Tải bản đầy đủ (.doc) (26 trang)

tiểu luận cao học sản xuất giá trị thặng dư

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (196.3 KB, 26 trang )

CHƯƠNG I:
LÝ LUẬN CHUNG
I.QUY LUẬT GIÁ TRỊ THẶNG DƯ
1.1Giá trị thặng dư
Mục đích của các nhà tư bản chủ nghĩa sản xuất hàng hóa là sản xuất
giá trị thặng dư. Để sản xuất giá trị thặng dư thì đầu tiên nhà tư bản phải tổ
chức sản xuất ra những hàng hóa có giá trị sử dụng. Vì giá trị sử dụng là nội
dung vật chất của hàng hóa, là vật mang giá trị và giá trị thặng dư. Vậy giá trị
thặng dư là gì?
Giá trị thặng dư là giá trị mới do lao động của người công nhân tạo
ra ngoài giá trị sức lao động, là kết quả lao động không công của công nhân
cho nhà tư bản.
Để sản xuất giá trị thặng dư thì nhà tư bản phải ứng tư bản ra để mua tư
liệu sản xuất và sức lao động, nghĩa là chuyển hóa tư bản tiền tệ thành hai
hình thái khác nhau của tư bản sản xuất:
 Tư bản bất biến: là bộ phận tư bản tồn tại dưới hình thái tư liệu sản
xuất, giá trị của nó không biến đổi về lượng trong quá trình sản xuất
 Tư bản khả biến là bộ phận tư bản dùng để mua sức lao động đã có sự
biến đổi về lượng trong quá trình sản xuất.
Quá trình tạo ra giá trị thặng dư luôn có sự kết hợp của cả hai hình thái
trên. Trong đó tư bản khả biến dùng để mua sức lao đông có vai trò trực tiếp
sáng tạo ra giá trị thặng dư. Còn tư bản bất biến đóng vai trò gián tiếp, nó chỉ
là điều kiện vật chất cần thiết cho quá trình sản xuất, tự bản thân nó không tạo
ra giá trị thặng dư.


Qua đây ta có thể kết luận: tư bản là giá trị đem lại giá trị thặng dư
bằng cách bóc lột công nhân làm thuê, tư bản thể hiện quan hệ sản xuất giữa
giai cấp tư sản và giai cấp vô sản, tư bản là phạm trù lịch sử.
Các nhà tư bản đã dùng nhiều phương pháp khác nhau tùy theo điều
kiện kinh tế - kĩ thuật để làm cho khối lượng giá trị thặng dư ngày càng lớn.


Trong đó có hai phương pháp cơ bản sản xuất giá trị thặng dư: tuyệt đối và
tương đối.
 Giá trị thặng dư tuyệt đối là giá trị thặng dư thu được bằng cách kéo
dài ngày lao động, hoặc tăng cường độ lao động.
 Giá trị thăng dư tương đối là giá trị thặng dư thu được bằng cách rút
ngắn thời gian lao động tất yếu, và tương ứng làm tăng lao động thặng dư.
Giá trị sức lao động được quyết định bởi giá trị các tư liệu tiêu dùng và
dịch vụ để sản xuất, tái sản xuất sức lao động. Vì vậy, để hạ thấp giá trị sức
lao động thì phải giảm giá trị các tư liệu sinh hoạt và dịch vụ cần thiết cho
người công nhân bằng cách tốt nhất là tăng năng suất lao động xã hội trong
các ngành sản xuất tư liệu tiêu dùng và các ngành sản xuất tư liệu sản xuất.
Muốn tăng năng suất lao động phải cải tiến sản xuất, đổi mới công
nghệ. Cách này chỉ áp dụng cho các xí nghiệp nào đó, còn một số xí nghiệp
thì chưa có điều kiện để làm. Và giá trị thặng dư siêu ngạch xuất hiện
 Giá trị thặng dư siêu ngạch là phần giá trị thặng dư thu được do các
nhà tư bản cá biệt đi đầu trong việc cải tiến kĩ thuật công nghệ làm giảm giá
trị cá biệt của hàng hóa xuống thấp hơn giá trị xã hội của hàng hóa.
Tóm lại, giá trị thặng dư siêu ngạch là động lực mạnh nhất thúc đẩy
các nhà tư bản đổi mới công nghệ để tăng năng suất lao động cá biệt, đánh bại
đối thủ của mình trong cạnh tranh. Tuy giá trị thặng dư tuyệt đối và giá trị


thặng dư tương đối có sự khác nhau nhưng cả hai đều là một bộ phận giá trị
mới do công nhân sáng tạo ra và là lao động không trả công.
1.2 Sản xuất giá trị thặng dư –quy luật giá trị thặng dư
Mỗi một phương thức sản xuất thì bao giờ cũng tồn tại một quy luật
phản ánh bản chất của phương thức sản xuất, quy định sự vận động phát triển
của phương thức sản xuất và đóng vai trò chủ đạo trong hệ thống các quy luật
kinh tế gọi là quy luật kinh tế cơ bản. Và trong nền sản xuất tư bản chủ nghĩa,
thì C.Mác xác định quy luật kinh tế đó là quy luật sản xuất giá trị thặng dư.

Mục đích của sản xuất tư bản chủ nghĩa là làm giàu là nhân giá trị lên, do đó
là bảo toàn giá trị cũ và tạo ra giá trị thặng dư.
 Sản xuất giá trị thặng dư là mục đích trực tiếp duy nhất của nền sản
xuất tư bản chủ nghĩa.
Với mục đích trên thì các nhà tư bản có thể sản xuất ra bất kì hàng hóa
gì, và bất chấp tất cả miễn là tối đa hóa được giá trị thặng dư. Đây chính là
mục đích, động cơ thúc đẩy sự hoạt động của mỗi nhà tư bản. Để tối đa hóa
giá trị thặng dư các nhà tư bản tăng cường bóc lột công nhân làm thuê, không
phải bằng cưỡng bức siêu kinh tế mà trên cơ sở mở rộng sản xuất, kéo dài
ngày lao động tăng cường độ lao động, phát triển kĩ thuật tăng năng suất lao
động, …Đây là phương tiện để đạt mục đích của nền sản xuất tư bản chủ
nghĩa.
Quy luật giá trị thặng dư ra đời cùng với sự ra đời của quan hệ sản xuất
tư bản chủ nghĩa, nó tồn tại và phát huy tác dụng cùng với sự tồn tại và vận
động của nền kinh tế tư bản chủ nghĩa.
 Quy luật giá trị thặng dư là quy luật kinh tế cơ bản của chủ nghĩa tư
bản.
II.

