giải thể bắt buộc là do không tuân thủ các quy tắc, luật lệ của nhà
nước hoặc có thể do chủ nợ đề nghị toà án ra lệnh tuyên bố giải thể vì tổ
chức tín dụng từ chối thanh toán và chỉ có cách này mới hi vọng thu hồi
được tiền.
• Phải chấp hành lệnh thanh lí vì một lí do khác với việc phá sản
hay mất khả năng thanh toán của tổ chức tín dụng
Trường hợp này xảy ra khi cơ quan có thẩm quyền xét thấy quỹ mặc
dù vẫn có khả năng thanh toán nhưng không đúng mục đích đã đề ra,
không muốn toà án can thiệp mà quyết định thanh lí quỹ không cho hoạt
động tiếp .Trong trường hợp này, bảo hiểm sẽ giải quyết bồi thường cho
những người gửi tiền nhưng sẽ được thế quyền để được hưởng số tiền
19


thanh lí tài sản hay đòi nợ.
• Giải thể tự nguyện do bị đặt trong tình trạng có nguy cơ dẫn đến
phá sản của tổ chức tín dụng
Tình trạng có nguy cơ dẫn đến phá sản của tổ chức tín dụng là tình
trạng tổ chức tín dụng bị thua lỗ trong hoạt động kinh doanh hoặc gặp khó
khăn khi áp dụng các biện pháp tài chính cần thiết mà vẫn mất khả năng
thanh toán nợ đến hạn. Tuy nhiên .không muốn toà án can thiệp ,các cổ
đông của tổ chức tín dụng chấp nhận tuyên bố giải thể. Trong trường hợp
này, bảo hiểm cũng có trách nhiêm bồi thường đói với các khoản tiền gửi
có kì hạn mà tổ chức tín dụng không thanh toán hết sau khi có quyết định
giải thể.
• Không thể thực hiện việc thanh toán cho những người gửi tiền vì

một mệnh lệnh của toà án tối cao đối với tổ chức tín dụng
Xảy ra trong trường hợp tổ chức tín dụng cố ý không thanh toán nợ
và chủ nợ đệ đơn lên toà án để có lệnh bắt buộc quỹ phải tuyên bố phá sản
hay thanh lí để trả nợ, các chủ nợ cho rằng chỉ có cách này họ mới thu được
các khoản nợ.Lệnh của toà án được áp dụng khi:
- Tổ chức tín dụng không có phương án hoà giải và có giải pháp tổ
chức lại hoạt động kinh doanh của tổ chức tín dụng theo yêu cầu của toà án
- Tổ chức tín dụng không tham gia hội nghị chủ nợ để trình bày các
phương án hoà giải và các giải pháp tổ chức lại hoạt động kinh doanh của
tổ chức tín dụng
- Trong thời hạn tổ chức lại kinh doanh, tổ chức tín dụng vi phạm
nghiêm trọng những thoả thuạn tại hội nghị của chủ nợ và các chủ nợ yêu
cầu tuyên bố phá sản.
- Hết thời hạn tổ chức lại hoạt động kinh doanh mà tổ chức tín
dụngvẫn kinh doanh không hiệu quả và các chủ nợ yêu cầu toà án phải có
20


tuyên bố phá sản tổ chức tín dụng.
Tuy nhiên trong bảo hiểm tiền gửi cũng có những rủi ro loại trừ.
Những rủi ro loại trừ (không thuộc phạm vi bảo hiểm) là những rủi ro gây
ra sự phá sản, thanh lý hay giải thể một tổ chức tín dụng trong các trường
hợp:
- Vi phạm nghiêm trọng các quy định về tiền tệ tín dụng, thanh toán
đã nêu trong pháp lệnh ngân hàng của các tổ chức tín dụng. Tổ chức tín
dụng có điều lệ và quy chế hoạt động riêng nhưng cũng tuân thủ các quy
định hiện hành khác của nhà nước. Nếu tổ chức tín dụng vi phạm nghiêm
trọng các quy định tiền tệ, tín dụng ,thanh toán của ngân hàng dẫn đến phá
sản thì bảo hiểm không bồi thường
- Giải thể tự nguyện vì nguyên nhân:

+ Do cổ đông nhận thấy mục tiêu khi thành lập tổ chức tín dụng
không đạt được.
+ Do cổ đông muốn thu hồi vốn hoặc có nhu cầu cải tổ lại cơ cấu của
tổ chức tín dụng.
- Ngừng hoạt động do những nguyên nhân:
Tổ chức tín dụng ngừng hoạt động do chiến tranh, đình công , bạo
loạn dân sự, nội chiến. Dây là những rủi ro loại trừ thông thường không
liên quan đến hoạt động kinh doanh tiền tệ. Khi tổ chức tín dụng bị phá
sản, thanh lí ,giải thể do các rủi ro này bảo hiểm cũng không chịu trách
nhiệm bồi thường cho người gửi tiền.
3.1.4. Công tác bồi thường
Khi xảy ra tổn thất thuộc phạm vi bảo hiểm, tổ chức tín dụng phải
báo ngay cho công ty bảo hiểm biết kèm theo các giấy tờ:
- Giấy yêu cầu bồi thường

