Tải bản đầy đủ (.pdf) (17 trang)

skkn một vài kinh nghiệm giúp học sinh yếu kém học tốt môn toán

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (564.43 KB, 17 trang )

SỞ GIÁO DỤC VÀ ĐÀO TẠO ĐỒNG NAI
TRƯỜNG PT DÂN TỘC NỘI TRÚ LIÊN HUYỆN TÂN PHÚ-ĐỊNH QUÁN

Mã số: ………………..

SÁNG KIẾN KINH NGHIỆM
“MỘT VÀI KINH NGHIỆM GIÚP HỌC SINH
YẾU KÉM HỌC TỐT MÔN TOÁN”

Người thực hiện: Bùi Thị Thủy
Lĩnh vực nghiên cứu:
- Quản lý giáo dục

- Phương pháp dạy học bộ môn: Toán 
- Phương pháp giáo dục 
- Lĩnh vực khác: ………… 
Có đính kèm
 Mô hình

Phần mềm

Phim ảnh

Hiện vật khác

Năm học: 2012-2013

0


SỞ GIÁO DỤC VÀ ĐÀO TẠO ĐỒNG NAI


TRƯỜNG PT DÂN TỘC NỘI TRÚ LIÊN HUYỆN TÂN PHÚ-ĐỊNH QUÁN

SƠ LƯỢC LÝ LỊCH KHOA HỌC
I. THÔNG TIN CHUNG VỀ CÁ NHÂN
1.
Họ và tên: Bùi Thị Thủy
2.
Ngày tháng năm sinh: 20/9/1976
3.
Nam, nữ: Nữ
4.
Địa chỉ: Tổ 2 - Khu 6 - Tân Phú - Đồng Nai.
5.
Điện thoại: 0613856483 (cơ quan), ĐTDĐ : 01652793569
6.
Fax: ………….. E-mail:
7.
Chức vụ: Giáo viên
8.
Đơn vị công tác: Trường phổ thông Dân Tộc Nội Trú liên huyện
Tân Phú – Định Quán.
II. TRÌNH ĐỘ ĐÀO TẠO
- Học vị (hoặc trình độ chuyên môn nghiệp vụ) cao nhất: Cử nhân Đại học sư
phạm.
- Năm nhận bằng: 2005
- Chuyên ngành đào tạo: Toán
III. KINH NGHIỆM KHOA HỌC
- Lĩnh vực chuyên môn có kinh nghiệm: Giảng dạy môn Toán THCS.
- Số năm có kinh nghiệm: 14 năm
- Các sáng kiến kinh nghiệm đã có trong 5 năm gần đây:

+ Những biện pháp giúp học sinh giải bài tập hình học 8.
+ Làm thế nào để dạy tốt được một định lý hình học 8 đạt hiệu quả
+ Giúp học sinh lớp 7 hình thành và phát triển một số kĩ năng cơ bản trong
quá trình học hình học.
+ Giúp học sinh lớp 9 phát hiện và tránh sai lầm trong khi giải toán về căn
bậc hai

1


MỘT VÀI KINH NGHIỆM GIÚP HỌC SINH
YẾU KÉM HỌC TỐT MÔN TOÁN
I. L DO CHỌN ĐỀ TÀI
Cũng như việc bồi dưỡng học sinh giỏi toán, việc giúp đỡ học sinh yếu kém phải
được
tiến hành ngay cả trong những tiết dạy học đồng loạt bằng các biện pháp phân hoá nội
tại thích hợp. Tuy nhiên, trong thực tế dạy học việc nâng cao hiệu suất giờ lên lớp để
giúp đỡ học sinh yếu kém người thầy vẫn cần có sự giúp đỡ tách riêng đối với nhóm
học sinh yếu kém (thực hiện chủ yếu ngoài giờ chính khoá).
Trường Phổ thông Dân tộc nội trú liên huyện Tân Phú-Định Quán là trường nuôi
và dạy con em đồng bào dân tộc thiểu số, có nhiều HS không thích hoạt động tư duy,
thích hoạt động cơ bắp, tiếp thu chậm học yếu các môn tự nhiên nhất là môn toán, vì
vậy các giáo viên dạy toán luôn suy nghĩ và tìm mọi cách giảng dạy sao cho phù hợp
với đối tượng HS để nâng cao chất lượng môn học. Sự quan tâm đến việc học của con
cái ở phụ huynh còn rất hạn chế . Ý thức học tập của một số em chưa cao, phương
pháp học tập chưa phù hợp, dẫn đến chất lượng học tập của học sinh còn yếu vì thế
hầu hết các em sợ học môn toán.
Là một giáo viên đã có hơn mười năm gắn bó với nghề. Tôi rất hiểu và thông cảm
trước những khó khăn của các em. Bởi vậy trong quá trình giảng dạy tôi luôn học hỏi
đồng nghiệp và tìm tòi những phương pháp thích hợp để giúp các em học sinh yếu,

kém yêu thích và học tốt môn toán.Với mong muốn nâng cao chất lượng dạy học môn
toán ở trường THCS và qua thực tế dạy học tôi đã tìm tòi áp dụng một số giải pháp
đem lại thành công. Vì thế tôi chọn đề tài: "Một vài kinh nghiệm giúp học sinh yếu
kém học tốt môn toán”
Sở dĩ tôi chọn đề tài này là vì mong muốn tìm được một phương pháp tối ưu nhất
để trong quỹ thời gian cho phép hoàn thành được một hệ thống chương trình qui định,
nhằm lấp đầy các chỗ hổng kiến thức và từng bước nâng cao thêm về mặt kỹ năng
trong việc giải các bài tập Toán cho học sinh. Từ đó phát huy, khơi dậy khả năng sử
dụng hiệu quả kiến thức vốn có của học sinh, đồng thời thu hút, lôi cuốn các em ham
thích học môn toán, đáp ứng những yêu cầu về đổi mới phương pháp và nâng cao chất
lượng dạy học hiện nay.
II. TỔ CHỨC THỰC HIỆN ĐỀ TÀI
1.Cơ sở lý luận
Học sinh yếu kém về toán là những học sinh có kết quả về môn toán thường
xuyên dưới mức trung bình. Do đó việc lĩnh hội tri thức, rèn luyện kỹ năng cần thiết
đối với những học sinh này tất yếu đòi hỏi tốn nhiều công sức và thời gian hơn so với
những học sinh khác.
Về mặt lý luận, người thầy phải nắm vững các đặc điểm của học sinh yếu kém để
từ đó đề ra các giải pháp phù hợp nhằm khắc phục tình trạng yếu kém trong học toán
của học sinh.
2


