Tải bản đầy đủ (.doc) (95 trang)

Thực trạng và một số giải pháp chủ yếu nhằm nâng cao hiệu quả kinh tế trong sử dụng đất trồng rau, đất màu ở xã yên đồng, huyện ý yên, tỉnh nam định

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (519.12 KB, 95 trang )

PHẦN I
ĐẶT VẤN ĐỀ
1.1 TÍNH CẤP THIẾT CỦA ĐỀ TÀI
Nước ta là một nước nông nghiệp. Kinh tế nông nghiệp chiếm một vị
trí quan trọng trong nền kinh tế quốc dân. Trong đó đất đai là tư liệu sản xuất
chủ yếu và đặc biệt không gì thay thế được, là điều kiện tiên quyết để phát
triển sản xuất nông nghiệp, là thành phần quan trọng hàng đầu của môi trường
sống, là địa bàn phân bố dân cư, xây dựng cơ sở kinh tế, văn hóa xã hội và an
ninh quốc phòng.
Lịch sử phát triển xã hội đã khẳng định: Nông nghiệp là một trong hai
ngành sản xuất vật chất chủ yếu của xã hội. Xã hội loài người muốn tồn tại và
phát triển được thì những nhu cầu cần thiết như ăn, mặc và những tư liệu sinh
hoạt khác không thể thiếu được, những cái đó do nông nghiệp cung cấp.
Đặc biệt với Việt Nam là một nước nông nghiệp, hiện nay vẫn đang
còn trên 70% dân số sống ở nông thôn. Ngành nông nghiệp sử dụng trên 50%
lực lượng lao động xã hội, là một ngành kinh tế quan trọng trong chiến lược
phát triển kinh tế - xã hội của đất nước.
Hiện nay nền kinh tế Việt Nam đang trên đà phát triển mạnh, cùng với
sự bùng nổ về dân số, sự gia tăng nhanh chóng của đô thị hóa và việc xây
dựng mở mang các khu công nghiệp… đã tác động nhiều đến quản lý và sử
dụng đất đai. Trong khi đó đất đai lại hạn hẹp, bình quân diện tích đất nông
nghiệp vào loại thấp nhất trên thế giới chỉ vào khoảng 1073m 2/người, lại đang
có xu hướng giảm đi giữa các địa phương, các vùng miền. Mặt khác, việc
phân bố diện tích đất nông nghiệp cũng không đồng đều. Do vậy vấn đề sử
dụng một cách hợp lý có hiệu quả đất đai trong nông nghiệp luôn luôn được
Đảng và Nhà nước chú trọng. Tuy nhiên, việc nghiên cứu đánh giá tình hình
sử dụng ruộng đất mới chỉ có được những kết quả còn rất hạn chế, việc sử

1



dụng đất đai có hiệu quả không chỉ biểu hiện ở năng suất các loại cây trồng
mà còn chịu rất nhiều của các yếu tố kinh tế - xã hội. Các yếu tố tác động của
mỗi địa phương đã ảnh hưởng đến sự phát triển khác nhau, cho nên cùng một
phương thức sử dụng đất ở hai nơi khác nhau cũng có thể cho ta hiệu quả kinh
tế cao thấp khác nhau. Nhìn chung cùng với sự phát triển chung của nền kinh
tế nước ta, sản xuất nông nghiệp ở một số năm gần đây đã có bước nhảy vọt,
đó cũng là quy luật phát triển của xã hội khi mà lực lượng sản xuất đã phát
triển lại có quan hệ sản xuất phù hợp. Xuất phát từ những đặc điểm cụ thể của
đất nước để thúc đẩy nhanh quá trình tăng trưởng và phát triển kinh tế, đưa
nước ta vào hàng ngũ của những nước phát triển trong khu vực và trên thế
giới. Để đạt được mục tiêu này thì chính sách sử dụng đất, giao quyền sử
dụng đất đai cho nông dân là vấn đề vô cùng quan trọng hiện nay; để có biện
pháp sử dụng nguồn tài nguyên quý giá này sao cho hợp lý và đạt hiệu quả
cao nhất. Nói đến việc khai thác tiềm năng đất nông nghiệp nói chung và đất
canh tác nói riêng, trước hết phải nói đến hai loại đất là đất trồng rau và đất
trồng cây hoa màu, đây là hai loại đất được sử dụng để sản xuất ra phần lớn
các loại nông phẩm thiết yếu phục vụ đời sống sản xuất và tiêu dùng.
Yên Đồng là một xã có nền nông nghiệp tương đối vững chắc, ngành
sản xuất chính là nông nghiệp. Trong đó ngành trồng trọt chiếm 70% giá trị
sản xuất ngành nông nghiệp của địa phương, tuy nhiên trong các năm qua
việc sử dụng đất canh tác và đặc biệt là hai loại đất trồng rau và hoa màu của
các hộ nông dân trong xã còn hạn chế. Kết quả sản xuất đạt được từ hai loại
đất trên còn chưa tương xứng với tiềm năng và mong muốn của các hộ nông
dân và địa phương. Đây cũng là điều trăn trở của địa phương. Xuất phát từ
vấn đề trên, tôi tiến hành nghiên cứu đề tài: “Thực trạng và một số giải pháp
chủ yếu nhằm nâng cao hiệu quả kinh tế trong sử dụng đất trồng rau, đất
màu ở xã Yên Đồng, huyện Ý Yên, tỉnh Nam Định”. Với hy vọng góp một
phần vào quá trình phát triển kinh tế xã hội ở địa phương.