21


- Giấy chứng nhận tham gia bảo hiểm
- Báo cáo thực trạng đến ngày xảy ra rủi ro
- Lệnh của toà án,tuyên bố phá sản, quyết định giải thể hay thanh
lí.
- Bản kê danh sách những người gửi tiền chưa được thanh toán
tính đến ngày xảy ra rủi ro
- Bản kê khai chi tiết dư nợ cho vay tính đén ngày xảy ra rủi ro
Sau khi xem xét các chứng từ có liên quan tới việc trả tiền bồi
thường cho quỹ tín dụng và người gửi tiền đến và nếu thuộc phạm vi bảo
hểm thì bảo hiểm sẽ trả tiền bồi thường cho người gửi tiền
Số tiền bồi thường cao nhất của bảo hiểm là số dư tiền gửi thực tế
(chỉ tính gốc không tính lãi) vào thời điểm quỹ tín dụng xảy ra rủi ro nhưng

không vượt quá số tiền ghi trong hợp đồng bảo hiểm.
3.1.5. Số tiền bảo hiểm
Số tiền bảo hiểm là số tiền mà tổ chức bảo hiểm tiền gửi sẽ chi trả
cho người gửi tièn trong trường hợp tổ chưc tham gia bảo hiểm tièn gửi bị
mất khả năng thanh toán và nằm trong phạm vi bảo hiểm. Số tiền này chính
là số dư của các loại tiền gửi có kì hạn và không có kì hạn thuộc đối tượng
bảo hiểm trong báo cáo số dư tiền gửi của mỗi quý gửi tổ chức tín dụng

22


3.2. Các hoạt động nghiệp vụ chính của DIV
3.2.1. Nghiệp vụ kiểm tra tổ chức tham gia bảo hiểm tiền gửi
Nghiệp vụ này đóng vai trò quan trọng trong công tác kiểm soát hoạt
động của các tổ chức tín dụng. Hoạt động kiểm tra tại chỗ gồm kiểm tra
thường xuyên theo kế hoạch và kiểm tra theo chỉ định. Công tác kiểm tra
tiến hành theo 2 phương diện: kiểm tra việc thực hiện các quy định vè bảo
hiểm tiền gửi và quy định về đảm bảo an toàn trong hoạt động ngân hàng.
Trong công tác kiểm tra chấp hành các quy định về bảo hiểm tiền gửi, DIV
chủ yếu kiểm tra hồ sơ pháp lí khi tham gia bảo hiểm tiền gửi, việc niêm
yết chứng nhận bảo hiểm tiền gửi, tính đầy đủ trong nộp phí,chấp hành thời
hạn nộp phí và nộp phạt (nếu có) và kiểm tra việc cung cấp thông tin cho tổ
chức bảo hiểm tiền gửi. Công tác kiểm tra của DIV có sự phối hợp chặt chẽ
với thanh tra ngân hàng nhà nước để tránh trùng lặp, giảm lãng phí về thời
gian cũng như tiền bạc. Ngoài ra, việc kiểm tra các tổ chức tín dụng thực
hiện các quy chế an toàn trong hoạt động ngân hàng được đặc biệt quan
tâm để phát hiện sớm những vi phạm các quy định có thể ảnh hưởng tới
quyền lợi của người gửi tiền, từ đó đưa ra biện pháp ngăn chặn kịp thời
3.2.2. Nghiệp vụ giám sát tổ chức tham gia bảo hiểm tiền gửi
Bên cạnh hoạt động kiểm tra, DIV còn thực hiện nghiệp vụ giám sát

từ xa đối với tổ chức tham gia bảo hiểm tiền gửi, tăng cường hạn chế rủi
roc ho các tổ chức tín dụng,DIV đã xây dựng một hệ thống các chi tiêu
giám sát đánh giá chung về hoạt động của tổ chức tín dụng.Trên cơ sở bảng
cân đối kế toán , báo cáo thống kê của tổ chức tham gia bảo hiểm tiền gửi
đồng thời kết hợp với biên bản kiểm tra và dữ liệu do cục công nghệ thông
tin ngân hàng cung cấp, DIV phân tích đánh giá tình hình hoạt động, việc
tuân thủ các quy định pháp luật về bảo hiểm tiền gửi, xác định chính sách
rủi ro tiềm ẩn có thể gây tổn hại đến hoạt động của tổ chức tham gia bảo