Thực trạng hiện nay cho thấy vấn đề học sinh yếu kém ở các bộ môn rất trầm
trọng. Trong đó môn toán không phải là ngoại lệ. Với vai trò quan trọng của bộ môn có
tính quyết định đến chất lượng học tập các bộ môn khác. Hơn nữa chương trình toán
THCS là những viên gạch đặt nền móng đầu tiên cho cả quá trình học tập sau này. Xuất
phát từ lòng thương yêu học sinh như con em của mình và lưong tâm của một người
thầy giáo. Tôi thực sự băn khoăn, trăn trở trước những khó khăn chán nản của học sinh
khi học môn toán. Với sự trao đổi, góp ý của đồng nghiệp, tôi đã thử nghiệm trên đối

tượng học sinh lớp 6, 7 ở trường tôi về phương pháp giúp đỡ học sinh yếu, kém học tốt
môn toán và thực tế đem lại kết quả khả quan. Sự tiến bộ rõ rệt của học sinh là động lực
thúc đẩy tôi hoàn thành bản sáng kiến kinh nghiệm này.
Kiến thức môn toán bậc THCS như đã trình bày đóng vai trò nền tảng. Vì thế khắc
phục tình trạng yếu kém môn toán ở bậc THCS là vấn đề không chỉ của riêng một cá
nhân giáo viên dạy toán nào. Tuy nhiên, để đạt hiệu quả rõ ràng trong việc nghiên cứu
và thể nghiệm trong đề tài này tôi chủ yếu tập trung đi sâu vào phương pháp dạy học
toán cho học sinh yếu, kém thuộc lớp 6,7 của trường vào các giờ học luyện tập, tự
chọn, các buổi học phụ kém, các giờ học ngoại khóa…..Các bài toán được đề cập đến
trong đề tài thuộc phạm vi SGK, SBT đảm bảo tính vừa sức đối với các em.
Đề tài này được hoàn thành trên phương pháp thống kê tổng hợp, quan sát, phân
tích nguyên nhân và phương pháp thực nghiệm sư phạm.
2. Nội dung, biện pháp thực hiện các giải pháp của đề tài.
2.1. Khảo sát chất lượng đầu năm của học sinh để tìm đối tượng yếu, kém.
Thông qua học bạ lớp dưới, thông qua bài kiểm tra khảo sát đầu năm, kiểm tra vấn
đáp những kiến thức cơ bản, trọng tâm mà các em đã được học. Qua đó giúp tôi nắm
được những đối tượng học sinh yếu kém và những ''lỗ hổng” kiến thức của các em.
Trên cơ sở đó tôi phân lớp thành nhiều nhóm gọi là nhóm '' Tương đồng về kiến thức”.
Rồi tìm hiểu nguyên nhân, biểu hiện của sự yếu, kém từ đó lập kế hoạch phụ đạo, khắc
phục.
2.2) Tìm hiểu và phân loại các nguyên nhân
Qua thực tế tìm hiểu tôi nhận thấy có các nguyên nhân chủ yếu sau dẫn đến học
sinh học yếu đó là:
* Học sinh có nhiều "lỗ hổng" về kiến thức cũng như kỹ năng do:
+ Nguyên nhân khách quan:
- Do học sinh có sự khủng hoảng nhất thời về mặt tinh thần trong cuộc sống dẫn
đến sao nhãng việc học hành.
- Sức khoẻ yếu nên nghỉ học nhiều.
- Trí tuệ của các em chậm, phát triển kém.(Thiểu năng trí tuệ)
+ Nguyên nhân chủ quan:

- Kiến thức bị hổng do học sinh lười học.
- Do thiếu phương pháp học tập phù hợp.
2.3) Thực hiện các biện pháp khắc phục yếu, kém.
2.3.1) Phương pháp dạy học chung đối với HS trung bình, yếu, kém.
3


Một trong những hoạt động cơ bản của học sinh trong học tập môn toán ở trường
phổ thông là hoạt động giải toán. Đây là hoạt động phức tạp bao gồm nhiều thành tố
tham gia.
Thực tiễn dạy học lâu nay hoạt động học và giải toán của học sinh đối tượng trung
bình, yếu cơ bản diễn ra theo trình tự: quan sát, tiếp thu kiến thức; làm bài có sự hướng
dẫn; tự làm theo mẫu; độc lập làm bài.
Để thích ứng với quá trình học tập đó của đa số học sinh, kinh nghiệm của giáo
viên dạy cho thấy, quá trình dạy cũng phải được tiến hành theo 4 giai đoạn như sau:
Giai đoạn 1: Quan sát, tiếp thu
Giáo viên giúp học sinh nắm kiến thức cơ bản, tối thiểu, cần thiết.
• Giáo viên cần kết hợp vừa giảng vừa luyện, phân tích chi tiết, cụ thể, giúp học
sinh hiểu khái niệm không hình thức.
• Đồng thời với cung cấp kiến thức mới là củng cố khắc sâu thông qua ví dụ và
phản ví dụ. Chú ý phân tích các sai lầm thường gặp.
• Tổng kết tri thức và các tri thức phương pháp có trong bài.
Đây là giai đoạn khó khăn nhất, giai đoạn làm quen tiến tới hiểu kiến thức mới,
đồng thời là giai đoạn quan trọng nhất, giai đoạn cung cấp kiến thức chuẩn cho học
sinh. Kinh nghiệm cho thấy khi hoàn thành tốt giai đoạn này học sinh sẽ tiếp thu tốt
hơn ở các giai đoạn sau.
Giai đoạn 2: Làm theo hướng dẫn
Giáo viên cho ví dụ tương tự học sinh bước đầu làm theo hướng dẫn, chỉ đạo của
giáo viên.
Học sinh bước đầu vận dụng hiểu biết của mình vào giải toán. Giai đoạn này

