PHẦN MỞ ĐẦU
1. Lí do lựa chọn đề tài
Trong quá trình vận động và phát triển của lịch sử văn hóa nhân loại nói
chung và tư tưởng triết học nói riêng, triết học phương Đông và triết học
phương Tây có nhiều nội dung phong phú,đa dạng. Những giá trị của nó đã để
lại dấu ấn đậm nét và có ảnh hưởng lớn đối với lịch sử loài người. Triết học
phương Đông và triết học phương Tây không thể thoát ly những vấn đề chung
của lịch sử triết học. Mặc dù vậy giữa triết học phương Đông và triết học
phương Tây vẫn có những đặc điểm đặc thù của nó. Nghiên cứu về triết học
phương Đông và triết học phương Tây, đặc biệt là so sánh sự khác nhau của
nó là một vấn đề phức tạp nhưng cũng rất bổ ích, vì qua đó ta có thể hiểu biết
sâu sắc thêm những giá trị về tư tưởng văn hóa của nhân loại. Mặt khác bản
sắc văn hóa Việt Nam ảnh hưởng khá sâu sắc bởi nền triết học phương Đông,
do đó nghiên cứu những đặc điểm của triết học phương Đông trong mối quan
hệ với triết học phương Tây, đặc biệt là những tư tưởng nhân văn cao đẹp sẽ
giúp chúng ta hiểu biết sâu sắc văn hóa Việt Nam. Vì vậy, tôi lựa chọn vấn đề
“Sự giống nhau và khác nhau giữa triết học phương Đông cổ đại và triết
học phương Tây cổ đại” làm đề tài nghiên cứu trong tiểu luận của mình.
II. Mục đích nghiên cứu
Phân tích đặc điểm của lịch sử triết học phương Đông và phương Tây
qua đó rút ra những đặc điểm giống và khác nhau giữa chúng để hiểu sâu sắc
hơn lịch sử hai nền triết này.
III. Phương pháp và phạm vi nghiên cứu
Đề tài sử dụng phương pháp so sánh, phân tích, tổng hợp.
Phạm vi nghiên cứu: Nghiên cứu đặc điểm của lịch sử triết học phương
Đông và phương Tây cổ đại.
IV. Kết cấu đề tài
Tiểu luận gồm 3 phần: Mở đầu, nội dung và kết luận. Trong đó nội dung
gồm có hai chương.
1
PHẦN NỘI DUNG
CHƯƠNG I. NHỮNG ĐẶC ĐIỂM CƠ BẢN CỦA TRIẾT HỌC
PHƯƠNG ĐÔNG CỔ ĐẠI VÀ PHƯƠNG TÂY CỔ ĐẠI
I. Đặc điểm của triết học phương Đông cổ đại
1.1. Những đặc điểm cơ bản của triết học Ấn Độ cổ đại
Từ trong hoàn cảnh và truyền thống Vêda, triết học Ấn Độ cổ đại đã
hình thành và phát triển. Chính Upanisat – tác phẩm Vêda xuất hiện muộn
nhất đã thể hiện những triết lý sâu sắc của người Ấn Độ. Những triết lý này
tạo thành một mạch suối ngầm phát sinh ra nhiều dòng chảy tư tưởng triết học
tôn giáo của Ấn Độ. Upanisat cố lý giải những vấn đề về bản thể - nhân sinh,
sự sống – cái chết có ảnh hưởng sâu đậm đến đời sống tinh thần của người
dân Ấn Độ nói riêng, của nhiều dân tộc phương Đông nói chung.
Dù cùng được hình thành từ trường phái triết học Vêda, nhưng các
trường phái triết học Ấn Độ cổ đại luôn xung đột lẫn nhau và sự xung đột này
lại kéo dài đến hết thời Trung đại. Tùy thuộc vào việc có thừa nhận hay không
trường phái triết học của Vêda mà các trường phái triết học được chia thành
hệ thống chính thống và không chính thống. Hệ thống triết học chính thống
bao gồm 6 trường phái thừa nhận uy quyền của Vêda là Vêdanta, samkhuya,
mimansa, yoga, niaja và vaisesica; hệ thống triết học không chính thống bao
gồm 3 trường phái không thừa nhận uy quyền của Vêda là Nokhayiata, jaina
và đạo phật.
Mặc dù có nhiều trường phái triết học khác nhau nhưng nhìn chung
triết học Ấn Độ có những đặc điểm cơ bản sau:
1.1.1. Do chịu ảnh hưởng của tinh thần Vêda mà triết học Ấn Độ không
thể phân chia rõ rang thành chủ nghĩa duy vật và chủ nghĩa duy tâm hay
phương pháp biện chứng hay phương pháp siêu hình như triết học phương
Tây mà chủ yếu được chia thành các hệ thống chính thống và không chính
thống. Trong các trường phái triết học cụ thể có sự đan xen giữa chủ nghĩa
2
duy vật và chủ nghĩa duy tâm, phương pháp biện chứng và phương pháp siêu
hình với nhau.