2



1.2 MỤC TIÊU NGHIÊN CỨU CỦA ĐỀ TÀI
1.2.1 Mục tiêu chung
Nghiên cứu thực trạng tình hình sử dụng và hiệu quả kinh tế sử dụng
đất trồng rau và hoa màu tại xã Yên Đồng, huyện Ý Yên, tỉnh Nam Định
trong thời gian qua và nguyên nhân thực trạng, trên cơ sở đó đề ra các giải
pháp chủ yếu nhằm nâng cao hơn nữa hiệu quả kinh tế sử dụng đất trồng rau
và hoa màu ở địa phương trong thời gian tới.
1.2.2 Mục tiêu cụ thể
 Hệ thống cơ sở khoa học về hiệu quả kinh tế nói chung và hiệu quả
kinh tế sử dụng đất trồng rau và hoa màu nói riêng trong điều kiện sản xuất
hiện nay.
 Đánh giá thực trạng hiệu quả kinh tế sử dụng đất trồng rau và hoa
màu tại xã Yên Đồng, huyện Ý Yên, tỉnh Nam Định
 Tìm ra các nguyên nhân ảnh hưởng tới hiệu quả kinh tế trong sử
dụng đất trồng rau và hoa màu ở địa phương
 Đề xuất những định hướng và giải pháp thiết thực, phù hợp nhằm
nâng cao hiệu quả kinh tế sử dụng đất trồng rau và hoa màu
1.3 ĐỐI TƯỢNG VÀ PHẠM VI NGHIÊN CỨU
1.3.1 Đối tượng nghiên cứu
Nghiên cứu tình hình sử dụng, phương thức sử dụng đất trồng rau và
hoa màu và các loại cây trồng trên đất trồng rau và hoa màu tại xã Yên Đồng,
huyện Ý Yên, tỉnh Nam Định.
1.3.2 Phạm vi nghiên cứu
1.3.2.1 Phạm vi nội dung
Đánh giá các nguồn lực tự nhiên, kinh tế - xã hội của địa phương, trên
cơ sở đó phát hiện ra những lợi thế cũng như các yếu tố làm cản trở đến việc
sử dụng hiệu quả kinh tế trong sử dụng đất trồng rau và hoa màu của xã.


3


Đánh giá thực trạng sử dụng đất trồng rau và hoa màu nhằm tìm ra các
yếu tố ảnh hưởng đến việc nâng cao hiệu quả sử dụng đất trồng rau và hoa
màu trên địa bàn nghiên cứu.
Đánh giá và phân tích hiệu quả kinh tế của các hình thức sử dụng đất
trồng rau và hoa màu trong các nông hộ từ đó đưa ra những giải pháp chủ yếu
nhằm nâng cao hơn nữa hiệu quả kinh tế trong sử dụng đất trồng rau và hoa
màu trên địa bàn xã trong thời gian tới.
1.3.2.2 Phạm vi về không gian
Địa bàn được triển khai nghiên cứu trên địa bàn xã Yên Đồng, huyện Ý
Yên, tỉnh Nam Định
1.3.2.3 Phạm vi về thời gian
Nghiên cứu thực trạng sử dụng và hiệu quả kinh tế trong sử dụng đất
trồng rau và hoa màu trong thời gian qua, tập chung vào năm 2009; các giải
pháp đưa ra trong thời gian tới
1.4 CÂU HỎI NGHIÊN CỨU
 Người nông dân mong muốn điều gì trên mảnh đất của mình?
 Thực tế sản xuất trên đất canh tác, đặc biệt là đất trồng rau và hoa
màu đang diễn ra như thế nào?
 Nguyên nhân nào dẫn đến năng suất, chất lượng rau và hao màu ở
địa phương còn thấp?
 Địa phương đã có những giải pháp gì để nâng cao năng suất, chất
lượng rau và hoa màu?
 Cần có những giải pháp gì để nâng cao hiệu quả kinh tế sử dụng đất
rau và hoa màu?