thường vẫn còn lúng túng và sai lầm, do học sinh chưa thuộc, chưa hiểu sâu sắc. Tuy
nhiên giai đoạn 2 vẫn có tác dụng gợi động cơ cho giai đoạn 3.
Giai đoạn 3: Tự làm theo mẫu
Giáo viên ra một bài tập khác, học sinh tự làm theo mẫu mà giáo viên đã đưa ra ở
giai đoạn 1 và giai đoạn 2. Giáo viên tạm đứng ngoài cuộc. Ở giai đoạn này học sinh
độc lập thao tác. Học sinh nào hiểu bài thì có thể hoàn thành được bài tập, học sinh nào
chưa hiểu bài sẽ còn lúng túng. Giáo viên có thể nắm bắt được việc học tập cũng như
mức độ hiểu bài của cả lớp và từng cá nhân thông qua giai đoạn này, từ đó đề ra biện
pháp thích hợp cho từng đối tượng. Giai đoạn 3 có tác dụng gợi động cơ trung gian.
Giáo viên thường vận dụng giai đoạn này khi ra bài tập về nhà.
Giai đoạn 4: Độc lập làm bài tập
Giáo viên nên ra cho học sinh:
• Hoặc là một bài tập tương tự khác để học sinh làm ngay tại lớp.
• Hoặc là bài tập ra về nhà tương tự với bài được học, nhằm rèn luyện kĩ năng.
• Hoặc là bài kiểm tra thử.
• Hoặc là đề thi của năm học trước, nhằm kích thích học tập bộ môn. Giai đoạn này
có tác dụng gợi động cơ kết thúc một nội dung dạy học. Giáo viên thường vận dụng
giai đoạn này trong kiểm tra.
4


Cách dạy học toán theo bốn giai đoạn như trên, tuy chưa thoát ly cách dạy học
truyền thống, nhưng đã phần nào tỏ ra có hiệu quả thiết thực đối với SGK đã được biên
soạn lâu nay, phù hợp với hình thức dạy học theo tiết (45 phút), phù hợp với trình độ
nhận thức của đối tượng học sinh diện đại trà trong học tập môn toán.
Để có thể dạy học theo bốn giai đoạn như trên đòi hỏi giáo viên phải:
• Hiểu sâu sắc kiến thức và các tri thức phương pháp.
• Trong soạn bài, giáo viên cần chuẩn bị cả bốn loại bài tập cho 4 giai đoạn, bên
cạnh đó còn phải biết phân bậc bài tập cho từng đối tượng học sinh trong lớp.
• Và phải biết điều hành các đối tượng học sinh trong một lớp cùng hoạt động bằng

cách giao cho mỗi loại đối tượng một dạng bài tập phù hợp với nhận thức của các em,
có như thế giờ học mới sinh động và lôi cuốn, kích tích sự hứng thú học tập của học
sinh.
2.3.2) Khắc phục các yếu tố khách quan:
- Với đối tượng học sinh gặp sự cố bất thường về tinh thần:
Một số em chỉ thui thủi một mình, lúc nào cũng buồn bã, không chịu vui chơi
cùng bè bạn, không muốn tâm sự cùng ai, một số em thì cố tình làm ngược lại những gì
giáo viên dạy, hoặc cố tình phá trong giờ học để mọi người chú ý. Bởi thế nên trong
quá trình học tập các em này cũng không hợp tác với nhóm bạn thảo luận trao đổi về
kiến thức cần học. Đồng thời tâm lý các em cũng rất nặng nề căng thẳng nên việc tiếp
thu bài học rất khó. Do đó dẫn đến học yếu, không theo kịp các bạn cùng lớp.
Đối với những HS như vậy thì giáo viên bộ môn kết hợp với giáo viên chủ nhiệm
cần tìm hiểu lý do qua bạn bè hoặc qua người thân của các em. Thông qua học sinh và
phụ huynh tôi thường xuyên trò chuyện thân mật riêng với các em, động viên an ủi để
các em có thể vượt qua cơn khủng hoảng về tinh thần, góp phần nào giúp các em trở lại
trạng thái cân bằng về tình cảm và tập trung vào việc học tốt hơn. Nguyên nhân các
em như vậy có thể do hoàn cảnh gia đình các em không được hạnh phúc, hoà thuận như
những gia đình bình thường khác, cha mẹ thường xuyên cải vã to tiếng với nhau; hay
bố mẹ li dị không quan tâm tới em, hoặc bố mẹ đi làm ăn kinh tế ở xa, hay những
trường hợp có những cú sốc về tình cảm trong gia đình mà các em bị ảnh hưởng, có
một số em phải ở với ông bà bị thiếu thốn về tình cảm và sự chăm sóc của bố mẹ, hoặc
do chính bản thân các em có khiếm khuyết về cơ thể như dị tật, xấu xí… Ở độ tuổi này
tâm sinh lí các em đang thay đổi, nhạy cảm. Khi đã tìm hiểu được lý do rồi thì giáo
viên chủ nhiệm cần khéo léo, gần gũi động viên các em sống hoà đồng cùng bạn bè. Và
cũng yêu cầu tất cả học sinh trong lớp gần gũi quan tâm, tôn trọng người bạn của mình,
tránh cư xử thiếu văn hoá đối với bạn.
Khuyến khích các em luôn tự tin, thể hiện bản thân mình mọi lúc mọi nơi, trong
mỗi tiết học cũng như các giờ ra chơi, mạnh dạn trao đổi ý kiến của mình cùng các bạn.
Giáo viên chủ nhiệm phải luôn là người" bạn" Thân thiết đối với các em, chia sẽ
với các em mọi niềm vui hay nổi buồn, không được nặng lời và phê bình các em trước

lớp.

