Tải bản đầy đủ (.pdf) (20 trang)

SKKN hướng dẫn học sinh khai thác tranh ảnh, lược đồ trong sách giáo khoa lịch sử lớp 10, 11 theo hướng tích cực ở trường THPT

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (1.01 MB, 20 trang )

Sáng kiến kinh nghiệm

THPT Nguyễn Hữu Cảnh

Tên đề tài:
HƯỚNG DẪN HỌC SINH KHAI THÁC TRANH ẢNH, LƯỢC ĐỒ
TRONG SÁCH GIÁO KHOA LỊCH SỬ LỚP 10, 11
THEO HƯỚNG TÍCH CỰC Ở TRƯỜNG TRUNG HỌC PHỔ THÔNG
*****************
I. LÝ DO CHỌN ĐỀ TÀI
Cùng với sự phát triển của đất nước, nền giáo dục Việt Nam đang từng bước
được đổi mới đúng như Chủ tịch Hồ Chí Minh đã nói “Vì lợi ích mười năm
trồng cây, vì lợi ích trăm năm trồng người”. Đảng ta đã xác định giáo dục là
“quốc sách hàng đầu”. Thực hiện mục tiêu giáo dục “nâng cao dân trí, đào tạo
nhân lực, bồi dưỡng nhân tài”. Ngày nay khi nước ta đang bước vào thời kỳ công
nghiệp hoá, hiện đại hoá đất nước, công cuộc đổi mới đề ra những yêu cầu mới
đối với hệ thống giáo dục, phải “xác định lại mục tiêu, thiết kế lại chương trình,
kế hoạch, nội dung, phương pháp giáo dục và đào tạo”. Sự đổi mới về mục tiêu,
nội dung dạy học đòi hỏi có những đổi mới về phương pháp dạy học.
Trong những năm gần đây việc đổi mới phương pháp dạy học theo hướng
lấy học sinh làm trung tâm người thầy chỉ giữ vai trò tổ chức, hướng dẫn giúp
học sinh tích cực chủ động tìm tòi, khám phá, lĩnh hội kiến thức mới song song
với việc hình thành các kỹ năng cơ bản. Với đặc trưng của bộ môn Lịch sử thì
việc đổi mới phương pháp dạy học là vô cùng cần thiết và cấp bách, bởi vì ngoài
việc cung cấp cho học sinh những kiến thức cơ bản và bổ ích thì giáo viên cũng
phải hình thành cho các em những khái niệm cơ bản. Đồng thời giáo viên giúp
học sinh nhận thức đúng về những chặng đường phát triển của lịch sử thế giới
cũng như của lịch sử dân tộc. Qua đó giúp các em có những nhận thức đúng về
lịch sử và vai trò của bộ môn. Lịch sử là bộ môn khoa học xã hội chuyên nghiên
cứu tìm hiểu về những gì đã diễn ra trong quá khứ, yêu cầu học sinh phải có sự
tư duy, phân tích, so sánh để nắm được những nội dung kiến thức cơ bản. Do đó


hiểu được một vấn đề lịch sử là rất khó và phức tạp.
Qua quá trình giảng dạy lịch sử ở trường THPT hiện nay tôi nhận thấy một
bộ phận không nhỏ giáo viên chưa xác định đúng về việc đổi mới phương pháp
dạy học theo hướng lấy học sinh làm trung tâm. Không ít giáo viên vẫn chỉ áp
dụng phương pháp dạy học truyền thống, nghĩa là giáo viên lo truyền đạt hết
những nội dung trong sách giáo khoa còn học sinh cố gắng chép được những nội
dung mà thầy cô đọc cho chép. Giáo viên và học sinh gần như quên những tranh
GV: Lục Kim Thuyên

1


Sáng kiến kinh nghiệm

THPT Nguyễn Hữu Cảnh

ảnh, lược đồ của bài học, chỉ chú trọng đơn thuần đến kênh chữ trong sách giáo
khoa. Do đó trong thực tế giảng dạy giáo viên chưa phát huy được tính tích cực,
chưa gây được hứng thú của học sinh. Vì thế đổi mới phương pháp sử dụng thiết
bị dạy học Lịch sử và khai thác tích cực tranh ảnh, lược đồ trong sách giáo khoa
ở trường THPT là việc làm vô cùng cần thiết để thông qua đó giáo viên dễ hình
thành khái niệm lịch sử cho học sinh hoặc giúp các em nhớ lâu, nhớ kỹ được
những nội dung của bài.
Về phía học sinh, phần lớn các em chưa chú tâm học tập bộ môn, nhiều em
vẫn cho rằng đây là môn học phụ chỉ cần học thuộc lòng những gì thầy, cô cho
ghi là đủ không cần hiểu được bản chất và ý nghĩa giáo dục của sự kiện đó như
thế nào. Vì nhận thức như vậy do đó kết quả kiểm tra của các em còn rất thấp,
hầu như kiến thức các em nắm được rất hời hợt, và đặc biệt hầu như các em chưa
có khả năng tư duy về lịch sử. Đánh giá qua kết quả thi Đại học, cao đẳng năm
học vừa qua, năm 2010 – 2011, điểm thi môn Lịch sử của học sinh là rất thấp,