KINH TẾ THỊ TRƯỜNG ĐỊNH HƯỚNG XHCN


Như ta đã biết việc thừa nhận kinh tế thị trường không phải là sản phẩm
riêng có của chủ nghĩa tư bản đặt ra cho chúng ta nhiệm vụ nghiên cứu, vận
dụng tốt kho tàng tri thức về kinh tế thị trường và các quy luật của nó nhằm
thực hiện mục tiêu: “dân giàu, nước mạnh, xã hội công bằng, dân chủ, văn
minh”. Vậy vấn đề cần đặt ra ở đây là tìm hiểu và nghiên cứu kinh tế thị
trường vì nước ta đang trên đường đi lên CNXH.
1.1 Kinh tế thị trường
Ở nước ta, trong thời kì quá độ muốn phát triển mạnh mẽ lực lượng sản

xuất thì phải xã hội hóa và chuyên môn hóa. Quá trình này chỉ diễn ra thuận
lợi trong một nền kinh tế hàng hóa với thị trường ổn định.
 Thị trường là lĩnh vực trao đổi hàng hóa, đồng thời là một trong những
hình thức biểu hiện quan hệ sản xuất của những người sản xuất hàng hóa, nên
thị trường hoàn toàn có thể mang bản chất xã hội – kinh tế khác nhau, phụ
thuộc vào tính chất quan hệ sản xuất, trước hết vào chế độ sỡ hữu thống trị
trong từng chế độ xã hội cụ thể.
 Kinh tế thị trừơng là một kiểu tổ chức kinh tế xã hội, trong đó quá
trình sản xuất, phân phối, trao đổi và tiêu dùng đều được thực hịên thông qua
thị trường.
Chính vì thế mà kinh tế thị trường không chỉ là “công nghệ”, “phương
tiện” để phát triển kinh tế xã hội, mà còn là những quan hệ kinh tế xã hội.Vậy
không thể có một nền kinh tế thị trường chung chung thuần túy,trừu tượng
tách rời khỏi hình thái kinh tế xã hội, tách rời khỏi chế độ chính trị của một
nước. Nhà nước và nhân dân mỗi nước tự định hướng mục đích chính trị và
mục đích kinh tế-xã hội nên sự vận động và phát triển của các nền kinh tế thị
trường cũng khác nhau.


Cơ sở khách quan của sự tồn tại và phát triển kinh tế thị trường ở Việt
Nam:
• Phân công lao động xã hội
• Tồn tại nhiều hình thức sở hữu
• Thành phần kinh tế nhà nước và kinh tế tập thể
• Quan hệ hàng hóa – tiền tệ
Vai trò của sự phát triển kinh tế thị trường:
 Phá vỡ dần kinh tế tự nhiên và chuyển thành nền kinh tế hàng hóa
thúc đẩy sự xã hội hóa sản xuất.
 Là động lực thúc đẩy lực lượng sản xuất phát triển, nâng cao năng
suất lao động xã hội

 Kích thích tính năng động, sáng tạo của chủ thể kinh tế, kích thích
việc nâng cao chất lượng, cải tiến mẫu mã, tăng khối lượng hàng hóa dịch vụ.
 Phát huy được tiềm năng, lợi thế của từng vùng, đất nước, có tác
dụng mở rộng quan hệ kinh tế với nước ngoài.
 Thúc đẩy quá trình tích tụ và tập trung sản xuất , tạo điều kiện ra đời
của sản xuất lớn với trình độ xã hội hóa cao. Bên cạnh đó còn chọn lọc được
những người sản xuất kinh doanh giỏi, hình thành đội ngũ cán bộ quản lý có
trình độ, lao động lành nghề đáp ứng nhu cầu phát triển của đất nước.
Vậy phát triển kinh tế thị trường là một tất yếu, một nhiệm vụ kinh tế
cấp bách để chuyển nền kinh tế lạc hậu của nước ta thành nền kinh tế hiện
đại, hội nhập vào sự phân công lao động quốc tế. Đó là con đường đúng đắn
để phát triển lực lượng sản xuất, khai thác có hiệu quả tiềm năng của đất nước
vào sự nghiệp công nghiệp hóa, hiện đại hóa.
1.2Kinh tế thị trường định hướng XHCN


Nước ta đang thực hiện chuyển đổi nền kinh tế, chuyển từ nền kinh tế
hàng hóa tập trung sang nền kinh tế thị trường. Mô hình kinh tế của Việt Nam
được xác định là kinh tế thị trường định hướng xã hội chủ nghĩa.
 Kinh tế thị trường định hướng xã hội chủ nghĩa thực chất là kiểu tổ
chức nền kinh tế -xã hội vừa dựa trên nguyên tắc và quy luật của kinh tế thị
trường, vừa dựa trên những nguyên tắc và bản chất của chủ nghĩa xã hội.
A. Kinh tế thị trường định hướng xã hội chủ nghĩa có hai nhóm nhân
tố cơ bản tồn tại trong nhau, kết hợp với nhau và bổ sung cho nhau. Đó
là:
- Nhóm nhân tố của kinh tế thị trường:đóng vai trò “động lực” thúc đẩy
sản xuất xã hội phát triển nhanh,hiệu quả.
-Nhóm nhân yố của xu hướng mới đang vận động, đang phát triển theo
định hướng xã hội chủ nghĩa:đóng vai trò “hướng dẫn”, “chế định”sự vận
động của nền kinh tế theo những mục tiêu đã xác định,bổ sung những mặc

tích cực, hạn chế những mặc tiêu cực của thị trường, hoàn thiện mô hình chủ
nghĩa xã hội.
B.

Nền kinh tế thị trường định hướng xã hội chủ nghĩa ở Việt

Nam mang những tính chất của nền kinh tế thị trường:
 Thứ nhất là các chủ thể kinh tế có tính độc lập, có quyền tự chủ trong
sản xuất kinh doanh
 Thứ hai là giá cả do thị trường quyết định, hệ thống thị trường được
phát triển đầy đủ và có tác dụng làm cơ sở cho việc phân phối các nguồn lực
kinh tế vào trong các ngành, các lĩnh vực của nền kinh tế.
 Thứ ba là nền kinh tế vận động theo những quy luật vốn có của kinh tế
thị trường như quy luật giá trị, quy luật cung cầu, quy luật cạnh tranh…sự tác
động của các quy luật đó hình thành cơ chế điều tiết của nền kinh tế.


 Thứ tư là nền kinh tế thị trường hiện nay có sự điều tiết vĩ mô của nhà
nước thông qua pháp luật kinh tế, kế hoạch hóa, các chính sách kinh tế.
C.

Mặt khác, kinh tế thị trường định hướng XHCN ở Việt Nam

dựa trên cơ sở và được dẫn dắt, chi phối bởi nguyên tắc và bản chất của
chủ nghĩa xã hội. Do đó, kinh tế thị trường định hướng XHCN có những
đặc trưng cơ bản sau:
 Về mục tiêu phát triển kinh tế thị trường
 Nền kinh tế thị trường gồm nhiều thành phần trong đó kinh tế Nhà
nước giữ vai trò chủ đạo.
 Trong nền kinh tế thị trường định hướng xã hội chủ nghĩa, thực hiện

nhiều hình thức phân phối thu nhập, trong đó lấy phân phối theo lao động là
chủ yếu.
 Cơ chế vận hành nền kinh tế là cơ chế thị trường có sự quản lý của nhà
nước xã hội chủ nghĩa.
 Nền kinh tế thị trường định hướng xã hội chủ nghĩa là nền kinh tế mở,
hội nhập.
D. Thực trạng nền kinh tế thị trường ở Việt Nam
 Trình độ phát triển nền kinh tế thị trường ở nước ta còn ở giai đoạn sơ
khai
 Thị trường dân tộc thống nhất đang trong quá trình hình thành nhưng
chưa đồng bộ
 Nhiều thành phần kinh tế tham gia thị trường
 Sự hình thành thị trường trong nước gắn với mở rộng kinh tế đối ngoại,
hội nhập vào thị trường khu vực và thế giới, trong hoàn cảnh phát triển kinh
tế – kỹ thuật của nước ta thấp xa so với hầu hết các nước khác.
 Quản lý nhà nước về kinh tế - xã hội còn yếu