1.1.2. Do chịu ảnh hưởng sâu sắc của các tư tưởng tôn giáo mà triết học
Ấn Độ cổ đại thường là một bộ phận lý luận quan trọng tạo nên nội dung giáo
lý của các tôn giáo lớn. Tuy nhiên tôn giáo Ấn Độ không có xu hướng hướng
ngoại để tìm kiếm sức mạnh nơi thượng đế mà có xu hướng hướng nội đi sâu
tìm hiểu đời sống tâm linh, tinh thần để phát hiện sức mạnh của cá nhân con
người. Vì vậy triết học Ấn Độ cổ trung đại mang đậm tính chất duy tâm chủ
quan và thần bí.
1.1.3. Triết học Ấn Độ đặt ra nhiều vấn đề song nó rất quan tâm đến việc
giải quyết những vấn đề thuộc lĩnh vực nhân sinh nhằm tìm kiếm con đường
giải thoát chúng sinh ra khỏi thực tế khắc nghiệt của cuộc sống do chế độ
đẳng cấp tạo ra.
1.2. Đặc điểm của triết học Trung Quốc Cổ đại
Triết học Trung Quốc là một hệ thống đồ sộ bao quát nhiều vấn đề triết
học. Nhưng nó chủ yếu tập trung giải quyết các vấn đề do thực tiễn đạo đức
chính trị xã hội của thời đại đặt ra.
Triết học Trung Quốc cổ đại bàn nhiều về vấn đề con người, đặc biệt là
vấn đề nguồn gốc, số phận, bản tính của con người.
Trung Quốc cổ đại chính là thời kỳ lịch sử từ thế kỷ thứ VIII đến thế
kỷ thứ II trước công nguyên (Tr.CN) mà theo cách phân lỳ lịch sử truyền
thống gọi là thời Xuân thu (770 – 481 Tr. CN) và thời Chiến Quốc (480 –
221 Tr. CN) cũng gọi là thời Chu mạt; về lịch sử văn hóa và tư tưởng cũng
còn được gọi là thời “Tiên Tần”. Từ giai Đường, Tống, Nguyên, Minh,
Thanh là giai đoạn lịch sử phong kiến Trung Hoa, cũng còn gọi là giai
đoạn trung đại của lịch sử tư tưởng Trung Hoa.
Trung Hoa cổ đại là thời kỳ tan rã suy tàn của một mô hình kinh tế xã hội cũ theo truyền thống thị tộc. Đó là mô hình kinh tế “Tỉnh điền” của
nhà Chu.
3
Sự tan rã này có nguyên nhân sâu xa từ sự phát triển của lực lượng sản
xuất. Đó là việc sử dụng công cụ bằng sắt và dùng bò kéo xe. Điều này đã tạo
điều kiện thuận lợi cho việc khai khẩn đất hoang và dẫn thủy nhập điền trong
công việc thủy lợi. Hàng loạt những nghề mới ra đời và phát triển nhanh
chóng như luyện kim, đúc, rèn kim loại, mộc, xây cất, thuộc da, gốm….sự
phát triển của các ngành nghề này không hoàn toàn phụ thuộc vào quyền sở
hữu ruộng đất của nhà nước . Nhưng sự phát triển tất yếu dẫn tới sự hình
thành sở hữu tư nhân. Đồng thời sự suy yếu của thế lực chính trị nhà Chu đã
khiến cho các thế lực địa phương thực hiện chiếm của công làm của tư . Điều
đó càng thúc đẩy nhanh chóng sự ra đời của sở hữu tư nhân về tư liệu sản
xuất ở thời kỳ cổ đại Trung Hoa. Lực lượng kinh tế tư hữu ra đời là một thế
lực đối chọi với chế độ sở hữu đất đai nhà Chu. Tương ứng với cơ sở kinh tế
mới đó là những lực lượng chính trị mới, đó là thế lực địa chủ ở các địa
phương. Xu hướng chính trị mới của các thế lực này là thâu tóm quyền lực,
tập trung uy quyền và mở rộng sự thống trị lật đổ triều đại nhà Chu. Hệ quả
xã hội của xu hương này thật tàn khốc, những cuộc nội chiến kéo dài diễn ra.
Thời Xuân thu có 438 cuộc chiến phát lẫn nhau giữa các thế lực chính trị, đó
là “Ngũ bá đồ vương”, sang thời Chiến Quốc có “ thất bá tranh hùng”. Những
cuộc chiến tranh như vậy đã làm đảo lộn các thiết chế nghi lễ truyền thống
nhà Chu, làm xã hội ở tình trạng loạn lạc phá hoại sức sản xuất ghê gớm.