5


Nếu làm được như vậy thì sẽ gúp các em vượt qua được sự khủng hoảng về tinh
thần để cố gắng tập trung vào học tập. Sự tiến bộ của các em chính là phần thưởng vô
giá đối với thầy cô giáovà đó cũng là thành công của sự nghiệp trồng người…
- Với đối tượng học sinh sức khoẻ yếu nên nghỉ học nhiều:
Nhưng thực tế thì còn một số học sinh do sức khoẻ quá yếu ốm đau luôn phải nghỉ
học nhiều nên các em đã không theo kịp chương trình, vì vậy các em bị hổng kiến thức.
Chính vì lẽ đó mà lực học của các em đã bị sút dần và cuối cùng là dẫn đến các em nằm
trong diện học sinh yếu kém.
Nếu học sinh bị ốm nghỉ trong ba ngày hay một tuần lễ thì giáo viên cần biết cô
đọng kiến thức trong thời gian đó hướng dẫn cho học sinh trong một vài tiết để các em
bắt kịp chương trình, bắt kịp các bạn.
Phân công học sinh khá giỏi, khoẻ mạnh kèm cặp giúp đỡ bằng cách ghi chép,
hướng dẫn bạn làm bài trong thời gian bạn nghỉ ốm.
Đồng thời gặp gỡ trao đổi với gia đình để phụ huynh giúp đỡ các em thêm về kiến
thức cũng như bồi dưỡng sức khoẻ cho các em.
- Với đối tượng học sinh trí tuệ của các em chậm, phát triển kém.(Thiểu năng trí
tuệ)
Học sinh chậm phát triển là gánh nặng lớn nhất đối với các thầy cô giáo cũng như
đối với gia đình và xã hội. Các em rất muốn học tập tiến bộ như các bạn cùng trang lứa
nhưng điều đó quả là rất khó đối với các em cũng như đối với các thầy cô giáo, nhưng
chẳng lẽ các em đến trường mà đầu óc lại trống rỗng. Đúng vậy điều này quả là khó
nhưng không phải là bó tay nếu chúng ta làm được như sau:
- Giáo viên giảng dạy phải biết chọn lựa một lượng kiến thức vừa phải, phù hợp
với năng lực và điều kiện học tập của các em để các em vẫn được học thật sự (tuy rằng
ít hơn các bạn khác). Tránh để các em làm người thừa trong lớp.

- Thầy cô và các bạn phải luôn quan tâm giúp đỡ các em; luôn tạo ra không khí vui
vẻ, ấm áp trong lớp học như một gia đình để các em vui. Tránh thái độ chê cười khinh
rẻ đối với các em bị thiệt thòi.
- Luôn động viên, khuyến khích các em học tập và cần nhất là khen ngợi sự cố
gắng của các em.
- Phải luôn tôn trọng đối xử công bằng với các em.
Tuy các em chậm phát triển nhưng các em vẫn là những con người bằng xương,
bằng thịt. Do vậy khi chúng ta gần gủi, động viên, giúp đỡ các em bằng những việc làm
thiết thưc như vậy thì chắc chắn các em sẽ học tập tốt hơn, tương lai của các em sẽ sáng
sủa hơn.
2.3.3) Khắc phục các yếu tố chủ quan:
- Với đối tượng học sinh yếu kém do lười học.
Tôi trực tiếp trò chuyện riêng với các em, phân tích cho các em hiểu mặt tốt, xấu
và sự liên quan đến tương lai của các em. Về mặt chuyên môn, tôi tăng cường công tác
kiểm tra việc học và làm bài về nhà, trong các giờ học tôi khuyến khích cho các em
phát biểu, gọi các em lên bảng và có lời khen kịp thời, cho điểm khuyến khích, động
viên các em, giúp các em tự tin và hứng thú học tập hơn. Kiểm tra vở ghi của HS
6


thường xuyên để xem HS ghi đúng hay sai, trình bày như thế nào lấy bút đỏ phê luôn
vào vở để HS nhớ mà sửa, lần sau kiểm tra lại, nhất là những học sinh quá yếu, quá
lười cho ngồi bàn đầu để tiện việc kiểm tra vở và việc ghi bài của các em thường xuyên
hơn.
Sau khi tạo được tâm thế thoải mái về tinh thần trong học sinh thì việc tiếp theo
đóng vai trò quan trọng và quyết định. Đó chính là thực hiện các biện pháp phù hợp
nhằm giúp các học sinh yếu kém có điều kiện về mặt kiến thức để theo kịp yêu cầu
chung của những tiết học trên lớp, tiến tới có thể hoà nhập vào việc dạy học đồng loạt.
Qua kinh nghiệm nhiều năm giảng dạy tôi đã gặp rất nhiều khó khăn khi giảng dạy
kiến thức mới trong điều kiện nền tảng kiến thức cũ rất yếu kém của học sinh. Đây là

một nỗi đau hàng ngày gặm nhấm trái tim nghề nghiệp của tôi, thôi thúc tôi phải làm
một điều gì đó để có thể giúp đỡ các em.Và tôi đã thay đổi cách nghĩ và cách làm
trong công tác giảng dạy để giúp đỡ các em yếu, kém học tốt môn toán hơn qua các
biện pháp cụ thể sau:
-Trước hết cần đảm bảo cho học sinh có trình độ xuất phát cho những tiết lên lớp.
Để tiết học trên lớp có kết quả thường đòi hỏi những tiền đề nhất định về trình độ
kiến thức, kỹ năng sẵn có của học sinh. Đối với diện học sinh yếu kém thì thiếu hẳn
tiền đề này. Vì thế cần giúp nhóm học sinh này có đủ tiền đề đảm bảo trình độ xuất
phát cho những tiết lên lớp đạt hiệu quả.
Trước hết, tôi nghiên cứu kỹ nội dung chương trình, vạch rõ khối lượng tri thức và
những kỹ năng cần thiết như những tiền đề xuất phát thông qua sách giáo khoa, chuẩn
kiến thức kĩ năng, sách giáo viên, ...
Sau đó, phân tích những tri thức kỹ năng có sẵn ở học sinh ở mức độ nào (qua quá
trình tìm hiểu, quan sát ở học sinh trên lớp, qua các bài kiểm tra ...)
Tiếp đến, tôi tập trung vào việc tái hiện những tri thức và tái tạo những kỹ năng
cần thiết một cách tường minh thông qua việc cho học sinh ôn tập những tri thức, kỹ
năng trước khi dạy nội dung mới vào các buổi học ngoài giờ chính khoá.
Chẳng hạn:
Ví dụ 1:
Khi dạy bài cộng trừ số hữu tỉ, để học sinh học tốt bài này thì các em buộc phải
nắm được các kiến thức, kỹ năng liên quan như đổi số thập phân ra phân số, qui đồng
mẫu các phân số, qui tắc cộng, trừ phân số, qui tắc “chuyển vế”, qui tắc “dấu ngoặc”.
Trong hoạt động đó học sinh được ôn lại các kiến thức tương ứng trong tập hợp số
nguyên như cộng, trừ số nguyên... thông qua hệ thống câu hỏi và bài tập như sau:
Bài tập1: Đổi các số thập phân sau ra phân số:
0,6 v à 2,25
HS:

0,6 


Bài tập 2:

6 3

10 5

Tính :

;

2,25 
3 9

5 4

225 9

100 4

Hỏi: Muốn thực hiện phép cộng trên trước hết ta phải làm gì?
(HS: Phải qui đồng mẫu các phân số)
7


 3 9  12 45
 

5 4
20 20


Hỏi: Tiếp theo cộng như thế nào?
(HS: Tử cộng tử, giữ nguyên mẫu)
 12 45 (12)  45


20 20
20

Hỏi: Nhắc lại cách cộng hai số nguyên?
(HS: Nêu cách cộng hai số nguyên và tiến hành cộng)
 12 45 (12)  45 33



20 20
20
20

Bài tập 3:

Tìm x, biết:

x

9 33

4 20

Hỏi: Muốn tìm được x trước hết ta phải làm gì?
(HS: Lúng túng không trả lời được)

GV: Hãy nhắc lại qui tắc chuyển vế trong Z
(HS: Nhắc lại qui tắc chuyển vế trong Z)
GV: Tương tự trong Q ta cũng có qui tắc chuyển vế
(HS: Vận dụng qui tắc chuyển vế và thực hiện bài toán
33 9

(Theo qui tắc chuyển vế)
20 4
33 45
33  45
 12
3




x 
20 20
20
20
5
3
Vậy: x 
5
x

Như vậy trong tiết dạy phụ đạo học sinh đã nắm được những kiến thức tiền đề
của bài mới. Đảm bảo trình độ xuất phát cho tiết học chính khoá giúp các em tiếp
thu bài một cách chủ động và hứng thú hơn, phát biểu xây dựng bài sôi nổi hơn.
Hiệu quả giờ học được nâng lên rõ rệt.

Cụ thể :
Trong bài học mới khi đưa ra yêu cầu thực hiện phép tính :
-0,6 + 2,25.
Chỉ với gợi ý nhỏ: Mọi số hữu tỉ đều có thể viết được dưới dạng phân số

a
b

với a,b  Z, b  0. Là học sinh phát hiện được hướng giải quyết vấn đề nhờ bài
học phụ đạo đã nắm vững.
Ví dụ 2:
Trước khi dạy khái niệm "đường trung trực của đoạn thẳng" giáo viên cần cho
học sinh ôn tập lại các kiến thức, kỹ năng cũ như trung điểm của đoạn thẳng, cách
vẽ trung điểm của đoạn thẳng, vẽ đường thẳng vuông góc với đoạn thẳng cho trước
qua một điểm cho trước đã được học ở lớp 6, rèn kỹ năng cho học sinh sử dụng
thước và ê ke thành thạo thông qua các bài tập sau:
Bài tập 1
8


Điền vào chỗ (...) trong phát biểu sau để có định nghĩa đúng.
"Trung đểm của đoạn thẳng AB là ..."
Bài tập 2
Vẽ đoạn thẳng AB dài 4 cm. Vẽ điểm M là trung điểm của đoạn thẳng AB.
Bài tập 3
Cho M là trung điểm của đoạn thẳng AB. Qua M vẽ đường thẳng xy vuông
góc với đoạn thẳng AB.
Như vậy khi học sinh đã nắm được khái niệm và kỹ năng nói trên thì việc tiếp
thu bài mới không mấy khó khăn.
Trong thực hiện việc tạo tiền đề đảm bảo trình độ xuất phát cần chú ý:

* Mỗi bài toán phải được thực hiện qua nhiều bước, hướng dẫn và yêu cầu
cách thực hiện thành thạo từng bước một.
* Tổ chức phân dạng bài tập một cách khoa học, chi tiết, cung cấp cho học
sinh các dạng bài tập một cách có hệ thống.
* Soạn thêm nhiều bài tập đơn giản và tương tự cho từng dạng để các em tự
làm, qua đó các em được lặp lại nhiều lần, giúp các em dễ khắc sâu kiến thức.
Sau khi kiến thức lớp dưới đã được bù đắp và bằng cách hạ thấp yêu cầu đến
mức tối thiểu ở các dạng bài tập tôi nhận thấy các em học sinh đã xích lại gần nhau
hơn, tiếp thu bài mới tốt hơn, yêu thích học môn toán hơn.
- Thực hiện biện pháp lấp "lỗ hổng" về kiến thức và kỹ năng cho học sinh.
Qua tìm hiểu thực tế cho thấy: Kiến thức có nhiều "lỗ hổng" là một "bệnh "
phổ biến của học sinh yếu kém toán. Vai trò của việc đảm bảo trình độ xuất phát là
cần thiết nhưng chỉ để phục vụ cho nội dung sắp học. Còn việc lấp lỗ hổng về kiến
thức kỹ năng là nhiệm vụ cần thiết nhưng mang tính tổng quát không phụ thuộc ý
đồ chuẩn bị cho một bài học cụ thể nào sắp tới.
Trong quá trình dạy học người thầy cần quan tâm phát hiện những lỗ hổng về
kiến thức, kỹ năng của học sinh. Tìm ra những "lỗ hổng" điển hình đối với học sinh
yếu kém mà ở trên lớp vì điều kiện thời gian chưa khắc phục được để có kế hoạch
tiếp tục giúp đỡ.
Trong quá trình giảng dạy, tôi thấy ở học sinh yếu kém toán lớp 7 thường bị
hổng kiến thức chủ yếu ở phần tập hợp số nguyên, các kỹ năng như thực hiện các
phép tính trên số nguyên, quy đồng mẫu các phân số.... ở số học. Còn về hình học,
học sinh thường vẽ hình theo diễn đạt còn kém, các khái niệm về trung điểm của
đoạn thẳng, tia phân giác của góc còn chưa nắm vững...
Bởi thế tôi tập trung thời gian và sức lực cho việc bù đắp những lỗ hổng này
cho các nhóm học sinh vào các buổi học phụ đạo và cả giao bài về nhà.
Ở các buổi học phụ đạo, tôi đã hệ thống hoá những kiến thức, kỹ năng còn
hổng cho học sinh và đặc biệt chú ý đến hệ thống các bài tập chứa đựng nội dung
kiến thức và kỹ năng cần bù đắp.
Chẳng hạn:

Với nhóm học sinh yếu về kỹ năng cộng trừ số nguyên thì một mặt ở giờ học
phụ đạo tôi giúp các em nhớ lại cách thực hiện đồng thời cho các em thực hành
9


nhiều lần với bài tập đơn giản vừa sức để các em mau chóng lấy lại được kiến thức
và kỹ năng cơ bản. Mặt khác tôi giao bài tập về nhà và phân công học sinh khá
kiểm tra giúp đỡ, hướng dẫn thêm cho nhóm.
Ở các nhóm khác tôi cũng tiến hành tương tự.
Ngoài ra, thông qua quá trình học lí thuyết và làm bài tập của học sinh tôi đã
cố gắng tập cho học sinh có ý thức tự phát hiện những lỗ hổng của mình và biết
cách tra cứu sách vở, tài liệu để tự mình lấp những "lỗ hổng" đó.
- Giúp học sinh yếu kém luyện tập đảm bảo vừa sức.
Đối với học sinh yếu kém, giáo viên nên đặt quan điểm đảm bảo tính vững
chắc của kiến thức lên hàng đầu. Việc luyện tập theo trình độ chung sẽ không phù
hợp với học sinh yếu kém, vì vậy nhóm này cần nhiều thời gian luyện tập hơn.
Trong những tiết học đồng loạt, việc luyện tập được thực hiện theo trình độ
chung, nhiều khi không phù hợp với khả năng học sinh yếu kém. Vì vậy khi làm
việc riêng với nhóm học sinh yếu kém, cần dành thời gian để các em tăng cường
luyện tập vừa sức mình. Và lưu ý những điều sau đây:
+Đảm bảo học sinh hiểu đầu bài tập: Học sinh yếu kém nhiều khi vấp ngay từ
bước đầu tiên, không hiểu bài toán nói gì đó đó không thể tiếp tục quá trình giải
toán. Vì vậy, giáo viên nên lưu ý giúp các em hiểu rõ đầu bài, nắm được cái gì đã
cho, cái gì cần tìm,cần chứng minh, tạo điều kiện cho các em vượt qua sự vấp váp
đầu tiên đó.
+Gia tăng số lượng bài tập cùng thể loại và mức độ: Để hiểu một kiến thức,
rèn luyện một kĩ năng nào đó, học sinh yếu kém cần những bài tập cùng thể loại và
mức độ với số lượng nhiều hơn so với các em khá giỏi và trung bình. Phần gia tăng
này được thực hiện trong những tiết làm việc riêng với nhóm học sinh yếu kém
toán. Chẳng hạn giáo viên có thể ra cho học sinh rất nhiều bài tập giải phương trình

bậc hai với hệ số mà không sợ "nhàm" như trường hợp học sinh khá giỏi.
+ Sử dụng những mạch bài tập phân bậc mịn (với mức độ gần nhau): Việc sử
dụng những mạch bài tập phân bậc trong dạy học toán nói chung là đáng làm, riêng
với nhóm học sinh yếu kém toán thì cần phân bậc mịn hơn so với trình độ chung,
tức là khoảng cách giữa hai bậc liên tiếp không nên quá xa, quá cao. Ta hình dung
rằng nhiều bậc của học sinh yếu kém có thể gộp lại thành một bậc cho học sinh
trung bình hoặc khá giỏi.
Được bước theo những bậc thang vừa sức với mình, học sinh yếu kém sẽ đỡ bị
hẫng, bị hụt, bị ngã từ đó có nhiều khả năng leo hết các nấc thang dành cho họ để
chiếm lĩnh được kiến thức, kĩ năng mà chương trình yêu cầu. Những nấc thang đầu
dù có thấp, những bước chuyển bậc dù có ngắn nhưng khi học sinh thành công sẽ
tạo nên một yếu tố tâm lý rất quan trọng: các em sẽ tin vào bản thân, tin vào sức
mình, từ đó có đủ nghị lực và quyết tâm vượt qua tình trạng yếu kém.
Cụ thể:
Khi dạy bài : "Cộng, trừ số hữu tỉ ". Phần bài tập về nhà cho đối tượng học
sinh yếu, kém tôi ra các dạng như sau:
Bài 1: Tính
10


a)
b)

7 2

15 15
 5 15

18 27


1 5

8 8

;

5
 0,75
12

;

Bài 2: Tính
a)
b)

3 5 1
 
;
4 4 4
4 2 7


5  7  10

4 2 3
 
3 5 2
2 7 1
 

;
3 4 2

Bài 3: Tìm x, biết
a)
b)

1 3

2 2
2 5
x 
5 7

x

;
;

1 3

4 4
4
1
x
7
3
x

Thông thường khi ra bài tập cho đối tượng học sinh yếu, kém không nên ra

quá nhiều và khó, các dạng bài tập phải vừa sức với các em đặc biệt là có kiểm tra,
chấm, chữa và cho điểm để động viên, khuyến khích các em.
Được bước đi theo từng bậc thang vừa sức với mình, các em yếu kém sẽ tự tin
hơn, không còn cảm giác bị hụt hẫng và sợ ngã. Sự tự tin giúp các em có thể tự leo
hết các nấc thang dành cho mình. Từ đó dần dần chiếm lĩnh tri thức và kỹ năng cơ
bản cần thiết. Các bậc thang dù có thấp song sự kiên trì và nghị lực mới là điều
quan trọng giúp các em vượt qua tình trạng yếu kém hiện tại.
- Giúp đỡ học sinh rèn luyện kỹ năng học tập, có phương pháp học tập phù
hợp.
Yếu về kĩ năng học tập là một tình hình phổ biến của học sinh yếu kém toán.
Hơn nữa, có thể nói rằng đó là nguyên nhân của tình trạng yếu kém đối với một bộ
phận trong những học sinh diện này. Vì vậy, một trong những biện pháp khắc phục
tình trạng học sinh yếu kém là giúp đỡ các em về phương pháp học tập.
Một thực tế vẫn xảy ra thường xuyên là học sinh không biết cách học như thế
nào cho có hiệu quả. Các em do không có kỹ năng học tập nên thường chưa học kỹ,
thậm chí chưa hiểu lý thuyết đã lao vào làm bài tập, đọc chưa kỹ đề đã đặt bút vào
làm bài, trong khi làm bài các em thường vẽ hình cẩu thả, viết nháp lộn xộn...Vì thế
việc hướng dẫn các em phương pháp học cũng đóng vai trò hết sức quan trọng.
Trước hết cần cần bồi dưỡng cho các em ngay cả những hiểu biết sơ đẳng về
cách thức học tập toán như:
+ Phải nắm vững lý thuyết trước khi làm bài tập.
+ Trước một bài tập cần đọc kỹ đầu bài, vẽ hình rõ ràng, viết nháp cẩn thận.
+Sau khi học xong một chương cần giúp học sinh hệ thống hoá kiến thức (tốt
nhất là bằng bảng hoặc bằng sơ đồ). Tóm tắt lý thuyết cơ bản và các công thức
quan trọng cũng như cách giải một số dạng toán cơ bản và dán vào góc học tập.
2.3.4) Một số biện pháp khác
11