E. Các giải pháp cơ bản để phát triển nền kinh tế thị trường định
hướng xã hội chủ nghĩa ở Việt Nam
 Thực hiện nhất quán chính sách kinh tế nhiều thành phần.
 Đẩy mạnh công nghiệp hóa, hiện đại hóa, ứng dụng nhanh tiến bộ khoa
học, công nghệ; trên cơ sở đó đẩy mạnh phân công lao động xã hội.
 Hình thành và phát triển đồng bộ các loại thị trường.
 Mở rộng và nâng cao hiệu quả kinh tế đối ngoại.
 Giữ vững ổn định chính trị, hoàn thiện hệ thống luật pháp
 Xóa bỏ triệt để cơ chế tập trung, quan liêu, bao cấp, hoàn thiện cơ chế
quản lý kinh tế của nhà nước.
quy luật giá trị thặng dư trong chế độ tư bản chủ nghĩa được xem là sự
bóc lột sức lao động của ngừơi lao động. Vậy trong chế độ xã hội chủ nghĩa

thì quy luật này còn đúng hay không? Và biểu hiện của nó trong nền kinh tế
thị trường ở Việt Nam như thế nào?

CHƯƠNG II:
SỰ BIỂU HIỆN CỦA QUY LUẬT GIÁ TRỊ THẶNG
DƯ TRONG NỀN KINH TẾ THỊ TRƯỜNG ĐỊNH
HƯỚNG XHCN Ở VIỆT NAM
I.NGHIÊN CỨU GIÁ TRỊ THẶNG DƯ TRONG BỐI CẢNH HIỆN
NAY
Lý luận giá trị thặng dư là một trong những phát hiện vĩ đại của C.Mác.
Nhưng để nhận thức đúng bản chất khoa học của lý luận này cần đặt nó trong
điều kiện cụ thể của từng quốc gia, dân tộc(trong từng giai đoạn lịch sử nhất
định). Thật vậy, hoàn cảnh lịch sử đã đổi mới, cần phải có nhận thức mới ; có
như vậy, chúng ta mới có thể tìm thấy được những hợp lý của lý luận giá trị


thặng dư trong hoàn cảnh lịch sử hiện nay ở nước ta. Sinh thời, chính
V.I.Lênin đã nói rằng : “Chúng ta không thề coi lý luận của Mác như là cái
gì đó đã xong xuôi và bất khả xâm phạm ; trái lại, chúng ta tin rằng lý
luận đó chỉ đặt nền móng cho môn khoa học mà những người XHCN cần
phát triển hơn nữa mọi mặt, nếu họ không muốn trở thành lạc hậu đối
với cuộc sống. Rõ ràng, những chỉ dẫn đó của những nhà sáng lập chủ
nghĩa Mác – Lênin đã cho chúng ta thấy, những thế hệ sau Mác phải
nghiên cứu, xem xét bổ sung, hoàn chỉnh chủ nghĩa Mác nói chung, lý
luận giá trị thặng dư nói riêng cho phù hợp với những điều kiện, những
mối quan hệ thực tế cụ thể, chứ không phải phê phán phủ nhận nó”.
[www.cpv.org.vn]
Khi chế độ XHCN ở Liên Xô và các nước XHCN Đông Âu sụp đổ,
CNXH lâm vào khủng hoảng, thì các thế lực thù địch cố gắng tìm đủ mọi
cách để tấn công vào chủ nghĩa Mác, nhất là lý luận giá trị thặng dư. Một số

bộ phận phản động cho rằng: “Ta xây dựng CNXH bằng cách thực hiện nền
kinh tế nhiều thành phần, vận hành theo cơ chế thị trường, thực hiện chính
sách mở cửa, khuyến khích kinh tế tư nhân phát triển tức là nước ta thừa nhận
lý luận giá trị thặng dư và bác bỏ lý luận giá trị thặng dư của Mác”.
Vậy điều đó là đúng hay sai? Như ta đã biết Việt Nam chủ trương xây
dựng nền kinh tế hàng hóa nhiều thành phần vận động theo cơ chế thị trường
có sự quản lý của Nhà nước theo định hướng XHCN.Chứ không có nghĩa là
lý luận giá trị thặng dư không còn giá trị, mà nó còn được vận dụng một cách
sáng tạo vào sự nghiệp phát triển kinh tế ở nước ta. Với lại, Việt Nam hiện
nay đang ở thời kỳ quá độ lên CNXH, nên tất yếu còn tồn tại nhiều hình thức
sở hữu, nhiều thành phần kinh tế khác nhau. Hơn nữa, kinh tế tư nhân ở Việt
Nam hiện nay không hoàn toàn theo đúng nghĩa của nó nữa. Về mặt chính trị


thì nó đại diện cho giai cấp tư sản. Mà kinh tế tư bản tư nhân và giai cấp tư
sản thì luôn gắn liền với CNTB và chỉ tồn tại trong điều kiện có sự tồn tại của
quan hệ sản xuất TBCN. Nhưng trong quá trình đổi mới ở nước ta, sự xuất
hiện và phát triển các loại hình doanh nghiệp không đồng nghĩa với sự xuất
hiện trở lại của quan hệ sản xuất TBCN và giai cấp tư sản. Về mặt kinh tế thì
các doanh nghiệp hoạt động theo Luật Doanh nghiệp ở nước ta, ngay cả các
doanh nghiệp có quy mô lớn cũng vậy. Đó là một bộ phận quan trọng của
quan hệ sản xuất định hướng XHCN, được hình thành và phát triển trong điều
kiện có sự lãnh đạo của Đảng Cộng sản, chịu sự quản lý của Nhà nước
XHCN, phục vụ cho sự nghiệp đổi mới, được nước ta khuyến khích bảo vệ,và
không chịu sự chi phối của quy luật giá trị thặng dư.
Tóm lại, xây dựng nền kinh tế hàng hóa nhiều thành phần, khuyến
khích phát triển kinh tế tư nhân ở Việt Nam hiện nay chẳng những không phủ
nhận lý luận giá trị thặng dư mà còn giữ nguyên được giá trị của nó.Bên cạnh
đó cần bổ sung, và nhận thức nó một cách đầy đủ trong bối cảnh hiện nay.
Vậy kinh tế tư bản tư nhân ở Việt Nam hiện nay như thế nào?

Các loại hình doanh nghiệp của tư nhân và đội ngũ doanh nhân ở nước
ta được hình thành và phát triển trong điều kiện mới, nên không hàm chứa
tính chất tư bản hay bản chất tư bản như là ở xã hội tư bản. Đây là một hình
thức tổ chức sản xuất kinh doanh tất yếu, phù hợp với điều kiện của nền kinh
tế thị trường hiện đại, ra đời và phát triển vì bản thân của công cuộc đổi mới
và phục vụ cho sự nghiệp đổi mới. Giai cấp và tầng lớp xã hội đại diện cho
các tổ chức doanh nghiệp ở nước ta hiện nay không phải là thuộc bộ phận tư
sản, càng không phải là giai cấp tư sản. Vì vậy ta không nên coi các doanh
nghiệp tư nhân ở Việt Nam và các doanh nghiệp quy mô lớn là kinh tế tư bản
tư nhân.


