Tải bản đầy đủ (.doc) (32 trang)

Luận văn mối quan hệ giữa tăng trưởng với chuyển dịch cơ cấu ngành kinh tế liên hệ ở việt nam trong giai đoạn từ 1996 đến nay

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (821.36 KB, 32 trang )

Đề án môn học

GVHD: Th.S. Nguyễn Quỳnh Hoa

MỤC LỤC
A. LỜI MỞ ĐẦU.................................................................................... 4
B. NỘI DUNG........................................................................................ 6
CHƯƠNG I: CƠ SỞ LÝ LUẬN CỦA MỐI QUAN HỆ GIỮA
TĂNG TRƯỞNG VÀ CHUYỂN DỊCH CƠ CẤU NGÀNH KINH
TẾ............................................................................................................ 6
I. Các khái niệm...........................................................................................6
1. Tăng trưởng kinh tế...............................................................................6
2. Phát triển kinh tế...................................................................................7
3. Khái niệm về cơ cấu ngành của một nền kinh tế..................................7
4. Khái niệm về chuyển dịch cơ cấu ngành kinh tế...................................9
II. Mối quan hệ qua lại giữa tăng trưởng kinh tế và chuyển dịch cơ cấu
ngành kinh tế.............................................................................................10
1. Mối quan hệ giữa tăng trưởng và chuyển dịch cơ cấu kinh tế............10
2. Vai trò của cơ cấu kinh tế trong quá trình phát triển...........................12
3. Xu hướng chuyển dịch cơ cấu ngành kinh tế trong quá trình tăng
trưởng và phát triển.................................................................................12

CHƯƠNG II: THỰC TRẠNG TĂNG TRƯỞNG KINH TẾ VÀ
CHUYỂN DỊCH CƠ CẤU NGÀNH KINH TẾ Ở VIỆT NAM GIAI
ĐOẠN 1996 ĐẾN NAY........................................................................ 14
I. Thực trạng tăng trưởng kinh tế ở Việt Nam giai đoạn 1996 đến nay
.....................................................................................................................14
1. Nền kinh tế nước ta đã liên tục tăng trưởng với tốc độ khá cao và
tương đối ổn định....................................................................................14
2. Tăng trưởng kinh tế đã dựa trên sự chuyển dịch cơ cấu kinh tế - xã hội
theo hướng CNH, HĐH, từng bước hội nhập vào sự phân công của nền


kinh tế khu vực và thế giới......................................................................14

SV: Cấn Thị Thanh Phương

1

Lớp: KTPT47B_QN


Đề án môn học

GVHD: Th.S. Nguyễn Quỳnh Hoa

3. Tăng trưởng và phát triển kinh tế đã đưa đến nâng cao trình độ và chất
lượng sống của các tầng lớp dân cư........................................................16
4. Tăng trưởng và phát triển kinh tế đi đôi với giải quyết việc làm, gắn
liền với tiến bộ và công bằng xã hội.......................................................17
II. Thực trạng về tác động của chuyển dịch cơ cấu ngành kinh tế đến
tăng trưởng giai đoạn 1996 đến nay........................................................18
1. Những thành tựu đã đạt được..............................................................18
1.1. Cơ cấu ngành kinh tế dần chuyển dịch theo hướng CNH-HĐH18
1.2. Công cuộc đổi mới và chuyển dịch cơ cấu tạo cho nền kinh tế
mức tăng trưởng ngày càng cao........................................................20
1.3. Đóng góp của các ngành công nghiệp và dịch vụ vào tốc độ tăng
trưởng kinh tế chiếm tỷ trong cao.....................................................21
1.4. Cơ cáu kinh tế đã chuyển dịch dần theo hướng hướng vào xuát
khẩuđòng thời thay thế nhập khẩu....................................................22
2. Những bất cập còn tồn tại...................................................................23
3. Nguyên nhân.......................................................................................25


CHƯƠNG III: MỘT SỐ GIẢI PHÁP THÚC ĐẨY QUÁ TRÌNH
CHUYỂN DỊCH CƠ CẤU NGÀNH KINH TẾ TRONG QUÁ
TRÌNH PHÁT TRI ỂN Ở VIỆT NAM...............................................26
I. Xác định mục tiêu của chuyển dịch cơ cấu trong mối quan hệ với
tăng trưởng trong giai đoạn nhất định....................................................26
1. Mục tiêu chuyển dịch cơ cấu kinh tế ngành phải tiến tới một cơ cấu
hợp lý, đó là một cơ cấu đa ngành, trong đó hình thành các ngành trọng
điểm mũi nhọn.........................................................................................26
2. Kết hợp tối ưu giá cơ cấu ngành với cơ cấu vùng lãnh thổ và cơ cấu
thành phần kinh tế...................................................................................26
3. Hình thành và phát triển các ngành trọng điểm và mũi nhọn trong quá
trình công nghiệp hoá, hiện đại hoá........................................................27

SV: Cấn Thị Thanh Phương

2

Lớp: KTPT47B_QN


Đề án môn học

GVHD: Th.S. Nguyễn Quỳnh Hoa

II. Một só giải pháp thúc đảy quá trình chuyển dịch cơ cấu ngành kinh
tế ở nước ta.................................................................................................28
1. Cần lựa chọn mô hình phát triển hợp lý, nâng cao chất lượng các chiến
lược, quy hoạch phát triển ngành............................................................28
2. Phát triển mạnh mẽ thị trường.............................................................28
3. Đầu tư, chuyển dịch cơ cấu đầu tư và nâng cao hiệu quả đầu tư........29

4. Đổi mới và phát triển công nghệ.........................................................29
5. Về cơ sở hạ tầng:.................................................................................29
6. Về chính sách vĩ mô:...........................................................................29
7. Về quan hệ quốc tế:.............................................................................30

C. KẾT LUẬN...................................................................................... 31
Tµi liÖu tham kh¶o............................................................................. 32

SV: Cấn Thị Thanh Phương

3

Lớp: KTPT47B_QN


Đề án môn học

GVHD: Th.S. Nguyễn Quỳnh Hoa

A. LỜI MỞ ĐẦU
Chuyển dịch cơ cấu kinh tế là một trong những nội dung quan trong nhất trong
đường lối CNH-HĐH của Đảng ta trong giai đoạn phát triển từ nay đến năm 2020. Thực
tiễn cho thấy, trình độ phát triển càng cao, quá trình hội nhập kinh tế càng sâu thì việc điều
chỉnh cơ cấu kinh tế sao cho phù hợp càng trở nên quan trọng. Chuyển dịch cơ cấu kinh tế
là yếu tố tác động trực tiếp đến quá trình tăng trưởng và phát triển, là thuộc tính của hệ
thống kinh tế, nó quy định tính chất và trình độ phát triển của nền kinh tế. Nếu có được cơ
cấu kinh tế hợp lý sẽ có khả năng tạo ra tăng trưởng nhanh và hiệu quả cao. Ngược lại khi
có tốc độ tăng trưởng kinh tế cao sẽ có khả năng tăng mức tích lũy để đầu tư cải tạo cơ cấu
kinh tế. Sự hợp lý của cơ cấu kinh tế đảm bảo cho tăng trưởng nhanh và bền vững, mà
dạng quan trọng nhất của nó chính là chuyển dịch cơ cấu ngành kinh tế.

Thực hiện đường lối đổi mới của Đảng, từ năm 1986 đến nay, rõ nhất là từ năm 1990
cơ cấu kinh tế nước ta đã có sự chuyển dịch theo hướng tích cực phù hợp với tiến trình
công nghiệp hoá, hiện đại hoá. Tỷ trọng các ngành công nghiệp và dịch vụ tăng nhanh và
chiếm tỷ trọng lớn. Những chuyển biến đó đã góp phần tạo đà cho nền kinh tế đạt tốc độ
tăng trưởng nhanh và ổn định.
Tuy nhiên, những tiến bộ trong chuyển dịch cơ cấu kinh tế đó cũng mới chỉ là bước đầu và
nhìn chung sự chuyển dịch cơ cấu còn chậm. Cho đến nay, nước ta vẫn là nước nông
nghiệp, dân cư sống ở nông thôn và lao động nông nghiệp vẫn chiếm tỷ trọng lớn. Để đạt
được mục tiêu đến năm 2020: “Đưa nước ta cơ bản trở thành một nước công nghiệp có cơ
sở vật chất kỹ thuật hiện đại, có cơ cấu kinh tế ngành hợp lý với tỷ trọng ngành nông
nghiệp chiếm dưới 10%, công nghiệp 35 – 40%, dịch vụ chiếm 50 – 60% trong tổng
GDP”. Mà Đại hội VIII đã đề ra thì còn nhiều vấn đề phải được tiếp tục nghiên cứu và có
giải pháp sát thực.
Với lý do đó, em chọn đề tài: “Mối quan hệ giữa tăng trưởng với chuyển dịch cơ
cấu ngành kinh tế. Liên hệ ở Việt Nam trong giai đoạn từ 1996 đến nay”. Đề tài này
nhằm nghiên cứu mối quan hệ giữa chuyển dịch cơ cấu kinh tế với tăng trưởng. Kết cấu
của bài viết này gồm:
Chương I: Cơ sở lý luận của mối quan hệ giữa tăng trưởng kinh tế và chuyển dịch cơ
cấu ngành kinh tế.