Đương thời Khổng Tử đã tham rằng: Vua không ra đạo vua, bề tôi không làm
đúng đạo bề tôi, cha chẳng ra đạo cha, con chẳng làm đúng đạo làm con, còn
Mạnh Tử thì nhận xét: đánh nhau tranh thì giết người thây chất đầy thành,
đánh nhau giành đất thì giết người thây chất đầy đồng.
Chính trong sự biến động sôi động ấy của xã hội, hàng loạt vấn đề xã
hội về triết học đã được đặt ra buộc các nhà tư tưởng đương thời phải quan
tâm, một loạt các trường phái triết học ra đời, mỗi trường phái đưa ra một kế
sách quản lý xã hội, tạo nên một không khí sôi động trong đời sống tinh thần
của xã hội Trung Hoa. Lịch sử gọi thời kỳ này là thời kỳ “ Bách gia chư tử”.
4
Chính trong hoàn cảnh xã hội đó đã nảy sinh những nhà tư tưởng lớn, hình
thành nên những hệ thống triết học khá hoàn chỉnh. Triết học Trung Quốc về
cơ bản có những đặc điểm sau:
1.2.1. Đây là nền triết học đặc biệt quan tâm đến các vấn đề chính trị,
đạo đức. Bởi đây là thời kỳ đảo lộn của xã hội lúc bầy giờ nên triết học đã đặc
biệt quan tâm, suy tư, tìm cách lý giải và tìm ra những triết lý và biện pháp
nhằm khắc phục hiện tượng xã hội biến động trong lịch sử chính trị cai trị của
các triều đại.. Từ đó làm xuất hiện nhiều học thuyết chính trị tư tưởng, đạo
đức khác nhau như nho gia, Mặc gia, Pháp gia. Ngay cả những học thuyết mà
theo tôn chỉ mục đích của nó là xa rời chính trị nhưng thực tế vẫn bàn về
chính trị và đạo đức như phái đạo gia của Lão tử và Trang Tử thời cổ đại. Học
thuyết Âm dương – Ngũ hành vốn là học thuyết của của chủ trương luận và
những vấn đề nguyên lý biến đổi của trời đất, vạn vật cũng được vận dụng để
lý giải những vẫn đề chính trị, đạo đức của xã hội, con người.
Mặc dù phong phú, đa dạng nhưng nhìn chung các học thuyết triết học
tập trung vào các vấn đề: làm thế nào để thống nhất đất nước; làm thế nào để
ổn định xã hội và các chuẩn mực đạo đức mà con người phải tuân thủ. Tùy
theo lập trường chính trị khác nhau mà có cách giải đáp khác nhau về một vấn
đề chính trị đạo đức. Do đó nó tạo nên tính vừa phong phú và vừa sâu sắc của
triết học Trung Hoa cổ đại. Chẳng hạn đó là vấn đề triết lý về bản tính con
người, Khổng Tử và Mạnh Tử theo xu hướng khẳng định bản tính thiện của
con người. Ngược lại Tuân Tử và Hàn Phi Tử lại chủ trương biện luận về bản
tính bất thiện của con người, còn Lão Tử và Trang Tử lại đưa ra luận thuyết
về bản tính người như thế là điểm xuất phát cho tư duy triết lý về những
phương cách coi trọng giáo dục hay pháp trị trong đạo trị nước của các học
thuyết khác nhau.
Triết học Trung Hoa lấy triết học nhân sinh làm hạt nhân. Một loạt triết
học về con người được đề cập sâu sắc.
5
Quan niệm về bản chất con người, đường đời, số phận, quan hệ chính
trị, rường mối, chuẩn mực đạo đức, đạo làm người. Để lại nhiều triết lý về
đạo làm người nhưng có hạn chế trong việc vượt ra thế giới để chinh phục.
Điều này cắt nghĩa cho khoa học kỹ thuật của Trung Quốc không phát triển.
Để lại triết lý về học: Nhân nghĩa – trí – học; tu thân- tề gia – trị quốc, học để
làm quân tử, nhưng người quân tử không biết sản xuất.
1.2.2. Triết học Trung Hoa không có sự phân biệt rạch ròi giữa chủ
nghĩa duy vật và chủ nghĩa duy tâm, không có đấu tranh biện chứng giữa các
thuyết triết học. Điều này tạo nên đặc điểm tính thiếu triệt để, tính thiếu nhất
quán. Chẳng hạn, trong phái Nho gia, thế giới quan của Khổng Tử dao động
giữa chủ nghĩa duy vật và chủ nghĩa duy tâm, giữa chủ nghĩa vô thần và chủ
nghĩa hữu thần. Một mặt ông xem trời là giới tự nhiên, có sự vận hành của tự
nhiên, ông nói “Trời nói lên tất cả”, bốn mùa vận hành, trăm vật sinh ra.