Kinh tế tư bản tư nhân là sản phẩm của công cuộc đổi mới, các doanh
nghiệp tư nhân ở nước ta ngay từ khi mới ra đời đã mang tính xã hội chủ
nghĩa. Nó đại diện cho một lực lượng sản xuất mới, là một trong những động
lực thúc đẩy tăng trưởng kinh tế, phát triển nền kinh tế thị trường định hướng
XHCN.
Đã vậy, các doanh nhân ở nước ta hiện nay đều là những đảng viên
đoàn viên, cán bộ quân đội và tầng lớp tri thức được sinh ra và trưởng thành
trong chế độ mới. Họ đi theo Đảng, mang hết trí tuệ và sức lực của mình phục
vụ sự nghiệp của Đảng.Vậy chẳng lẽ doanh nghiệp của họ là thuộc kinh tế tư
bản tư nhân và bản thân họ là những nhà tư bản.
Vậy ta không cần phân định rạch ròi thế nào là kinh tế tư bản tư
nhân, càng không gắn kinh tế tư nhân, nhất là các doanh nghiệp quy mô lớn
với “bóc lột”.
Cụ thể:
Thực tiễn ở nước ta cho thấy, công cuộc đổi mới đã tạo điều kiện cho
kinh tế tư nhân, kinh tế có vốn đầu tư nước ngoài, phát triển mạnh mẽ. Chỉ
trong một thời gian rất ngắn, các hình thức kinh tế ngoài Nhà nước đã trở
thành một lực lượng to lớn, một trong những động lực góp phần thúc đẩy tăng

trưởng kinh tế. Tính đến cuối năm 2003,kinh tế tư nhân ở nước ta bao gồm
hơn 10 triệu hộ nông dân sản xuất hàng hóa; 2,7triệu hộ kinh doanh cá thể
công thương nghiệp, hơn 130.000 trang trại và khoảng 120.000 doanh nghiệp.
Kinh tế tư nhân đã chiếm 41% tổng GDP (nếu tính cả khu vực có vốn đầu tư
nước ngoài thì tỷ lệ này là 54%; còn khu vực kinh tế Nhà nước chỉ chiếm
38%). Năm 2003, kinh tế tư nhân 48% tổng kinh ngạch xuất khẩu của cả nước
và đóng góp chủ yếu trong 6/7 mặt hàng xuất khẩu chủ lực(dầu khí, thủy sản,
may mặc, giày dép, gạo, cà phê, điện tử máy tính và sản phẩm gỗ); khu vực


kinh tế tư nhân chiếm 27% tổng đầu tư xã hội(khoảng 10 tỷ USD), cao hơn tỷ
trọng đầu tư của doanh nghiệp Nhà nước; kinh tế tư nhân là khu vực chủ yếu
tạo việc làm cho người lao động và có mặt trong hầu hết các ngành kinh tế.
trong những năm tới, kinh tế tư nhân, kinh tế có vốn đầu tư nước ngoài sẽ tiếp
tục phát triển mạnh mẽ hơn, có vai trò ngày càng quan trọng hơn, đóng vai trò
quyết định trong nhiều ngành lĩnh vực kinh tế ở nước ta.[Thứ sáu 25/06/2004
13:47,www.tapchicongsan.org.vn]
Qua đây cho thấy, việc xác định một cách cố định vai trò chủ đạo của
kinh tế Nhà nước không còn phù hợp với điều kiện của kinh tế thị trường hiện
đại, mà còn tạo ra sự phân biệt không cần thiết giữa các loại hình kinh tế.Bên
cạnh đó, việc khẳng định vai trò chủ đạo của kinh tế Nhà nước ở nước ta hiện
nay cũng tạo sự phân biệt trong thực tế cả về thể chế chính sách cụ thể và tâm
lý xã hội đi ngược chủ trương tạo ra một sân chơi bình đẳng cho mọi loại hình
kinh tế, kìm hãm sự giải phóng lực lượng sản xuất. Làm cho khu vực kinh tế
ngoài Nhà nước mắc phải những khó khăn về thể chế, chính sách và thái độ
của xã hội. Nó làm chậm tiến trình đổi mới doanh nghiệp Nhà nước và do đó
làm cho kinh tế suy yếu hơn.
Kết quả thu được từ chương trình khoa học xã hội cấp nhà nước
giai đoạn (2001-2005)
Vấn đề kinh tế tư nhân đã được khẳng định là nền tảng, động lực để

phát triển kinh tế. Liên quan đến vấn đề đảng viên làm kinh tế tư nhân,
Chương trình đã luận giải được vấn đề kinh tế kinh tế tư nhân trong điều kiện
nền kinh tế thị trường định hướng XHCN khác với kinh tế tư nhân trong điều
kiện của TBCN. Dưới chế độ tư bản, nó chịu ảnh hưởng của chế độ tư bản
nên những nhà doanh nghiệp mang tính chất tư bản. Còn ở Việt Nam, kinh tế
tư nhân được sinh ra từ trong lòng của chế độ này, do chủ trương của Đảng,


chịu sự quản lý của Nhà nước XHCN. Nếu nói cách khác ở nước ta hiện nay
có doanh nghiệp nhà nước và doanh nghiệp tư nhân, các doanh nghiệp đều
chịu sự điều chỉnh của một luật chung (ví dụ như vấn đề lương…). Nên nó
cũng sẽ giống như các thành phần kinh tế khác mà thôi. Nói thì dể nhưng mỗi
khi nói tới kinh tế tư nhân là người ta nghĩ ngay đến “bóc lột”. Thực ra, một
nền kinh tế càng phát triển thì càng phải có giá trị thặng dư. Trong chế độ
phong kiến, chủ yếu là kinh tế cá thể, kinh tế hộ gia đình, làm ra chỉ đủ ăn nên
không có giá trị thặng dư. Chỉ có mô hình sản xuất theo kiểu nhà máy thì lúc
đó mới có thặng dư. Nhưng vấn đề bóc lột hay không bóc lột không phải ở
chỗ làm ra giá trị thặng dư, mà ở chỗ phân phối giá trị thặng dư đó như thế
nào. Trong phân phối phải theo luật pháp của Nhà nước, nền kinh tế tư bản sẽ
bóc lột theo nhu cầu của họ, còn trong CNXH lại khác. Chương trình xem xét
dưới góc độ “bóc lột” trên khía cạnh phân phối và có những đánh giá đúng
đắn về công lao của những người làm doanh nghiệp.[www.vass.gov.vn]
II.