23


hiểm tiền gửi. Kết quả của công tác giám sát phản ánh tình hình nộp phí
bảo hiểm, tình hình tuân thủ quy định về an toàn trong hoạt động ngân
hàng, sau đó đưa ra các thông báo, cảnh báo cần thiết cho tổ chức tham gia
bảo hiểm tiền gửi.
Nghiệp vụ kiểm tra giám sát của DIV luôn có sự phối hợp, thúc đẩy,
bổ sung cho nhau nhằm nâng cao hiệu quả hoạt động của tổ chức tín dụng
và tổ chức bảo hiểm tiền gửi.
3.2.3. Nghiệp vụ chi trả tiền bảo hiểm và theo dõi chi trả
Trong trường hợp tổ chưc tham gia bảo hiểm tiền gửi bị mất khả
năng thanh toán, bị phá sản hoặc bị chấm dứt hoạt động, tổ chức tham gia
bảo hiểm tiền gửi phải làm thủ tục trình DIV xem xét để được chi trả tiền
bảo hiểm cho người gửi tiền thuộc đối tượng được bảo hiểm tại tổ chức đó.
Hộ sở chính hoặc chi nhánh khu vực theo địa bàn phụ trách của DIV sẽ tiến
hành tổ chức chi trả tiền bảo hiểm cho người gửi tièn ngay tại địa bàn của
tổ chức tham gia bảo hiểm tiền gửi đó theo một cách nhanh gọn và thuận
lợi. Người được chi trả có thể nhận trực tiếp tiền mặt tại địa bàn hoặc có
thể đè nghị chuyển tiền ua ngânh hàng họăc qua bưu điện để đến một địa
điểm khác. Hiện nay, theo khoản 8 và khoản 10 điều 1 nghị định 109 quy

định DIV có thể trực tiếp chi trả cho người gửi tiền được bảo hiểm hoặc
thông qua tổ chức tín dụng để thực hiện việc này. Quy điịnh trên làm cho
DIV chủ động hơn trong việc tổ chức thực hiện chức năng của mình. Theo
quy định mới thì người được chi trả có them một chọn lựa là có thể nhận
tiền ở các chi nhánh của DIV nơi mà tổ chức nhận tiền gửi đó tham gia bảo
hiểm
Sau khi tiến hành chi trả, tổ chức bảo hiểm tiền gửi sẽ theo dõi việc
thanh lí tài sản của tổ chức tham gia bảo hiểm tiền gửi để đôn đốc việc thu
hồi thanh lí tài sản của tổ chức tham gia bảo hiểm tiền gửi được chi trả,
giám sát việc thanh toán cho các chủ nợ để đảm bảo trả nốt phần tiền gửi
24


mà người gửi tiền trên hạn mức chi trả đã được DIV thực hiện và hoàn DIV
tiền đã chi trả. Chỉ thị số 06/2003/CT-NHNN ngày 21/10/2003 quy định
DIV được quyền tham gia vào hội đồng thanh lí tổ chức tham gia bảo hiểm
tiền gửi được chi trả tiền bảo hiểm, nhờ đó bảo vệ quyền lợi người gửi tiền
tốt hơn.
3.2.4. Nghiệp vụ tuyên truyền quảng cáo
Do bảo hiểm tiền gửi là một hoạt động khá mới mẻ đối với người
dân Việt Nam nên công tác tuyên truyền, quảng cáo đã được tiến hành dưới
nhiều hình thức nhằm cung cấp thông tin về hoạt động bảo hiểm tiền gửi
tới mọi người và giúp họ có cái nhìn toàn diện và đúng đắn về quyền lợi ,
trách nhiệm của người gửi tiền, tổ chức tham gia bảo hiểm tiền gửi, tổ chức
bảo hiểm tiền gửi và quan trọng hơn là mục đích cũng như vai trò của hoạt
động này. DIV đã tổ chức hội thảo với sự góp mặt của đại diện các tổ chức
tham gia bảo hiểm tiền gửi, các cơ quan chính quyền điah phương liên
quan, các cơ quan thông tấn báo chí và chi nhánh ngân hàng nhà nước tỉnh
và thành phố tại tất cả các tỉnh và thành phố. Không những thế, các tổ chức
tham gia bảo hiểm tiền gửi cũng bắt đầu niêm yết giấy chứng nhận bảo

hiểm và quảng cáo về hoạt động bảo hiẻm tiền gửi tới công chúng. DIV đã
có trang Wed chính thức trên mạng Internet để theo dõi thông tin về hoạt
động này có hiệu quả hơn
3.2.5. Nghiệp vụ hỗ trợ khách hàng
Đây là nghiệp vụ mới của DIV, công tác này nhằm đảm bảo quyền
lợi cho người gửi tiền và dã được triển khai một cách tích cực dưới nhiều
hình thức như:
- Hỗ trợ tài chính đối với tổ cức tham gia bảo hiểm tiền gửi
- Giúp cho nhiều đơn vị tham gia bảo hiểm tiền gửi nhìn nhận một
cách khách quan nguyên nhân những sai sót và bất cập trong công tác quản

25


×