Nhưng mặt khác ông lại cho rằng trời một lực lượng vô hình chi phối vận
mệnh của xã hội và con người, “sống chết có mệnh, giàu sang tại trời”. Ông
chủ trương thờ phụng quỷ thần, kính trọng quỷ thần, nhưng lại xa lánh quỷ
thần, “quỷ thần thì đáng kính nhưng chớ có gần”.
1.2.3. Trong quá trình phát triển của mình, các trường phái triết học
Trung Hoa không chỉ phê phán, xung đột nhau mà còn biết hấp thụ những tư
tưởng của nhau để bổ sung, hoàn chỉnh lý luận của chính mình và chịu ảnh
hưởng ít nhiều bởi tư tưởng biện chứng trong kinh dịch.
II. Những đặc điểm của triết học phương Tây cổ đại
2.1. Những đặc điểm của triết học Hy Lạp cổ đại
2.1.1. Hoàn cảnh lịch sử
Triết học Hy lạp cổ đại diễn ra trong bối cảnh diễn ra sự chuyển biến
lâu dài và sâu sắc các quan hệ xã hội. Đó là sự ra đời của xã hội có giai cấp
đầu tiên trong lịch sử - chế độ chiếm hữu nô lệ.
6
Hy lạp cổ đại trước đây là một vùng lãnh thổ rộng lớn bao gồm phần
đất liền và vô số hòn đảo lớn nhỏ trên biển Egie, vùng duyên hải Ban căng và
Tiểu Á.
Sự thuận lợi về thiên nhiên, địa lý đã tạo điều kiện cho Hy Lạp nhanh
chóng phát triển tất cả các lĩnh vực, mở rộng bang giao, tiếp nhận nhiều giá trị
văn hóa. Vì vậy, nơi đây đã hội tụ đầy đủ những điều kiện để tư duy con
người có dịp bay bổng, đẻ thoả sức sáng tạo ra những giá trị triết học có ý
nghĩa vô cùng quan trọng trong lịch sử tư tưởng của nhân loại, xứng đáng là
chiếc nôi của nền văn minh Châu Âu và của cả nhân loại. Đúng như Ph.
Ănghen nhận xét: “Không có chế độ nô lệ thì không có quốc gia Hy Lạp,
không có nghệ thuật và khoa học Hy lạp, không có chế độ nô lệ thì không có
đế quốc La Mã mà không có cái cơ sở là nền văn minh Hy lạp và đế quốc La
Mã thì không có Châu Âu hiện đại được”.
Sự hình thành và phát triển của triết học Hy Lạp không diễn ra một
cách ngẫu nhiên mà là kết quả tất yếu của việc kế thừa những di sản tinh túy
của truyền thống trong sáng tác dân gian, trong thần thoại, trong các mầm
mống của tri thức khoa học.
Hy Lạp cổ đại là đất nước của thi ca thần thoại. Thần thoại không chỉ là
nơi để con người tưởng tượng diễn giải các hiện tượng thiên nhiên kỳ bí, mà
còn là nơi thể hiện đời sống tâm linh, sự hình thành số phận cũng như muôn
mặt của đời sống thường ngày. Thần thoại là nơi đầu tiên để tư duy triết học
ra đời và từng bước triết học tách ra khỏi thần thoại, tự mình để tư duy về tự
nhiên, đại đức, về xã hội, về lẽ sống, về chân lý, về con người…
Những tinh hoa về toán học, thiên văn học, địa lý, hệ thống đo lường,
lịch pháp,…đã xuất hiện do nhu cầu buôn bán, vượt biển đến các nước
phương Đông và nhiều vùng đất khác.
Như vậy có thể thấy rằng sự ra đời của triết học Hy Lạp cổ đại là một
tất yếu, đó là kết quả nội sinh của cả một dân tộc, một thời đại. Các Mác viết:
“Các nhà triết học không phải những cây nấm mọc trên đất. Họ là sản phẩm
7
của thời đại mình, dân tộc mình mà những tinh lực tinh tế nhất, quý giá nhất
và khó nhìn thấy nhất đã được suy tư trong các khái niệm triết học.
Triết học Hy Lạp cổ đại phát triển qua 3 thời kỳ: Triết học thời kỳ tiền
Xôcrat (thời kỳ sơ khai), Triết học thời kỳ Xôcrat (thời kỳ cực thịnh), Triết
học thời kỳ Hy Lạp hóa.
2.1.2. Đặc điểm của triết học Hy Lạp cổ đại
Triết học Hy Lạp cổ đại được coi là đỉnh cao của nền văn minh cổ đại và
là một trong những điểm xuất phát của lịch sử triết học thế giới. Nền triết học
này có những đặc điểm sau:
2.1.2.1. Triết học Hy Lạp cổ đại thể hiện thế giới quan, ý thức hệ và
phương pháp luận của giai cấp chủ nô thống trị . Nó là công cụ lý luận để giai
cấp này duy trì trật xã hội, củng cố vai trò thống trị của mình.