THUYẾT GIÁ TRỊ THẶNG DƯ CHƯA HOÀN TOÀN

ĐÚNG
Luận thuyết giá trị thặng dư cho rằng trong quan hệ giữa người chủ là
nhà Tư bản với người công nhân là người lao động làm thuê chỉ có người
công nhân tạo ra giá trị mới, nhưng người công nhân chỉ được trả một phần

giá trị mới do anh ta tạo ra và phần giá trị mới mà anh ta không được trả là giá
trị thặng dư là nguồn gốc của lợi nhuận của các nhà Tư bản bao gồm lãi của
Tư bản công nghiệp, lợi nhuận của tư bản thương nghiệp, lợi tức ngân
hàng…, đó là bóc lột, là bất công, sự công bằng là phải trả cho công nhân
toàn bộ giá trị mới tạo ra. Nhưng khi nhìn vào thực tế mối quan hệ kinh tế
hiện nay trong một doanh nghiệp, trong một ngành sản xuất, một quốc gia
cũng như toàn thế giới thì không thể coi giá trị mới tăng thêm của xã hội chỉ


là do người công nhân làm ra, mà đó là sự đóng góp chung của nhiều người,
không phải chỉ có một mình giai cấp công nhân công nghiệp tạo ra giá trị mới,
không thể xem tất cả các yếu tố đóng góp cho kinh tế đều bằng nhau hoặc
khẳng định một yếu tố nào là quyết định nhất, mà tùy theo từng điều kiện
khác nhau mà mỗi yếu tố đó khác nhau.
Sự chưa chính xác của luận thuyết giá trị thặng dư là ở chỗ tuyệt đối
hóa việc tao ra giá trị mới chỉ là của người công nhân dẫn đến đòi hỏi phải
trả lại toàn bộ giá trị mới cho người công nhân, không công nhận các yếu
tố khác hợp thành quy trình kinh tế ( có hiện tượng bóc lột trong quan hệ
kinh tế giữa chủ và thợ nhưng tuyệt đối hóa các quan hệ giữa con người
giữa các giai cấp trong xã hội đều là bóc lột giá trị thặng dư của người
công nhân thì lại sai)và từ luận điểm sai lầm này dẫn đến việc coi đã là
kinh tế tư bản tư nhân là bóc lột thì chưa chính xác.[www.vietnamnet.vn]
Từ những luận điểm chưa đúng trên, dẫn đến nhìn xã hội đều dựa vào
giá trị thăng dư của người công nhân mà không thấy mặt phân công lao động
của các giai cấp trong xã hội. Nhìn mối quan hệ kinh tế của các giai cấp trong
xã hội chỉ nhìn thấy mặt bóc lột là chủ yếu. Tuyệt đối hóa việc bóc lột giá trị
thặng dư là quan hệ chủ yếu của các giai cấp trong xã hội là quan điểm chưa
đúng.
III.


TA CÓ NÊN CẦN CÓ CÁI NHÌN MỚI ĐỐI VỚI KHÁI

NIỆM “BÓC LỘT” KHÔNG ?
Sự chuyển đổi từ nền kinh tế quản lý tập trung sang nền kinh tế thị
trường buộc chúng ta phải có cách nhìn đổi mới với khái niệm “bóc lột”-một
khái niệm có liên quan chặt chẽ cả về lý luận lẫn thực tiễn với một số vấn đề
kinh tế và xã hội rất cơ bản hiện nay do thực tế đặt ra cần phải giải quyết.


Trong kinh tế chính trị học, “bóc lột” được hiểu là: Nhà doanh nghiệp
bỏ tiền ra mua công xưởng, trang thiết bị máy móc đồng thời thuê lao động để
sản xuất hàng hóa. Sau khi bán xong hàng hóa đó, nhà doanh nghiệp thu lại
được tiền vốn đã bỏ ra ban đầu đồng thời còn có thêm một khoãng tiền lãi. Số
tiền bỏ ra ban đầu đó được gọi là “tư bản”, còn khoãn tiền lãi thì gọi là giá trị
“thặng dư”. Mác chỉ rõ nguồn gốc của giá trị thặng dư chính là do lao động
tạo ra nhưng không thuộc về người lao động mà lại thuộc về chủ “tư bản”nên
thực sự đó là sự bóc lột hiểu theo nghĩa: “bóc lột giá trị thặng dư”.
Như vậy, khái niệm “bóc lột giá trị thặng dư” gắn liền với khái niệm
“nền kinh tế thị trường”. Khi nào nền kinh tế thị trường còn tồn tại thì
chừng đó phải hiểu rằng bóc lột giá trị thặng dư là tất yếu, không phụ thuộc
vào ý muốn chủ quan của con người. Quan điểm chấp nhận bóc lột giá trị
thặng dư chính là tiền đề để giải quyết một số vấn đề thực tiễn cơ bản sau:


Một là, kinh tế thị trường chỉ đạt hiệu quả tối ưu, khi thị trường đó tiến

tới lý tưởng. Một thị trường được gọi là lý tưởng khi trong thị trường đó việc
cạnh tranh được phát huy hoàn toàn. Về mặt lý thuyết, cạnh tranh hoàn toàn
chỉ xảy ra khi có:
+ “trăm người bán, vạn người mua”, nghĩa là có một số vô cùng lớn các

doanh nghiệp tham gia,
+ Không ai hơn ai trong việc làm chủ thị trường, nghĩa là không ai có thể
và có quyền quyết định được giá cả số lượng cơ cấu hàng hóa mua bán trên
thị trường
+ Tất cả người mua và bán đều nắm được đầy đủ các thông tin về thị
trường, nghĩa là không ai được hơn ai trong quá trình mua bán.
Như vậy, muốn nền kinh tế nước ta tiến tới một thị trường lý tưởng,
kinh doanh đạt được nhiều hiệu quả kinh tế tối ưu thì điều kiện cần đầu tiên


là: số lượng doanh nghiệp phải đạt được nhiều đến mức tối đa. Điều này lý
giải tại sao nước ta khi chuyển đổi sang nền kinh tế thị trường, việc đầu tiên là
phải phát triển mạnh mẽ doanh nghiệp dân doanh và tích cực thu hút đầu tư
nước ngoài. Nhưng doanh nghịêp dân doanh sẽ không thể phát triển mạnh
được, đầu tư nước ngoài cũng sẽ không thể thu hút nhiều được nếu họ không
đạt được mức tối thiểu về lãi. Nên mọi nỗ lực của Nhà nước trên lĩnh vực này,
muốn có hiệu quả, phải nhằm vào mục tiêu lợi nhuận cho doanh nghiệp. Vì
vậy, nếu không chấp nhận bóc lột giá trị thặng dư thì không thể giải quyết
được cơ bản, lâu dài vấn đề phát triển doanh nghiệp dân doanh và thu hút đầu
tư nước ngoài.
− Đảng và Nhà nước ta đã vạch ra đường lối kinh tế với mục tiêu dân
giàu, nước mạnh. Trong nền kinh tế thị trường, khái niệm giàu không còn
nằm trong phạm vi tư liệu tiêu dùng: “ăn, ở, đi lại mà mở rộng sang cả phạm
vi tư liệu sản xuất”: xí nghiệp, nhà máy, đất đai, cổ phiếu, tiền gửi tiết kiệm…
thực tế cho thấy dù cho cá nhân đó có là một triệu phú đi nữa, thì họ cũng chỉ
tiêu dùng cho cá nhân giống như mọi người “bậc trung” khác mà thôi, chỉ
khác người “bậc trung” là họ có tài sản là tư liệu sản xuất dư thừa.
Nhưng tài sản tư liệu sản xuất này lại chính là cái đẻ ra lãi – đẻ ra “bóc
lột giá trị thặng dư”và do đó ngày càng giàu thêm, nhưng mặt khác sản xuất
của toàn xã hội lại nhờ có tư liệu sản xuất này mà phát triển. Vì vậy, nếu