SV: Cấn Thị Thanh Phương

4

Lớp: KTPT47B_QN


Đề án môn học

GVHD: Th.S. Nguyễn Quỳnh Hoa


Chương II: Phân tích về thực trạng tăng trưởng kinh tế và chuyển dịch cơ cấu ngành
tác động đến tăng trưởng kinh tế từ đó đưa ra đánh giá về những thành tựu và bất cập còn
tồn tại
Chương III: Đưa ra những định hướng và giải pháp nhằm thúc đẩy chuyển dịch cơ
cấu kinh tế một cách hiệu quả, tác động tích cực đến tăng trưởng kinh tế trong sự nghiệp
công nghiệp hóa, hiện đại hóa của đất nước
Em xin trân thành cảm ơn Cô giáo Th.s Nguyễn Quỳnh Hoa đã hướng dẫn em và
giúp đỡ em hoàn thành đề án này
Mặc dù đã có nhiều cố gắng nhưng do thời gian và thông tin có hạn nên bài viết
không tránh khỏi những thiếu sót. Rất mong được sự đóng góp của Cô giáo

SV: Cấn Thị Thanh Phương

5

Lớp: KTPT47B_QN


Đề án môn học

GVHD: Th.S. Nguyễn Quỳnh Hoa

B. NỘI DUNG
CHƯƠNG I: CƠ SỞ LÝ LUẬN CỦA MỐI QUAN HỆ GIỮA
TĂNG TRƯỞNG VÀ CHUYỂN DỊCH CƠ CẤU
NGÀNH KINH TẾ
I. Các khái niệm
1. Tăng trưởng kinh tế.
Theo nghĩa chung nhất, tăng trưởng kinh tế thường được quan niệm là sự tăng lên

hay gia tăng về quy mố sản lượng của nền kinh tế trong một thời kỳ nhất định (thường là
một năm). Hay nói một cách khác cụ thể hơn, tăng trưởng kinh tế là do tăng thu nhập quốc
dân và thu nhập quốc dân đầu người.
Tăng trưởng kinh tế được xác định bằng cách so sánh quy mô sản lượng giữa các
thời kỳ. Có hai cách so sánh tuyệt đối và tương đối.
- Mức tăng tuyệt đối:

∆ y = Yn – Y0

Trong đó: Yn là sản lượng của năm n, còn Y 0 là sản lượng của năm so sánh (năm
gốc).
Như vậy, mức tăng trưởng tuyệt đối phản ánh mức độ tăng quy mô sản lượng.
- Mức tăng trưởng tương đối hay là tốc độ tăng trưởng (gy)
gy = Yn/Yo hay (Yn – Yo)/Yo
Trong kinh tế vĩ mô, Y chính là tổng sản phẩm quốc nội (GDP) hoặc tổng sản phẩm
quốc dân (GNP).
Có thể nói, tăng trưởng kinh tế phản ánh sự thay đổi về lượng của nền kinh tế. Càng
ngày thì tăng trưởng kinh tế càng được gắn với yêu cầu tính bền vững hay việc bảo đảm
chất lượng tăng trưởng ngày càng cao. Tức là tăng trưởng không những phải nhanh mà
phải đảm bảo liên tục, có hiệu quả của các chỉ tiêu quy mô và tốc độ tăng thu nhập bình
quân đầu người. Hơn thế nữa quá trình ấy phải được tạo nên bởi nhân tố đóng vai trò quyết
định là khoa học công nghệ và vốn nhân lực trong điều kiện một cơ cấu kinh tế hợp lý.

SV: Cấn Thị Thanh Phương

6

Lớp: KTPT47B_QN



Đề án môn học

GVHD: Th.S. Nguyễn Quỳnh Hoa

2. Phát triển kinh tế.
Phát triển kinh tế có thể hiểu là một quá trình lớn lên (tăng tiến) về mọi mặt của nền
kinh tế trong một thời kỳ nhất định. Trong đó bao gồm cả sự tăng thêm về quy mô sản
lượng (tăng trưởng) và sự tiến bộ về cơ cấu kinh tế - xã hội. Phát tiển kinh tế là quá trình
biến đổi cả về lượng và về chất của nền kinh tế, nó là sự kết hợp một cách chặt chẽ quá
trình hoàn thiện của hai vấn đề về kinh tế và xã hội ở mỗi quốc gia.
Phát triển kinh tế bao gồm các nội dung chủ yếu sau:
Thứ nhất, sự tăng lên của tổng thu nhập nền kinh tế và mức gia tăng thu nhập bình
quân đầu người..
Thứ hai, sự thay đổi (tiến bộ) về cơ cấu kinh tế, đặc biệt là cơ cấu ngành. Đây là tiêu
thức phản ánh sự biến đổi về chất của nền kinh tế quốc gia.
Thứ ba, sự tiến bộ về mặt xã hôi. Mục tiêu cuối cùng của sự phát triển kinh tế trong
các quốc gia không phải là tăng trưởng hay chuyển dịch cơ cấu kinh tế, mà là việc xoá bỏ
nghèo đói, suy dinh dưỡng, khẳ năng tiếp cận tới các dịch vụ y tế, nước sạch, trình độ dân
chí giáo dục của quảng đại quần chúng nhân dân,…làm cho con người ngày càng có cuộc
sống tốt hơn.
Nếu nền kinh tế chỉ nhìn theo khía cạnh tăng trưởng thì chưa đủ, để nhìn toàn diện
phải nhìn trên phương diện phát triển kinh tế. Tăng trưởng kinh tế là lượng thì phát triển
kinh tế phải là cả lượng và chất. Như vậy, đánh giá về phát triển kinh tế phải dựa trên đánh
giá của các khía cạnh: Đánh giá sự thay đổi về lượng, đánh giá về sự biến đổi trong cơ cấu
của nền kinh tế, đánh giá về sự thay đổi trong các vấn đề xã hội.
Ngày nay khi nói đến phát triển người ta thường nhắc đến khái niệm phát triển bền
vững, nghĩa là “phải có tính liên tục, mãi mãi hoặc các lợi ích của nó phải được duy trì
không hạn định”.

3. Khái niệm về cơ cấu ngành của một nền kinh tế.

Cơ cấu ngành kinh tế là sự tương quan giữa các ngành trong tổng thể nền kinh tế, thể
hiện mối quan hệ hữu cơ và sự tác động qua lại cả về số lượng và chất lượng giữa các
ngành với nhau.
Mối quan hệ này được hình thành trong những điều kiện kinh tế xã hội nhất định,
luôn vận động và hướng vào những mục tiêu cụ thể.

SV: Cấn Thị Thanh Phương

7

Lớp: KTPT47B_QN


Đề án môn học

GVHD: Th.S. Nguyễn Quỳnh Hoa

Theo quan điểm của lý thuyết hệ thống: Cơ cấu ngành của một nền kinh tế là tập hợp
tất cả các ngành hình thành nên nền kinh tế và các mối quan hệ tương đối ổn định giữa
chúng.
Có nhiều cách phân loại ngành khác nhau khi nghiên cứu về chuyển dịch cơ cấu
ngành. Song cho đến nay chính thức tồn tại hai hệ thống phân ngành kinh tế: Phân ngành
kinh tế theo hệ thống sản xuất vật chất (MPS) và phân ngành theo hệ thống tài khoản quốc
gia (SNA).
Theo hệ thống sản xuất vật chất, các ngành kinh tế được phân thành hai khu vực: Sản
xuất vật chất và không sản xuất vật chất. Khu vực sản xuất vật chất và khôn sản xuất vật
chất được phân thành các ngành cấp I như: Công nghiệp, Nông nghiệp... Các ngành cấp I
lại được phân thành các ngành cấp II, chẳng hạn ngành công nghiệp lại bao gồm các ngành
sản phẩm như: điện năng, nhiên liệu.... Đặc biệt trong các ngành công nghiệp người ta còn
phân ra thành nhóm A và nhóm B.

Theo hệ thống tài khoản quốc gia, các ngành kinh tế được phân thành 3 nhóm ngành
lớn là nông nghiệp, công nghiệp, xây dựng và dịch vụ. Ba ngành gộp này bao gồm 20
ngành cấp I như: nông nghiệp, lâm nghiệp và thủy sản, khai mỏ khai khoáng,... Các ngành
cấp I lại được phân nhỏ thành các ngành cấp II. Các ngành cấp II lại được phân nhỏ thành
các ngành sản phẩm.
Có nhiều mức phân ngành khác nhau, tùy theo mức dộ gộp hay chi tiết hóa đến
chừng nào đó mà có được tập hợp các ngành tương ứng.
Với một cách phân ngành hợp lý và một giá trị đại lượng được chọn thống nhất có
thể xác định được các chỉ tiêu định lượng phản ánh một mặt cơ cấu ngành, đó là tỷ trọng
các ngành so với tổng thể các ngành của nền kinh tế. Loại chỉ tiêu định lượng thứ nhất này
được sử dụng để nghiên cứu liên quan đến phát triển cơ cấu ngành của nền kinh tế. Chỉ
tiêu định lượng thứ hai có thể mô tả được phần nào mối quan hệ tác động qua lại giữa các
ngành kinh tế, đó chính là các hệ số trong bảng cân đối liên ngành (của hệ MPS) hay bản
Vào – Ra (I/O) (của hệ thống SNA).
Như vậy theo định nghĩa cơ cấu ngành đưa ra xét về mặt định lượng, ít ra phải có hai
loại chỉ tiêu trên đây mới cho ta sự hiểu biết đầy đủ hơn về cơ cấu ngành của một nền kinh
tế.