4



PHẦN II
TỔNG QUAN TÀI LIỆU NGHIÊN CỨU

2.1 CƠ SỞ LÝ LUẬN CỦA ĐỀ TÀI
2.1.1 Khái niệm về hiệu quả kinh tế
Hiệu quả kinh tế được các nhà kinh tế và thống kê nêu ra với nhiều
quan điểm khác nhau do điều kiện lịch sử và giác độ nghiên cứu từ nhiều phía
khác nhau. HQKT là một phạm trù kinh tế phản ánh mặt chất lượng của các
hoạt động kinh tế. Mục đích của sản xuất và phát triển kinh tế xã hội là đáp
ứng nhu cầu ngày càng tăng về vật chất và tinh thần của toàn xã hội khi có sự
giới hạn về các nguồn lực. Việc nâng cao chất lượng hoạt động kinh tế có
nghĩa là tăng cường trình độ sử dụng các nguồn lực sẵn có trong một hoạt
động kinh tế. Đây là một đòi hỏi khách quan của mọi nền sản xuất xã hội do
nhu cầu vật chất của cuộc sống con nghười ngày càng tăng. Nói cách khác
biện chứng do yêu cầu của công tác quản lý kinh tế cần phải có sự phân tích,
đánh giá các yếu tố ảnh hưởng tới chất lượng của các hoạt động kinh tế dã
dẫn đến sự xuất hiện của phạm trù hiệu quả kinh tế.
Vậy HQKT là gì? Năm 1878, Sapadonicop và nhiều nhà kinh tế, nhà
thống kê học đã nêu ra các quan điểm khác nhau về hiệu quả kinh tế, nhưng
cho mãi đến hơn 30 năm sau, vào năm 1910 mới có văn bản pháp quy đánh
giá hiệu quả kinh tế của vốn đầu tư cơ bản. Đến nay khái niệm HQKT ngày
càng được quan tâm nghiên cứu và là bộ phận quan trọng của kinh tế học
trong nền kinh tế thị trường. có nhiều ý kiến khác nhau về HQKT nhưng có
thể tóm tắt hiệu quả kinh tế thành 3 hệ thống quan điểm như sau:
* Hệ thống quan điểm thứ nhất cho rằng: HQKT được xác định bởi tỷ
số giữa kết quả thu được và chi phí bỏ ra để đạt được kết quả đó.

5



H=

Q
C

Trong đó: H: Hiệu quả kinh tế
Q: Kết quả đạt được
C: Chi phí bỏ ra để đạt được kết quả Q
Đại diện quan điểm này, Culicop cho rằng: “Hiệu quả sản xuất là kết
quả của một nền sản xuất nhất định, chúng ta sẽ so sánh kết quả với chi phí
cần thiết để đạt được kết quả đó. Khi lấy tổng sản phẩm chia cho vốn sản xuất
chúng ta được hiệu suất vốn, tổng sản phẩm chia cho số vật tư ta được hiệu
suất vật tư, tổng sản phẩm chia số lao động được hiệu suất lao động”. Hệ
thống quan điểm này đã chỉ rõ mức độ hiệu quả của việc sử dụng các nguồn
lực sản xuất khác nhau, từ đó so sánh được hiệu quả kinh tế của các quy mô
sản xuất khác nhau.
* Hệ thống quan điểm thứ hai cho rằng: HQKT được đo bằng hiệu số
giữa kết quả đạt được và lượng chi phí bỏ ra để thu được kết quả đó.
H=Q–C
Trong đó: H: Hiệu quả kinh tế
Q: Kết quả đạt được
C: Chi phí bỏ ra để thu được kết quả Q
Điển hình của cách đánh giá này có quan điểm cổ truyền của nền kinh
tế học khu vực sản xuất cho rằng mục tiêu của doanh nghiệp là đạt lợi nhuận
tối đa. Chỉ tiêu này chỉ rõ quy mô hiệu quả kinh tế, nhưng chưa phản ánh
đúng mức hiệu quả vì nhà sản xuất muốn đạt được kết quả với nguồn lực ít
nhất chứ không phải đạt được kết quả sản xuất chịu bất cứ chi phí nào.
* Hệ thống quan điểm thứ ba: xem xét HQKT trong phần biến động
giữa chi phí và kết quả sản xuất.