không chấp nhận “bóc lột giá trị thặng dư”để kích thích sự làm giàu của
người dân qua việc tích lũy đầu tư cho sản xuất thì mục tiêu làm giàu sẽ bị
giới hạn và giàu sẽ chạy theo khuynh hướng tiêu xài lãng phí.
− Đảng viên là những người có phẩm chất chính trị - nghĩa là những
người có trách nhiệm đi đầu và thông qua vai trò của mình biến các đường lối
chủ trương chính sách của Đảng và Nhà nước thành hiện thực, đồng thời cũng


như mọi người dân bình thường khác, họ có cuộc sống cá nhân riêng, có tri
thức và năng lực nghề nghiệp riêng phục vụ cho cuộc sống mưu sinh của cá
nhân họ. Trong nền kinh tế thị trường, lực lượng doanh nhân đóng vai trò
xung kích, lực lượng này thiếu và yếu thì không thể hi vọng một nền kinh tế
hiện đại. Vì vậy, chấp nhận “bóc lột giá trị thặng dư” chính là mở đường về
mặt tư tưởng để thu hút đảng viên là những người vừa có phẩm chất chính trị
vừa có năng lực nghề nghiệp vào lực lượng xung kích, khi được điều lệ Đảng
cho phép. Nếu đảng viên đóng vai trò nồng cốt trong lực lượng xung kích, thì
lượng này sẽ phát triển mạnh hơn và được Đảng lãnh đạo trực tiếp hơn, đi
đúng hướng hơn. Để chủ động giải quyết vấn đề quan niệm Đảng viên với
doanh nhân, cần phải dự tính đến thực tế vào năm 2020 khi mà nước ta cơ bản
trở thành một nước công nghiệp. Lúc đó nước ta cũng giống như nhiều nước
công nghiệp khác có hàng triệu doanh nghiệp với hàng triệu doanh nhân. Đó
là một lực lượng lớn mạnh và cực kỳ quan trọng không thể không xem xét khi
giải quyết vấn đề nói trên.
Bóc lột giá trị thăng dư chính là phần lãi của chủ doanh nghiệp. Nếu
giá trị hàng hóa của doanh nghịêp bán ra cố định khấu hao tài sản cố định, thì
tiền lãi sẽ càng cao, nếu tiền lương trả cho công nhân càng thấp. Vì vậy, bóc
lột giá trị thặng dư chính là nguồn gốc sâu xa đẻ ra mâu thuẫn giữa người
làm công và giới chủ, tồn tại trong bất kỳ một nến kinh tế thị trường nào:
người làm công thì muốn có lương cao, chủ doanh nghiệp thì muốn có lãi lớn.
[cập nhật lúc 8:36’PM,Thứ năm 02/03/2006,www.chungta.net]

 Vậy vai trò của nhà nước trong nền kinh tế thị trường là sự điều chỉnh ở
tầng vĩ mô. Có nghĩa là chúng ta chấp nhận các quy luật của thị trường trong
nền kinh tế nhưng sẽ phải làm hạn chế những ,mặc trái của thị trường bằng
các công cụ quản lý của nhà nước như: tạo môi trường hành lang pháp lý, xây


dựng một môi trường cạnh tranh lành mạnh bình đẳng giữa các thành phần
kinh tế, sử dụng các công cụ thuế, tài khoá một cách hợp lý, bảo vệ quyền lợi
của người lao động…
Sau đây là một nhận định về “bóc lột” của một người trên báo Sài Gòn
Times
Thế hệ chúng tôi được đào tạo dưới mái trường XHCN từ thơ ấu. Chiến
tranh, ở đất lửa Quãng Trị hoàn thành nhiệm vụ quân ngũ, chúng tôi được
chuyển ngành về học đại học. Trong môn học chính trị - kinh tế học Máclênin(khi ấy chưa đảo ngược thành “Kinh tế- chính trị học”để nhấn mạnh kinh
tế là cái gốc của chính trị như bây giờ), khi được giảng về công thức nổi tiếng
(C+V+m)do Mác đưa ra để chứng minh nhà tư bản bóc lột giá trị thặng dư,
một số sinh viên học giỏi hay khá môn này, có tư duy độc lập, vẫn thấy có
điều gì đó chưa thuyết phục, chưa ổn.
Qua công thức C+V+m, Mác muốn chứng minh rằng: giá trị thặng dư
(m: lợi nhuận) chỉ có nguồn gốc từ chi phí lao động (V:tư bản khả biến),
không có nguồn gốc từ vốn liếng(C1+C2=C:tư bản bất biến). Vì vậy nhà tư
bản làm giàu (mặc dù qua quá trình bỏ vốn, huy động nhân công, tính toán
thu xếp sản xuất kinh doanh, lời ăn lỗ chịu)là bóc lột sức lao động của nhân
công. Là sinh viên chưa có thực tiễn trải nghiệm như bây giờ, chúng tôi tiếp
thu luận điểm ấy một cách hồn nhiên nhưng vẫn băn khoăn: thế thì người có
tài sản, vốn liếng, có năng lực sản xuất, kinh doanh, nếu sợ (mang tiếng) bóc
lột, điều gì bày ra chuyện đầu tư vào sản xuất kinh doanh? Đối chiếu với thực
tiễn: cũng anh nông dân ấy, hôm qua cầm chiếc cuốc, cả ngày vất vả, cuốc
được vài sào ruộng. Hôm nay, trên chiếc máy cày chủ giao, anh ta dễ dàng
cày hàng mấy héc ta. Năng suất hơn hẳn, của cải vật chất làm ra hơn hẳn. Vậy

nguồn gốc lợi nhuận đâu chỉ do mỗi mình anh nông dân làm ra?


Trở lại khái niệm bóc lột. Nếu công nhận việc chủ doanh nghiệp tư
nhân thuê lao động là bóc lột thì ít nhất, đó cũng là hình thức bóc lột công
khai (mọi người đều biết),hợp pháp (luật pháp thừa nhận, bảo hộ, đánh
thuế)và thỏa thuận tự nguyện (chủ vần lao động để kiếm lợi nhuận, lao động
cần việc làm để kiếm thu nhập). Nếu có ông chủ nào đó tự nhiên “giác ngộ”
rằng tôi đã thuê lao động, tôi đã bóc lột, thôi từ nay xin thôi, dẹp chuyện kinh
doanh, đem vốn gửi ngân hàng lấy lãi để tiêu, chắc chắn những người bị ảnh
hưởng và phản đối đầu tiên lại là những người lao động mất việc. Công đoàn
Nhà nước lại phải ra tay can thiệp.
Mấu chốt vấn đề là ngân sách (chủ yếu từ thuế)được quản lý, phân phối
và sử dụng ra sao ? Ở các nước đề cao và thực hiện tốt dân chủ, công khai,
luật pháp hoàn chỉnh và minh bạch, chuyện tham ô lãng phí ngân sách, nhũng
nhiêu không dễ xảy ra. Ở ta, điều nghịch lý đang diễn ra: ở đâu, khi nào cấp
nào, người nào cũng hô hào chống tham nhũng, lãng phí nhưng tệ nạn ấy
đang trở thành quốc nạn. Có những đảng viên có chức, có quyền, không hề
tham gia sản xuất kinh doanh với tư cách chủ doanh nhân có thuê lao động ,
nhưng tài sản thì cứ ngày càng kệch sù, có khi che đậy bằng các doanh nghiệp
tư nhân của vợ, con, cha, mẹ, họ hàng. Ai cũng biết, nguồn gốc của tài sản đó
là từ ngân sách (chiếm đoạt đất đai, tài nguyên, tham ô từ các dự án, mua sắm
công, nhận hối lộ của các doanh nghiệp, cơ sở, địa phương…).
Nếu cứ ngại đảng viên làm kinh tế tư nhân sẽ tham gia bóc lột mà
không tán thành, e rằng phi thực tế, giáo điều, máy móc. Hơn nữa, nền kinh tế
đất nước không thể tiến kịp với thế giới một khi mọi nguồn lực của sản xuấ
chưa được giải phóng. Vấn đề là ở chỗ, phải hình thành hệ thống luật pháp
hoàn chỉnh và thực thi nghiêm túc hệ thống pháp ấy sao cho ngăn chặn hiệu



