Tải bản đầy đủ (.doc) (85 trang)

Luận văn tình hình triển khai nghiệp vụ bảo hiểm máy móc ở công ty bảo hiểm hà nội thời gian qua và phương hướng phát triển cho giai đoạn tới

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (326.02 KB, 85 trang )

Lời nói đầu
Đổi mới trang thiết bị, công nghệ, ứng dụng khoa học kỹ thuật tiến vào
chế tạo máy là nhiệm vụ mà Đảng và Nhà nớc đã đề ra trong Nghị quyết
TW2 nhằm đẩy nhanh quá trình công nghiệp hoá , hiện đại hoá đất nớc. Đây là
nhiệm vụ quan trọng của thời kỳ phát triển, đặc biệt đối với các thành phần
kinh tế cả trong và ngoài quốc doanh. Cùng với nhiệm vụ này là số vốn đầu t
vào Việt Nam ngày càng nhiều , nhất là sau khi Luật đầu t nớc ngoài đợc ban
hành vào năm 1989 đã làm cho hoạt động sản xuất ở Việt Nam ngày càng
tăng, hàng loạt các máy móc nhập khẩu và sản xuất trong nớc đợc đem vào sử
dụngthay thế máy móc cũ .
Trớc tình hình đó ngành Bảo hiểm Việt Nam đã biết nắm lấy thời cơ cho
ra đời nghiệp vụ bảo hiểm mớ nhăm đáp ứng nhu cầu đảm bảo an toàn tài chín
cho các chủ đầu t nớc ngoài cũng nh các chủ xí nghiệp trong nớc đó là bảo
hiểm máy móc.
ở Việt Nam bảo hiểm máy móc ra đời xuất phát từ sự đòi hỏi của thị trờng và nhu cầu mở rộng phạm vi hoạt động của ngành baỏ hiểm trong cơ chế
mới.
Tuy nhiên đối với thị trờng bảo hiểm Việt Nam nói chung và Công ty
Bảo hiểm Hà nội nói riêng thì nghiệp vụ bảo hiểm máy móc đang còn là lĩnh
vực non trẻ và đầy tiềm năng của ngành bảo hiểm. Vì vậy, làm thế nào để hiểu
thấu đáo, tờng tận cơ sở lý luận và thực tế triển khai nghiệp vụ này cho phù
hợp với điều kiện Việt nam mà vẫn theo sát đợc sự tiến bộ của khoa học công
nghệ đang là câu hỏi lớn đặt ra với mỗi cán bộ làm công tác bảo hiểm. Chính
vì vậy, qua thời gian thực tập tại công ty bảo hiểm Hà nội tôi đã chọn vấn đề
này làm đề tài nghiên cứu với tiêu đề : Tình hình triển khai nghiệp vụ bảo

1


hiểm máy móc ở Công ty bảo hiểm Hà Nội thời gian qua và phơng hớng phát
triển cho giai đoạn tới.
Mục đích của đề tài nhằm nghiên cứu cơ sở lý luận của nghiệp vụ và


việc ứng dụng nó nh thế nào vào điều kiện của Việt nam.
Ngoài phần mở đầu và kết luận, chuyên đề này gồm 3 chơng với các nội
dung sau:
Chơng 1: Sự cần thiết khách quan của bảo hiểm máy móc.
Chơng 2: Những nội dung cơ bản của bảo hiểm máy móc.
Chơng 3: Thực tế triển khai nghiệp vụ bảo hiểm máy móc ở Công ty Bảo
hiểm Hà nội
Với mong muốn đóng góp công sức nhỏ bé của mình vào quá trình phát
triển của nghiệp vụ, song do trình độ còn hạn chế, thời gian tiếp xúc thực tế
còn ít nên chuyên đề chắc sẽ còn nhiều hạn chế, kính mong đợc sự chỉ giáo
của thầy giáo hớng dẫn cũng nh sự chỉ bảo của các cô chú và anh chị Phòng
Bảo hiểm Cháy và rủi ro kỹ thật thuộc Công ty Bảo hiểm Hà nội. Tôi xin chân
thành cảm ơn.

2


Chơng I
Sự cần thiết của bảo hiểm máy móc
I-Khái quát chung về Bảo hiểm:
1. Sự cần thiết khách quan của Bảo hiểm
Cuộc sống của loài ngời dù diễn ra trong thời kỳ nguyên thuỷ hay trong
thế giới hiện đại thì những rủi ro về thiên tai, tai nạn bất ngờ hay ốm đau là
điều không thể tránh khỏi. Cho dù khoa học kỹ thuật có phát triển đến đâu thì
con ngời cũng không thể dự đoán đợc khi nào thì những rủi ro đó xảy ra để
phòng tránh.
Vậy con ngời phải làm gì để giảm bớt mất mát khi gặp phải những biến
cố đó?
Ngay từ thời cổ xa, dới chế độ công xã nguyên thuỷ, con ngời đã biết dự
trữ thức ăn cho những ngày ma rét không thể đi săn. Đó chính là hình thức Tự

bảo hiểm mặc dù lúc đó họ không biết tới khái niệm bảo hiểm mà chỉ cho đó
là việc làm cần thiết để duy trì cuộc sống. Khi xã hội phát triển thêm một bớc,
con ngời đã biết tìm kiếm các hoạt động để giảm mất mát khi gặp rủi ro bằng
cách hình thành những mô hình tổ chức để đảm bảo sự an toàn cho mỗi cá
nhân tham gia. Đầu tiên là các phờng hội, các hội tuơng hỗ giúp đỡ lẫn nhau
trong cộng đồng gia đình, làng xã. Có thể nói đây là hình thức sơ khai của Bảo
hiểm.
Cùng với sự phát triển của lực lợng sản xuất và khoa học kỹ thuật đã kéo
theo hàng loạt các thay đổi lớn trên mọi lĩnh vực.
Vì thế con nguời sống trong một môi trờng rộng lớn hơn, một nền klhoa
học tiên tiến hơn đồng thời đó cũng là một môi trờng kém an toàn hơn, khả
3


năng gặp rủi ro của mỗi cá nhân và tổ chức tăng lên. Trớc tình hình đó, khuôn
khổ các hội tơng hỗ hay phờng hội trở nên chật hẹp, không đủ bù đắp những
rủi ro có qui mô và tần suất ngày càng lớn. Mặt khác, sự phát triển của lực lợng sản xuất đã làm tăng thêm khả năng thoả mãn nhu cầu của con ngời.
Những nhu cầu cơ bản nh ăn mặc, ở... dờng nh bị lãng quên mà ngời ta bỗng
thèm muốn đợc vui chơi hởng thụ, đợc đảm bảo an toàn trong cuộc sống. Để
thoả mãn cho những nhu cầu an toàn đó, con ngời đã dần dần nâng hoạt động
của các tổ chức phờng, hội, các hội tơng hỗ lên cả về quy mô và chất lợng,
hình thành nên những hoạt động bảo hiểm nh ngày nay. Bảo hiển ra đời một
cách tự nhiên theo yêu cầu và sự đòi hỏi khách quan của nền sản xuất xã hội,
nó tồn tại và phát triển cùng với quá trình sản xuất, sản xuất càng phát triển thì
bảo hiểm càng cần thiết.
Trong xã hội hiện đại, lực lợng sản xuất phát triển đã tạo đà cho sự
phong phú và đa dạng trong các lĩnh vực sản xuất, nhu cầu đợc bảo đảm an
toàn ngày càng cao. Dịch vụ bảo hiểm có cơ hội thể hiện vai trò không thể
thiếu trong mọi lĩnh vực hoạt động và đời sống. Đối với cá nhân, bảo hiểm có
thể giảm bớt những thiệt hại kinh tế, những mất mát tinh thần do đợc an ủi

