Tải bản đầy đủ (.docx) (13 trang)

West nile virus vũ thị thùy linh k23 QH 2014 2016

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (383.1 KB, 13 trang )

TRƯỜNG ĐẠI HỌC KHOA HỌC TỰ NHIÊN

ĐẠI HỌC QUỐC GIA HÀ NỘI
BỘ MÔN VI SINH VẬT HỌC – KHOA SINH HỌC

Tiểu luận
Môn Virus
Chủ đề:

VIRUS WEST NILE
Học viên : Vũ Thị Thùy Linh
Lớp : K23 - QH 2014 – 2016

1


Hà Nội, 2016

Mở đầu
Virus west Nile là một loại virus thuộc họ flavivirus xuất
hiện đầu tiên ở Uganda vào năm 1937. Virus này thường gây ra
bệnh sốt xuất huyết, sốt vàng da và viêm não Nhật Bản. Chúng
thường được truyền bởi bọ ve và muỗi.
Tại Hoa kì năm 1999, có 66 người không may bị nhiễm
virus West Nile do muỗi đốt và có ít nhất 7 người chết. Năm
2000, giống muỗi nầy tìm thấy ở 12 tiểu bang và ở Washington
D.C có 2 người chết. Năm 2001, ở New York có 6 người bị chết
vì nhiễm virus west Nile. Đầu mùa hè năm nay 2002, Đài truyền
hình CNN thông báo, người ta phát hiện có 10 con chim bị chết
vì mang virus. Riêng tại tiểu bang Loissiana, số người nhiễm
west Nile cao nhất là 205 người và có 8 ca tử vong. Toàn nước


Mỹ có 555 người chẳng may bị nhiểm virus, có 28 người tử vong
(theo tài liệu của CDC (Safer Healthier People).
West Nile là một loại virut nguy hiểm hiện chưa có
vaccin và liệu pháp điều trị hiệu quả chính vì vậy việc nghiên
cứu để có cái nhìn tổng quan về loại virus này hiện nay là cần
thiết.

2


TỔNG QUAN VỀ VIRUS WEST NILE
Virus West Nile (viết tắt WNV) là bệnh thường hay lây giữa
các loài chim bởi muỗi. Muỗi có thể trở thành những vật
mang mầm bệnh sau khi cắn những con chim bị nhiễm
virus. Người, ngựa và các con thú khác có thể trở nên bị
nhiễm bệnh nếu họ và những con thú đó bị chích bởi muỗi
mang virus.
Hình dạng, kích thước và genome của WNV
WNV có hình cầu, đường kính 40-50 mm, tương tự như tất
cả các flaviviruses khác. Hình 1, cho thấy hình dạng virus
dưới kính hiển vi điện tử. Các màng virus nhám do bề mặt
có sự xuất hiện hai protein vỏ E và M - được tìm thấy trong
các virion trưởng thành. Bên trong màng là một vỏ
icosahedral gồm các protein C. Protein C được tổng hợp như
là một tiền chất với đuôi kỵ nước neo vào màng cho đến khi
virus lắp ráp.

3



Hình 1: West Nile Virus Ảnh chụp hiển vi điện tử của
WNV. (Nguồn: Trung tâm Kiểm soát và Phòng ngừa dịch
bệnh)

WNV có genome là RNA sợi đơn (+) (ssRNA +) dài 10.290
bp như thể hiện trong hình 2. . Toàn bộ hệ gen của virus
đã được giải trình tự, để lộ một khung đọc mở đơn. Các axit
nucleic hoạt động như mRNA và được dịch mã thành một
polypeptide mà sau đó được xử lý bởi các protease tế bào
và virus bên trong các protein cấu trúc và phi cấu trúc. Tại
hai đầu của virus là các khu vực không được dịch mã (UTR)
có vai trò quan trọng đối với sự sao chép virus.