cho thấy việc học sinh nắm bắt và nhận thức nội dung lịch sử còn rất hạn chế.
Xuất phát từ tình hình thực tế như vậy, tôi nhận thấy đối với mỗi giáo viên
cần phải nhận thức đúng cùng với việc đổi mới chương trình, sách giáo khoa và
phương pháp dạy học thì việc thay đổi nhận thức của cả giáo viên và học sinh về
sử dụng đồ dùng dạy học là vô cùng cần thiết. Tuy nhiên trong điều kiện hiện tại
đồ dùng dạy học còn thiếu thốn, việc khai thác tranh ảnh - lược đồ, những
phương tiện sẵn có của sách giáo khoa, sao cho hiệu quả cũng là một giải pháp
thiết thực nhằm thực hiện được những mục tiêu bộ môn đề ra và tạo sự hứng thú
cho học sinh trong học tập bộ môn để nâng cao chất lượng dạy và học môn Lịch
sử, vì vậy tôi chọn đề tài sáng kiến kinh nghiệm:
“Hướng dẫn học sinh khai thác tranh ảnh, lược đồ trong sách giáo khoa Lịch
sử lớp 10, 11 theo hướng tích cực ở trường THPT”.
II. TỔ CHỨC THỰC HIỆN ĐỀ TÀI
1. Cơ sở lý luận
Sử dụng và khai thác tích cực tranh ảnh, lược đồ trong sách giáo khoa là
cách thức làm việc phối hợp thống nhất giữa thầy và trò nhằm thực hiện các
nhiệm vụ dạy và học. Để phương pháp này thực hiện được tốt giáo viên phải kết
hợp thuần thục giữa hoạt động học của học sinh và hoạt động dạy của giáo viên.
Phương pháp dạy học bao gồm phương pháp dạy, phương pháp học có liên quan
chặt chẽ với phương pháp khoa học và tâm lý học của sự lĩnh hội kiến thức.
GV: Lục Kim Thuyên

2


Sáng kiến kinh nghiệm

THPT Nguyễn Hữu Cảnh

Sử dụng và khai thác tích cực tranh ảnh, lược đồ trong sách giáo khoa

chính là sự đổi mới trong một khía cạnh của đổi mới phương pháp dạy học. Các
phương pháp dạy học mới đề cao vai trò của học sinh, rèn luyện cho học sinh
phương pháp tự học là chính, nghiên cứu, vận dụng vốn hiểu biết của mình để
tìm hiểu các sự kiện, hiện tượng lịch sử.
Sử dụng và khai thác tích cực tranh ảnh, lược đồ trong sách giáo khoa phải
phát huy được tính tích cực, tự giác, chủ động trong tư duy sáng tạo của người
học, bồi dưỡng năng lực tự học, lòng say mê học tập và ý chí vươn lên của người
học.
Một trong những phương pháp đặc trưng của bộ môn Lịch sử là sử dụng
tranh ảnh, lược đồ trong sách giáo khoa đúng mục đích, yêu cầu của việc nhận
thức nhưng phải tạo được hứng thú, phát huy được tính tích cực học tập của học
sinh. Ở đây người thầy giáo có vai trò đặc biệt quan trọng giúp học sinh sử dụng
đúng, có hiệu quả theo nội dung của bài học. Bởi thiết bị dạy học rất phong phú,
đa dạng và sinh động như: tranh ảnh, sơ đồ, biểu đồ, bản đồ, sa bàn, mẫu vật,
băng hình do đó người thầy phải giúp học sinh khai thác đúng nội dung của
những loại đồ dùng này. Từ đó giúp các em có được sự hứng thú trong học tập
và phát huy được tính sáng tạo, phát triển khả năng tư duy, hình thành các kỹ
năng và bồi dưỡng tình cảm thông qua việc nắm bắt các sự kiện, hiện tượng.
Hơn nữa xuất phát từ thực tiễn dạy và học bộ môn Lịch sử hiện nay, phần
lớn giáo viên và học sinh vẫn quen với phương pháp dạy học cũ, thụ động, chưa
tích cực trong học tập. Cá biệt có khi giáo viên còn để lãng quên một số tranh
ảnh, lược đồ minh hoạ trong bài hoặc có đề cập đến thì chỉ sơ qua chứ chưa khai
thác triệt để theo yêu cầu của bộ môn, học sinh thì không biết bức ảnh đó nói lên
điều gì.
Thực tế hiện nay học sinh còn có những nhận thức chưa đúng về bộ môn
nhiều em còn cho rằng đây là môn “phụ” do đó không phải đầu tư nhiều thời
gian để học. Các em không có phương pháp đúng để học tập bộ môn.
Ngoài ra do cơ sở vật chất phục vụ cho việc dạy và học còn thiếu thốn, đồ
dùng dạy học như tranh ảnh, lược đồ, bản đồ… đã có nhưng không phong phú
cũng là một trong những nguyên nhân khiến giáo viên không chú trọng việc sử

dụng đồ dùng dạy học trong giờ học lịch sử.
2. Nội dung, biện pháp thực hiện
Cùng với đổi mới chương trình, sách giáo khoa và phương pháp dạy học
lịch sử thì việc thay đổi trong nhận thức của giáo viên và học sinh về sử dụng đồ
GV: Lục Kim Thuyên

3


Sáng kiến kinh nghiệm

THPT Nguyễn Hữu Cảnh

dùng dạy học trong đó có việc khai thác lược đồ, tranh ảnh là cần thiết, nhằm
thực hiện những mục tiêu bộ môn đặt ra.
2.1. Mục đích của việc sử dụng và khai thác tích cực của tranh ảnh, lược đồ
trong sách giáo khoa khi dạy học Lịch sử
Khai thác tích cực tranh ảnh, lược đồ trong sách giáo khoa dạy học Lịch sử
nhằm mục đích:
- Hỗ trợ học sinh trong việc cung cấp kiến thức, giảm tính trừu tượng của
nội dung bài học.
- Tạo điều kiện cần thiết cho học sinh thực hành để hình thành và rèn luyện
các kỹ năng cho học sinh.
- Góp phần đổi mới phương pháp dạy học và đổi mới kiểm tra, đánh giá kết
quả học tập của học sinh.
- Trợ giúp cho giáo viên trong việc hướng dẫn học sinh học kiến thức mới,
phát huy tính tìm tòi, khám phá của học sinh.
- Hỗ trợ giáo viên trong việc nâng cao kiến thức, kỹ năng và thiết kế bài dạy
học.
2.2. Yêu cầu của việc sử dụng và khai thác tích cực tranh ảnh, lược đồ trong