quả hiện tượng tham nhũng, rửa tiền, hợp thức hóa tài sản phi pháp, dùng thế
lực chính trị để thao túng trong kinh doanh.
Viết những dòng này, tôi muốn gửi lời tâm huyết với thế hệ trẻ hôm
nay: đừng như đa số chúng tôi từng bị trói buộc bởi những quan điểm lỗi thời
về bóc lột mà cam chịu nghèo khổ, cơ cực. Gần ba mươi năm làm việc trong
các doanh nghiệp nhà nước, ở đơn vị nào, tôi cũng được đánh giá là có năng
lực, nhiều tâm huyết và sáng kiến, làm lợi cho Nhà nước nhiều tỉ đồng nhưng
lương và thu nhập của tôi chỉ cho tôi mức sống khiêm tốn. Chúng tôi vừa
mang nặng tư tưởng: kinh doanh tư bản tư nhân làm giàu là bóc lột, là tội lỗi.
Tỉnh ra, tuổi trẻ, tính năng động không ở lại với mình. Thế hệ chúng tôi trả
giá quá đủ.
Một vài người bạn của tôi, do hoàn cảnh dồn thúc hay ý thức tự thân, từ
hơn mười năm trước, để sang một bên những tranh luận lý thuyết, gạt bỏ mặt
cảm “tội lỗi bóc lột”, ra làm kinh tế tư nhân và hầu hết đã thành công. Họ
đem lại việc làm cho nhiều ngàn lao động, đóng thuế mỗi năm nhiều tỷ đồng,
làm từ thiện nữa. Tôi đánh giá cao họ không chỉ về tài kinh doanh mà còn về
lòng yêu nước.
[www.saigontimes.com.vn]
Với ý kiến của người viết bài báo trên thì chúng ta có nên làm theo
những gì họ đã khuyên hay không? Nếu như thế thì “quy luật giá trị thặng
dư” của Mác là hoàn toàn sai hay sao? Hay là nó chỉ đúng trong xã hội
TBCN, vậy nghĩa là chúng ta cần phải có cái nhìn mới về quy luật của Mác
trong nền kinh tế thị trường ở nước ta hiện nay như thế nào?

CHƯƠNG III:
GIẢI PHÁP VÀ PHƯƠNG HƯỚNG


I.BIỆN PHÁP GIẢI QUYẾT CÁCH HIỂU SAI LẦM VỀ “BÓC
LỘT GIÁ TRỊ THẶNG DƯ”

 Trước hết phải chấp nhận “bóc lột giá trị thặng dư”, đó là một khái
niệm khoa học không mang nghĩa xấu của đời thường. Từ đó mà coi trọng,
xem lợi nhuận cũng giống như tiền lương chỉ là một hình thức thu nhập của
người dân, được nhà nước công nhận, Nhà nước bảo vệ khuyến khích, phát
triển. Thực tế nếu không có sự đấu tranh, phấn đấu để tồn tại trong nền kinh
tế thì từ ông chủ có thể trở thành người làm công và ngược lai. Nếu điều thứ
nhất chiếm ưu thế tuyệt đối thì xã hội sẽ lâm vào khủng hoảng kinh tế. Và
ngược lại thì nền kinh tế sẽ phát triển. Vậy nội dung của luận điểm nói trên là
điều kiện cần để phát triển mạnh mẽ đội ngũ doanh nhân, điều kiện số một để
phát triển nền kinh tế thị trường.
 Thứ hai chấp nhận bóc lột giá trị thặng dư nhưng phải đảm bảo ở mức
sao cho tiền lương trả cho lao động không được dưới giá trị thực của nó. Nếu
tiền lương trả cho lao động dưới giá trị thực của nó, thì bóc lột giá trị thặng
dư sẽ mang nghĩa xấu của khái niệm “bóc lột”được dùng trong cuộc sống
hằng ngày – đó chính là “bóc lột nhân công”. Vai trò của Nhà nước là phải
chống “bóc lột nhân công”và bảo vệ mọi quyền lợi liên quan cho người lao
động. Họ là người trực tiếp tạo ra giá trị thặng dư, là lực lượng đông đảo nhất
tạo nên xã hội, nên đối với họ tiền lương phải đảm bảo được cuộc sống, điều
kiện làm việc phải luôn được cải thiện, tai nạn ốm đau, thất nghiệp hưu trí
phải được bảo hiểm. Chính vì vậy mà ở nhiều nước, luật pháp quy định cụ thể
mức tiền lương tối thiểu và điều kiện làm việc, chủ doanh nghiệp phải đóng
quỹ bảo hiểm tai nạn, ốm đau, thất nghiệp và hưu trí, trả tiền làm thêm giờ,
ngày lễ, phép, tết…cho người lao động. Tòa án lao động là cơ quan cao nhất


quyết định mọi tranh chấp trong từng trường hợp cụ thể giữa người lao động
và chủ doanh nghiệp.
 Thứ ba là hỗ trợ và tạo điều kiện để doanh nghiệp bỏ ra ít vốn nhất
nhưng giá trị bán ra đạt cao nhất. Nếu làm được điều này thì tiền lãi của
doanh nghiệp và tiền lương của người lao động đều được tăng lên, sự gắn bó

giữa doanh nghiệp và người lao động – một yếu tố quyết định hiệu quả kinh
doanh, sẽ khăng khít hơn, vì cả hai cùng nhận lợi ích kinh tế trực tiếp của
mình trong việc phát triển doanh nghiệp. Chính vì vậy mà ngân sách nhiều
nước, phần dành cho kinh tế đều tập trung phần lớn vào mục tiêu trên,thông
qua các biện pháp như: hỗ trợ khỏi sự doanh nghiệp, hỗ trợ tín dụng, các biện
pháp chống phá sản…Đồng thời giữa nhà nước và giới doanh nhân có mối
liên hệ rất chặt chẽ, qua đó mọi đường lối, chủ trương, chính sách và biện
pháp kinh tế của Nhà nước mới thực sự xuất phát từ đòi hỏi của tình hình kinh
tế và phục vụ trở lại cho sự phát triển kinh tế.


Thứ tư là phát triển doanh nghịêp dân doanh theo hướng xã hội hóa.