SV: Cấn Thị Thanh Phương

8

Lớp: KTPT47B_QN


Đề án môn học

GVHD: Th.S. Nguyễn Quỳnh Hoa

4. Khái niệm về chuyển dịch cơ cấu ngành kinh tế.

Chuyển dịch cơ cấu ngành là quá trình phát triển của các ngành kinh tế dẫn đến sự
tăng trưởng khác nhau giữa các ngành và làm thay đổi quan hệ tương quan giữa chúng so
với một thời điểm trước đấy.
Theo định nghĩa này, điều chỉnh cơ cấu ngành chỉ diễn ra sau một khoảng thời gian
nhất định vì nó là một quá trình và sự phát triển của các ngành phải dẫn đến sự thay đổi
mối quan hệ tương đối ổn định vốn có của chúng (ở thời điểm trước đó). Trên thực tế, sự
thay đổi này là kết quả của quá trình:
Xuất hiện thêm một số ngành mới hay mất đi một số ngành đã có, tức là có sự thay
đổi về số lượng cũng như loại ngành trong nền kinh tế.
Tăng trưởng về quy mô với nhịp độ khác nhau của các ngành dẫn đến thay đổi cơ
cấu. Trong trường hợp này sự điều chỉnh cơ cấu ngành là kết quả của sự phát triển không
đồng đều của các ngành sau mỗi giai đoạn.
Chỉ tiêu xác định tốc độ biến đổi tương quan giữa các ngành kinh tế thường dùng là
nhịp độ tăng trưởng ngành:
Thay đổi trong mối quan hệ tác động qua lại giữa các ngành. Sự thay đổi này trước
hết biểu thị bằng số ngành có liên quan. Mức độ tác động qua lại của ngành này với các
ngành khác qua quy mô đầu vào mà nó cung cấp cho các ngành hay nhận từ các ngành đó.
Sự tăng trưởng của các ngàn dẫn đến sự thay đổi cơ cấu ngành trong mỗi nền kinh tế.
Cho nên, chuyển dich cơ cấu ngành xảy ra như là kết quả của quá trình phát triển. Đó là
quy luật tất yếu từ xưa đến nay trong hầu hết mọi nền kinh tế. Vấn đề đáng quan tâm là ở
chỗ : sự chuyển dich cơ cấu ngành diễn ra theo xu hướng nào, tốc độ nhanh chậm ra sao,
có những quy luật gì?
Có rất nhiều nền kinh tế đã đạt được thành công trong sự phát triển nhờ vào quá
trình chuyển dịch cơ cấu ngành đặc thù phù hợp với điều kiện cụ thể. Việc tìm ra một xu
hướng hay giải pháp cho chuyển dịch cơ cấu ngành của Việt Nam không đơn thuần là áp
dụng kinh nghiệm có được mà là sự phát hiện những đặc thù của đất nước, của môi trường
trong nước và thế giới hiện nay để làm thích ứng những bài học đã có cho hoàn cảnh Việt
Nam.

SV: Cấn Thị Thanh Phương


9

Lớp: KTPT47B_QN


Đề án môn học

GVHD: Th.S. Nguyễn Quỳnh Hoa

II. Mối quan hệ qua lại giữa tăng trưởng kinh tế và chuyển dịch cơ cấu
ngành kinh tế
1. Mối quan hệ giữa tăng trưởng và chuyển dịch cơ cấu kinh tế
Tăng trưởng kinh tế phụ thuộc vào nhiều yếu tố khi xét đến sự tác động trên các
phương diện khác nhau: Xét về phương diện đầu vào có ba yếu tố, đó là vốn, lao động và
năng suất các nhân tố tổng hợp (TFB); Xét về phương diện cấu thành có ba khu vực: nông,
lâm nghiệp – thủy sản, công nghiệp – xây dựng và dịch vụ; Xét từ phương diện đầu ra có
ba yếu tố, đó là tích lũy – đầu tư, tiêu dùng cuối cùng và xuất khẩu ròng. Nhìn trên bình
diện chung, các yếu tố nêu trên đều có vai trò trực tiếp hoặc gián tiếp tác động đến số
lượng và chất lượng tăng trưởng kinh tế. trong phạm vi bài viết này chỉ đề cập đến tác
động của chuyển dịch cơ cấu ngành kinh tế đến việc thực hiện mục tiêu tăng trưởng
Như chúng ta đã biết, chuyển dịch cơ cấu kinh tế là thuộc tính của hệ thống kinh tế,
nó quy định tính chất và trình độ phát triển của nền kinh tế. Chuyển dịch cơ cấu kinh tế là
yếu tố tác động trực tiếp đến quá trình tăng trưởng và phát triển. Nếu có được cơ cấu kinh
tế hợp lý sẽ có khả năng tạo ra tăng trưởng nhanh và hiệu quả cao. Cơ cấu kinh tế không
chỉ tạo ra nhiều việc làm để giảm thất nghiệp mà còn tạo ra tăng trưởng kinh tế, gia tăng
quy mô nền kinh tế, dẫn đến các mục tiêu khác của sự phát triển đều được giải quyết.
Ngược lại khi có tốc độ tăng trưởng kinh tế cao sẽ có khả năng tăng mức tích lũy để đầu tư
cải tạo cơ cấu kinh tế, hướng tới trạng thái hiện đại hơn, hiệu quả hơn. Sự hợp lý của cơ
cấu kinh tế đảm bảo cho tăng trưởng nhanh và bền vững

Cơ cấu kinh tế có vai trò rất quan trọng đối với quá trình phát triển. Đồng thời, tăng
trưởng kinh tế và biến đổi cơ cấu kinh tế là hai mặt của phát triển kinh tế. Giữa chúng có
mối quan hệ tác động qua lại như mối quan hệ tác động giữa lượng và chất mà trong đó
tăng trưởng chính là mặt lượng và cơ cấu kinh tế thể hiện mặt chất của quá trình phát triển.
Cơ cấu kinh tế hợp lý thúc đẩy tăng trưởng kinh tế và đến lượt nó, tăng trưởng kinh tế tạo
điều kiện cần thiết để hoàn thiện hơn nữa cơ cấu kinh tế trong tương lai. Cơ cấu ngành là
bộ phận rất quan trọng trong cơ cấu kinh tế, sự biến động của nó có ý nghĩa quyết định đến
sự biến động của nền kinh tế.
Nếu tăng tổng sản phẩm trong nước (GDP) phản ánh động thái tăng trưởng thì
chuyển dịch cơ cấu kinh tế phản ánh chất lượng tăng trưởng. Về mặt lý thuyết, việc chuyển
dịch cơ cấu kinh tế của một quốc gia vừa là chỉ tiêu đánh giá chất lượng tăng trưởng kinh
tế vừa phản ánh bản chất của quá trình công nghiệp hoá. Trong điều kiện hội nhập kinh tế
SV: Cấn Thị Thanh Phương

10

Lớp: KTPT47B_QN


Đề án môn học

GVHD: Th.S. Nguyễn Quỳnh Hoa

toàn cầu, chuyển dịch cơ cấu kinh tế phản ánh bản chất quá trình công nghiệp hoá, khả
năng thích nghi và mức độ hội nhập quốc tế của quốc gia về kinh tế. Sự thay đổi cơ cấu
ngành kinh tế hoặc cơ cấu vùng, cơ cấu lao động, cơ cấu công nghệ, cơ cấu quy mô hay cơ
cấu thành phần kinh tế…, về thực chất là điều chỉnh phương thức phân bổ và sử dụng các
nguồn lực. Chuyển dịch cơ cấu kinh tế theo ngành là tiêu điểm của chính sách công
nghiệp. Thành công của công cuộc công nghiệp hoá phụ thuộc trực tiếp vào thành công của
việc xây dựng và thực hiện chính sách công nghiệp.