2.1.2.2. Trong triết học Hy Lạp cổ đại có sự phân chia và đối lập rõ
ràng giữa các trào lưu, trường phái duy vật - duy tâm, siêu hình – biện chứng,
vô thần – hữu thần. trong đó điển hình là cuộc đấu tranh giữa trào lưu duy vật
Đêmôcrit và trào lưu duy tâm của Platôn, trường phái siêu hình của Páclêmít
và trường phái biện chứng của Hêraclit.
2.1.2.3. Triết học Hy Lạp cổ đại gắn bó mật thiết với khoa học tự nhiên
để tổng hợp mọi hiểu biết về các lĩnh vực khác nhau nhằm xây dựng bức
tranh về thế giới như một hình ảnh chính thể thống nhất mọi sự vật, hiện
tượng xảy ra trong nó. Do trình độ tư duy lý luận còn thấp nên khoa học tự
nhiên chưa đạt tới trình độ mổ xẻ, phân tích tự nhiên để đi sâu vào bản chất sự
vật mà nó mới nghiên cứu tự nhiên trong tổng tể để dựng nên bức tranh tổng
quát về thế giới. Vì vậy các nhà triết học đồng thời là các nhà khoa học tự
nhiên, họ quan sát, tổng hợp các hiện tượng tự nhiên để rút ra những kết luận
triết học .
2.1.2.4. Triết học Hy Lạp cổ đại đã xây dựng nên phép biện chứng chất
phác. Các nhà triết học Hy Lạp cổ đại nghiên cứu phép biện chứng nâng cao
nghệ thuật hùng biện để bảo vệ quan điểm triết học của mình, để tìm ra chân
8
lý. Họ đã phát hiện ra nhiều yếu tố của phép biện chứng nhưng chưa trình bày
chúng như một hệ thống lý luận chặt chẽ.
2.1.2.5. Triết học Hy Lạp đã đưa ra nhiều quan niệm khác nhau về con
người. Cố lý giải vấn đề khác nhau về quan hệ giữa tinh thần và thể xác, về
đời sống chính trị đạo đức của họ. Dù có nhiều bất đồng song nhìn chung các
triết gia đều khẳng định con người là tinh hoa cao quý nhất của tạo hóa.
9
CHƯƠNG II SỰ GIỐNG NHAU VÀ KHÁC NHAU CỦA TRIẾT
HỌC PHƯƠNG ĐÔNG CỔ ĐẠI VÀ PHƯƠNG TÂY CỔ ĐẠI
1. Giống nhau
Cả triết học phương Đông và phương Tây đều là những tư tưởng nội
dung thể hiện quan niệm của con người về tự nhiên, xã hội và con người.
Cả triết học phương Đông và phương Tây đều được hình thành và phát
triển trên những điều kiện lịch sử tương ứng.
Cả triết học phương Đông và phương Tây đều đề cập đến các lĩnh vực
căn bản của triết học như đều có những quan niệm về thế giới, con người,
chính trị, xã hội.
2. Khác nhau
Thứ nhất, đó là triết học phương Đông nhấn mạnh sự thống nhất trong
mối quan hệ giữa con người và vũ trụ với công thức thiên địa nhân là một
nguyên tắc thiên nhân hợp nhất . Cụ thể là: Triết học Trung Quốc là nền triết
học có truyền thống lịch sử lâu đời nhất, hình thành cuối thiên niên kỷ II đầu
thiên niên kỷ I Tr. CN. Đó là những kho tàng tư tưởng phản ánh lịch sử phát
triển của những quan điểm của nhân dân Trung Hoa về tự nhiên, xã hội và
quan hệ giữa con người với thế giới xung quanh, họ coi con người là tiểu vũ
trụ trong hệ thống lớn trời đất với ta cùng sinh, vạn vật với ta là một. Như vậy
con người chứa đứng tất cả những tính chất, những huyền bí của vũ trụ bao la.