phần nào. Đối với các tổ chức kinh tế thì bảo hiển mang tính sống còn vì
những rủi ro nh hoả hoạn, thiên tai... có thể dẫn họ tới phá sản khó khôi phục
đợc. Có bảo hiểm họ sẽ an tâm sản xuất kinh doanh và chính điều này mang
lại lợi ích khá lớn cho các tổ chức kinh tế đó.
Nh vậy, sự có mặt của bảo hiểm là rất cần thiết cho tất cả hoạt động diễn
ra trong xã hội bất kể đó là thời kỳ nguyên thuỷ hay trong thế giới hiện đại.
2. Vài nét về qúa trình phát triển của bảo hiểm.
Nh đã nói ở trên, các hình thức sơ kh!i của bảo hiểm nh hội tơng
hỗ....xuất hiện từ rất sớm. Ngời Ân độ, La mã, Hy lạp đã biết đến bảo hiểm từ
hàng nghìn năm trớc. Song hình thức bảo hiểm nh thấy hiện nay cũng chỉ có
4


lịch sử phát triển dăm trăm năm. Đơn bảo hiểm đợc coi là sớm nhất đề ngày
20-9-1547 tại La mã để bảo hiểm cho một chuyến hàng từ Cadiz đi London.
Đạo luật đầu tiên liên quan đến Bảo hiểm hàng hải đợc ban hành vào năm
1601. Đến năm 1680, đánh dấu bớc hình thành đầu tiên của tập đoàn Bảo hiểm
Anh quốc Lloyds khi Edward Lloyd mở quán Café ở London làm nơi gặp gỡ
các nhà Bảo hiểm Hàng Hải với các chủ tàu, nhà buôn và thuyền trởng.
Sau vụ cháy khủng khiếp mang tính lịch sử tại London vào năm 1666
làm hơn 13.000 nóc nhà bị thiêu huỷ và hàng nghìn ngời bị thiệt mạng, các
nhà kinh doanh Bảo hiểm Anh đã nghĩ ngay tới việc chia sẻ các rủi ro hoả
hoạn bằng cách lập ra Công ty Bảo hiểm hoả hoạn đầu tiên trên Thế giới fire
office vaò năm 1667, sau đó là hand and hand vào năm 1696.
Luật về tai nạn lao động ở Pháp năm 1848 là văn bản pháp luật đầu tiên
về Bảo hiểm Xã hội, song cho tới năm 1883 mới đợc coi là năm ra đời của
Bảo hiểm Xã hội khi nớc Phổ ban hành luật về bảo hiểm Y tế. Sau đó là các
luật về Bảo hiểm tai nạn Lao động(1884), Bảo hiểm thơng tật và Ngời già
(1889).
Cuối những năm 1920, mặc dù xảy ra cuộc khủng hoảng trên phạm vi

toàn thế giới nhng sự sản xuất hàng loạt xe ô tô đã làm cho Bảo hiểm xe ô tô
cực kỳ quan trọng. Vào những năm cuối của thập kỷ này, sự phát triển của
công nghiệp hàng không, công nghiệp điện, năng lọng nguyên tử đã làm Bảo
hiểm phải mở rộng phạm vi hoạt động và ngày càng khẳng định vai trò của
mình.

ở Việt Nam, Bảo hiểm xuất hiện từ những năm đầu thế kỷ này bằng
hình thức Bảo hiểm Xã hội dới thời thuộc điạ. Đó là chế độ trợ cấp do chính
quyền thuộc địa Pháp thực hiện đối với công chức và quân nhân Viêt nam hởng lơng phục vụ trong bộ máy hành chính , lực lợng quân sự của Pháp khi họ

5


ốm đau, tuổi già hoặc chết.
Sau Cách mạng Tháng 8 năm 1945, Đảng và Nhà nớc đã nhận thấy sự
quan trọng và cần thiết của việc tiến hành bảo hiểm và Hồ Chủ Tịch đã ký sắc
lệnh Bảo hiểm xã hội vào tháng 12 năm 1945. Nhng do điều kiện chiến tranh
của đất nớc, bên cạnh đó là nền kinh tế lạc hậu, đổ nát nên bảo hiểm xã hội chỉ
thực sự trở thành chính sách lớn và thực hiện ở nớc ta khi Điều lệ tạm thời về
Bảo hiểm xã hội đối với công nhân viên chức Nhà nớc theo nghị định 218/CP
ngày 27-12-1961 đợc ban hành.
Cho đến năm 1964, việc ra quyết định số 179/CP ngày 17-12-64 của
Thủ tớng Việt nam về việc thành lập Công ty Bảo hiểm Việt nam đã đánh dấu
sự ra đời của hình thức Bảo hiểm kinh doanh tại Việt nam. Bắt đầu từ đấy,
ngành Bảo hiểm nớc ta đã phát triển và lớn mạnh không ngừng, đóng góp ngày
càng nhiều vào sự phát triển của đất nớc
II. Lịch sử phát triển và sự cần thiết của bảo hiểm
máy móc.
1. Lịch sử phát triển của Bảo hiểm kỹ thuật
So với các loại hình Bảo hiểm khác nh Bảo hiểm Hoả hoạn, Bảo hiểm

Hàng hải... thì Bảo hiểm Kỹ thuật ( BHKT) ra đời muộn hơn. Đơn BHKT xuất
hiện đầu tiên vào năm 1859 là đơn bảo hiểm về máy móc và cùng trong năm
đó xuất hiện đơn baỏ hiểm cho nồi hơi.
Tuy sinh sau đẻ muộn hơn so với các loại hình Bảo hiểm truyền thống
nhng với sự phát triển nhanh chóng của khoa học kỹ thuật, BHKT đã tiến
những bớc dài vững chắc và chiếm lĩnh vị trí hàng đầu trong các loại hình kinh
doanh bảo hiểm hiện nay. BHKT hiện đã xâm nhập vào hầu hết các lĩnh vực
của hoạt động kinh tế, khoa học trên toàn thế giới, từ việc bảo hiểm các máy
móc trong xí nghiệp sản xuất, các dụng cụ tinh vi trong y tế, trong phòng thí
6