sách giáo khoa
Để có thể khai thác tốt những tranh ảnh, lược đồ trong chương trình sách
giáo khoa Lịch sử Khối 10 và 11 người thầy cần lưu ý một số vấn đề như sau:
- Một là: tranh ảnh, lược đồ phải được sử dụng có hiệu quả cao nhất, đáp
ứng các yêu cầu về nội dung và phương pháp được quy định trong chương trình
giáo dục. Học sinh phải hiểu được những vấn đề cơ bản nhất qua các hình ảnh,
lược đồ.
- Hai là: Thực hiện đầy đủ những tiết bài tập lịch sử, bài lịch sử địa phương
được quy định trong chương trình và sách giáo khoa. Đặc biệt giáo viên có thể
kết hợp với địa phương cho học sinh tham quan các di tích lịch sử ở địa phương
của mình.
- Ba là: Sử dụng thành thạo tranh ảnh, lược đồ theo tài liệu hướng dẫn của
nhà sản xuất. Nắm đúng nội dung chính của bài theo yêu cầu.
- Bốn là: Có kế hoạch chuẩn bị trước các đồ dùng tranh ảnh, lược đồ... theo
danh mục thiết bị tối thiểu của Bộ Giáo dục và Đào tạo.
GV: Lục Kim Thuyên

4


Sáng kiến kinh nghiệm

THPT Nguyễn Hữu Cảnh

- Năm là: Giáo viên phải chủ động mua sắm, sưu tầm hoặc tự làm đồ dùng
dạy học cần thiết như tranh ảnh, lược đồ.... Làm sao để nâng cao nhất việc nắm
bắt kiến thức lịch sử của học sinh.
- Sáu là: Giáo viên phải sử dụng thành thạo các loại đồ dùng dạy học trước
giờ lên lớp như tranh ảnh,lược đồ..., tránh tình trạng vừa dạy vừa tìm tòi nghiên
cứu thiết bị dễ dẫn đến tình trạng phản khoa học hoặc không phát huy được tối

đa công năng của đồ dùng.
- Bảy là: Để có thể sử dụng tốt các đồ dùng dạy học và khai thác tích cực
tranh ảnh, lược đồ trong sách giáo khoa, khi lên lớp giáo viên cần:








Chọn lựa những nội dung mang tính thiết thực đối với nội dung bài học,
đồng thời sử dụng và khai thác tối đa các tranh ảnh, lược đồ trong sách
giáo khoa.
Khi soạn bài cũng như khi lên lớp, giáo viên cần phải xây dựng được hệ
thống câu hỏi tương đối chuẩn xác, rõ ràng để học sinh làm việc với các
đồ dùng nhằm lĩnh hội kiến thức, rèn luyện kỹ năng.
Khi lên lớp giáo viên chú ý vị trí đặt tranh ảnh, lược đồ, phải đảm bảo điều
kiện thuận lợi cho tất cả học sinh trong lớp cùng quan sát hoặc các thành
viên trong nhóm đều được làm việc với thiết bị dạy học.
Giáo viên cần giúp học sinh nắm được trình tự các bước làm việc với đồ
dùng dạy học để tìm kiến thức, rèn luyện kỹ năng, phát triển tư duy của
học sinh.

Đồ dùng dạy học môn lịch sử rất phong phú, đa dạng: tranh ảnh, lược đồ,
mẫu vật, băng hình, các di tích lịch sử… Tuy phong phú về chủng loại nhưng
thực tế hiện nay ở các trường trung học phổ thông đồ dùng dạy học môn lịch sử
mới sử dụng chủ yếu là các loại sơ đồ, biểu đồ, lược đồ lịch sử, một số ít tài liệu
tranh ảnh tham khảo. Còn các loại như di tích lịch sử văn hoá, các phiên bản mẫu
vật,… hầu như chưa được sử dụng. Sự hiểu biết của giáo viên về các di tích lịch

sử văn hoá ở địa phương cũng còn rất nhiều hạn chế. Còn nếu học sinh có đi
thực tế tại thực địa thì các em cũng chỉ xem qua rất sơ sài, chưa thấy được hết ý
nghĩa giáo dục của giờ học tại thực địa.
Để việc thực hiện chương trình, sách giáo khoa mới theo yêu cầu phương
hướng đổi mới có hiệu quả, việc sử dụng các đồ dùng dạy học phong phú về
chủng loại là một yêu cầu bắt buộc trong công tác dạy học. Bởi vì, quan niệm về
chức năng, tác dụng của đồ dùng có nhiều đổi mới. Trước đây ta thường quan
GV: Lục Kim Thuyên

5


Sáng kiến kinh nghiệm

THPT Nguyễn Hữu Cảnh

niệm thiết bị dạy học môn Lịch sử chỉ nhằm minh họa làm cho kiến thức trở nên
phong phú, sinh động. Ngày nay ngoài chức năng, tác dụng đó, người ta còn đặc
biệt nhấn mạnh đó là một trong những nguồn nhận thức quan trọng của việc
truyền bá và nhận thức lịch sử. Khai thác triệt để chức năng, tác dụng này sẽ tạo
điều kiện để giáo viên thực hiện tốt việc đổi mới phương pháp soạn giảng. Học
sinh có điều kiện chủ động tích cực tham gia vào quá trình tự nhận thức lịch sử
một cách tốt nhất, ở đây nhấn mạnh rằng: đồ dùng dạy học không phải là phương
pháp nhưng những thao tác và cách thức sử dụng đồ dùng dạy học lại là phương
pháp, vấn đề ở đây cần phải đổi mới phương pháp sử dụng đồ dùng dạy học nhất
là khai thác tích cực hình ảnh, lược đồ trong sách giáo khoa, tức là góp phần vào
đổi mới phương pháp dạy học.
Trong đồ dùng dạy học môn lịch sử lớp 10,11 tranh ảnh, lược đồ là phương
tiện dạy học quan trọng nhất phục vụ cho việc dạy học lịch sử.
2.3. Kỹ năng khai thác tranh ảnh, lược đồ