Từ điều này cho ta thấy hình thành ra các khuynh hướng duy tâm của Mạnh
Tử thì cho rằng vũ trụ vạn vật đều tồn tại tron ý thức chủ quan và trong ý
niệm đạo đức trời phú cho con người. Ông đưa ra quan điểm vạn vật đều có
đầy đủ trong ta, ta tự xét mình mà thành thực, thì có cái thú vui nào lớn hơn
nữa. Ông dạy mọi người không phải đi tìm chân lý ngoài thế giới khách quan
mà chỉ càn suy xét ở trong tâm ‘tận tâm” của mình mà thôi. Như vậy, theo
ông chỉ cần tĩnh tâm quay lại với chính mình thì mọi sự vật đều yên ổn, không
có gì vui thú hơn. Còn theo Thiện Ung thì cho rằng: Vũ trụ ở trong lòng ta,
10
lòng ta là vũ trụ. Đối với khuynh hướng duy vật thô sơ, kinh dịch thì biết đến
cùng cá tính của con người thì cũng có thể biết đến cá tính của vạn vật, trời
đất, trời có chín phương, con người có chín khiếu. Ở phương Đông khuynh
hướng duy vật chưa rõ ràng, đôi khi còn đan xen với duy tâm, mặc dù nó là
kết quả của quá trình khái quát những kinh nghiệm thực tiễn lâu dài của nhân
dân Trung Hoa thời cổ đại. Quan điểm duy vật được thể hiện rõ ở học thuyết
Âm dương, tuy nhiên nó còn mang tính chất trực quan, chất phác, ngây thơ và
có quan điểm duy tâm, thần bí về lịch sử xã hội nhưng trường phái triết học
này đã bộc lộ rõ khuynh hướng duy vật và tư tưởng biện chứng tự phát của
mình trong quan điểm về cơ cấu và sự vận động, biến hóa của sự vật hiện
tượng trong tự nhiên cũng như trong xã hội.
Ở Ấn Độ, tư tưởng triết học Ấn Độ cổ đại được hình thành từ cuối thiên
niên kỷ II đầu thiên niên kỷ I Tr. CN, bắt nguồn từ thế giới quan thần thoại,
tôn giáo giải thích vũ trụ bằng biểu tượng các vị thần mang tính chất tự nhiên,
có nguồn gốc từ những tôn giáo tối cổ của nhân loại. Ở Ấn Độ nguyên tắc
thiên nhiên hợp nhất lại có màu sắc riêng như: Xu hướng chính của
Upanishad là nhằm biện hộ cho học thuyết duy tâm tôn giáo trong kinh Vêda
về cái gọi là tinh thần sáng tạo tối cao, sáng tạo và chi phối thế giới này. Để
trả lời câu hỏi cái gì là thực tại cao nhất là căn nguyên của tất cả mà khi nhận
thức được nó, người ta sẽ nhận thức được mọi cái còn lại và có thể giải thoát
được linh hồn khỏi sự lo âu khổ não của đời sống trần tục và ràng buộc của
thế giới này là tinh thần vũ trụ tối cao Brahman, là thực thể duy nhất, có trước
nhất, tồn tại vĩnh viễn, bất diệt, là cái từ đó tất cả thế giới này đều nảy sinh ra
và nhập về với nó sau khi chết. Tóm lại, Brahman là tinh thần vũ trụ, là đấng
sáng tạo duy nhất, là đại ngã, đại đinh, là vũ trụ xung quanh cái tồn tại thực
sự, là khách thể. Còn Átman là tinh thần con người, là tiểu ngã, là cái có thể
mô hình hóa, là chủ thể và chẳng qua chỉ là linh hồn vũ trụ cư trú trong con
người mà thôi. Linh hồn con người chỉ là sự biểu hiện, là một bộ phận của
tinh thần tối cao. Vì Átman “linh hồn” là cái tồn tại trong thể xác con người ở
11
đời sống trần tục, nên ý thức con người lầm tưởng rằng linh hồn, “cái ngã” là
cái khác với linh hồn vũ trụ, khác với ngồn sống không có sinh, không có diệt
vong của vũ trụ. Vậy nên kinh Vêda nối con người với vũ trụ bằng cầu khẩn,
cúng tế, bắt chước hòa điệu của vũ trụ bằng lễ nghi, hành lễ hình thức ở bên
ngoài. Còn kinh Upanishad quay vào hướng nội để đi từ trong ra, đồng nhất
cá nhân với vũ trụ bằng tri thức thuần túy kinh nghiệm. Đối với phương Tây
lại nhấn mạnh tách con người ra khỏi vũ trụ, coi con người là chủ thể, chúa tể
để nghiên cứu chinh phục vũ trụ - thế giới khách quan. Và cũng chính từ thế
giới khách quan nên dẫn đến hướng nghiên cứu tiếp cận cũng khác nhau: Từ
thế giới quan triết học thiên nhân hợp nhất là cơ sở quyết định nhiều đặc điểm
khác nhau của triết học phương Đông như lấy con người làm đối tượng
nghiên cứu chủ yếu, tính chất hướng nội, hầu như nghiên cứu thế giới cũng là
để làm rõ con người và vấn đề bản thể luận trong triết học phương Đông bị
mờ nhạt. Nhưng ngược lại triết học phương Tây lại đặt trọng tâm nghiên cứu
vào thế giới, tính chất hướng ngoại, còn vấn đề con người chỉ được nghiên
cứu để giải thích thế giới mà thôi. Cho nên phương Tây bàn đậm nét về bản
thể luận của vũ trụ. Cái khác biệt nữa là ngay trong vấn đề con người, phương
Đông cũng quan niệm khác phương Tây. Ở phương Đông, người ta đặt trọng
tâm nghiên cứu mối quan hệ con người với người và đời sống tâm linh, ít
quan tâm đến mặt sinh vật của con người, chỉ nghiên cứu mặt đạo đức thiện
hay ác theo lập trường của giai cấp thống trị cho nên nghiên cứu con người
không phải là để giải phóng con người mà là để cai trị con người, không thấy
quan hệ giữa người với người trong lao động sản xuất. Ở phương Tây họ lại ít
quan tâm đến mặt xã hội của con người, đề cao cái tự nhiên, mặt sinh vật
trong con người, chú ý giải phóng con người về mặt nhận thức, không chú ý
đến nguyên nhân kinh tế xã hội, cái gốc để giải phóng con người.