nghiệm tới việc bảo hiểm cho các công trình xây lắp khổng lồ, các công tác
lắp ráp máy bay, tàu biển cỡ lớn và cho cả các con tàu vũ trụ. Công ty Munich
Re, một công ty tái bảo hiểm hàng đầu thế giới, là một trong những công ty đã
sáng lập và phổ biến rộng rãi loại hình bảo hiểm này cùng với các công ty
khác trên thị trờng bảo hiểm London- trung tâm bảo hiểm của cả thế giới. Hiện
nay đã có các loại hình bảo hiểm kỹ thuật sau:
Bảo hiểm mọi rủi ro cho chủ thầu (Contractors all risks: CAR)
Bảo hiểm mọi rủi ro trong lắp đặt( Erections All Risks: EAR)
Bảo hiểm thiết bị điện tử (Electronic Equipment Insurance)
Bảo hiểm thăm dò và khai thác dầu khí (Oil and Gas Exploration
and Production)
Bảo hiểm hỏng hàng trong kho lạnh (Dterioration of Stock in
Cold Storage)
Và trong tơng lai sẽ có nhiều loại khác nữa nhằm bảo vệ hữu hiệu nhất
cho tất cả những hoạt động sản xuất cũng nh đời sống hàng ngày.
2. Sự cần thiết của Bảo hiểm máy móc
Bảo hiểm máy móc (BHMM), một trong những nội dung của Bảo hiểm
đợc coi là con đẻ của cuộc cách mạng KHKT và cũng chính cuộc cách mạng

này đã thúc đẩy BHKT phát triển không ngừng cả về tầm vóc lẫn phạm vi hoạt
động. Hơn thế nữa, sự đi lên của thế giới văn minh nhất thiết phải dựa trên sự
tiến bộ của các ngành khoa học kỹ thuật. Mọi dự án khoa học và ứng dụng đều
đòi hỏi sự đảm bảo về mặt tài chính nhằm tiến triển với mức độ nhanh, liên tục
và đạt hiệu quả. Vì vậy trong lĩnh vực hoạt động gắn liền với kỹ thật của nền
kinh tế quốc doanh hiện nay, vai trò của BHKT nói chung và BHMM nói riêng
là không thể thay thế.

7


BHMM ra đời từ nhu cầu cần thiết đảm bảo sự an toàn cho các nhà máy,
xí nghiệp sản xuất: khi khoa học, công nghệ phát triển, nhiều máy móc, thiết
bị với các chức năng tự động hoá, chuyên môn hoá cao và những máy móc có
giá trị lớn càng phổ biến. Bên cạnh lợi thế rất lớn của chúng thì cũng nảy sinh
vấn đề mà những ngời sử dụng máy móc cần quan tâm, đó là khả năng xảy ra
rủi ro cho máy cũng ngày càng tăng lên. Từ những rủi ro do sai sót thiết kế,
tính toán, do nổ vật lý, đoản mạch điện... đến những rủi ro bên ngoài nh bão,
đóng và tan băng.... Trớc tình hình này, BHMM ra đời nh một cứu cánh cho
những ngời sử dụng, giúp họ an tâm trong qúa trình tiến hành sản xuất của
mình.
Bên cạnh đó, trong cơ chế thị trờng hiện nay, mỗi doanh nghiệp đều
phải tự chủ về mặt tài chính và chủ động trong kinh doanh. Họ phải lo liệu sao
cho sản xuất đạt hiệu quả cao nhất với cơ sở vật chất hiện có cộng với sự hợp
tác làm ăn với các doanh nghiệp khác. Cơ chế này, một mặt thúc đẩy sản xuất
phát triển, mặt khác buộc các doanh nghiệp phải quan tâm đến lợi ích của bảo
hiểm. Nếu tham gia Bảo hiểm, trong trờng hợp gặp rủi ro làm thiệt hại đến tài
sản, tiền vốn của doanh nghiệp thì, công ty Bảo hiểm, nơi mà họ tham gia, sẽ
bồi thờng kịp thời các tổn thất đó, giúp chủ doanh nghiệp giải quyết ngay khó
khăn về tài chính, nhanh chóng phục hồi lại sản xuất kinh doanh.

Ngoài ra, khi tiến hành BHMM, ngời bảo hiểm cùng các ngành, các cơ
quan hữu quan khác tiến hành công tác đề phòng hạn chế tổn thất nhằm ngăn
chặn có hiệu quả các rủi ro có thể xảy ra gây thiệt hại với tài sản, con ngời.
Đặc biệt, trong BHMM các công tác kiểm tra độ an toàn, điều kiện hoạt động,
công tác bảo trì phòng ngừa... cho máy móc trớc khi tiến hành bảo hiểm là rất
quan trọng và thiết thực. Nó là cơ sở để góp ý kịp thời cho ngời đợc bảo hiểm
các biện pháp cần thiết để hạn chế khả năng xảy ra tổn thất cho máy.
Tóm lại BHMM có 3 mục tiêu chính sau đây:
8


a. BHMM cho phép hình thành quỹ Bảo hiểm, đáp ứng nhanh chóng
nhu cầu về mặt tài chính cho các đơn vị, xí nghiệp không may gặp thiên tai, tai
nạn bất ngờ, giúp các đơn vị đó khôi phục sản xuât kinh doanh, đảm bảo tiến
trình của chu kỳ sản xuất.
b. Giúp các xí nghiệp tự chủ về mặt tài chính. Các xí nghiệp căn cứ vào
điều kiện cụ thể của mình, trên cơ sở hạch toán đầy đủ giá thành, (trong đó
bao gồm cả chi phí bảo hiểm), các doanh nghiệp cần cân nhắc nên tham gia
những loại hình bảo hiểm nào để đạt kết quả kinh doanh tốt và luôn có sự đảm
bảo về mặt tài chính.
c. Góp phần tăng cờng công tác đề phòng và hạn chế tổn thất, nâng cao
trách nhiệm của ngời đợc bảo hiểm đối với máy móc, thiết bị của mình.
3. Lịch sử phát triển và vai trò của BHMM
BHMM đã đợc hình thành và phát triển cùng với sự tiến bộ của khoa
học kỹ thuật và công nghệ.
Ngay từ những năm cuối của thế kỷ XIX, hệ thống máy móc cơ khí và
dây chuyền công nghệ đã bắt đầu đợc sử dụng phổ biến tại các nhà máy của
những nớc công nghiệp châu Âu nh Anh, Pháp, Đức...Trong quả trình sử dụng
đó đã phát sinh nhiều rủi ro cho máy móc nh sai sót do con ngời (sai sót trong
chế tạo, tính toán thiết kế, do cẩu thả, ác ý...); tai nạn do thiên nhiên ( bão, lụt,

tan băng...). Những sai sót này dù rất nhỏ cũng có thể dẫn đến những hậu quả
rất lớn không chỉ gây thiệt hại cho xí nghiệp, nhà máy đó mà còn ảnh hởng tới
nhiều ngành nghề và lĩnh vực khác. Từ đây đã xuất hiện nhu cầu về đảm bảo
sự an toàn tài chính cho các chủ xí nghiệp có sử dụng máy móc, thiết bị và
nhu cầu này đã đợc các công ty bảo hiểm của Đức đáp ứng bằng một loại hình
bảo hiểm mới: Bảo hiểm máy móc.
Nh vậy, BHMM ra đời nhằm đảm bảo sự an toàn tài chính cho những