Theo quan điểm này, hiệu quả kinh tế biểu hiện ở quan hệ tỷ lệ giữa
phần tăng thêm của kết quả và phần tăng thêm của chi phí, hay quan hệ tỷ lệ
giữa kết quả bổ sung và chi phí bổ sung.

6


H=

∆Q
∆C

Trong đó: ∆Q: Phần tăng thêm của kết quả sản xuất
∆C: Phần tăng thêm của chi phí sản xuất
Hệ thống quan điểm này có ưu thế khi đánh giá HQKT đầu tư sản xuất
theo chiều sâu, HQKT đầu tư tăng thêm, nhưng không xét đến HQKT của
tổng chi phí bỏ ra.
Tuy nhiên, chỉ tập chung vào tỷ số giữa kết quả và chi phí bỏ ra thì
chưa toàn diện. Bởi vì chỉ tiêu này chưa phân tích được tác động ảnh hưởng
của các yếu tố nguồn lực tự nhiên (đất đai, khí hậu, thời tiết).
Như vậy, HQKT cần được bổ xung và mở rộng để mang tính toàn diện
hơn. Tóm lại, HQKT của một hiện tượng, quá trình kinh tế là một phạm trù
kinh tế phản ánh trình độ khai thác các yếu tố đầu tư, các nguồn lực tự nhiên
và các phương thức quản lý. HQKT được thể hiện bằng hệ thống các chỉ tiêu
nhằm phản ánh các mục tiêu cụ thể của các cơ sở sản xuất, phù hợp với yêu
cầu sản xuất.
Ngoài ra khi đề cập đến hiệu quả các nguồn lực trong nông nghiệp như
lao động, đất đat, vốn, hạt giống, phân bón, chúng ta hay nói đến HQKT của
việc sử dụng các nguồn lực đó. Bàn về hiệu quả sản xuất trong nông nghiệp,
nhiều tác giả đã thống nhất cần phân biệt rõ ba khái niệm về hiệu quả, HQKT,

hiệu quả kỹ thuật, hiệu quả phân bổ.
- HQKT: là phạm trù kinh tế, mà trong đó sản xuất đạt cả hiệu quả kỹ
thuật và hiệu quả phân bổ. Điều này có nghĩa là yếu tố hiện vật và giá trị đều
được tính đến khi xem xét việc sử dụng các nguồn lực trong nông nghiệp.
- Hiệu quả kỹ thuật: là số lượng sản phẩm có thể đạt được trên một
đơn vị chi phí đầu vào hay nguồn lực sử dụng vào sản xuất; trong nông
nghiệp điều kiện cụ thể về kỹ thuật hay công nghệ áp dụng vào nông
nghiệp. Nó chỉ ra một đơn vị nguồn lực dùng vào sản xuất đem lại thêm
bao nhiêu đơn vị sản phẩm.