Thứ hai, ở phương Đông những tư tưởng triết học ít khi tồn tại dưới
dạng thuần túy, mà thường đan xen với các hình thái ý thức xã hội khác, cái
nọ lấy cái kia làm chỗ dựa và điều kiện để tồn tại và phát triển cho nên ít có
12
những triết gia với những tác phẩm độc lập. Và có những thời kỳ người ta đã
lầm tưởng triết học là khoa học của khoa học như triết học Trung hoa đan xen
với chính trị lý luận, còn triết học Ấn Độ lại đan xen tôn giáo với nghệ thuật.
Nói chung ở phương Đông thì triết học thường ẩn dấu đắng sau các khoa học.
Ở phương Tây ngay từ thời kỳ đầu triết học đã là một môn khoa học độc lập
với các môn khoa học khác mà các khoa học lại thường ẩn dấu đằng sau triết
học và thời kỳ trung cổ là điển hình, khoa học muốn tồn tại phải khoác áo tôn
giáo, phải tự biến mình thành một bộ phận của giáo hội.
Thứ 3, lịch sử triết học phương Đông ít thấy có những bước nhảy vọt về
chất có tính vạch ra ở các thời điểm mà chỉ là sự phát triển cục bộ, kế tiếp xen
kẽ. Ở Ấn Độ cũng như Trung Quốc, các trường phái có từ thời cổ đại vẫn giữ
nguyên tên gọi cho tới ngày nay (từ thế kỷ thứ VIII-V Tr.CN đến thế kỷ
XIX). Nội dung có phát triển nhưng chỉ là sự phát triển cục bộ, thêm bớt hay
đi sâu vào từng chi tiết như: Nho tiền Tần, Hán nho, Tống nho vẫn trên cơ sở
nhân – lễ - chính danh, nhưng có cải biên về quan điểm hay một hệ thống nào
đó để hoàn thiện và phát triển nó hơn là vạch ra những sai lầm và không đặt
ra mục đích tạo ra thứ triết học mới. Do vậy nó không mâu thuẫn với các học
thuyết đã được đặt nền móng từ ban đầu, không phủ định nhau hoàn toàn và
dẫn đến cuộc đấu tranh trong các trường phải không gay gắt và cũng không
triệt để. Có tình trạng đó chính là do chế độ phong kiến quá kéo dài và bảo
thủ, kết cấu kinh tế giai cấp trong xã hội đan xen cộng sinh bên nhau. Ngược
lại ở phương Tây lại có điểm khác biệt. Ở mỗi giai đoạn, mỗi thời kỳ, bên
cạnh các trường phải cũ lại có những trường phái mới được ra đời có tính chất
vạch thời đại như thời cổ đại bên cạnh trường phái cú lại có những trường
phái mới ra đời có tính chất vạch thời đại như thời cổ đại bên cạnh trường
phái Talet, Hêraclit...đến Đêmocrit rồi thời đại khai sáng Pháp, CNDV ở Anh,
Hà lan, triết học cổ điển Đức và hơn nữa cuộc đấu tranh giữa chủ nghĩa duy
vật và chủ nghĩa duy tâm mang tính chất quyết liệt, triệt để hơn.
13
Thứ tư, sự phân chia trường phái, yếu tố duy vật, duy tâm, biện chứng,
siêu hình không rõ nét. Sự phân chia xét về đại thể, còn đi sâu vào những nội
dung cụ thể thường là có mặt duy tâm có mặt duy vật, sơ kỳ là duy vật, hậu
kỳ là nhị nguyên hay duy tâm, thể hiện rõ thế giới quan thiếu tinh nhất quán,
thiếu triệt để của triết học vì phân kỳ lịch sử trong các xã hội phương Đông
cũng không mạch lạc như phương Tây. Ngược lại triết học phương Tây thì sự
phân chia các trường phái rõ nét hơn và các hình thức tồn tại lịch sử rất rõ
ràng như duy vật chất phác, thô sơ đến duy vật siêu hình rồi đến duy vật biện
chứng.