9


ngời có máy móc đang hoạt động ngay từ những năm đầu của thế kỷ 19, đơn
BHMM đầu tiên đợc cấp vào năm 1859. Sau đó, nhờ sự tác động và hỗ trợ
mạnh mẽ của công ty TBH Munich Re, hàng loạt các công ty bảo hiểm của
Đức đã triển khai loại hình bảo hiểm này. Mặc dù đã tồn tại hơn 100 năm,
BHMM vẫn còn là một lĩnh vực non trẻ và cần sự hiểu biết sâu rộng của ngành
bảo hiểm. Trong sự phát triển của mình, nó luôn theo sát sự tiến bộ của khoa
học công nghệ và phần nào đáp ứng đợc nhu cầu của qúa trình công nghiệp
hoá diễn ra ngày càng mạnh mẽ.
Cũng giống nh các loại hình Bảo hiểm khác, BHKT nói chung và
BHMM nói riêng đều nhằm ổn định hoạt động của các tổ chức kinh tế cũng
nh ổn định đới sống nhân dân trong trờng hợp chẳng may họ gặp phải rủi ro.
Với việc thu phí Bảo hiểm của nhiều tổ chức kinh tế và cá nhân có liên quan
trong xã hội để lập quỹ Bảo hiểm và với quan hệ TBH với các tổ chức Bảo
hiểm trên Thế giới, công ty Bảo hiểm có đủ khả năng bồi thờng ngay tổn thất
cho ngời đợc bảo hiểm, cho dù tổn thất đó có lớn tới mức nào đi chăng nữa,
giúp họ nhanh chóng khắc phục hậu quả của tổn thất, khôi phục sản xuất kinh
doanh và đời sống.
Bên cạnh nhiệm vụ chính này, BHMM còn có một vai trò rất quan trọng
khác là cho phép chủ xí nghiệp có cơ hội đầu t nguồn vốn không nhỏ từ quỹ dự

trữ tổn thất mà lẽ ra họ phải trích lập nếu không có bảo hiểm. Điều này có
nghĩa là BHMM đã tạo ra sự khả dụng của quỹ vào việc mở rộng và phát triển
sản xuất, đóng góp phần quan trọng không nhỏ vào sự phát triển của nền kinh
tế quốc dân. Một vai trò đáng lu ý khác nữa là hiện nay, BHMM đã trở thành
điều kiện tiên quyết để các ngân hàng đầu t cung cấp những khoản vay và tín
dụng cho các chủ nhà máy, xí nghiệp.
Tóm lại, BHMM không chỉ gánh đỡ cho những ngời đợc bảo hiểm về tài
chính và tinh thần khi họ không may gặp rủi ro mà ở tầm vĩ mô, nó còn đóng
10


góp vai trò quan trọng trong việc sử dụng đồng vốn một cách có hiệu quả nhất,
góp phần vào sự tăng trởng của nền kinh tế quốc dân.
4. Sự cần thiết phải tiến hành Bảo hiểm máy móc ở Việt nam.
Qua phân tích vai trò cũng nh tác dụng của BHMM ở trên, ta đã thấy đợc sự cần thiết của BHMM đối với các nớc có nền công nghiệp phát triển cũng
nh các nớc sử dụng khoa học, công nghệ làm phơng tiện trong quá trình công
nghiệp hoá của mình.
Đối với Việt nam, khi công cuộc công nghiệp hoá- Hiện đại hoá đất nớc
đang ở giai đoạn đầu và là nhiệm vụ trung tâm của cả thời kỳ photo triển thì
việc ứng dụng khoa học, công nghệ vào đời sống đợc coi là công cụ quan trọng
bậc nhất nhằm đua nên sản xuất đi lên. Việc sử dụng khoa học- công nghệ và
máy móc hoá tất cả các hoạt động sản xuất đã và đang diễn ra mạnh mẽ đòi
hỏi một số lợng máy móc thiết bị lớn cần thiết phải có ở Việt nam.
Hoà mình vào sự phát triển chung của đất nớc, ngành Bảo hiểm đã có
sự chuyển mình, nắm lấy thời cơ và mở rộng phạm vi hoạt động. Mục đích của
Bảo hiểm là đảm bảo sự an toàn cho tất cả những đối tợng có nhu cầu nhằm
tạo cho họ an tâm trong hoạt động tổ chức kinh doanh cũng nh trong đời sống.
Vậy trong giai đoạn đổi mới và phát triển của Việt nam hiện nay, với một số lợng máy móc lớn (nhng rủi ro xảy ra cũng không phải là ít) và nhu cầu đảm
bảo an toàn cho ngòi sử dụng cao, ngành Bảo hiểm đã làm gì để đáp ứng nhu
cầu đó?

Quyết định của Tổng Giám đốc Công ty Bảo hiểm Việt nam (Bảo Việt)
về việc cho phép Tổng Công ty và các công ty thành viên đợc phép triển
nghiệp vụ Bảo hiểm máy móc đã chứng minh cho việc làm đúng đắn của
ngành Bảo hiểm Việt nam và nó cũng chứng tỏ cho sự cần thiết phải tiến hành
nghiệp vụ này ở Việt nam vì những lý do sau đây:

11


Thứ nhất, BHMM sẽ làm tốt hơn môi trờng kinh doanh ở Việt nam cho
các nhà đầu t nớc ngoài.
Sau Đại hội Đảng toàn quốc lần thứ VI, nền kinh tế Việt nam đã thực sự
có những nét khởi sắc, mở ra một kỷ nguyên mới cho sự phát triển và ổn định
kinh tế. Việt nam không chỉ thoát khỏi cuộc khủng hoảng nghiêm trọng vào
những năm đầu của thập kỷ 80 do sự sụp đổ của Liên xô và các nớc Đông Âu
mà còn đạt đợc những kết quả khả quan trong kinh tế nh: đẩy nhanh tốc độ
phát triển ở mức 8-10%/ năm, kiềm chế lạm phát, hạ thấp tỷ lệ thât nghiệp và
ổn định dần đời sống cho ngời lao động.
Chính sách đổi mới và mở cửa cùng với những kết quả ban đầu của Việt
nam đã thu hút đợc sự quan tâm theo dõi của các nhà đầu t nớc ngoài bởi Việt
nam là một thị trờng lớn (dân số đông cha đọc khai thác, tài nguyên thiên
nhiên phong phú, vị trí địa lý thuận lợi...), lại có một chế độ chính trị ổn định.
Đặc biệt sau Luật đầu t nứoc ngoài vào Việt nam đợc Quốc hội thông qua ngày
/12/1987 thì số lợng vốn đầu t vào Việt nam ngày càng nhiều, cụ thể theo từng
năm nh sau:

Năm

Số vốn nớc ngoài đầu t vào Việt nam (Triệu USD)


1988

366

1989

589

1990

596

1991

1288
12


1992

1938

1993

2777

1994

4041


1995

5882,24

1996

8538

1997

9633

Biểu số 1: Số vốn đầu t nớc ngoài vào Việt nam qua các năm
Tuy nhiên, theo thông lệ, khi đầu t vào bất kỳ lĩnh vực nào, bất kỳ một
nớc nào thì vấn đề quan trọng hàng đầu mà các nhà đầu t quan tâm là việc bảo
đảm tài sản hay số vốn của họ. Để làm tốt điều này, các nhà đầu t phải quan
tâm đến chính trị và pháp luật của nớc sở tại- vấn đề này chúng ta đã đáp ứng
đầy đủ và hợp lý, ngoài ra còn phải xét đến vấn đề Bảo hiểm.
Khi vốn đầu t vào khu vực sản xuất ngày càng tăng cũng có nghĩa là số
lợng nhà máy, xí nghiệp tăn lên. Trong khi đó môi trờng sản xuất ở Việt nam
còn nhiều khó khăn nh thiên tai (bão, lụt) còn nhiều, trình độ tay nghề công
nhân cha đồng đều... đã gây không ít lo ngại cho các nhà đầu t. Do vậy biện
pháp duy nhất mà họ có thể an tâm đầu t vào Việt nam là tiến hành bảo hiểm
tài sản của họ ở một công ty Bảo hiểm nào đó. BHMM ra đời đã đáp ứng nhu
cầu này.
Thứ hai, giúp các doanh nghiệp nhà nớc đảm bảo yếu tố an toàn vốn
trong kinh doanh.
Chỉ thị 138/CT ngày 25-4-91 của HĐBT về việc mở rộng diện đợc
quyền sử dụng và trách nhiệm bảo toàn vốn sản xuất kinh doanh cho các đơn
vị quốc doanh cùng với Quyết định số QĐ232/HĐBT ngày 23-10-91 về việc

bảo toàn và phát triển vốn sản xuất kinh doanh đối với các doanh nghiệp nhà
nớc ra đời đã quy định rằng, trong quá trình sản xuất kinh doanh, các doanh
nghiệp có trách nhiệm thực hiện việc bảo toàn và phát triển vốn có hiệu quả.
13


Đây là một nhu cầu tất yếu, cấp bách khi nền kinh tế chuyển sang cơ chế thị
trờng. Để tránh tình trạng không bảo toàn đợc vốn do nguyên nhân khách quan
nh: thiên tai, địch hoạ, cháy nổ..., tránh các trờng hợp phải xử lý giảm vốn
hoặc đa vào lỗ xí nghiệp, các doanh ngiệp cần mua bảo hiểm cho tài sản của
mình để tạo nguồn bù đắp cho các thiệt hại đó tại một công ty Bảo hiểm đợc
phép hoạt động tại Việt nam. Khoản chi phí về bảo hiểm đợc hạch toán vào giá
thành hay chi phí lu thông doanh nghiệp.Nhà nớc sẽ không cho phép ghi giảm
vốn trong trờng hợp tài sản bị tổn thất do những rủi ro mà các công ty Bảo
hiểm trong nớc đã triển khai những nghiệp vụ bảo hiểm tơng ứng.
Đối với các nhà máy, xí nghiệp sản xuất thì khả năng xảy ra tổn thất thờng tỷ lệ thuận với công suất, cờng độ làm việc của máy. Mà trong nền kinh tế
quốc dân, đòi hỏi một khối lợng hàng hoá lớn, kịp thời nên các xí nghiệp thờng phải tăng cờng độ làm việc của máy móc, nhất là trong lúc giữa vụ hay
giai đoạn hng thịnh của chu lỳ sản phẩm. Điều này dẫn đến khả năng có rủi ro
với máy móc càng tăng, đòi hỏi phải có một nghiệp vụ bảo hiểm tơng ứng để
bảo hiểm cho máy móc, thiết bị đó.
Thứ ba, do sự thay đổi cơ cấu kinh tế, hàng loạt công ty cổ phần, công ty
t nhân đã ra đời là những công ty rất quan tâm đến Bảo hiểm vì số vốn có thể
dùng đầu t cho các biện pháp an toàn thờng chiếm tỷ lệ cao so với nhu cầu cần
thiết trong khi đó các tai nạn, rủi ro lại xảy ra ngày một nhiều và theo chiều hớng tăng dần mức độ nghiêm trọng.
Những lý do trên đã giải thích cho sự cần thiêt ta phải tiến hành nghiệp
vụ BHMM ở Việt nam.

14



Chơng II:
những nội dung cơ bản của bảo hiểm máy móc
I. Những quy định chung trong quy tắc Bảo hiểm
máy móc
Bảo hiểm máy móc, loại hình bảo hiểm đầu tiên mang tính kỹ thật, đã ra
đời và phát triển cùng với sự tiến bộ của khoa học kỹ thuật và công nghệ.
Trong quá trình phát triển của mình, nó luôn theo sát sự tiến bộ của công nghệ
15


và đem đến một sự bảo vệ hữu hiệu cho các máy móc, thiết bị cũng nh hệ
thống máy móc có giá trị lớn trong nền kinh tế quốc dân, Bảo hiểm máy móc,
cùng với các nghiệp vụ bảo hiểm kỹ thuật khác nh:
- Bảo hiểm rủi ro cho chủ thầu (CAR)
- Bảo hiểm mọi rủi ro trong lắp đặt (EAR)
- Bảo hiểm mất thu nhập do máy móc ngừng hoạt động (Loss of profit
folowing Machinary break down insurance)
- Bảo hiểm thiết bị điện tử (Electronic Equipment Insurance)
- Bảo hiểm thăm dò và khai thác dầu khí (Oil & Gas Exploration &
Production)
- Bảo hiểm hỏng hàng trong kho lạnh ( Detwrioration of stock in Cold
Storage).
Đã tạo thành một chuỗi bảo hiểm liên hoàn cho các hạng mục công
trình liên quan đến kỹ thuật, bắt đầu từ khởi công xây dựng, lắp đặt đến việc sử
dụng máy móc thiết bị tiến hành hoạt động sản xuất, kinh doanh. Giữa các loại
hình bảo hiểm này có mối quan hệ chặt chẽ với nhau và mang đặc trng của
Bảo hiểm kỹ thuật, điều đó có thể thấy đợc qua ví dụ sau:
Ví dụ: Khi tiến hành xây dựng một nhà máy mới, tất cả các giai đoạn từ
khi bắt đầu khởi công xây dựng cho tới khi máy móc, thiết bị đợc đua vào sản
xuất đều gắn với các loại hình khác nhau trong BHKT. Sau mỗi giai đoạn đều

bắt đầu bằng một loại hình bảo hiểm mới, đợc thể hiện qua sơ đồ sau:

E
CAR
Khởi

EAR
công

M
Lắp

16


đ______________________________________________________________
_______________________________________________________________
_______________________________________________________________
_______________________________________________________________
_______________________________________________________________
_______________________________________________________________
_______________________________________________________________
_______________________________________________________________
_______ểm bảo hành
M:

Bảo hiểm máy móc

( Thực ra trong giai đoạn bảo hành, thông thờng trách nhiệm đối với các
tổn thất do chế tạo thuộc trách nhiệm của các nhà sản xuất chế tạo thiết bị nhng có thể bảo hiểm cho cả giai đoạn này bằng điều khoản bổ sung nhng phí sẽ

cao vì giai đoạn đó thờng xảy ra tổn thất)
Qua sơ đồ trên ta thấy BHMM chỉ là một khâu trong chuỗi các loại hình
BHKT, ngoài những đặc trng chung của BHKT, nó có những quy định chung
sau:
1. Ngời đợc bảo hiểm:
BHMM ra đời nhằm đáp ứng nhu cầu đảm bảo sự an toàn cho những ngời sử dụng máy móc, vì vậy nó có ý nghĩa với tất cả những ai có liên quan đến
việc sử dụng máy móc, ở đây gồm:
Chủ xí nghiệp: Đây không chỉ là các xí nghiệp công nghiệp với các máy
móc lớn hoặc dây chuyền sản xuất hoàn toàn tự động. Chính đối với các xí
nghiệp vừa và nhỏ, nơi mà một tổn thất về máy móc có thể gây nên những hậu
quả nghiêm trọng về tài chính và kinh tế thì BHMM lại có một tầm quan trọng
to lớn mang tính quyết định.

17


Với các xí nghiệp có máy móc lớn và dây chuyền sản xuất tự động thì
giá trị của nó rất lớn, một tổn thất dù nhỏ cũng đem đến hậu quả nghiêm trọng
cho chủ xí nghiệp khi phải bỏ chi phí để thay thế hay sửa chữa. Còn với các xí
nghiệp vừa và nhỏ, mặc dù giá trị máy móc không phải là lớn lắm nhng cái
chính là khi có rủi ro sẽ gây hậu quả nghiêm trọng về tài chính đó là chi phí
sửa chữa, thay thế, chi phí gián đoạn kinh doanh do máy ngừng hoạt
động....mà với những xí nghiệp này thì quỹ dự trữ có hạn, do vậy khi không
may có tổn thất thì khoản tiền chi cho nó sẽ vợt quá khả năng có thể của xí
nghiệp. Chính vì vậy BHMM đã đem lại sự an toàn cho chủ xí nghiệp trong
quá trình sản xuất.
Chủ đầu t: Trong BHMM, chủ đầu t tức những ngời cho vay tín dụng để
mua máy móc cũng rất quan tâm đến việc bảo hiểm cho các khoản đầu t đợc
tài trợ bằng tiền của họ. Nói cách khác, khi máy móc đợc mua sắm bằng tiền
vay tín dụng mà tham gia BHMM thì nếu không may có rủi ro xảy ra, chủ sở

hữu máy móc vẫn có khả năng trả cho chủ tín dụng những khoản tiền lãi hoặc
vốn vay. Nh vậy vô hình chung ngời cho vay tín dụng để mua máy móc cũng
dợc bảo hiểm một cách gián tiếp thông qua ngời sử dụng máy móc.
2.Đối tợng đợc bảo hiểm:
Có thể nói một cách tổng quát rằng , đối tợng của BHMM là tất cả các
loại máy móc ,thiết bị và công cụ cơ khí đợc sử dụng trong sản xuất và hoạt
động phụ trợ sản xuất .Cụ thể các loại máy móc sau đây là đối tợng đợc bảo
hiểm :
- Máy móc tạo năng lợng (nồi hơi, tuabin máy phát điện)
- Máy móc và thiết bị phân phối năng lợng (máy biến thế, thiết bị cao
áp, hạ áp)
- Máy móc sản xuất và máy móc phụ trợ (máy công cụ, máy dệt, máy

18


sản xuất giấy, máy nhào trộn, máy bơm, máy nén, bể chứa, đờng ống..v....)
Để bảo vệ lại những rủi ro có thể gây ra tổn thất toàn bộ, hệ thống máy
móc của một nhà máy hoặc của một phân xởng nên đợc bảo hiểm trong cùng
một đơn baỏ hiểm để đạt đợc sự cân đối tốt về mặt rủi ro. Nếu nh chỉ bảo hiểm
những máy móc riêng lẻ, chịu sự đe doạ một cách đặc biệt thì phải tính một
mức phí cao và thông thờng mức phí này không thấp hơn so với mức phí trong
trờng hợp bảo hiểm toàn bộ.
Với mỗi đơn bảo hiểm cụ thể, từng đối tợng sẽ đợc liệt kê trong một bản
danh sách máy móc với những thông sô kỹ thuật cơ bản. Công ty Bảo hiểm chỉ
bảo hiểm cho những máy móc đợc liệt kê trong danh sách này. Ơ đây không
phân biệt tài sản đợc bảo hiểm là mới hay cũ. Cơ bản chỉ xét đến khả năng
hoạt động tốt, tình trạng hoàn hảo về mặt kỹ thuật của máy móc cũng nh sự kết
thúc đúng quy định của qúa trình chạy thử. Tuy nhiên, việc bảo hiểm máy móc
cũ vì những lý do dễ hiểu cần phải đợc cân nhắc kỹ lỡng.

Để đảm bảo nguyên tắc hoạt động trong kinh doanh Bảo hiểm, những
máy móc đã sử dụng trên 20 năm sẽ không đợc bảo hiểm. Tuy nhiên, nếu nh
trớc đó máy móc này đã đợc bảo hiểm trong một thời gian dài với thống kê tổn
thất trong quá khứ tốt (không có tổn thất hoặc chỉ xảy ra những tổn thất không
đáng kể) thì công ty Bảo hiểm có thể chấp nhận tiếp tục bảo hiểm theo một số
điều kiện và với một thời hạn mà ngời bảo hiểm xem xét là có thể chấp nhận
đợc.
Thông thờng BHMM không bảo hiểm cho những đồ vật mà tuổi thọ của
chúng so với tuổi thọ của toàn bộ công trình là quá nhỏ. Chủ yếu đó là:
- Các loại công cụ, đồ nghề thay thế
- Mặt sàng, rulô in mẫu, dấu in, khuôn chữ, dây, xích, curoa, đai,
- Các bộ phận bằng thuỷ tinh, gốm và gỗ cũng nh lốp cao su,
19