Giữa tăng trưởng và chuyển dịch cơ cấu kinh tế có mối quan hệ khăng khít với nhau,
cơ cấu kinh tế giữa các ngành ảnh hưởng rất lớn đến nhịp độ tăng trưởng của các ngành.
Vốn đầu tư cũng như tỷ trọng vốn đầu tư của các ngành có ảnh hưởng trực tiếp đến sự phát
triển của các ngành và cơ cấu các ngành trong toàn bộ nền kinh tế. Không những thế mà nó
còn ảnh hưởng trực tiếp đến chuyển dịch cơ cấu của các ngành. Đó là những nhân tố tác
động trực tiếp đến nhịp độ tăng trưởng chung của GDP toàn nền kinh tế. Vốn đầu tư vào
các ngành khác nhau không những mang lại mức độ tăng trưởng khác nhau mà còn ảnh
hưởng trực tiếp đến nhịp tăng trưởng của toàn bộ nền kinh tế. Tỷ lệ đầu tư vào các ngành
khác nhau cũng mang lại sự chuyển dịch lớn về cơ cấu của GDP vì mỗi ngành sẽ có sự
đóng góp khác nhau vào nhịp tăng GDP của vốn.
Quá trình phát triển tăng trưởng kinh tế của một quốc gia thường được xem xét như
là một quá trình làm thay đổi thu nhập bình quân đầu người. Mặc dù có nhiều thay đổi
trong quan niệm về phát triển và tăng trưởng nhưng chỉ tiêu trên vẫn được coi trọng và làm
thước đo cho sự phát triển kinh tế. Một xu hướng mang tính quy luật là cùng với sự phát
triển của kinh tế là một quá trình thay đổi về cơ cấu kinh tế, tức là một sự thay đổi tương
đối về mức đóng góp, tốc độ phát triển của từng thành phần, từng yếu tố riêng về cấu thành
nên toàn bộ kinh tế. Một trong những cơ cấu kinh tế được quan tâm và nghiên cứu nhiều
trong mối liên hệ với quá trình tăng trưởng và phát triển kinh tế là cơ cấu ngành. Ngay từ
cuối thế kỷ 19, nhà kinh tế học người Đức E.Engle đã phát hiện ra mối quan hệ giữa phát
triển kinh tế (thu nhập bình quân tăng lên) với chuyển dịch cơ cấu ngành kinh tế.
Theo E.Engle, khi thu nhập của các gia đình tăng lên thì tỷ lệ chi tiêu của họ cho
lương thực, thực phẩm giảm đi. Do chức năng chính của khu vực nông nghiệp là sản xuất
lương thực, thực phẩm nên có thể suy ra là tỷ trọng nông nghiệp trong toàn bộ nền kinh tế
sẽ giảm đi khi thu nhập tăng lên.

SV: Cấn Thị Thanh Phương

11

Lớp: KTPT47B_QN



Đề án môn học

GVHD: Th.S. Nguyễn Quỳnh Hoa

Quy luật E.Engle được phát hiện cho sự tiêu dùng lương thực, thực phẩm nhưng nó
có ý nghĩa quan trọng trong việc định hướng cho việc nghiên cứu tiêu dùng các loại sản
phẩm khác. Các nhà kinh tế gọi lương thực, thực phẩm là các sản phẩm thiết yếu, hàng
công nghiệp là sản phẩm tiêu dùng lâu bền và việc cung cấp dịch vụ là sự tiêu dùng cao
cấp. Qua quá trình nghiên cứu, họ phát hiện ra xu hướng chung là khi thu nhập tăng lên thì
tỷ lệ chi tiêu cho hàng tiêu dùng lâu bền tăng phù hợp với thu nhập, còn chi tiêu cho tiêu
dùng cao cấp tăng nhanh hơn tốc độ tăng thu nhập, tức là tỷ trọng của ngành công nghiệp
và dịch vụ trong nền kinh tế đã có sự thay đổi
Như vậy, quy luật tiêu thụ sản phẩm của E.Engle đã làm rõ tính xu hướng của việc
chuyển dịch cơ cấu kinh tế nói chung và cơ cấu ngành nói riêng trong quá trình phát triển.

2. Vai trò của cơ cấu kinh tế trong quá trình phát triển
Cơ cấu kinh tế là nhân tố cơ bản quyết định sự tồn tại và phát triển kinh tế các nước.
Một nền kinh tế chỉ có thể tăng trưởng và phát triển khi nó có một cơ cấu kinh tế hợp lý
tiên tiến, đáp ứng được những yêu cầu đặt ra của thời đại
Cơ cấu kinh tế hợp lý tạo động lực cho việc khai thác hiệu quả mọi nguồn lực trong
nước và quốc tế
Các khu vực , địa phương cần phải có được chính sách cơ cấu kinh tế hợp lý phù hợp
với quy luật khách quan, phù hợp với mục tiêu, chiến lược phát triển đất nước
Bảo đảm tăng cường sức mạnh về quốc phòng và an ninh, góp phần quan trọng vào
sự ổn định chính trị của đất nước.
Tạo điều kiện cho nền kinh tế nhanh chóng hội nhập vào nền kinh tế khu vực và thế
giới.


3. Xu hướng chuyển dịch cơ cấu ngành kinh tế trong quá trình tăng trưởng và
phát triển
Sự chuyển dịch cơ cấu này mang tính quy luật, đó là khi thu nhập đầu người tăng lên
thì tỉ trọng nông nghiệp trong tổng sản phẩm sẽ giảm xuống, còn tỉ trọng của công nghiệp
và dịch vụ sẽ tăng lên. Khi đạt đến trình độ nhất định, tỉ trọng của dịch vụ sẽ tăng nhanh
hơn tỉ trọng của công nghiệp. Sự gia tăng của loại ngành, loại sản phẩm có dung lượng vốn
cao ngày càng nhanh, giảm dần tỷ trọng các ngành sản có dung lượng lao động cao.
Các nhà kinh tế gọi lương thực, thực phẩm là sản phẩm thiết yếu, hàng tiêu dùng là
sản phẩm lâu bền và việc cung cấp dịch vụ là hàng tiêu dùng cao cấp. Thực tế phát triển
SV: Cấn Thị Thanh Phương

12

Lớp: KTPT47B_QN


Đề án môn học

GVHD: Th.S. Nguyễn Quỳnh Hoa

của các nước đã chỉ ra xu hướng chung là khi thu nhập tăng lên thì tỉ lệ chi tiêu cho hàng
tiêu dùng lâu bền tăng phù hợp với tốc độ tăng thu nhập, còn chi tiêu cho hàng tiêu dùng
cao cấp có tốc độ tăng nhanh hơn.
Trong quá trình phát triển, việc tăng cường sử dụng máy móc và các phương thức
canh tác mới đã tạo điều kiện nâng cao năng suất lao động. kết quả là, để đảm bảo lương
thực, thực phẩm cho xã hội sẽ không cần đến lực lượng lao động như cũ, có nghĩa là tỉ lệ
lao động trong nông nghiệp sẽ giảm.ngược lai, tỉ lệ lao động được thu hút vào công nghiệp
và dịch vụ ngày càng tăng do tính co dãn về nhu cầu sản phẩm của hai khu vực và khả
năng hạn chế hơn trong việc áp dụng tiến bộ kỹ thuật để thay thế lao động, đặc biệt là hoạt
động dịch vụ.

Tóm lại, các xu hướng chuyển dịch cơ cấu ngành kinh tế hiện nay là:
- Giảm lỷ trọng nông nghiệp, tăng tỷ trọng công nghiệp, dịch vụ.
- Tốc độ tăng của dịch vụ có xu hướng ngày càng nhanh hơn so với tốc độ tăng của
công nghiệp, nông nghiệp.
- Tăng tỷ trọng các ngành sản xuất sản phẩm có dung lượng vốn cao.
- Xu hướng “mở” trong cơ cấu kinh tế là cơ cấu sản xuất. Cơ cấu “mở” bao gồm các
ngành có dấu hiệu lợi thế.

SV: Cấn Thị Thanh Phương

13

Lớp: KTPT47B_QN


Đề án môn học

GVHD: Th.S. Nguyễn Quỳnh Hoa

CHƯƠNG II: THỰC TRẠNG TĂNG TRƯỞNG KINH TẾ VÀ
CHUYỂN DỊCH CƠ CẤU NGÀNH KINH TẾ Ở VIỆT
NAM GIAI ĐOẠN 1996 ĐẾN NAY
I. Thực trạng tăng trưởng kinh tế ở Việt Nam giai đoạn 1996 đến nay
1. Nền kinh tế nước ta đã liên tục tăng trưởng với tốc độ khá cao và tương đối ổn
định
Nhiều năm liên tục, kinh tế Việt Nam tăng trưởng với tốc độ khá cao và tương đối
ổn định. GDP tăng bình quân trên 7% năm, riêng năm 2006 là 8,2% đứng thứ hai ở châu Á
và năm 2007 là 8,5%. Việt Nam cũng đã chuyển mạnh sang nền kinh tế thị trường và hội
nhập đầy đủ vào nền kinh tế thế giới. Hiện nay đã có gần 80 quốc gia và vùng lãnh thổ đầu
tư vào Việt Nam với gần 8.000 dự án và tổng số vốn đăng ký trên 70 tỷ USD, riêng năm

2006 Việt Nam đã thu hút được 10,2 tỷ USD vốn FDI, tăng 50% so với 2005. Năm 2007,
con số này là gần 13 tỉ USD. Kim ngạch xuất khẩu tăng 20%/năm liên tục trong nhiều năm
qua, giá trị kim ngạch xuất khẩu năm 2006 tương đương trên 60% GDP của cả nước.
Bảng : Tăng trưởng GDP từ năm 1995-2007
năm 1995 1996 1997 1998 1999 2000 2001 2002 2003 2004 2005 2006
GDP
(%)