7


- Hiệu quả phân bổ: là chỉ tiêu hiệu quả trong các yếu tố giá sản
phẩm hay giá đầu vào được tính để phản ánh giá trị sản phẩm thu thêm
trên một đồng chi phí thêm về đầu vào hay nguồn lực. Thực chất của hiệu
quả phân bổ là hiệu quả kỹ thuật có tính đến các yếu tố về giá của đầu vào
và giá của đầu ra.
2.1.2 Nội dung và bản chất của hiệu quả kinh tế
2.1.2.1 Nội dung của hiệu quả kinh tế
Để có một nội dung HQKT cũng như những chỉ tiêu nghiên cứu HQKT
sử dụng đất trồng rau và đất trồng cây hoa màu, đó là các chỉ tiêu kết quả và
hiệu quả. Thế giới ngày nay chủ yếu phát triển kinh tế theo chiều sâu, với
nguồn lực hữu hạn mà sản xuất ra một lượng sản phẩm hàng hoá có giá trị sử
dụng cao nhất và mức hao phí lao động xã hội thấp nhất. Thực thi một chiến
lược như vậy thì nước nào cũng vận dụng một cách thông minh và sắc sảo về
trình độ khoa học kỹ thuật, từ đó mới có sự phấn đấu đạt HQKT cao và việc
ứng dụng KHKT như một tất yếu. Vì tài nguyên có hạn, nhu cầu vô hạn, cho
nên cần phải có các chính sách Nhà nước, mục tiêu của các nhà quản lý… làm
sao cho việc sản xuất nhất định có được chi phí ở mức thấp nhất mà HQKT

lại cao. Ở đây được biểu hiện rõ nhất giữa các yếu tố đầu vào với các yếu tố
đầu ra bởi nó là kết quả của hiệu quả sản xuất. Muốn khai thác nguồn tài
nguyên có HQKT cao thì phải có phương pháp sử dụng đúng mục đích, làm
sao cho cùng có lợi về mặt kinh tế và môi trường. Tuy nhiên để có được
HQKT cao là điều mong muốn của nền kinh tế nước ta nói chung và của xã
Yên Đồng nói riêng nhưng cần phải biết chú trọng trong việc khai thác để làm
cho đất nước ngày càng phát triển và vững mạnh. Việc sử dụng đất canh tác
nói chung và đất trồng rau và hoa màu nói riêng là nhiệm vụ hết sức quan
trọng qua quá trình khai thác, làm sao vừa có HQKT cao, vừa để lại môi
trường trong sạch và không làm cho các nguồn tài nguyên cạn kiệt. Chính lẽ
đó Nhà nước cần phải có các chính sách đưa ra kịp thời cùng với các ban
chức trách kết hợp lại cùng nhau ngăn chặn những mặt xấu để tiến tới việc sử
dụng đất ngày càng tốt hơn và có hiệu quả hơn.

8


2.1.2.2 Bản chất của hiệu quả kinh tế
Xuất phát từ sản xuất và sự phát triển của một nền kinh tế xã hội là đáp
ứng nhu cầu ngày tăng về vật chất và tinh thần của mỗi thành viên trong xã
hội một cách ổn định. Để làm rõ bản chất của hiệu quả kinh tế cần phải phân
biệt rõ sự khác nhau giữa hiệu quả và kết quả.
Kết quả (kết quả hữu ích) là một đại lượng vật chất tạo ra do mục đích
con người, được thể hiện bằng nhiều chỉ tiêu, nhiều nội dung, tuỳ thuộc vào
từng trường hợp cụ thể. Do mâu thuẫn giữa sự hữu hạn của tài nguyên và nhu
cầu ngày càng tăng lên không ngừng của con người mà phải xem xét mức chi
phí và kết quả đạt được là thấp hay cao. Chính vì vậy, khi đánh giá kết quả
sản xuất không chỉ dừng lại ở việc đánh giá kết quả mà còn phải xem xét chất
lượng sản phẩm làm ra và các chi phí bỏ ra để thu được kết quả đó.
Hiệu quả là đại lượng dùng để xem xét kết quả được tạo ra như thế nào,

với chi phí là bao nhiêu để đạt được kết quả đó. Đánh giá chất lượng hoạt
động sản xuất kinh doanh là nội dung đánh giá hiệu quả kinh tế. Vì vậy, bản
chất hiệu quả kinh tế sử dụng đất là với một diện tích đất đai, một lượng đầu
vào nhất định cần phải bố trí sử dụng một cách tốt nhất để có thể sản xuất ra
khối lượng sản phẩm nhiều nhất với lượng đầu tư chi phí và lao động thấp
nhất nhằm thoả mãn nhu cầu vật chất ngày càng tăng của xã hội
Hiệu quả kinh tế trong nông nghiệp chủ yếu do hai quy luật chi phối là:
- Quy luật cung cầu.
- Quy luật hiệu quả giảm dần.
Trong đó hiệu quả sinh học của sản xuất nông nghiệp không phụ thuộc
vào người tiêu dùng có thích hay có mua sản phẩm đó hay không, còn hiệu
quả kinh tế nông nghiệp thì lại bị khống chế bởi những vấn đề này. Nếu sản
phẩm sản xuất ra không có người mua thì người sản xuất không có thu nhập
và sản xuất bị ngừng trệ, do đó tiêu thụ sản phẩm là mối quan tâm hàng đầu
của người sản xuất.