- Dầu mỡ các loại nh chất đốt, khí đốt, chất làm lạnh, chất xúc tác, chất
lỏng, chất bôi trơn, (trái lại, dầu trong máy biến thế và các công tắc lại đợc bảo
hiểm, bởi vì ở đây chúng không chỉ là chất làm mát mà còn là một chất cách
điện).
Ngoài ra, một số loại máy móc có độ hao mòn và h hỏng cao nh: máy
móc hoạt động ngầm dới mặt đất, băng tải và dây chuyền.... thờng không đợc
bảo hiểm trong đơn tiêu chuẩn nhng có thể đợc bảo hiểm bằng cách áp dụng
các sửa đổi bổ sung.
3. Phạm vi Bảo hiểm:
Việc xác định rõ phạm vi bảo hiểm sẽ quyết định rất nhiều đến quyền
lợi của các bên tham gia trong Hợp đồng Bảo hiểm, tránh đợc những tranh
chấp không cần thiết về sau. Đối với BHMM, rủi ro trong hợp đồng đợc hiểu là
những khả năng xảy ra tổn thất hoặc những thiệt hại đối với đối tợng bảo hiểm.
Đây là căn cứ để xác định phí một cách hợp lý, là cơ sở để xem xét giải quyết
bồi thờng khi có tổn thất xảy ra. Trong BHMM, phạm vi bảo hiểm gồm:

a. Những rủi ro đợc bảo hiểm:
Về bản chất, BHMM là một loại bảo hiểm tai nạn đối với máy móc. Nh
vậy nó chỉ bảo hiểm những tổn thất xảy ra một cách bất ngờ và không lờng đợc. ở đây chỉ tính đến những tổn thất về tài sản tác động đến phần chất của đối
tợng đợc bảo hiểm và phần đó phải sửa chữa hoặc thay thế đợc. Cơ bản
BHMM phải bồi thờng những thiệt hại vật chất do những nguyên nhân sau đây
gây nên:
- Sai sót về thiết kế, tính toán, chế tạo và lắp đặt, sai sót về đúc và sai sót
của nguyên vật liệu: những sai sót này thờng khi máy móc đi vào hoạt động
mới xuất hiện và khi đó thời hạn nhà chế tạo phải chịu trách nhiệm đã hết từ
lâu và không còn khả năng khiếu nại họ nữa. Ngay cả những phơng pháp kiểm
20


tra tốt nhất không phải lúc nào cũng ngăn chặn đợc chúng.
- Sai sót trong vận hành, tay nghề kém, cẩu thả, ác ý: những thiệt hại do
những nguyên nhân này ngày càng tăng cho dù có đủ những biện pháp đề
phòng thì sai sót trong vận hành vẫn luôn xảy ra và dẫn đến những tổn thất to
lớn.
- Vỡ do lực ly tâm: nguyên nhân này ít gặp song nếu xảy ra sẽ có những
tổn thất ghê gớm bởi vì những lực đợc giải phóng ở đây không chỉ gây nên sự
phá huỷ nặng nề đối với bản thân chiếc máy mà còn có thể gây tổn thất cho cả
các tài sản xung quanh.
- Đoản mạch và những nguyên nhân khác về điện: các thiết bị điện có
thể bị tổn thất lớn do đoản mạch, điện thế quá cao, cách điện kém, hồ quang và
những tác động về cơ học bởi dòng điện.
-Thiếu nớc trong nồi hơi: do sai sót trong vận hành, do đồng hồ đo báo
sai hoặc do trục trặc ở bộ phận cung cấp và trục trặc ở hệ thống báo động thờng dẫn đến thiếu nớc. Hiện tợng này làm cho các ống bị nung đỏ, có khi phá
huỷ toàn bộ hệ thống ống.
- Nổ vật lý: hiện tợng này đặc trng ở chỗ là do xu hớng giãn nở của khí
hoặc hơi nớc làm cho thành bể chứa bị xé toạc ra và do khí, hơi nớc hoặc chất

lỏng thoát ra sẽ xuất hiện một sự cân bằng áp suất đột ngột giữa bên trong bể
với xung quanh.
Nổ do một phản ứng hoá học gây nên không nằm trong khái niệm này.
Thông thờng các hiện tợng nổ hoá học đợc bảo hiểm trong hợp đồng bảo hiểm
hoả hoạn.
- Bão, đóng băng, tan băng: những thiên tai này dĩ nhiên tác động trớc
hết đến các đối tợng đặt ở ngoài trời. Tuy vậy máy móc trong nhà cũng có thể
bị thiệt hại do bão và đã phá huỷ mái nhà hoặc do giá lạnh. Đặc biệt cần lu ý
21


đến nguy cơ của bão, trớc hết đối với các loại cẩu bốc xếp, đờng dây điện, dây
cáp và các loại tơng tự.
Ngoài phạm vi bảo hiểm đã trên thì đơn BHMM cũng có thể mở rộng
phạm vi để bảo hiểm cho các tài sản xung quanh thuộc sở hữu của chủ xí
nghiệp, trách nhiệm pháp lý của chủ xí nghiệp với bên thứ ba về thơng tật thân
thể và thiệt hại tài sản gây ra do đổ vỡ, nổ máy móc, một số chi phí phụ, rủi ro
thêm bằng các điều khoản bổ sung ( xem I. 3 .C)
Chúng ta cần lu ý rằng những rủi ro trên chỉ áp dụng cho máy móc mới
sau khi kết thúc quá trình chạy thử, chạy có tải tối đa sau khi lắp đặt và máy
móc cũ thoả mãn một số điều kiện. Máy móc có thể đợc bảo hiểm khi đang
hoạt động hoặc ngừng hoạt động tại một địa điểm cụ thể đợc chỉ rõ trong
Bản tóm tắt điều kiện bảo hiểm đính kem theo đơn bảo hiểm.
b. Những điểm loại trừ.
Trong bất kỳ một nghiệp vụ bảo hiểm nào, các rủi ro đợc bảo hiểm đều
có các điểm loại trừ. Mặc dù ngành bảo hiểm cố gắng đáp ứng yêu cầu của
khách hàng trong việc mở rộng rủi ro đợc bảo hiểm nhng không phải tất cả
các rủi ro có thể lựa chọn đều đợc ngành bảo hiểm chấp nhận. Ngoài một số
điểm loại trừ có thể thơng lợng đợc bằng các điều khoản bổ sung (ĐKBS) thì
những rủi ro sau đây không đợc áp dụng cho một loại đơn BHMM nào:

- Những rủi ro có thể đợc bảo hiểm bởi một thể loại bảo hiểm khác nh
Bảo hiểm hoả hoạn, sét, nổ, trộm cắp... (loại trừ một số rủi ro bên ngoài đợc áp
dụng bằng ĐKBS , xem I.3.c)
- Lũ lụt, động đất, đất sụt, đất lở và những đâm va của xe cộ, máy bay
và tàu thuyền.
- Bào mòn trong quá trình sử dụng hoặc vận hành bình thờng cũng nh do
hiện tợng bị ruỗng bên trong, bào mòn, han gỉ, bám cặn. Loại trừ này tuy vậy
22