Để việc sử dụng tranh ảnh, bản đồ, lược đồ thống nhất và có hiệu quả nhằm
phát huy tính tích cực, chủ động, sáng tạo của học sinh trong học tập bộ môn và
theo quan điểm đổi mới dạy học. Đồ dùng dạy học là một nguồn nhận thức lịch
sử chứ không chỉ là minh hoạ cho bài học.
2.3.1.Tranh ảnh
 Những kỹ năng cần lưu ý:
Khi hướng dẫn học sinh tìm hiểu nội dung của tranh ảnh trong sách giáo
khoa lịch sử lớp 10, 11 giáo viên cần chú ý rèn cho học sinh những kỹ năng như
sau:
- Kỹ năng quan sát, nhận xét.
- Kỹ năng mô tả, tường thuật.
- Kỹ năng phân tích, nhận định, đánh giá.
 Các bước làm việc với tranh ảnh:
Để việc khai thác tranh ảnh có hiệu quả, phát huy được tính tích cực của
học sinh nhằm mục tiêu học sinh tự tìm hiểu nội dung của bài qua tranh ảnh dưới
sự hướng dẫn, tổ chức của thầy, cô giáo. Giáo viên hướng dẫn học sinh phải tuân
thủ theo những nguyên tắc sau:
Bước 1: Giáo viên yêu cầu học sinh tìm hiểu, nghiên cứu trước tranh ảnh ở
nhà để đến lớp các em tranh thủ được thời gian dưới sự hướng dẫn của thầy, cô
GV: Lục Kim Thuyên

6


Sáng kiến kinh nghiệm

THPT Nguyễn Hữu Cảnh

giáo khai thác được triệt để hơn.
Bước 2: Giáo viên hướng dẫn học sinh quan sát tranh ảnh để xác định một

cách khái quát nội dung tranh ảnh cần khai thác. Nêu tên của tranh ảnh, xác định
tranh ảnh đó thể hiện điều gì.
Bước 3: Giáo viên đưa ra câu hỏi nêu vấn đề, tổ chức, hướng dẫn học sinh
tìm hiểu nội dung tranh ảnh.
Bước 4: Sau khi quan sát học sinh trình bày kết qủa tìm hiểu nội dung
tranh ảnh, kết hợp gợi ý của giáo viên và tìm hiểu nội dung trong bài học.
Bước 5: Giáo viên nhận xét, bổ sung những vấn đề học sinh vừa trả lời,
đồng thời hoàn thiện nội dung khai thác tranh ảnh cung cấp cho học sinh.
Mục đích của việc làm này để học sinh nắm được cách khai thác tranh ảnh
và nội dung tranh ảnh trong bài học. Tuy nhiên tranh ảnh chỉ có tác dụng giúp
học sinh khai thác một vấn đề cụ thể của một mục trong bài học, có phạm vi hẹp
hơn so với bản đồ, lược đồ.
2.3.2. Lược đồ, bản đồ
 Những kỹ năng cần lưu ý:
- Kỹ năng vẽ lược đồ, bản đồ.
- Kỹ năng tường thuật, miêu tả.
- Kỹ năng quan sát, so sánh.
- Kỹ năng nhận định, đánh giá, rút ra quy luật, bài học lịch sử.
 Các bước tiến hành khai thác nội dung lược đồ:
Việc khai thác nội dung lược đồ theo hướng phát huy tính tích cực trong
học tập của học sinh là một yêu cầu quan trọng để học sinh tự khám phá nội
dung lược đồ. Việc tổ chức cho học sinh làm việc với bản đồ, lược đồ có thể tiến
hành theo các bước như sau:
Bước 1: Giáo viên hướng dẫn học sinh quan sát lược đồ, bản đồ, trong đó
chú ý cả về nội dung, danh giới và các ký hiệu trên bản đồ, lược đồ. Đọc bản chú
giải để biết người ta thể hiện đối tượng đó trên bản đồ như thế nào? Bằng ký hiệu
gì? Bằng màu sắc gì?
Bước 2: Giáo viên đặt câu hỏi nêu vấn đề và gợi ý để học sinh tìm hiểu nội
dung của lược đồ, bản đồ theo yêu cầu của bài học.
Bước 3: Giáo viên gọi học sinh trả lời câu hỏi bằng việc trình bày kết quả

GV: Lục Kim Thuyên

7


Sáng kiến kinh nghiệm

THPT Nguyễn Hữu Cảnh

tìm hiểu nội dung của bản đồ, lược đồ.
Bước 4: Giáo viên nhận xét, bổ sung những nội dung học sinh trả lời và hoàn
thiện nội dung bản đồ mà học sinh cần tìm hiểu.
Cuối cùng học sinh nắm được cách khai thác bản đồ, nội dung của bản đồ
gắn liền với nội dung của bài học. Bản đồ, lược đồ là nguồn kiến thức quan trọng
do đó giáo viên phải hướng dẫn học sinh khai thác đúng và đầy đủ những nội
dung của lược đồ nhằm phát huy cao nhất tính chính xác và ý nghĩa giáo dục đối
với học sinh.
Tuy nhiên trong quá trình sử dụng lược đồ, bản đồ giáo viên cần lưu ý bởi
trong hệ thống của bản đồ, lược đồ có cả bản đồ trống (bản đồ câm) do đó giáo
viên phải cho học sinh làm quen với loại bản đồ này để hình thành các kỹ năng
sử dụng cho học sinh. Giáo viên nên sử dụng loại bản đồ trống trong các tiết Bài
tập lịch sử.
2.4. Áp dụng cụ thể : (qua sách giáo khoa lịch sử lớp 10, 11 chương trình
chuẩn).
2.4.1. Khai thác tranh ảnh
Ví dụ 1: Giáo viên sử dụng bức ảnh trong Bài 3: Trung Quốc (sách giáo
khoa lớp 11- chương trình chuẩn). Hình 6. Trang 13.