4


Hình 2 genome của West Nile Virus . Tương tự như
trường hợp của rhinovirus, WNV làVirus ssRNA (+). Các
protein cấu trúc được mã hóa bởi ở đầu 5 ' của RNA và các
protein phi cấu trúc của virus và polymerase được mã hóa
bởi đầu 3'. Bộ gen của virus được dịch mã như một
polyprotein duy nhất và được xử lý bởi một protease của
virus để tạo ra các protein cần thiết.
Sự sao chép của WNV trong tế bào chủ
Các WNV gắn vào thụ thể chưa biết của tế bào và xâm
nhập nhập vào tế bào bằng cách nhập bào qua clathrin
trung gian ( clathrin-mediated endocytosis). Khi vào trong
lysosome, sự giảm pH được cho là nguyên nhân

làm cho


protein bề mặt thay đổi hình dạng: lộ ra miền kị nước sau đó
chèn vào lysosome. Điều này làm cho màng virus và tế bào
chủ hợp nhất và nucleocapsid ở lại trong tế bào chất của tế
bào. Không giống như rhinovirus, WNV giải quyết vấn đề
nhập bào bằng cách sử dụng cơ chế hấp thụ bình thường
của tế bào (endocytosis) và sau đó hòa nhập với các màng
lysosome. Bằng cách dung hợp sau khi vào lysosome, virus
đã xâm nhập vào bên trong tế bào. Hình 3 minh họa chu
5


kỳ sống của WNV.

Hình 3 : Vòng đời của West Nile Virus Các WNV nhân
lên trong tế bào chất. Điều thú vị của sự nhân bản là sự
tổng hợp của một polyprotein duy nhất và tiêu hóa tiếp theo
của nó.
Các (+) sợi đơn RNA giải phóng từ capsid của nó và được dịch
mã thành

một polyprotein. Các amino teminar kết thúc của

polyprotein bao gồm 3 thành phần cấu trúc của virus, trong khi
phần còn lại tạo thành 7 protein phi cấu trúc khác nhau. Đáng
chú ý, polyprotein đơn này được chế biến thành các protein
màng tế bào và tế bào chất, được đưa đến các vị trí thích hợp
của tế bào. Sự dịch mã poliprotein xảy ra tại ER với các protein
vỏ được vận chuyển qua màng và vào trong ER, trong khi các
sản phẩm khác đi tới tế bào chất. Tuy nhiên, vì tất cả các quá

trình này được thực hiện trên một polyprotein duy nhất nên cấp
độ của mỗi của các protein này là tương tự nhau, và điều này
6


dẫn đến lãng phí, vì các protein cấu trúc được yêu cầu ở nồng
độ lớn hơn. Điều thú vị khác là , các protein N3 của virus có ba
tính

năng

riêng

biệt:

protease

,helicase,

RNA

triphosphatase. Điều này giúp tiết kiệm không gian mã hóa –
nới có tính chất bảo thủ của một virus tương đối nhỏ.
Ngay sau khi RNA phụ thuộc RNA polymerase và helicase
được giải phóng từ polyprotein, RNA bắt đầu sao chép với sự
tổng hợp của sợi (-) từ RNA (+). Quá trình sao chép này diễn
ra trong tế bào chất của tế bào. Các sợi (-) một lần nữa được
sao chép để tạo thành các sợi (+) - hoạt động như một mạch
khuôn cho các vòng sao chép tiếp theo hoặc di chuyển đến
ribosome để sản xuất polyprotein . Bởi vì (-) sợi chỉ được sử

dụng như là sợi khuôn để sao chép nên số lượng chúng gấp 10
lần số sợi (+) được sản xuất bởi virus. Khi protein capsid được
tổng hợp, chúng liên kết với acid nucleic để tạo thành
nucleocapsid. Các protein vỏ tích tụ trong màng và lắp ráp theo
một cách nào đó để dấu đi các protein bề mặt – giúp virus xâm
nhập. Điều này ngăn cản các protein từ phản ứng xúc tác tổng
hợp màng. Cách tiếp cận này là một chiến lược thường được sử
dụng bởi nhiều virus. Tiền

nucleocapsid sau đó liên kết

với

màng ER có chứa các protein bề mặt và lắp ráp thành virion
hoàn chỉnh bên trong ER. Virus này sau đó thoát ra ngoài tế
bào bằng cách sử dụng con đường tiết của tế bào chủ với các
protein chế biến,đồng thời kích hoạt các protein dung hợp
màng mà trước đây được dấu đi.