chỉ áp dụng đối với những bộ phận chịu tác động trực tiếp. Những thiệt hại đối
với các bộ phận khác của máy móc bắt nguồn từ đó vẫn đợc bảo hiểm.
- Chiến tranh và các hành động bạo loạn trong nớc cũng nh những hành
động của ngời đình công, lãn công.
-Hành động cố ý hay cố tình vi phạm của ngời đợc bảo hiểm hoặc của
ban lãnh đạo xí nghiệp.
- Lỗi lầm hoặc thiếu sót mà ngời cung cấp phải chịu trách nhiệm theo
hợp đồng hoặc pháp luật ( thiệt hại thuộc trách nhiệm bảo hành).
Ngoài ra, những thiệt hại hậu quả, các chi phí thực hiện công tác bảo dỡng, chi phí đề phòng và ngăn ngừa tổn thất đều không đợc bồi thờng theo đơn
tiêu chuẩn của bảo hiểm máy móc.
c. Mở rộng phạm vi bảo hiểm cơ bản:
Trong đơn tiêu chuẩn của BHMM không bao gồm tất cả đối tợng và
phạm vi bảo hiểm mà có một số đối tợng, phạm vi không đợc bảo hiểm trong
đó. Với những trờng hợp này nếu có sự yêu cầu của ngời yêu cầu bảo hiểm,
công ty có thể đồng ý bảo hiểm bằng cách áp dụng các điều khoản bổ sung.
Hiện nay, tại công ty Bảo hiểm Hà nội đang áp dụng những điều khoản bổ
sung (ĐKBS) sau:
ĐKBS 001- Bảo hiểm đình công, bạo loạn, bạo động: điều kiện bổ sung
này bảo hiểm cho các rủi ro đình công, bạo loạn và bạo loạn dân sự với giả
thiết là mức độ phát sinh không phổ biến. Các điều kiện quy định và phụ phí

áp dụng theo ĐKBS 001.
Điều khoản này đợc hiểu rằng số tiền bồi thờng cho mỗi sự cố sẽ giới
hạn ở giá trị thực tế của các hạn mục đợc bảo hiểm và lên tới mức tối đa 300
000 US$ cho mỗi sự cố. Ngời bảo hiểm có thể huỷ bỏ hiệu lực bảo hiểm của
điều khoản này vào bất kỳ lúc nào (cho dù phạm vi Bảo hiểm cơ bản vẫn còn
23


hiệu lực)
ĐKBS 006- Bảo hiểm cho các chi phí làm thêm giờ, làm đêm và ngày
lễ, chủ nhật: ĐKBS này bảo hiểm cho những chi phí photo sinh liên quan trực
tiếp tới công tác sửa chữa các máy móc bị thiệt hại do các rủi ro đựơc bảo
hiểm theo đơn tiêu chuẩn. Phụ phí cho điều khoản này là 10% của phí bảo
hiểm tính theo đơn tiêu chuẩn (gồm cả chi phí vận chuyển nhanh bằng hàng
không).
ĐKBS 007- Bảo hiểm cho cớc phí vận chuyển nhanh bằng hàng không,
chỉ bảo hiểm cho những chi phí vận chuyển hàng không phát sinh liên quan
trực tiếp tới công tác sửa chữa máy móc đợc bảo hiểm theo đơn tiêu chuẩn với
hạn mức bồi thờng cho một đơn không vợt quá 1% STBH và dới một số tiền
tuyệt đối đợc quy định trong ĐKBS này. Với mỗi khiếu nại, ngời đợc bảo hiểm
phải tự chịu 20 % chi phí vận chuyển này. Phí bảo hiểm cho ĐKBS này là 10%
của hạn mức bồi thờng của chi phí này.
ĐKBS 302- Bảo hiểm cho các tài sản xung quanh và trách nhiệm đối với
ngời thứ ba: ĐKBS này bảo hiểm cho các tài sản xung quanh của ngời đợc bảo
hiểm và cho các khiếu nại về trách nhiệm đối với bên thứ ba phát sinh do hậu
quả của nổ hoặc đổ sập hoặc xé rách bởi lực ly tâm. Tổng hạn mức bồi thờng
sẽ không vợt quá: số tiền bảo hiểm của hạng mục liên quan, hạn mức bồi thờng quy định với bảo hiểm trách nhiệm đối với bên thứ ba hoặc bất cứ số tiền
nào thấp hơn.
ĐKBS 331- Bảo hiểm thân vỏ máy- loại trừ quá trình vận chuyển
ĐKBS 312- Bảo hiểm thân vỏ máy-bao gồm bảo hiểm cho quá trình vận

chuyển
ĐKBS này bảo hiểm cho các máy móc và thiết bị có thể chuyển động
(di động), bồi thờng cho các thiệt hại do hậu quả của lũ ,lụt, sụt lở đất đá, lún

24


đất hoặc hoả hoạn. Phạm vi này bảo hiểm cho các rủi ro bên ngoài và chỉ đợc
cung cấp liên quan với BHMM (bồi thờng cho các thiệt hại bên trong) và chỉ
khi các máy móc đang trong tình trạng hoạt động hoặc đợc lu kho tại địa điểm
quy định trong đơn bảo hiểm. Mức miễn thờng và phí bảo hiểm đợc quy định
trong mỗi ĐKBS.
ĐKBS 313- Bảo hiểm cháy bên trong, nổ hoá học bên trong và sét đánh
trực tiếp. ĐKBS bảo hiểm cho rủi ro cháy hoặc nổ bên trong có nghĩa là cháy
hoặc nổ bắt buộc phải bắt nguồn từ bên trong các hạng mục đợc bảo hiểm, bất
kỳ các thiệt hại hoậc h hỏng gây hậu quả bên ngoài hạng mục đó đều không đợc bồi thờng, và bảo hiểm cho rủi ro sét đánh trực tiếp (nghĩa là sét đánh thẳng
vào hạng mục). Phí có thể bằng 20% phí bảo hiểm cơ bản.
ĐKBS 314- Bảo hiểm cháy nổ trong các động cơ đốt trong và máy phát
điện dùng hydro lạnh: bảo hiểm các rủi ro nổ trong các động cơ đốt trong và
nổ của chất làm mát dùng trong máy phát điện làm mát bằng hydro. Phí bảo
hiểm có thể bằng 5 % phí cơ bản với điều kiện là tổn thất chỉ xảy ra đối với
các máy móc tơng ứng đợc bảo hiểm trong đơn tiêu chuẩn.
ĐKBS 315- Bảo hiểm rò rỉ từ các bể chứa, thiết bị: điều khoản này bảo
hiểm cho các vật liệu chứa bên trong các công-ten-nơ, tàu, bể chứa bị thiệt hại
do rò rỉ của các dụng cụ chứa đợc gây ra bởi một sự cố đợc bồi thờng theo đơn
tiêu chuẩn.
Phụ phí bảo hiểm đợc tính bằng cách nhân tỷ lệ phí của hạng mục chứa
vật liệu bên trong với số tiền bảo hiểm của các vật liệu đó. Số tiền bảo hiểm
phải là giá trị thay thế của các vật liệu bên trong và phải đợc đề cập trong
ĐKBS này. Mức khấu trừ là 20% giá trị của mọi tổn thất nhng không nhỏ hơn

1000 US$.
ĐKBS 316- Bảo hiểm ngập lụt và phù sa: điều khoản bổ sung này bảo

25


×