GV: Lục Kim Thuyên


8


Sáng kiến kinh nghiệm

THPT Nguyễn Hữu Cảnh

Trước hết giáo viên hướng dẫn học sinh quan sát bức ảnh “Các nước đế
quốc xâu xé cái bánh ngọt Trung Quốc”. Sau đó giáo viên nêu câu hỏi để học
sinh suy nghĩ: Bức tranh này nói lên điều gì? Vì sao người ta lại ví Trung Quốc
như cái bánh ngọt khổng lồ bị chia cắt như vậy? Sau đó, giáo viên cho học sinh
suy nghĩ, thảo luận và rút ra những nhận xét của riêng mình. Giáo viên có thể gọi
2 hoặc 3 học sinh trả lời trình bày nội dung của mình sau đó giáo viên mới đi tới
giải thích: Đây là bức tranh biếm hoạ trong sách giáo khoa lịch sử của Pháp với
dòng chú thích “Chiếc bánh ngọt ga- tô Trung Hoa” ví Trung Quốc hồi cuối thế
kỷ XIX - đầu thế kỷ XX như một miếng mồi béo bở khiến các nước đế quốc phải
tranh chấp, giành giật lẫn nhau, nhưng đó lại là “chiếc bánh khổng lồ” mà không
một nước đế quốc nào có thể “nuốt” nổi một mình, buộc chúng phải chia sẻ với
nhau. Quá trình xâm lược Trung Quốc của các nước đế quốc được miêu tả qua
hình ảnh cái bánh ngọt lớn đã bị cắt rời từng phần. Ngồi xung quanh là 6 người
lăm lăm chiếc nĩa trong tay với tư thế sẵn sàng xông vào “mâm bánh”. Kể từ trái
qua phải, đó là chân dung của Hoàng đế Đức, Tổng thống Pháp, Nga hoàng,
Nhật hoàng, Tổng thống Mĩ và Thủ tướng Anh đương thời.
Cuối cùng giáo viên rút ra kết luận “Cuối thế kỷ XIX đầu thế kỷ XX
Trung Quốc chưa thực sự trở thành thuộc địa của một thế lực đế quốc nào nhưng
các thế lực đế quốc đua nhau xâu xé Trung Quốc”.
Ví dụ 2: Giáo viên sử dụng bức ảnh trong Bài 18: Công cuộc xây dựng và
phát triển kinh tế trong các thế kỷ X - XV (sách giáo khoa lớp 10 chương
trình chuẩn). Hình 36. Trang 93.


GV: Lục Kim Thuyên

9


Sáng kiến kinh nghiệm

THPT Nguyễn Hữu Cảnh

Trước hết giáo viên hướng dẫn học sinh quan sát bức ảnh “Hình rồng và
hoa dây” và nêu câu hỏi để học sinh suy nghĩ: Hình tượng rồng thời Lý được các
nhà điêu khắc trạm trổ như thế nào?
Sau khi học sinh suy nghĩ trả lời, giáo viên nhận xét và miêu tả: Rồng
mình trơn, toàn thân uốn khúc, uyển chuyển như một ngọn lửa. Đầu rồng tỷ lệ
cân đối với thân rồng, chân rồng thanh mảnh, thường có 3 móng. Toàn bộ con
rồng có những hoa văn uốn lượn theo hình chữ S tượng trưng cho nguồn nước,
mây mưa, sấm chớp. Có thể nói hình tượng con rồng thời Lý gắn liền với nguồn
gốc lịch sử dân tộc ta - Con Rồng cháu Tiên, đồng thời nó cũng nói lên ước mơ
mong muốn mưa gió thuận hoà mùa màng tốt tươi của cư dân trồng lúa nước.
Giáo viên nhấn mạnh: Sự thật rồng chỉ là con vật tưởng tượng của con
người thời xưa, ban đầu không mang quy cách thống nhất. Giáo viên cũng có thể
hướng dẫn học sinh liên hệ vì sao vua Lý Thái Tổ đặt tên kinh đô là Thăng Long.
Giáo viên nêu câu hỏi: Hình rồng thời Lý còn thể hiện sự phát triển của
ngành kinh tế nào ở nước ta thời bấy giờ?
Sau khi học sinh suy nghĩ và trả lời giáo viên chốt lại ý cơ bản như sau:
Hình rồng và hoa văn thể hiện sự phát triển của ngành kiến trúc và điêu khắc với
trình độ trạm trổ tinh vi lúc bấy giờ.
Ví dụ 3:
Giáo viên sử dụng
bức ảnh trong Bài 4:

Các quốc gia cổ đại
phương Tây - Hi lạp và
Rô - Ma. (Sách giáo
khoa Lớp 10 – Chương
trình chuẩn).
Hình 7. Trang 23.

GV: Lục Kim Thuyên

10


Sáng kiến kinh nghiệm

THPT Nguyễn Hữu Cảnh

Trước hết giáo viên hướng dẫn học sinh quan sát bức ảnh “ Pê-ri-clet” và
nêu câu hỏi để học sinh suy nghĩ: Ông là ai? Là người thế nào? Tại sao ông lại
được tạc tượng như vậy?
Sau khi học sinh quan sát suy nghĩ và trả lời, giáo viên đưa ra kết luận
cuối cùng: Ông là Pê-ri-clet. Ông là người anh hùng của Hi Lạp, chỉ huy đánh
thắng quân Ba Tư, ông có công xây dựng A-ten đẹp đẽ. Trong xã hội dân chủ cổ
đại, hình tượng cao quý nhất là người chiến sĩ bình thường, gần gũi, thân mật,
được đặt ở quảng trường để dân chúng tôn kính, ngưỡng mộ.
2.4.2. Khai thác lược đồ, bản đồ
Ví dụ 1: Giáo viên sử dụng lược đồ “ Đông Nam Á cuối thế kỷ XIX - đầu
thế kỷ XX”. Hình 9. Trang 18. Bài 4: Các nước Đông Nam Á (cuối thế kỷ XIX
- đầu thế kỷ XX).( Sách giáo khoa lớp 11 – chương trình chuẩn).