9.54 9.34

8.15

5.76 4.77

6.79 6.89

7.08

7.26

7.96 8.43

8.17

2007
8.5

Nguồn:

2. Tăng trưởng kinh tế đã dựa trên sự chuyển dịch cơ cấu kinh tế - xã hội theo

hướng CNH, HĐH, từng bước hội nhập vào sự phân công của nền kinh tế
khu vực và thế giới
Cơ cấu nền kinh tế đã chuyển dịch theo hướng CNH, HĐH: đó là tỷ trọng trong GDP
của ngành nông – lâm - thuỷ sản đã giảm nhanh từ 38,1% năm 1990 xuống 27,2% năm
1995, 24,5% năm 2000, năm 2005 xuống 20,9%, và đến năm 2006 còn 20,4%; Tỷ trọng
công nghiệp và xây dựng trong GDP đã tăng nhanh, năm 1990 là 22,7%, năm 1995 đã tăng
lên 28,8%, năm 2000 là 36,7%, năm 2005 là 41% và đến năm 2006 đã tăng đến 41,6%; Tỷ
trọng dịch vụ trong GDP chưa biến động nhiều, năm 1990 là 38,6%, năm 1995 là 44,0%,
năm 2000 là 38,8% năm 2005 là 38,07% và đến năm 2006 là 38,08%

SV: Cấn Thị Thanh Phương

14

Lớp: KTPT47B_QN


Đề án môn học

GVHD: Th.S. Nguyễn Quỳnh Hoa

Cơ cấu nền kinh tế đã chuyển dịch tích cực theo hướng mở cửa, hội nhập vào kinh tế
toàn cầu, thể hiện ở tỷ lệ XK/GDP ngày càng tăng, từ 34,7% năm 1992 lên 47% năm 2001
và đến năm 2005 là trên 50%. Tổng KNXK 5 năm 2001-2005 đã đạt 111 tỷ USD, tăng
bình quân 17,5%/năm (kế hoạch 16%/năm), khiến cho năm 2005 bình quân KNXK/người
đã đạt 390 USD/năm, gấp đôi năm 2000. Năm 2006, KNXK tiếp tục đạt mức cao 40 tỷ
USD, tăng 24% so với năm 2005. Năm 2007, KNXK 9 tháng đầu năm đã đạt khoảng 35,2
tỷ USD, tăng 19,4% so với cùng kỳ năm 2006. Tổng KNXK năm 2007 đạt tới 48 tỷ USD,
tăng 20,5% so với cùng kỳ năm 2006, đưa tỷ lệ XK/GDP lên đến 67,4%. Nhiều sản phẩm
của Việt Nam như gạo, cao su, may mặc, giày dép, hải sản... đã có sức cạnh tranh cao trên

thị trường thế giới. Các hoạt động kinh tế đối ngoại khác như đầu tư trực tiếp từ nước
ngoài (FDI), và viện trợ phát triển chính thức (ODA) cũng đều tăng trưởng khả quan, đặc
biệt là vốn FDI đã có bước phát triển tích cực, tăng mạnh từ năm 2004 đến nay. Năm 2001:
vốn FDI vào Việt Nam là 3,2 tỷ USD; tiếp theo, năm 2002: 3,0 tỷ USD; 2003: 3,2 tỷ USD;
2004: 4,5 tỷ USD; 2005: 6,8 tỷ USD; 2006: 10,2 tỷ USD; và 9 tháng đầu năm 2007 đã đạt
9,6 tỷ USD, tăng 38% so với cùng kỳ năm 2006. Theo dự báo của Cục Đầu tư nước ngoài
(Bộ Kế hoạch và Đầu tư Việt Nam), kết thúc năm 2007 này các thủ tục hành chính cấp
phép triển khai thuận lợi, nhanh chóng, kịp với nhu cầu các nhà đầu tư thì có thể vốn FDI
vào Việt Nam sẽ đạt tới con số kỷ lục là 13 tỷ USD).
Cơ cấu lao động cũng chuyển dịch theo hướng tích cực. Nếu như năm 1996, lực
lượng lao động trong ngành nông-lâm-thuỷ sản còn chiếm đa số lực lượng lao động xã hội
(73%) thì đến năm 2000 giảm xuống còn 68,2% và đến năm 2006 còn khoảng 56,8%; Tỷ
lệ lao động công nghiệp năm 1996 là 11,2%, năm 2000 là 12,1%, năm 2006 khoảng
17,9%; Tỷ lệ lao động trong các ngành dịch vụ năm 1996: 15,6%, năm 2000: 19,7, năm
2006: 25,3%.
Cơ cấu thành phần kinh tế tiếp tục chuyển dịch theo hướng phát huy tiềm năng của
các thành phần kinh tế và đan xen nhiều hình thức sở hữu. Kinh tế nhà nước đang được tổ
chức lại, đổi mới, chiếm 38,4% GDP vào năm 2006 và đang chi phối nhiều ngành kinh tế
then chốt. Kinh tế dân doanh phát triển khá nhanh, chiếm 45,7% GDP, đóng góp quan
trọng cho phát triển kinh tế - xã hội, nhất là giải quyết việc làm và cải thiện đời sống nhân
dân; trong đó kinh tế hợp tác và HTX phát triển khá đa dạng, chiếm 6,8% GDP. Kinh tế có
vốn đầu tư nước ngoài có tốc độ tăng trưởng khá cao, đóng góp 15,9 % GDP của cả nước
năm 2006

SV: Cấn Thị Thanh Phương

15

Lớp: KTPT47B_QN



Đề án môn học

GVHD: Th.S. Nguyễn Quỳnh Hoa

3. Tăng trưởng và phát triển kinh tế đã đưa đến nâng cao trình độ và chất lượng
sống của các tầng lớp dân cư.
Việc đánh giá trình độ và chất lượng dân sinh của các quốc gia, lãnh thổ có thể được
căn cứ vào nhiều tiêu chí khác nhau, song thông thường có tính phổ biến ngày nay người ta
vẫn dùng tiêu chí chỉ số phát triển con người (HDI) là một thước đo tổng hợp về nhiều khía
cạnh trình độ và chất lượng dân sinh. Theo Báo cáo hàng năm của Liên hiệp quốc, chỉ số
HDI của Việt Nam đã liên tục tăng trong những năm gần đây, từ 0,671 điểm (năm 2000)
đã tăng lên 0,688 điểm (2003), tăng lên 0,704 điểm (2005) và có khả năng đạt tới 0,750
điểm vào năm 2010 như mục tiêu Chiến lược Dân số đã đề ra. Đáng lưu ý là, từ năm 1995
đến nay, xếp hạng HDI của Việt Nam trong khu vực đã được nâng lên từ thứ bậc 7 lên thứ
bậc 6; ở Châu Á từ thứ bậc 32 lên thứ bậc 28 và trên thế giới từ thứ bậc 122 lên thứ bậc
108 so vớí 177 nước trên thế giới.
Để thấy rõ một cách chi tiết về trình độ và chất lượng sống của các tầng lớp dân cư
Việt Nam đã ngày càng nâng cao hơn, nên xem xét tổng thể các tiêu chí cơ bản sau đây:
+) Đời sống các tầng lớp nhân dân tiếp tục được cải thiện. Thu nhập GDP bình
quân/người của cả nước đã tăng từ 5,7 triệu đồng năm 2000 lên trên 10 triệu đồng năm
2005, tương đương 640 USD (tăng 12,1%/năm và 1,75 lần sau 5 năm). Năm 2007, ước
tính đạt 835 USD.
+)Tuổi thọ bình quân của người Việt Nam tăng từ 65,2 tuổi năm 1995 lên 70 tuổi
năm 2003 và lên 71,5 tuổi năm 2005.
+) Xếp hàng chỉ số giới của Việt Nam cao hơn xếp hạng về HDI và GDP bình quân
đầu người, đứng thứ 89 trên 144 nước năm 2005
+)Công tác chăm sóc sức khoẻ cộng đồng có nhiều tiến bộ
+) Sự nghiệp phát triển giáo dục - tạo có bước phát triển mạnh. Năm 2000, cả nước
đã đạt chuẩn quốc gia về xóa nạn mù chữ và phổ cập giáo dục tiểu học, đến năm 2005, có

31/64 tỉnh, thành phố đạt chuẩn quốc gia về phổ cập giáo dục trung học cơ sở. Tỷ lệ người
lớn biết chữ đạt 94%, trong khi đó trung bình của thế giới là 79%, các nước thu nhập thấp
là 61%, các nước thu nhập trung bình là 90%, các nước châu Á – Thái Bình Dương là
90%. Đến hết năm 2006, số học sinh đi học bậc tiểu học đạt 97,5%, số học sinh trung học
chuyên nghiệp tăng 15,1%/năm, dạy nghề dài hạn tăng 12%/năm, sinh viên đại học và cao
đẳng tăng 8,4%/năm. Cơ sở vật chất các cơ sở giáo dục và đào tạo ở các cấp được tăng

SV: Cấn Thị Thanh Phương

16

Lớp: KTPT47B_QN


Đề án môn học

GVHD: Th.S. Nguyễn Quỳnh Hoa

cường. Nhiều tỉnh đã xây dựng được trường chuẩn quốc gia. Đầu tư cho giáo dục và đào
tạo tăng lên. Năm 2007, chi cho giáo dục và đào tạo đã đạt tới 18% tổng chi ngân sách nhà
nước.
+) Đời sống văn hoá không ngừng nâng cao. Tính đến năm 2006, đã có khoảng 95%
số hộ được nghe Đài tiếng nói Việt Nam, 90% số hộ được xem truyền hình Việt Nam.
Đáng lưu ý, có nhiều vùng sâu, vùng xa, vùng đồng bào các dân tộc thiểu số đã được phủ
sóng phát thanh, truyền hình. Đến năm 2007, đã có 650 cơ quan báo chí, vớí 713 ấn phẩm,
có70 tờ báơ điện tử và hàng trăm ngàn trang tin điện tử. Các hoạt động văn hoá, nghệ
thuật, thể dục, thể thao đều tiếp tục phát triển mạnh, cơ sở vật chất được tăng cường. Nước
ta dã tổ chức hành công Đại hội thể thao Đông Nam Á lần thứ 22 và Đại hội thể thao của
người khuyết tật Đông Nam Á lần thứ 2, gây ấn tượng tốt trong khu vực và quốc tế.