7


CÁC TRIỆU CHỨNG VÀ CÁCH PHÒNG NGỪA BỆNH DO
WNV
Các triệu chứng của virus West Nile
Khoảng 80 phần trăm những người bị nhiễm WNV sẽ không
bị bệnh. Khoảng 20 phần trăm sẽ bị bệnh từ nhẹ đến trung
bình, bệnh bắt đầu từ 3 đến 14 ngày sau khi bị lây nhiễm.
Các triệu chứng có thể bao gồm sốt, nhức đầu, đau nhức
toàn thân, mệt mỏi, sưng các hạch bạch huyết, và đôi khi

nổi mẩn đỏ trên người. Các triệu chứng này thường kéo dài
khoảng 1 tuần, nhưng chúng có thể kéo dài lâu hơn.
Có ít hơn 1 phần trăm số người bị nhiễm WNV có thể bị các
bệnh nghiêm trọng hơn chẳng hạn như sưng màng não
(viêm màng vỏ não), viêm não (sưng óc), hoặc bị liệt giống
như bệnh sốt tê liệt (polio). Những người nào bị một trong
số các bệnh nghiêm trọng hơn này cũng có thể bị sốt cao,
nhức đầu dữ dội, tri giác mất sáng suốt và yếu sức.
8


Trong những trường hợp rất hiếm, nhiễm virus West Nile có
thể đưa đến tử vong. Nếu bạn bị nhức đầu dữ dội hoặc cổ bị
cứng mà không thể biết lý do tại sao, hoặc có các triệu
chứng khác của virus West Nile, hãy liên lạc với chuyên viên
chăm sóc sức khỏe của bạn.
Điều trị virus West Nile
Rất nhiều các triệu chứng và biến chứng của WNV có thể
chữa trị được, mặc dù không có sự chữa trị cụ thể, thuốc
men hoặc việc chữa lành sự nhiễm trùng. Hầu hết những
người bị nhiễm virus West Nile sẽ cảm thấy đỡ hơn, nhưng
có thể phải mất thời gian dài để hoàn toàn bình phục. Hiện
nay chưa có vaccin ngừa bệnh WNV ở người.
Virus West Nile tìm thấy có ở những nơi nào?
Virus West Nile được tìm thấy ở nhiều vùng của Phi Châu,
Tây Á và khu vực miền bắc Địa Trung Hải.
Sự bộc phát dịch bệnh virus West Nile đầu tiên ở Bắc Mỹ
là tại Thành phố Nữu Ước vào năm 1999. Kể từ đó bệnh đã
lây lan sang hầu hết các tiểu bang của Hoa Kỳ và khắp các
tỉnh của Canada, kể cả B.C.

Virus West Nile xuất hiện và lây lan như thế nào
Vi rút West Nile là một loại vi rút sinh ra từ muỗi gây ra bệnh
viêm não encephalitis hay nóng sốt lây truyền qua người sau
khi bị những con muỗi mang mầm bệnh cắn phải. Loại vi rút
này phát sinh ra trong một quá trình tự nhiên giữa muỗi (vật
dẫn bệnh) và các động vật có xương sống (nguồn chứa bệnh)
làm cho người và thú vật bị lây nhiễm trong thời gian vi rút
West Nile bộc phát. Loại vi rút này còn ảnh hưởng đến cả một
9


số động vật hoang dã (chim quạ và ngựa). Bệnh viêm não
Encephalitis và các cơn sốt gây ra bởi vi rút này thì thường không
lây lan từ người qua người mà phần lớn là từ muỗi qua người khi bị
muỗi cắn.
Không phải tất cả các loại muỗi đều có khả năng lây truyền vi
rút West Nile sau khi bị muỗi cắn. Thật sự ít hơn một phần tư
những con muỗi bị nhiễm bệnh là cό khả năng truyền nhiễm vi
rút. Tại Quận Cam, có một số loại muỗi có khả năng là nguyên
nhân truyền nhiễm vi rút West Nile:
1

Culex tarsalis: Muỗi viêm não Western Encephalitis

2

Culex quinquefasciatus: Muỗi Southern House

3


Culex erythrothorax: Muỗi Tule

4

Culex stigmatosoma: Muỗi nước đọng.

Những loại muỗi này phát sinh từ đâu?
1

Những vùng đất ẩm ướt có cỏ lau và các loại cây cỏ rậm
rạp, nơi nuôi dưỡng các loại động vật hoang dã, là nguồn
sản sinh ra vi rút West Nile.