Thứ năm, hệ thống thuật ngữ của triết học phương Đông cũng khác so
với triết học phương Tây ở 3 mảng:
Về bản thể luận: Phương Tây dùng thuật ngữ “giới tự nhiên”, “bản thể”,
“vật chất”. Còn ở phương Đông lại dùng thuật ngữ “thái cực” đạo, sắc, hình,
vạn pháp hay ngũ hành: Kim, mộc, thủy, hỏa, thổ....Để nói về bản chất của vũ
trụ, đặc biệt là khi bàn về mối quan hệ giữa con người và vũ trụ thì phương
Tây dùng phạm trù khách thể - chủ thể, con người với tự nhiên, vật chất với ý
thức, tồn tại với tư duy. Còn phương Đông lại dùng tâm - vật, năng - sở, lí –
khí, hình – thần. Trong đó hình thần là những phạm trù xuất hiện sớm và
dùng nhiều nhất.
Nói về tính chất, sự biến đổi của thế giới: Phương Tây dùng thuật ngữ
;biện chứng”, siêu hình, thuộc tính vận động, đứng im nhưng lấy cái đấu
tranh cái động là chính. Đối với phương Đông dùng thuật ngữ động – tĩnh,
biến dịch, vô thường, thường còn, vô ngã và lấy cái thống nhất, cái tĩnh làm
gốc là vì phương Đông được xây dựng trên quan điểm vũ trụ là một, phải
mang tính nhịp điệu.
Khi diễn đạt về mối liên hệ các sự vật hiện tượng trên thế giới thì
phương Tây dùng thuật ngữ “liên hệ”, “quan hệ”, “quy luật”. Còn phương
Đông dùng thuật ngữ “đạo”, “lý”, “mệnh”, “thần”, cũng xuất phát từ thế giới
quan thiên nhân hợp nhất nên tất cả phải mang tính nhịp điệu, tính quy luật,
14
tính xoắn ốc của vũ trụ như thái cực đến lưỡng nghi...Có nhịp điệu là hài hòa
âm dương, còn vũ trụ là tập hợp khổng lồ của các xoắn ốc.
Thứ sáu, tuy cả hai dòng triết học phương Đông và phương Tây đều
nhằm giải quyết vấn đề cơ bản của triết học nhưng phương Tây nghiêng nặng
hơn về giải quyết mặt thứ nhất còn mặt thứ hai chỉ giải quyết những vấn đề có
liên quan. Ngược lại ở phương Đông nặng về giải quyết mặt thứ hai cho nên
dẫn đến hai phương pháp tư duy khác nhau. Phương Tây đi từ cụ thể đến khái
quát cho nên là tư duy tất định – tư duy vật lý chính xác, nhưng lại không gói
được cái ngẫu nhiên xuất hiện. Còn phương Đông đi từ khái quát đến cụ thể
bằng các ẩn dụ triết học với những câu cách ngôn, ngụ ngôn nên không chính
xác nhưng lại hiểu cách nào cũng được.
15
KẾT LUẬN
Triết học là một hình thái ý thức xã hội ra đời từ khi chế độ cộng sản
nguyên thủy được thay thế bằng chế độ chiếm hữu nô lệ. Nhưng triết học đầu
tiên trong lịch sử xuất hiện vào khoảng thế kỷ VIII đến VI Tr. CN ở Ấn Độ cổ
đại, Trung Quốc cổ đại, Hy Lạp cổ và La Mã cổ đại và ở các nước khác. Theo
quan điểm của Mác xit, triết học là một hình thái ý thức xã hội, là học thuyết
về những nguyên tắc chung nhất của tồn tại và nhận thức về thái độ của con
người với thế giới, là khoa học về những quy luật chung nhất của tự nhiên, xã
hội và tư duy. Như vậy triết học là một hình thái ý thức xã hội, là sự phản ánh
của tồn tại xã hội và đặc biệt là sự tồn tại này ở xã hội phương Đông khác hẳn
với phương Tây cả về điều kiện tự nhiên, địa lý dân số mà hơn cả là phương
thức sản xuất của phương Đông là phương thức sản xuất nhỏ còn phương Tây
là phương thức sản xuất của tư bản do vậy mà cái phản ánh ý thức cũng khác:
văn hóa phương Đông mang đậm tính chất cộng đồng còn văn hóa phương
Tây mang tính cá thể. Chính vì vậy mà nền triết học của phương Đông cổ đại
và phương Tây cổ đại bên cạnh những điểm tương đồng lại có rất nhiều khác
biệt.
Trong khuôn khổ một bài tiểu luận thì việc nghiên cứu sự giống và khác
nhau của hai nền triết học này chưa thực sự sâu sắc. Vì vậy, em rất mong
được sự tham gia góp ý của các thầy cô để bài tiểu luận của mình được hoàn
chỉnh hơn.
16
MỤC LỤC
17