- Ngoài các phương pháp giúp đỡ HS yếu kém ở trên thì khích lệ HS là biện

pháp không thể thiếu khi giảng dạy đối tượng HS yếu kém. Không tiếc lời khen
ngợi học trò, nhất là học trò yếu kém. Phải tìm ra ưu điểm để khen thành thật kẻo
các em bị tổn thương vì nghĩ thầy cô giễu cợt mình. Ví dụ khen chữ đẹp, trình bày
rõ ràng, khen tính cẩn thận…
Đừng để học sinh làm xong cả bài rồi mới khen tốt. Các em viết được một
chút thì khen ngay “Đúng rồi đấy! Em làm tiếp đi”. Nếu thấy học trò bắt đầu sai thì
phải nhắc ngay “Xem lại đề bài nào?Dấu trừ ở đâu ra nhỉ?”Và đặt câu hỏi gợi
ý…Trên bài kiểm tra viết, lời phê cũng rất quan trọng với học trò. “Cố lên em ơi!”
“Đừng nản nhé!” khi học sinh đó bị 2 bài điểm kém liên tiếp, “Sao thế em?” khi
một bài làm đột xuất tụt dốc… Đấy là vừa dạy vừa dỗ học sinh.
Luôn yêu cầu học sinh học thuộc lý thuyết, không học ở nhà thì đến lớp học và
hứa “Ai thuộc lý thuyết mà không làm được bài tập sách giáo khoa, cô xin chịu
trách nhiệm”. Dạy Toán là dạy học sinh phương pháp giải bài Toán, do vậy phải
xác định “Khó khăn nhất khi giải Toán là: Đọc đề bài”. Yêu cầu học sinh đọc đề
bài nhiều lần, chỉ ra cái biết và cái chưa biết, phân tích đề xong là gần như giải
quyết xong bài Toán. Qua đó, học sinh tin ai cũng giải được bài Toán nếu đọc kỹ
đề và thuộc lý thuyết. Điều đó còn có ý nghĩa giáo dục: Cuộc đời con người là một
chuỗi các bài Toán và hãy mang phương pháp tư duy này để giải quyết các bài
toán cuộc đời – phải chăng đó là rèn luyện bản lĩnh và nghị lực cho con trẻ? Đó là
dạy người qua việc dạy Toán.
- Khi dạy học sinh yếu kém, đặc biệt là HS lớp 8,9 người giáo viên phải “ghìm
mình”, đừng cáu giận, nóng vội vì nóng vội và cáu giận chỉ thêm bực mình và hỏng
việc. Trái lại, giáo viên phải bình tĩnh trước mọi tình huống, và tôn thờ nguyên tắc
“Thế là tốt lắm rồi” ; đã bắt đầu học -“Thế là tốt lắm rồi”; lý thuyết liên quan
thuộc rồi –“Thế là tốt lắm rồi”; tính toán nhầm đôi chút - Thế là tốt lắm rồi”. Để
niệm được thần chú này đòi hỏi nhà giáo phải tự điều chỉnh, tự thay đổi mình để
công tác giảng dạy phù hợp với đối tượng. Bởi sự thay đổi ấy có thể làm đổi thay
tâm tính của cả một con người, bởi đó là tình yêu đích thực của nhà giáo với tương
lai học trò
III. HIỆU QUẢ CỦA ĐỀ TÀI.

a/ Khảo sát sự yêu thích môn học bằng phiếu trắc nghiệm thu được kết quả
sau:
ất
Không
ĩ
ứng
ình
Toán
hứng
%
%
%
hứng
%
số
thú
thường
thú
thú
Khi chưa
9,5
48,6
36,2
áp dụng
6
5,7%
10
51
38
105

%
%
%
chuyên đề
6,7
Sau khi áp
17,1
21
53,3
8,6
dụng
18
22
56
9
105
%
%
%
%
chuyên đề
12


b/ Khảo sát chất lượng môn toán cuối năm học 2012-2013 thu được kết quả
như sau:
ĩ
Toán
Gi i
%

Khá %
TB
%
ếu % Kém %
số
Khi chưa
7,6
14,3
29,5
8,6
áp dụng
8
15
42 40% 31
9
105
%
%
%
%
chuyên đề
6,7
Sau khi áp
12,4
28,6
49,5
9,5
0
dụng
30

52
10
0
105 13
%
%
%
%
%
chuyên đề
Quá trình thực hiện nêu trên đối với học sinh khối lớp 6,7 ở trường mà tôi
đang giảng dạy đã đạt kết quả đáng lưu tâm. Với cách làm này năm học vừa qua
học sinh học yếu đã giảm đáng kể, không có học sinh học kém. Hơn thế nữa đa số
các em đã hứng thú và yêu thích môn toán hơn, tự tin hơn trong học tập.
IV. ĐỀ XUẤT, KHUYẾN NGHỊ KHẢ NĂNG ÁP DỤNG.
Như vậy việc giúp đỡ học sinh yếu, kém học tốt môn toán là việc làm rất khó
khăn lâu dài đòi hỏi giáo viên phải có tình thương, một chút hy sinh và tinh thần
trách nhiệm.
Việc sắp xếp thời gian thích hợp trong giờ phụ đạo hoặc ngoài giờ lên lớp để
bổ trợ kiến thức bị hổng cho học sinh yếu, kém đó là một khó khăn không phải ai
cũng làm được. Mà phải có sự tận tâm hy sinh cao cả của người thầy tất cả vì tương
lai các em. Do vậy rất cần đến sự chia sẻ từ phía lãnh đạo và các cấp ngành giáo
dục.
Mỗi người thầy có một cách làm riêng, song với cách làm nêu trên với thành
công ban đầu thiết nghĩ đó là kết quả đáng phấn khởi đối với người giáo viên dạy
toán. Việc làm này không dễ thành công trong ngày một ngày hai mà phải là sự cố
gắng bền bỉ và tận tuỵ thì mới mong mang lại kết quả tốt.
Với vốn kiến thức của mình còn hạn hẹp, bề dày kinh nghiệm còn khiêm tốn,
nên không tránh khỏi những hạn chế khiếm khuyết. Vậy rất mong các đồng nghiệp
góp ý, bổ sung để kinh nghiệm giảng dạy của chúng tôi ngày càng phong phú và