4. Tăng trưởng và phát triển kinh tế đi đôi với giải quyết việc làm, gắn liền với
tiến bộ và công bằng xã hội.
Đời sống nhân dân đã được cải thiện rõ rệt, thể hiện ở thu nhập GDP bình quân đầu
người nước ta đã không ngừng tăng lên, từ 220 USD những năm đầu thập niên 90 của thế
kỷ XX, đã tăng lên 400 USD năm 2000, tăng 1,8 lần, 483 USD năm 2003, đến năm 2005
đã là 640 USD, và đến năm 2007 là 835 USD. Đáng lưu ý là công tác xoá đói giảm nghèo
đã đạt kết quả rất khả quan, được cộng đồng quốc tế đánh giá cao. Là một trong những
quốc gia có kết quả giảm tỷ lệ đói nghèo tốt nhất. đến cuối năm 2006, tỷ lệ hộ nghèo theo
chuẩn cũ còn 7% (kế hoạch là 10%; năm 2001 là 17,5%). Theo Báo cáo của Chính phủ do
Thủ tướng Nguyễn Tấn Dũng trình bày tại kỳ họp thứ 12, Quốc hội khoá XII (Nhân dân,
23/10/2007), đến nay đã có gần 4 triệu hộ nghèo và 1,7 triệu người có hoàn có hoàn cảnh
khó khăn được tiếp cận với nguồn vốn thuộc 10 chương trình tín dụng ưu đãi của Nhà
nước, góp phần giảm tỷ lệ hộ nghèo từ 18% năm 2006 xuống còn 14,7% (theo chuẩn mới)
năm 2007. Theo đánh giá của Liên hợp quốc, Việt Nam đã hoàn thành Mục tiêu Thiên niên
kỷ xoá đói nghèo đến năm 2015 trước 10 năm

SV: Cấn Thị Thanh Phương

17

Lớp: KTPT47B_QN


Đề án môn học

GVHD: Th.S. Nguyễn Quỳnh Hoa

II. Thực trạng về tác động của chuyển dịch cơ cấu ngành kinh tế đến
tăng trưởng giai đoạn 1996 đến nay
1. Những thành tựu đã đạt được

1.1. Cơ cấu ngành kinh tế dần chuyển dịch theo hướng CNH-HĐH
Nếu như trước thời kỳ đổi mới một trong những một trong những khiếm khuyết lớn
của tư duy cũ, của cơ chế kế hoạch hoá tập trung,quan liêu,bao cấp là cố gắng hình thành
nên cơ cấu ngành kinh tế dựa trên ý chí chủ quan, bất chấp quy luật, kéo theo tình trạng
đầu tư lãng phí, kinh tế Việt Nam chủ yếu là nông nghiệp. Sau đổi mới, nhất là từ thập kỷ
90 trở lại đây, cùng với những thành tích tăng trưởng kinh tế cao, chuyển dịch cơ cấu
ngành kinh tế vĩ mô cũng ngày càng thể hiện rõ xu hướng tiến bộ. Với những chính sách
phát triển nhiều thành phần, đa dạng hoá, đa phương hoá nền kinh tế đã thúc đẩy các hoạt
động CN, XD, đặc biệt các hoạt động thương mại, DV phát triển với tốc độ nhanh đã góp
phần chuyển dịch cơ cấu kinh tế theo hướng CN hoá. Trong khi giá trị tuyệt đối của sản
xuất nông nghiệp tiếp tục tăng thì tỷ trọng nông nghiệp trong GDP ngày càng giảm, thể
hiện ở bảng:
Năm
GDP
N-L-TS
CN-XD
DV

1990
100.0
38,74
22,67
38,59

1995
100.0
27,18
28,76
44,06


1997
100.0
25,77
32,08
42,15

(Đơn vị tính: %)
2000
2001
2002
2003
2004
2005
100.0 100.0 100.0
100.0 100.0 100.0
24,53 23,24 23,03
22,54 21,8
20,9
36,73 38,13 38,49
39,47 40,2
41,0
38,73 38,63 38,48
37,99 38,0
38,1
Nguồn: Tổng hợp số liệu của Tổng cục Thống kê

Xét trong từng ngành kinh tế, chuyển dịch cơ cấu ngành nông nghiệp có nhiều bước
tiến bộ, đi đúng hướng, đã khai thác được lợi thế cây, con và vùng lãnh thổ, góp phần thúc
đẩy sản xuất, xuất khẩu phát triển. Trong khi giá trị tuyệt đối của sản xuất nông nghiệp tiếp
tục tăng, thì tỷ trọng nông nghiệp trong GDP ngày càng giảm (xem bảng). Trong ngành

nông nghiệp, tỷ trọng giá trị sản xuất trong lĩnh vực chăn nuôi tăng từ 19,3% (năm 2000)
lên đến 21,6% (năm 2004) và 23,4% (năm 2005); còn tỷ trọng trong trồng trọt lại giảm từ
78,2% (năm 2000) xuống còn 75,4% (năm 2003), nhưng tăng nhẹ tới 76,3% (năm 2004) và
74,5% (năm 2005). Điều đó thể hiện, nông nghiệp của nước ta đã từng bước phát triển theo
một cơ cấu tiên tiến. Trong trồng trọt diện tích trồng lúa giảm dần để tăng diện tích trồng
các loại cây có giá trị kinh tế cao hơn (như cây công nghiệp ngắn ngày: bông, mía, đậu
tương..., cây công nghiệp lâu năm: chè, cao su, hạt tiêu, cây ăn quả...), song vẫn bảo đảm
được an ninh lương thực quốc gia và tăng xuất khẩu gạo một cách đáng kể, phản ánh sự

SV: Cấn Thị Thanh Phương

18

Lớp: KTPT47B_QN


Đề án môn học

GVHD: Th.S. Nguyễn Quỳnh Hoa

chuyển dịch cơ cấu cây trồng trong nông nghiệp ngày càng đáp ứng đúng nhu cầu của thị
trường và có hiệu quả hơn.
Đặc biệt thực hiện chủ trương chuyển dịch cơ cấu kinh tế của Đảng và Nhà nước,
những năm gần đây đã có sự chuyển mạnh một phần diện tích trồng lúa có năng suất, hiệu
quả thấp sang nuôi trồng thủy sản (tập trung nhiều ở vùng đồng bằng sông Cửu Long và
duyên hải Nam Trung Bộ), nhờ vậy đã góp phần tích cực chuyển dịch cơ cấu kinh tế nông
nghiệp, nâng cao đời sống cho nông dân.
Cơ cấu công nghiệp có sự chuyển dịch khá, nhất là giai đoạn từ năm 1998 đến nay.
Tỷ trọng ngành công nghiệp - xây dựng tăng từ 32,08% GDP (năm 1997) lên tới 36,73%
(năm 2000) và 41,0% (năm 2005). Trong ngành công nghiệp sự tăng nhanh của tỷ trọng

ngành công nghiệp chế biến (từ 78,7% năm 2000 lên tới 81,23% năm 2004 tính theo giá
thực tế) và sự giảm tỷ trọng của công nghiệp khai thác mỏ (từ 15,7% xuống còn 12,8%),
tăng tỷ trọng của công nghiệp sản xuất và phân phối điện, ga, nước (từ 5,6% lên 5,9%)
trong thời kỳ tương ứng đã phản ánh sự chuyển dịch cơ cấu đúng hướng. Nếu xét theo tiêu
thức công nghệ, càng thấy rõ hơn xu hướng chuyển dịch cơ cấu trong ngành công nghiệp
những năm qua là tích cực, theo hướng công nghiệp hóa, hiện đại hóa và phù hợp với điều
kiện thực tế của nước ta. Bởi, các ngành công nghiệp có công nghệ cao ngày càng được
mở rộng và phát triển nhanh, tạo ra những sản phẩm tiêu dùng có giá trị cao, đáp ứng nhu
cầu tiêu dùng ngày một nâng lên ở trong nước và tham gia xuất khẩu, như ô-tô, sản phẩm
điện tử, tàu thủy... Các ngành có trình độ công nghệ trung bình và thấp phát triển ở tốc độ
trung bình và thấp để sản xuất sản phẩm phù hợp với nhu cầu tiêu dùng chưa quá khắt khe
của thị trường trong nước, cũng như nhằm duy trì cung cấp những sản phẩm thông thường
thiết yếu cho nhân dân.
Trong lĩnh vực dịch vụ, đã có bước phát triển nhảy vọt cả về chất và lượng, nhất là từ
thập niên 90 trở lại đây. Tuy nhiên, tốc độ tăng trưởng của lĩnh vực này lại không đều qua
các thời kỳ khác nhau, thể hiện nổi bật qua việc tăng nhanh của ngành dịch vụ trong thời
kỳ 1990 - 1995, sau đó liên tục bị giảm sút và chỉ có dấu hiệu phục hồi nhẹ trong một vài
năm gần đây. Điều đó khiến tỷ trọng của ngành dịch vụ trong GDP, sau khi tăng tương đối
mạnh trong thời kỳ 1990 - 1995 (năm 1995 đạt 44,06%) đã liên tục bị giảm: năm 1996 còn
42,51%; năm 1997 còn 42,15%; năm 1998 còn 41,73%; năm 1999 còn 40,08% và năm
2005 còn 38,1%