Giáo viên chuẩn bị lược đồ “Đông Nam Á cuối thế kỷ XIX - đầu thế kỷ

XX” của Bộ Giáo dục & Đào tạo.
GV: Lục Kim Thuyên

11


Sáng kiến kinh nghiệm

THPT Nguyễn Hữu Cảnh

Trước hết giáo viên treo lược đồ lên bảng ở vị trí trung tâm nhất của cả lớp
để các em có thể nhìn rõ toàn bộ nội dung của lược đồ. Giáo viên hướng dẫn học
sinh quan sát kỹ cả về những ký hiệu, đường ranh giới, màu sắc của lược đồ. Sau
đó giáo viên gọi học sinh đọc nội dung tên và chú giải của lược đồ.
Giáo viên đặt câu hỏi cho học sinh suy nghĩ: Em có nhận xét gì về các nước
Đông Nam Á cuối thế kỷ XIX - đầu thế kỷ XX? Sau khi học sinh quan sát lược
đồ và suy nghĩ, giáo viên gọi 1 hoặc 2 học sinh trả lời theo yêu cầu mà câu hỏi
giáo viên đã đưa ra.
Sau khi học sinh đã trả lời, giáo viên chốt ý bằng việc hệ thống lại trên lược
đồ: Có thể nhìn trên lược đồ sẽ thấy ngay cuối thế kỷ XIX - đầu thế kỷ XX các
nước tư bản phương Tây đua nhau xâm lược vào khu vực Đông Nam Á. Nhân
dân các nước Đông Nam Á đấu tranh quyết liệt nhưng không chống lại được sự
xâm lược của các nước tư bản. Hầu hết các nước Đông Nam Á đều trở thành
thuộc địa của tư bản phương Tây: Thực dân Anh chiếm Miến Điện, Mã Lai, Brunây; Thực dân Pháp chiếm Việt Nam, Lào, Cam- pu- chia; Thực dân Hà Lan
chiếm In- đô- nê- xi- a; Thực dân Tây Ban Nha chiếm Phi- lip- pin; Thực dân Bồ
Đào Nha chiếm Đông Ti- mo. Duy nhất chỉ có Xiêm ( Thái lan ) không trở thành
thuộc địa của một đế quốc thực dân nào nhưng nằm trong vùng ảnh hưởng tranh
chấp giữa Thực dân Anh và Pháp. Xiêm là nước duy nhất ở Đông Nam Á giữ
được nền độc lập tương đối về chính trị.
Cuối cùng giáo viên đưa ra câu hỏi: Cuối thế kỷ XIX - đầu thế kỷ XX Đông

Nam Á là thuộc địa chủ yếu của đế quốc thực dân nào? Do đã quan sát từ đầu vì
thế học sinh dễ dàng đưa ra nhận xét “Các nước đế quốc Anh và Pháp là những
thế lực có nhiều thuộc địa ở khu vực Đông Nam Á giai đoạn này”.
Ví dụ 2: Đây là loại lược đồ trống do đó giáo viên nên đưa vào các tiết bài
tập lịch sử để phát huy hết khả năng của học sinh đồng thời qua đó rèn thêm cho
các em về kỹ năng sử dụng lược đồ đặc biệt là loại lược đồ câm.
Giáo viên sử dụng lược đồ “Kháng chiến chống Tống thời Lý (1075 –
1077) trong Bài 19: Những cuộc kháng chiến chống ngoại xâm ở các thế kỷ X
– XV (Sách giáo khoa lớp 10,trang 100 – chương trình chuẩn).

GV: Lục Kim Thuyên

12


Sáng kiến kinh nghiệm

THPT Nguyễn Hữu Cảnh

Vì đây là lược đồ trống do đó khi sử dụng giáo viên và học sinh dùng bút
dạ kết hợp với bài viết trong sách giáo khoa để miêu tả, tường thuật diễn biến
công cuộc chuẩn bị phòng ngự của ta và cuộc tiến công của quân Tống; diễn
biến cuộc kháng chiến chống Tống dưới sự chỉ huy của Lý Thường Kiệt.
Trước hết giáo viên nêu câu hỏi: Hãy cho biết khái quát về cuộc tiến công
của quân Tống khi xâm lược nước ta?
GV: Lục Kim Thuyên