Tách giá trị lao động của chủ doanh nghiệp ra khỏi lãi, được tính thành tiền
lương như mọi lao động khác. Tiền lãi chỉ còn đơn thuần là tiền phải trả cho
người có vốn đầu tư. Qua đó vừa thu hút được mọi người lao động góp vốn
đầu tư, vừa hòa đồng lao động của chủ doanh nghiệp vào lao động nói chung
tạo ra một sức mạnh đoàn kết thống nhất nhằm mục tiêu: mọi người dân đều
giàu, đất nước mạnh. Xã hội hóa cao độ doanh nghiệp dân doanh còn tạo điều
kiện cho mọi người lao động tham gia quản lý doanh nghiệp để đảm bảo
quyền lợi cho người lao động và Nhà nước dễ điều tiết hơn, tăng khả năng
cạnh tranh và thích ứng của doanh nghiệp trong một thị trường thế giới luôn
có nguy cơ bất ổn. Có thể thấy ở nhiều nước, họ rất coi trọng điều trên. Luật
của họ quy định đến ngay cả tỷ lệ người lao động được tham gia bầu hội đồng


quản trị, mặc dù đó là doanh nghiệp dân doanh, thậm chí có trường hợp còn
quy định cả người phụ trách lao động của hội đồng quản trị phải do công nhân
bầu cử.
 Cuối cùng là phân phối lại thu nhập quốc dân theo hướng: “lấy của

người giàu chia cho người nghèo”, thông qua việc đánh thuế hợp lý đối với
từng đối tượng từng loại hình doanh nghiệp sẽ góp phần giải quyết tốt các vấn
đề phúc lợi xã hội. Chúng ta phát triển nền kinh tế thị trường là làm cho “dân
giàu, nước mạnh, xã hội công bằng, dân chủ văn minh”. Đó là vấn đề cốt lõi
để đảm bảo công bằng cho một xã hội dựa trên nền kinh tế thị trường vốn
chứa trong nó khoãng cách giàu nghèo quá lớn. Vì vậy, Nhà nước phải kiểm
soát được thu nhập của doanh nghiệp và người dân. Thu nhập càng cao, thuế
suất phải càng lớn và nhờ đó ngân sách của nhà nước mới tăng được các
khoản chi cho phúc lợi xã hội.
II.

MỘT SỐ VẤN ĐỀ CẤN ĐẶT RA ĐỐI VỚI NƯỚC TA

HIỆN NAY.
Một là, trong thời kỳ quá độ nền kinh tế ở nước ta, trong một chừng
mực nào đó, quan hệ bóc lột chưa bị xóa bỏ ngay, sạch trơn theo cách tiếp cận
giáo điều xơ cứng cũ. Càng phát triển nền kinh tế nhiều thành phần chúng ta
càng thấy rõ, chừng nào quan hệ bóc lột còn có tác dụng giải phóng sức sản
xuất và thúc đẩy lực lượng sản xuất phát triển, thì chừng đó chúng ta còn phải
chấp nhận sự hiện diện của nó.
Hai là, trong thực tế nền kinh tế thị trường định hướng xã hội chủ
nghĩa ở nước ta hiện nay, mọi phương án tìm cách định lượng rành mạch,
máy móc và xơ cứng về mức độ bóc lột trong việc hoạch định các chủ trương
chính sách, cũng như có thái độ phân biệt đối xử với tầng lớp doanh nhân mới
đều xa rời thực tế và không thể thực hiện được. Điều có sức thuyết phục hơn


cả hiện nay là quan hệ phân phối chỉ được thể chế hóa bằng luật. Đường lối
chủ trương chính sách của Đảng và Nhà nước mỗi khi được thể chế hóa thành
luật và các bộ luật thì chẳng những góp phần xây dựng Nhà nước pháp quyền

xã hội chủ nghĩa, lấy luật làm công cụ và cơ sở để điều chỉnh các hành vi xã
hội nói chung, mà còn cả hành vi bóc lột nói riêng. Ai chấp hành đúng pháp
luật thì được xã hội thừa nhận và tôn vinh theo phương châm: dân giàu, nước
mạnh, xã hội công bằng, dân chủ, văn minh. Trong nhận thức, quan điểm
chung nên coi đó cũng chính là mức độ bóc lột được xã hội chấp nhận, tức là
làm giàu hợp pháp. Trong quản lý xã hội thì phải kiểm soát chặt chẽ thu nhập
cá nhân, thu nhập doanh nghiệp để một mặt chống thất thu thuế, mặt khác,
bảo đảm sự công bằng trong phân phối thông qua Nhà nước và bằng các
“kênh” phân phối lại và điều tiết thu nhập xã hội. Đây là một hướng tiếp cận
vấn đề bóc lột giúp chúng ta tránh được những nhận thức giáo điều, phi biện
chứng về quan hệ bóc lột, cũng như việc vận dụng nó trong giai đoạn lịch sử
cụ thể của việc giải phóng sức sản xuất, tạo động lực phát triển kinh tế và chủ
động hội nhập thành công với nền kinh tế quốc tế.
Ba là, mặt khác cũng phải bảo vệ những quyền lợi chính đáng của cả
người lao động lẫn giới chủ sử dụng lao động bằng luật và bằng các chế tài
thật cụ thể mới bảo đảm công khai, minh bạch và bền vững. Những mâu
thuẫn về lợi ích trong quá trình sử dụng lao động là một thực tế, việc phân xử
các mâu thuẫn ấy như thế nào để tránh những xung đột không cần thiết cũng
lại là một yêu cầu cấp thiết hiện nay, thể hiện trong bản chất hiện nay, đồng
thời cũng là những đóng góp cơ bản nhất cho cả quá trình hoàn thiện và xây
dựng mô hình kinh tế thị trường định hướng xã hội chủ nghĩa ở Việt Nam.

KẾT LUẬN


Vậy trong nền kinh tế hàng hóa nhiều thành phần, vận hành theo cơ chế
thị trường, định hướng XHCN ở nước ta hiện nay, các doanh nghiệp tư nhân
không hoàn toàn giống kinh tế tư bản tư nhân dưới chế độ TBCN và cũng
không hoàn toàn chịu sự ảnh hưởng của quy luật giá trị thặng dư. Chính vì
thế, việc thừa nhận sự tiến bộ, hợp pháp của kinh tế tư nhân và khuyến khích

nó phát triển là tạo điều kiện phát triển sản xuất để khuyến khích sự phát triển
của xã hội, chứ không phải là khuyến khích sự bóc lột. Đó là sự vận dụng một
cách sáng tạo chủ nghĩa Mác-Lênin trong điều kiện nước ta hiện nay. Sự
khẳng định này đã góp phần xóa bỏ mặc cảm và tháo gỡ những rào cản cho
kinh tế tư nhân phát triển, đồng thời thực hiện quá trình Công Nghiệp Hóa,
Hiện Đại Hóa ở Nước ta. Dù kinh tế tư nhân có sự đóng góp quan trọng
nhưng nó cũng phải chấp hành nghiêm luật pháp, thực hiện đúng chính sách
của Nhà nước, tôn trọng nhân phẩm của người lao động và tích cực tham gia
các hoạt động nhân đạo từ thiện. Tất cả đều nhằm mục đích phát triển nền
kinh tế hàng hóa nhiều thành phần định hướng xã hội chủ nghĩa ở Việt Nam
hiện nay.


×