SV: Cấn Thị Thanh Phương

19

Lớp: KTPT47B_QN


Đề án môn học


GVHD: Th.S. Nguyễn Quỳnh Hoa

1.2. Công cuộc đổi mới và chuyển dịch cơ cấu tạo cho nền kinh tế mức tăng trưởng
ngày càng cao
Công cuộc đổi mới và chuyển dịch cơ cấu vừa qua đã tạo cho nền kinh tế từ mức
tăng trưởng 4% năm 1987 lên 9% năm 1996, 8,5% năm 2005. Cuối cùng năm 1997 nền
kinh tế gặp khó khăn song ước vẫn đạt 8-9%. Mức thu nhập bình quân đầu người tăng
5%/năm, từ 100 USD năm 1987 lên 300 USD năm 1996 và 545 USD năm 2004. Tốc độ
tăng trưởng cao nhất thuộc về khối ngành công nghiệp (9-16%/năm), tiếp đến là dịch vụ
(7-8%/năm), nông nghiệp là ngành đặc trưng, khoảng 4,8%. Nếu so sánh các nước có tôc
độ tăng trưởng như vừa qua có thể xem là thành tựu đáng kể (xem biểu đồ )
Biểu đồ : Tốc độ tăng trưởng GDP và các khu vực kinh tế (%)

Nông nghiệp hiện nay chiếm khoảng 21- 22% GDP, đã vượt qua tình trạng thiếu
lương thực và trở thành nươc xuất khẩu thưc 3 thế giới. Sau khi giải quyết tốt về lương
thực, thực phẩm, cơ cấu nông nghiệp được chuyển hướng mạnh sang phát triển cây công
nghiệp điển hình là tốc độ gia tăng cây Cà phê, cao su năm 1996. Hải sản và các ngành
nông nghiệp phi truyền thống tiếp tục phát triển mạnh mẽ.
Công nghiệp chiếm khoản 37 – 38%GDP và luôn dẫn đầu tăng trưởng và ở mức 1316% trong thời gian qua. Tăng trưởng của công nghiệp chủ yếu do đầu tư của các doanh
nghiệp có đầu tư nước ngoài, những năm gần đây biến đổi thất thường, năm 2002 là
14,5%, năm 2003 là 10,34%; năm 2004-2005 là 16%
Dịch vụ: chiếm khoảng 42% GDP và hiện nay tiếp tục tăng. Khu vực ngân hàng,
giao thông vận tải và các dịch vụ liên quan là khu vực phát triển mạnh nhất; dịch vụ máy
tính bảo hiểm, thương mại, kiểm toán, thanh toán cũng phát triển tương đối tốt. Tuy nhiên,
dịch vụ tài chính, luật pháp, quản lý, nghiên cứu và triển khai và dịch vụ công nghiệp cơ
khí còn bị hạn chế.

SV: Cấn Thị Thanh Phương


20

Lớp: KTPT47B_QN


Đề án môn học

GVHD: Th.S. Nguyễn Quỳnh Hoa

1.3. Đóng góp của các ngành công nghiệp và dịch vụ vào tốc độ tăng trưởng kinh tế
chiếm tỷ trong cao
Qua số liệu ước tính cả năm 2006, hầu hết các chỉ tiêu báo cáo ra Quốc hội đều đạt
và vượt. Nền kinh tế duy trì được mức tăng trưởng khá, tăng gần 8,2%. Nhiều ngành, lĩnh
vực tiếp tục phát triển, góp phần vào tăng trưởng chung: giá trị sản xuất toàn ngành công
nghiệp tăng 17%, cao hơn mức kế hoạch; chất lượng và khả năng cạnh tranh của một số sản
phẩm công nghiệp được nâng cao; các ngành dịch vụ phát triển khá, nhất là thương mại bán
lẻ; hoạt động viễn thông được mở rộng, đáp ứng yêu cầu của sản xuất và đời sống nhân
dân.
Kết quả thực hiện các chỉ tiêu chủ yếu trong năm 2006 như sau:
Đơn vị tính: %
Chỉ tiêu
1. Tốc độ tăng tổng sản phẩm trong nứơc (GDP)
Trong đó:
Nông, lâm, thuỷ sản
Công nghiệp, xây dựng
Dịch vụ
2. Tốc độ tăng giá trị sản xuất
Trong đó:
Nông, lâm, thuỷ sản
Công nghiệp, xây dựng

3. Cơ cấu ngành kinh tế theo GDP
Trong đó:
Nông, lâm, thuỷ sản
Công nghiệp, xây dựng
Dịch vụ
4. Cơ cấu ngành kinh tế theo lao động
Trong đó:
Nông, lâm, thuỷ sản
Công nghiệp, xây dựng
Dịch vụ

Năm 2005
8,4

Năm 2006
8,17

4,0
10,6
8,5

3,4
10,37
8,29

4,9
17,2

4,4
17,0


20,89
41,04
38,07

20,40
41,52
38,08

56,8
17,9
25,3

55,7
19,1
25,2

(1) Sản xuất công nghiệp tiếp tục tăng trưởng khá.
Cả năm 2006, giá trị sản xuất công nghiệp đạt 490,8 nghìn tỷ đồng, tăng 17% so với
năm trước (năm 2005 tăng 17,2%); trong đó khu vực doanh nghiệp nhà nước tăng 9,1%
(Trung ương tăng 11,9%, địa phương tăng 2%), khu vực ngoài quốc doanh tăng 23,9%,
khu vực có vốn đầu tư nước ngoài tăng 18,8%.

SV: Cấn Thị Thanh Phương

21

Lớp: KTPT47B_QN



Đề án môn học

GVHD: Th.S. Nguyễn Quỳnh Hoa

Trong năm 2006, các sản phẩm chiếm tỷ trọng lớn trong ngành công nghiệp đạt mức
tăng trưởng cao so với năm trước là: than sạch tăng 18,7%, thủy sản chế biến tăng 17,2%;
thuốc ống các loại tăng 17%; xà phòng các loại tăng 17,9%; sứ vệ sinh tăng 17,3%; xe máy
các loại tăng 16,9%;...
Tốc độ tăng giá trị sản xuất công nghiệp của nhiều địa phơng khá tốt, có tới 10/15
tỉnh, thành phố có tỷ trọng lớn duy trì được tốc độ tăng trưởng công nghiệp cao so với năm
trước như thành phố Hà Nội tăng 16,6%; Hải Phòng tăng 18,1%; Vĩnh Phúc tăng 25,6%;
Bình Dương tăng 25,3%; Hà Tây tăng 23,3%; Hải Dương tăng 23,2%; Đồng Nai tăng
22%; Cần Thơ tăng 22%; Quảng Ninh tăng 18%; Khánh Hòa tăng 16,1%...
(2) Sản xuất nông nghiệp
Mặc dù năm 2006 có nhiều khó khăn do bão lũ, mưa đá; dịch bệnh... nhưng sản xuất
nông, lâm, ngư nghiệp tiếp tục phát triển. Quá trình chuyển dịch cơ cấu cây trồng, nâng
cao năng suất, chất lượng, hiệu quả sản xuất tiếp tục được đẩy mạnh. Giá trị sản xuất toàn
ngành tăng 4,4%, trong đó: nông nghiệp tăng 3,6% (trồng trọt tăng 2,7%, chăn nuôi tăng
7,3%, dịch vụ tăng 2,7%); lâm nghiệp tăng 1,2% và thủy sản tăng 7,7% (nuôi trồng tăng
13%, khai thác tăng 0,1%).
(3) Lĩnh vực dịch vụ tiếp tục phát triển
Khu vực dịch vụ năm 2006 duy trì được mức tăng trưởng khá, giá trị tăng thêm ước
đạt 8,29%. Một số ngành dịch vụ tiếp tục duy trì được mức tăng trưởng cao hơn so với
năm 2005, nh khách sạn, nhà hàng tăng 12,42%; vận tải, bưu chính - viễn thông, du lịch
tăng 10,13%; thương nghiệp tăng khoảng 8,55%; giáo dục đào tạo tăng 8,42%; tài chính,
ngân hàng, bảo hiểm tăng 8,18%... Tỷ trọng khu vực dịch vụ trong GDP tăng chút ít so với
năm 2005, chiếm 38,08% GDP.
1.4. Cơ cáu kinh tế đã chuyển dịch dần theo hướng hướng vào xuát khẩuđòng thời
thay thế nhập khẩu
Trong mấy năm trở lại đây, tốc độ tăng xuất khẩu bất ngờ và ngoạn mục (xem biểu