13



Sáng kiến kinh nghiệm

THPT Nguyễn Hữu Cảnh

Sau khi học sinh suy nghĩ, trình bày cuộc xâm lược quân Tống trên lược
đồ; giáo viên nhận xét và có thể giới thiệu như sau: Nhìn vào lược đồ chúng ta
thấy chiến trường trong cuộc kháng chiến chống Tống diễn ra cả trên bộ và trên
biển. Lực lượng của quân Tống gồm 10 vạn bộ binh, 1 vạn ngựa và 20 vạn dân
phu do tướng Quách Quỳ, Triệu Tiết chỉ huy từ Ung Châu phân thành nhiều mũi
vượt qua biên giới tràn vào nước ta (giáo viên kết hợp lời nói với việc dùng bút
dạ vẽ đường tiến công của quân Tống trên lược đồ). Một đạo quân thuỷ cũng
được lệnh vượt biển sang tiếp ứng. Về phía ta, đã chủ động bố trí lực lượng đón
đánh địch ở ngay các cửa ải biên giới do các tướng Lưu Kỳ, Thân Cảnh Phúc, Lý
Kế Nguyên chỉ huy. Sau khi bị thua ở cửa ải Lý Quyết (Lạng Sơn) và bị đánh tơi
bời ở cửa biển Quảng Ninh, quân Tống tập trung lực lượng cố tiến về Thăng
Long, nhưng chúng đã gặp phải phòng tuyến rất kiên cố, vững chắc của quân ta.
Đến đây giáo viên có thể đưa ra câu hỏi cho học sinh: Đó là phòng tuyến nào?
Em hãy cho biết nét chính về phòng tuyến đó?
Giáo viên hướng dẫn học sinh suy nghĩ và trả lời câu hỏi. Sau đó giáo viên
nhận xét và trình bày: Đó là phòng tuyến trên sông Như Nguyệt. Phòng tuyến
này được xây dựng trên bờ sông Như Nguyệt (Bắc Ninh). Nhìn trên lược đồ
chúng ta có thể thấy phòng tuyến Như Nguyệt được xây dựng ngay ở đoạn sông
mà các con đường từ phía Bắc về Thăng Long đều phải đi qua, phòng tuyến dài
gần 100 km, được đắp cao, có rào tre dầy đặc, chắc chắn, chạy dài từ Đông Bắc
dãy Tam Đảo đến sườn tây dãy Nham Biền (Yên Dũng – Bắc Giang). Dưới sông
có thuỷ quân, trên thành có quân đóng và tuần tiễu, tập trung ở những bến sông,
nơi có đường giao thông đi qua.
Tiếp đến giáo viên yêu cầu học sinh trình bày những diễn biến chính cuộc
kháng chiến chống Tống trên lược đồ. Sau khi học sinh trình bày, giáo viên nhận
xét và hoàn chỉnh tường thuật diễn biến như sau: Đến tháng 1/1077, quân Tống

tiến tới bờ Bắc sông Cầu, cánh quân phải tập trung ở bờ Bắc sông Cầu, cánh
quân trái đóng ở Thị Cầu. Hai lần quân Tống đóng bè tiến sang bờ Nam nhưng
đều bị quân ta đánh trả quyết liệt, phải lui về bờ Bắc. Thời gian kéo dài quân
Tống mệt mỏi, ốm đau, bệnh tật, và khủng hoảng về tinh thần, nỗi ám ảnh về bài
thơ thần làm cho tinh thần của quân Tống bị lung lay. Giữa lúc đó quân ta do Lý
Thường Kiệt chỉ huy phản công khiến quân địch bị thiệt hại lớn. Đến tháng
2/1077, sau khi được quân ta chủ động đề nghị giảng hoà, quân Tống vội vã rút
quân về nước. Cuộc kháng chiến chống Tống kết thúc quân ta giành thắng lợi
hoàn toàn. Kết thúc bài học giáo viên yêu cầu học sinh đọc bài thơ thần: “Nam
quốc sơn hà”
GV: Lục Kim Thuyên

14


Sáng kiến kinh nghiệm

THPT Nguyễn Hữu Cảnh

“Nam quốc sơn hà Nam đế cư
Tiệt nhiên định phận tại thiên thư
Như hà nghịch lỗ lai xâm phạm
Nhữ đẳng hành khan thủ bại hư”
III. HIỆU QUẢ CỦA ĐỀ TÀI
- Học sinh ở 2 khối lớp 10, 11 đã được học liên tục chương trình sách giáo
khoa mới từ các cấp học dưới do đó các em đã phần nào làm quen với phương
pháp dạy học tích cực mà trong đó học sinh làm việc là chính. Tuy nhiên vẫn còn
có những học sinh lười học, ít động não suy nghĩ, học theo phương pháp cũ, thụ
động trong quá trình vận động tiếp thu kiến thức qua bài dạy của thầy, cô giáo
mà đặc biệt là các em ở ban cơ bản học theo chương trình chuẩn.

- Sau khi áp dụng về đổi mới phương pháp sử dụng đồ dùng dạy học nhất là
khai thác tích cực hình ảnh, lược đồ trong sách giáo khoa Lịch sử lớp 10, 11
trong gần một học kỳ vừa qua tôi nhận thấy phần lớn các em đã quen với phương
pháp mới. Các em đã chủ động nghiên cứu, khai thác tranh ảnh, lược đồ trong
bài học theo yêu cầu của giáo viên. Các em đã tích cực chủ động hơn trong học
tập, làm bài tập trên lược đồ, bản đồ… Các em có hứng thú học tập bộ môn, có ý
thức, động cơ học tập tốt hơn. Số học sinh đạt điểm khá giỏi tăng lên, số học sinh
đạt điểm trung bình nhiều, số học sinh yếu giảm rõ rệt.
- Tuy nhiên bên cạnh đó vẫn còn những học sinh lười học, không chú ý nghe
giảng do đó kết quả học tập chưa cao. Chưa biết được các kỹ năng cần thiết nhất
của việc khia thác tranh ảnh, lược đồ, bản đồ…chưa nắm được những nội dung
cơ bản của bài học.
 Kết quả trước và sau khi áp dụng đề tài:


Trước khi áp dụng đề tài:
Lớp

Giỏi- Khá

Trung bình

Yếu

10A4

11,5%

63%


25,5%

10A6

10%

62,4%

27,6%

11A2

10,8%

68,7%

21,5%

GV: Lục Kim Thuyên

15


Sáng kiến kinh nghiệm



THPT Nguyễn Hữu Cảnh

Sau khi áp dụng đề tài:

Lớp

Giỏi – khá

Trung bình

Yếu

10A4

18,4%

70,4%

11,2%

10A6

15%

72,4%

12,6%

11A2

14,9%

76,6%


8,5%

Với kết quả như trên tôi nhận thấy nội dung của đề tài là phù hợp và cần thiết
với học sinh và phù hợp với phương pháp dạy học mới theo hướng lấy học sinh
làm trung tâm như giai đoạn hiện nay.
 Qua áp dụng đề tài tôi nhận thấy có sự phân hoá rõ rệt đối tượng học sinh
như sau:
- Học sinh Khá - Giỏi: nắm vững, vận dụng tốt kiến thức, kỹ năng; học bài,
làm bài rất tốt.
- Học sinh trung bình: Nắm được kiến thức cơ bản, học bài làm bài tương
đối tốt.
- Một số học sinh chưa chăm học, chưa chú ý, lười suy nghĩ, kết quả học tập
chưa cao.
IV. ĐỀ XUẤT, KHUYẾN NGHỊ
Để đổi mới phương pháp sử dụng thiết bị dạy học nói riêng và phương
pháp dạy học Lịch sử nói chung ở trường THPT Nguyễn Hữu Cảnh thành công
là một quá trình lâu dài, phức tạp và cần phải có thời gian:
- Dạy và học theo hướng đổi mới cần phải có một số điều kiện trong đó
quan trọng nhất là người giáo viên. Giáo viên phải có kiến thức chuyên
môn, kỹ năng sư phạm, biết sử dụng công nghệ thông tin vào dạy học, biết
định hướng học sinh theo mục tiêu giáo dục chung.
- Giáo viên và học sinh phải sử dụng tối đa các tranh ảnh, lược đồ, bản đồ
trong sách giáo khoa và của nhà trường. Nếu có thể giáo viên cho học sinh
tham quan, làm bài tập tại thực địa.
- Tăng cường quá trình kiểm tra việc rèn luyện kỹ năng qua các giờ học có
sử dụng đồ dùng dạy học, giúp các em có tư duy độc lập về bài học.
- Có biện pháp phù hợp, quan tâm đối với từng đối tượng học sinh (khá,
giỏi, trung bình, yếu, kém) để đảm bảo tới mức cao nhất học sinh nhận
thức được kiến thức cơ bản của bài học, của cả khoá trình.
Đổi mới phương pháp dạy học nói chung và đổi mới việc sử dụng đồ dùng

dạy học nói riêng, nhất khai thác tích cực hình ảnh, lược đồ trong sách giáo khoa
GV: Lục Kim Thuyên

16


Sáng kiến kinh nghiệm

THPT Nguyễn Hữu Cảnh

trong dạy học Lịch sử ở trường THPT là một yêu cầu cần thiết và cấp bách hiện
nay, có đổi mới phương pháp dạy học theo hướng tích cực hoá hoạt động của
học sinh thì mới hoà nhập được trình độ phổ thông trong khu vực và trên thế
giới. Để tạo điều kiện cho đổi mới phương pháp dạy học nói chung và phương
pháp dạy học môn Lịch sử nói riêng đạt được hiệu quả cao bản thân tôi có những
kiến nghị như sau:
- Tăng cường cơ sở vật chất cho việc dạy và học môn Lịch sử.
- Đầu tư xây dựng phòng học bộ môn.
- Nên phát huy việc học với ngoại khóa thực tế các di tích lịch sử văn hóa
để học sinh có được cái nhìn trực quan sinh động về những di tích lịch sử,
văn hoá của dân tộc.
V. KẾT LUẬN
Tóm lại, để phát huy được chủ thể - trò và sử dụng tranh ảnh, lược đồ trong
sách giáo khoa có hiệu quả đòi hỏi người giáo viên Lịch Sử phải linh hoạt trong
việc vận dụng các phương pháp, bên cạnh đó cũng phải có một sự dụng công nhất
định. Phương pháp dạy học không phải là chìa khóa vạn năng, nhưng người làm
nên công năng của phương pháp chính là giáo viên chứ không phải ai khác.
Không một phương pháp nào có tính tối ưu và vận dụng một cách độc lập trong
một bài học. Vì vậy vận dụng các phương pháp dạy học mới không có nghĩa là
loại bỏ các phương pháp dạy học truyền thống, vấn đề là ứng dụng sao cho phù

hợp. Đây chỉ là một vài kinh nghiệm mang tính chất cá nhân mà bản thân tôi trong
quá trình áp dụng thấy có hiệu quả phù hợp với mục tiêu giáo dục hiện nay, nhưng
cũng có thể không phù hợp với quan điểm dạy học của từng người. Vì vậy người
viết rất mong nhận được sự đóng góp ý kiến và trao đổi chân thành của các đồng
nghiệp về việc áp dụng các phương pháp dạy học khác nhau trong giảng dạy lịch
sử để tôi có một sự kết hợp phương pháp tối ưu hơn, hiệu quả hơn trong quá trình
giảng dạy!
Xin chân thành cảm ơn.
Biên Hòa, ngày 5 tháng 11 năm 2011
Người viết

Lục Kim Thuyên

GV: Lục Kim Thuyên

17


Sáng kiến kinh nghiệm

THPT Nguyễn Hữu Cảnh

TÀI LIỆU THAM KHẢO
1. Tài liệu về đổi mới phương pháp dạy học môn Lịch sử trung học phổ thông
(tài liệu tham khảo), Bộ Giáo dục và Đào tạo – năm 2008
2. Phương pháp dạy học môn Lịch sử theo hướng tích cực, Nxb Đại học Sư
phạm – năm 2009.
3. Sách giáo khoa, sách giáo viên lớp 10 chương trình chuẩn, Nxb Giáo dục năm 2006.
4. Sách giáo khoa, sách giáo viên lớp11 chương trình chuẩn, Nxb Giáo dục –
năm 2006.

5. Tài liệu bồi dưỡng giáo viên thực hiện chương trình sách giáo khoa lớp 10
môn Lịch sử, Nxb Giáo dục – năm 2007.
6. Tài liệu bồi dưỡng giáo viên thực hiện chương trình sách giáo khoa lớp 11
môn Lịch sử, Nxb Giáo dục – năm 2007.
7. Tài liệu về chương trình giáo dục phổ thông môn Lịch sử theo chương trình
chuẩn, Nxb Bộ Giáo dục và Đào tạo – năm 2006.

GV: Lục Kim Thuyên

18


Sáng kiến kinh nghiệm

GV: Lục Kim Thuyên

THPT Nguyễn Hữu Cảnh

19


Sáng kiến kinh nghiệm

GV: Lục Kim Thuyên

THPT Nguyễn Hữu Cảnh

20




×