2

Những thùng chứa nước mưa hoặc nước tưới cây sau vườn,
cũng như các hồ kiểng chứa nước đọng hoặc hồ bơi không
sử dụng cũng là nguồn sinh sản ra các loại muỗi.

3

Cống thoát nước bị ngẹt và những máng xối đọng nước
mưa cũng như các vòi nước tưới cây bị rò rỉ cũng là nơi
muỗi có thể sinh sản

Có ba loại chim (chim Sẻ, một loại họ sẻ ức đỏ, chim Bồ Câu)
là nguồn lây bệnh của vi rút viêm não encephalitis và chúng
có thể là nguyên nhân chính trong quá trình truyền nhiễm vi
10



rút West Nile.
Làm thế để bảo vệ bản thân
Bất cứ hoạt động nào ngăn ngừa việc bị muỗi cắn hoặc
không cho muỗi sinh sản sẽ giúp giảm thiểu rủi ro bị lây
nhiễm virus West Nile. Có nhiều cách đơn giản bạn có
thể làm để bảo vệ chính mình:


Dùng thuốc chống muỗi – Thoa thuốc chống muỗi lên
các nơi da thịt để trần là cách rất tốt để ngăn ngừa bị
muỗi cắn. Hãy kiểm tra nhãn hiệu sản phẩm để xem các
chỉ dẫn cách xài cho đúng



Mặc quần áo bảo vệ – Tránh mặc quần áo màu sậm vì
màu sậm có thể thu hút muỗi. Nếu bạn ở trong một khu
vực có nhiều muỗi, hãy mặc quần áo rộng, quần dài và
áo dài tay để tránh bị muỗi cắn. Muỗi có mang virus
West Nile thường hoạt động tích cực nhất vào buổi
chiều và sáng sớm, nhất là khi chạng vạng tối hoặc lúc
hừng đông.



Gắn lưới chống muỗi ở các cửa sổ – Nếu bạn ở một nơi có
nhiều muỗi, hãy ở các nơi có lưới chống muỗi hoặc nơi kín
gió, có máy điều hòa không khí nhiều hơn. Hãy nghĩ đến việc
ở trong nhà khi bên ngoài có nhiều muỗi, nghĩa là từ lúc

chạng vạng tối đến hừng đông.



Ngăn ngừa muỗi sinh sản nơi chung quanh nhà bạn – Bất cứ
vật gì có thể chứa nước đều rất có thể là nơi để muỗi sinh
sản. Hãy nhận dạng và loại bỏ các khu vực này nơi nhà bạn.
Một vài điều để làm bao gồm: đổ bỏ nước trong các đĩa hứng
nước đặt dưới chậu hoa; thay các bể nước dành cho chim tắm
11


2 lần một tuần; làm thông các máng xối nước mưa; trút bỏ
nước ở các tấm vải bạt, vỏ xe và các vật dụng linh tinh nơi
nước mưa có thể đọng lại; và gắn một bể nước phun trong
các hồ cây kiểng hoặc bỏ cá vào hồ.
Các hồ bơi sau vườn có thể là nguồn lớn chứa muỗi và phải
được bảo trì đều đặn để tránh muỗi sinh sản.
Cầm nắm chim chết có thể khiến tôi bị nhiễm bệnh
hay không?
Rủi ro bị nhiễm bệnh do cầm nắm chim thì rất thấp; tuy
nhiên, bạn không nên dùng tay không để cầm nắm chim
hoang dã hoặc những con thú khác (dù đã chết hay còn sống).
Nếu bạn cần đem bỏ một con chim chết, hãy thực hiện những
bước đề phòng sau đây:


Đừng dùng tay không để chạm vào chim đã chết hay còn
sống.




Dùng xẻng để xúc chim chết, bỏ chim vào trong hai bao
đựng rác và cẩn thận đừng làm lủng bao rác.



Nếu bạn không có xẻng:
o

Hãy dùng bao tay loại dầy, không lủng, như loại dùng để
lau chùi nhà cửa, hoặc dùng vài cái bao nhựa không lủng
để thế cho bao tay.

TÀI LIỆU THAM KHẢO
1.

/>module=Book&func=displayarticle&art_id=492

2.

/>namese/hfile88-V.pdf
12


3.

/>
13




×