đồ ).
Biểu đồ : Kim ngạch xuất khẩu qua các năm giai đoạn 1991-2004
Đơn vị: tỷ USD

SV: Cấn Thị Thanh Phương

22

Lớp: KTPT47B_QN


Đề án môn học

GVHD: Th.S. Nguyễn Quỳnh Hoa

Song tỷ lệ kim ngạch xuất khẩu thô vẫn còn cao, năm 2003 là 49,5%. Hàng nhập
khẩu quan trọng là nhiên liệu, sắt thép, phân bón, linh kiện điện tử, phụ tùng ô tô, xe máy...
Trong những năm vừa qua nền kinh tế Việt Nam vẫn mang nặng tính chất hướng nội,
thay thế nhập khẩu nhưng về mặt chủ trương và biện pháp thực hiện đã coi trọng hướng
vào xuất khẩu. Từ năm 1991 đến năm 2004 bình quân kim ngạch xuất khẩu đạt 16, 9 tỷ
USD. Năm 2003 kim ngạch xuất khẩu đạt 20, 176 tỷ USD. Năm 2004 xuất khẩu đạt 26 tỷ
USD vượt kế hoạch 15,2% và tăng 23,1% so với 2004
Cơ cấu hàng xuất khẩu biến đổi theo hướng tăng chút ít tỷ lệ hàng công nghiệp nhẹ,
tiểu thủ công nghiệp, hàng công nghệ và khoáng sản.
Tóm lại, cơ cấu kinh tế của Việt Nam trong những năm vừa qua đã có sự chuyển
dịch đúng hướng, đẩy nhanh hội nhập và nâng cao hiệu quả sản xuất kinh doanh, đồng thời
phù hợp với quá trình phát triển, cụ thể là tiến trình công nghiệp hoá, hiện đại hoá.

2. Những bất cập còn tồn tại
Tuy các kế hoạch đã được thực hiện gần sát về phương diện các con số. Nhưng nói

chung, chuyển dịch còn chậm là điểm cần lưu ý. Đặc biệt là về dịch vụ,giá trị tuyệt đối tuy
vẫn tăng nhưng không rõ nét dẫn đến tỷ trọng lại có xu hướng giảm trong khi kế hoạch và
xu hướng chung đòi hỏi phải có sự tăng lên của ngành này. Điều đáng lo ngại là tỷ trọng
của một số ngành dịch vụ quan trọng trong cơ cấu của lĩnh vực dịch vụ và trong cơ cấu
GDP còn thấp như ngành tài chính - ngân hàng, khoa học - công nghệ, vận tải, viễn thông,
dịch vụ kinh doanh. Và, mặc dù đã xuất hiện một số ngành dịch vụ mới trong lĩnh vực dịch
vụ, nhưng nhìn chung tỷ trọng của khu vực dịch vụ trong cơ cấu nền kinh tế của nước ta
vẫn còn thấp so với các nước trong khu vực, biểu hiện một sự chuyển dịch cơ cấu kinh tế
chưa hiệu quả và theo hướng hiện đại.

SV: Cấn Thị Thanh Phương

23

Lớp: KTPT47B_QN


Đề án môn học

GVHD: Th.S. Nguyễn Quỳnh Hoa

Sự chuyển dịch trong cơ cấu nông thôn cũn ch?m bởi vì chưa theo được thị hiếu của
khách hàng bởi xản xuất cũ lạc hậu, hình thức sản xuất chủ yếu vẫn là thâm canh phụ thuộc
nhiều vào thiên nhiên. một số nghành công nghiệp còn sử dụng máy móc thô sơ cũ kỹ
chính vì vây mà năng suất lao động không cao, vấn đề sức khoẻ của ncông nhân không
được đảm bảo, mức độ ô nhiễm cao do các nhà máy thải ra.
Vấn đề huy động vốn còn ở mức thấp số vốn huy động được ở trong và ngoài nước
còn ít nên việc mở thêm cacs công ty liên doanh, các doanh nghiệp còn ở mức hạn chế
Trong quá trình quản lý, điều hành đó bộc lộ sự yếu kém, còn nhiều các kẽ hở để
một số cans bộ suy thoái về phẩm chất đạo đức vẫn còn nàm trong hang ngũ của Đảng lợi

dụng kẽ hở để đục khoét của nhà nước
Mặc dù đất nước ta dồi dào về nguồn lao động nhưng số lao động có tay nghề còn ít,
số còn lại tập chung chủ yếu ở vùng nông thôn. Mặt khác số người có trình độ đại học, cao
đẳng, trung học chuyên nghiệp còn hạn chế nên việc tiếp thu khoa học kỹ thuật còn chậm
- Một số nghành như nông nghiệp, công nghiệp vẫn chưa áp dung khoa học kỹ thuật
hiện đại nên năng xuất lao động còn thấp.
- Hàng năm tỷ lệh hang xuất khẩu còn thấp hơn nhiều xo với nhập khẩu đặc biệt là
sản phẩm của một ó nghành công nghiệp nặng, công nghiệp khai khoáng, dầu mỏ…
+ Sự phân hoá giàu nghèo trong xã hội vẫn còn tồn tại tỷ lệ trênh lệch thu nhập giưuã
thành thị so nông thôn còn cao, vấn đề đưa thành thị về nông thôn còn chậm
+ Kết cấu hạ tầng phục vụ sẩn xuất và đời sống của một số vùng đặc biệt là vùng xâu
vùng xa, vùng nông thôn còn gặp nhiều khó khăn. Tỷ lệ thất nghiệp các vùng nông thôn
cao hệ thống đường - trường – trạm còn chưa tới một số vùng miền núi.
+ Tuy ý thức về kế hoạch hoá gia đình còn tiến bộ rõ rệt nhưng một số vùng miền núi
thì vấn đề trên còn hết sức hạn chế hạn chế vì vẫn tồn tại những quan điểm cổ hủ lạc hậu
Vậy bên cạnh vấn đề chúng ta đã đạt được thì còn rất nhiều nững vấn đề chúng ta cần
giải quyết ngay. Để từng bước chúng ta thoát khỏi tình trạng kém phát triển như hiện nay.
Tóm lại, quá trình chuyển dịch cơ cấu ngành kinh tế của nước ta thời gian qua về cơ
bản mới thực sự chỉ mang ý nghĩa tạo công ăn việc làm, nâng cao thu nhập đời sống cho
nhân dân, nhưng hiệu quả và sự góp phần vào đẩy mạnh hoạt động xuất khẩu vẫn còn
nhiều hạn chế. Vì vậy, thời gian tới, cần có những biện pháp tích cực để tăng tỷ trọng của
ngành công nghiệp, dịch vụ trong cơ cấu nền kinh tế quốc dân và cơ cấu xuất khẩu. Phát
SV: Cấn Thị Thanh Phương

24

Lớp: KTPT47B_QN


Đề án môn học


GVHD: Th.S. Nguyễn Quỳnh Hoa

triển công nghiệp chế biến, trước hết liên quan đến những sản phẩm nông nghiệp, đồng
thời cố gắng tạo ra những sản phẩm công nghiệp xuất khẩu "mũi nhọn", có hàm lượng
công nghệ cao, mở rộng xuất khẩu các loại dịch vụ.

3. Nguyên nhân
Trình độ và tích chất phát triển công nghiệp còn thấp so với thế giới và khu vực.
Thiếu chiến lược và quy hoạch cụ thể có đủ luận chứng kinh tế kỹ thuật có tính khả
thi làm cơ sở cho định hướng phát triển.
Cơ cấu ngành chưa có sự kết hợp chặt chẽ theo mục tiêu thống nhất với cơ cấu theo
thành phần. Ngoài ra, tính tự phát trong phát triển kinh tế còn nặng nề.
Do nguồn lực tài chính hạn hẹp và sự phân bố thiếu hợp lý của nguồn lực này làm
cho sự chuyển dịch cơ cấu kinh tế chưa rõ nét và hợp lý để hình thành lên các ngành trọng
điểm mũi nhon.
Tóm lại, trực trạng chuyển dịch cơ cấu kinh tế ở nước ta thời gian qua tuy đã đạt
được các thành tựu, góp phần tạo đà tăng trưởng kinh tế nhanh và tương đối ổn định. Song
cũng phát sinh nhiều vấn đề cần được tiếp tục tháo gỡ, nhất là trong điều kiện hội nhập với
nền kinh tế khu vực và quốc tế.

SV: Cấn Thị Thanh Phương

25

Lớp: KTPT47B_QN


×