hữu hiệu hơn.
Để thực hiện đề tài có hiệu quả cần:
- Nhà trường cần tiến hành khảo sát chất lượng đầu năm để xác định đối
tượng học sinh yếu kém.
- Có kế hoạch phụ kém kịp thời, nắm được biểu hiện yếu, kém của từng học
sinh, từ đó phân loại và có biện pháp phù hợp với từng đối tượng.
- Nâng cao chất lượng đại trà của các khối lớp bằng các buổi học ngoài giờ
chính khoá và đặc biệt là trong các buổi phụ đạo cho học sinh yếu, kém.
- Tăng cường phối hợp giữa gia đình với nhà trường, giữa giáo viên bộ môn
với giáo viên chủ nhiệm để tạo ra một sức mạnh tổng hợp.
- Phát động các đợt thi đua học tập trong công tác Đội. Tổ chức các câu lạc bộ
giúp nhau học tập....
13


TÀI LIỆU THAM KHẢO
1. Phan Đức Chính – Tôn Thân-SGK Toán 6, 7– NXBGD
2. Phan Đức Chính – Tôn Thân-SGV Toán 6, 7– NXBGD
3. Hoàng Ngọc Diệp- Thiết kế bài giảng Toán 6, 7- NXBHN
4. Nhóm tác giả: Lê Văn Hồng - Phạm Đức Quang - Nguyễn Thế Thạch Nguyễn Duy Thuận - Tài liệu bồi dưỡng thường xuyên cho giáo viên THCS chu kì
III ( 2004 - 2007), NXB Giáo dục 2007.
Tân Phú, ngày 14 tháng 5 năm 2013
Người thực hiện

ùi Thị Thuỷ

14


MỤC LỤC

I. LÍ DO CHỌN ĐỀ TÀI

Trang 2

II/ TỔ CHỨC THỰC HIỆN ĐỀ TÀI:

Trang 2

1.Cơ sở lý luận

Trang 2

2. Nội dung, biện pháp thực hiện các giải pháp của đề tài.

Trang 3

2.1. Khảo sát chất lượng đầu năm của học sinh để tìm đối tượng yếu,
kém.
2.2) Tìm hiểu và phân loại các nguyên nhân

Trang 3

2.3) Thực hiện các biện pháp khắc phục yếu, kém.

Trang 3

2.3.1) Phương pháp dạy học chung đối với HS trung bình, yếu, kém.

Trang 3


2.3.2) Khắc phục các yếu tố khách quan

Trang 5

2.3.3) Khắc phục các yếu tố chủ quan

Trang 6

2.3.4) Một số biện pháp khác

Trang 11

III. HIỆU QUẢ CỦA ĐỀ TÀI.

Trang 12

IV. ĐỀ XUẤT, KHUYẾN NGHỊ KHẢ NĂNG ÁP DỤNG.

Trang 13

V. TÀI LIỆU THAM KHẢO

Trang 14

Trang 3

15


SỞ GD&ĐT ĐỒNG NAI

Trường PT DTNT liên huyện
Tân Phú - Định Quán

CỘNG HÒA XÃ HỘI CHỦ NGHĨA VIỆT NAM
Độc lập – Tự do – Hạnh phúc
Tân Phú, ngày 14 tháng 5 năm 2013

PHIẾU NHẬN XÉT ĐÁNH GIÁ SÁNG KIẾN KINH NGHIỆM
Năm học: 2012-2013
Tên sáng kiến kinh nghiệm:
“MỘT VÀI KINH NGHIỆM GIÚP HỌC SINH YẾU, KÉM
HỌC TỐT MÔN TOÁN”
Họ và tên tác giả: Bùi Thị Thủy.
Chức vụ: Giáo viên
Đơn vị: Tổ khoa học Tự nhiên;
Trường phổ thông Dân tộc Nội trú liên huyện Tân Phú - Định Quán
Lĩnh vực:
Quản lý giáo dục 
Phương pháp dạy học bộ môn: Toán 
Phương pháp giáo dục 
Lĩnh vực khác: …………………… 
Sáng kiến kinh nghiệm đã được triển khai áp dụng: Tại đơn vị  Trong Ngành 
1. Tính mới
- Có giải pháp hoàn toàn mới 
- Có giải pháp cải tiến, đổi mới từ giải pháp đã có 
2. Hiệu quả
- Hoàn toàn mới và đã triển khai áp dụng trong toàn ngành có hiệu quả cao 
- Có tính cải tiến và đổi mới từ những giải pháp đã có và đã triển khai áp dụng
trong toàn ngành có hiệu quả cao 
- Hoàn toàn mới và đã triển khai áp dụng tại đơn vị có hiệu quả cao 

- Có tính cải tiến hoặc đổi mới từ những giải pháp đã có và đã triển khai tại đơn
vị có hiệu quả 
3. Khả năng áp dụng
- Cung cấp được các luận cứ khoa học cho việc hoạch định đường lối, chính sách:
Tốt 
Khá 
Đạt 
- Đưa ra các giải pháp khuyến nghị có khả năng ứng dụng thực tiễn, dễ thực hiện
và dễ đi vào cuộc sống: Tốt 
Khá 
Đạt 
- Đã được áp dụng trong thực tế đạt hiệu quả hoặc có khả năng áp dụng đạt hiệu
quả trong phạm vi rộng: Tốt 
Khá 
Đạt 
XÁC NHẬN CỦA TỔ CHUYÊN MÔN

THỦ TRƯỞNG ĐƠN VỊ

16



×