9


Đánh giá HQKT của sản xuất nông nghiệp trong điều kiện kinh tế thị
trường, gặp khó khăn trong việc xác định các yếu tố đầu vào và đầu ra.
- Những khó khăn trong việc xác định yếu tố đầu vào:
Trong sản xuất nông nghiệp, các tư liệu sản xuất được sử dụng vào
nhiều quá trình sản xuất, trong nhiều năm nhưng lại không đồng đều. Hơn
nữa có loại rất khó xác định giá trị đào thải và chi phí sửa chữa lớn. Vì thế
việc khấu hao và phân bổ chi phí để tính đúng chi phí sản xuất chỉ có tính
tương đối.
Các chi phí sản xuất chung như chi phí xây dựng cơ sở hạ tầng, chi
thông tin, tuyên truyền, giáo dục đào tạo, khuyến cáo kỹ thuật cần phải được
hạch toán để tính vào chi phí, nhưng thực tế không tính được một cách cụ thể.

Trong nông nghiệp chu kỳ sản xuất dài, nên chịu nhiều ảnh hưởng của
biến động giá cả, mức độ trượt giá, gây khó khăn trong việc xác định các loại
chi phí sản xuất.
Các yếu tố thuộc về điều kiện tự nhiên tác động lớn đến quá trình sản
xuất nông nghiệp và hiệu quả của nó. Tuy nhiên mức độ tác động của các yếu
tố này vẫn chưa có phương pháp xác định chuẩn.
- Những khó khăn trong việc xác định yếu tố đầu ra
Các kết quả sản xuất về mặt vật chất có thể lượng hoá để tính và so
sánh trong thời gian và không gian cụ thể nào đó. Tuy nhiên xác định đúng và
đủ những kết quả về mặt xã hội, môi trường sinh thái, độ phì của đất, khả
năng cạnh tranh trên thị trường của một doanh nghiệp, của một vùng nông
nghiệp là khó khăn bởi nó không thể lượng hoá được và chỉ được bộc lộ trong
thời gian dài.
2.1.3 Phân loại hiệu quả kinh tế
Bất kỳ một hoạt động sản xuất nào của con người đều nhằm mục đích
cuối cùng là đạt hiệu quả kinh tế cao. Tuy nhiên, kết quả hoạt động đó không
chỉ đơn thuần đạt được về mặt kinh tế mà còn tạo ra nhiều kết quả có liên

10


quan đến đời sống kinh tế xã hội của con người cũng như ảnh hưởng đến môi
trường sinh thái. Xét trên phạm vi cá biệt, một hoạt động kinh tế có thể đem
lại HQKT cho một cá nhân, một đơn vị, một địa phương, nhưng xét trên phạm
vi toàn xã hội nó lại ảnh hưởng đến lợi ích và hiệu quả chung. Vì vậy khi
đánh giá HQKT cần phải phân loại và làm rõ mối liên hệ giữa chúng.
* Căn cứ vào nội dung, bản chất của HQKT có thể chia thành HQKT,
hiệu quả xã hội, hiệu quả kinh tế xã hội và hiệu quả phát triển bền vững.
- HQKT: thể hiện mối tương quan giữa các kết quả đạt được về măt
kinh tế và chi phí bỏ ra để đạt được kết quả đó. Do đó, xác định HQKT phải

xem xét đầy đủ mối quan hệ giữa hai đại lượng tuyệt đối và tưong đối. Tiêu
chuẩn của hiệu quả kinh tế là tối đa hoá về kết quả sản xuất và tối thiểu hoá
chi phí trong điều kiện nguồn lực bị giới hạn.
- Hiệu quả xã hội: là mối tương quan giữa các kết quả đạt được về mặt
xã hội và chi phí bỏ ra để đạt dược kết quả đó. Hiệu quả kinh tế và hiệu quả
xã hội có quan hệ mật thiết với nhau, chúng là tiền đề của nhau và là phạm trù
thống nhất. Vì vậy khi xét HQKT của việc ứng dụng khoa học kỹ thuật, khai
thác tiềm năng vào sản xuất nông nghiệp phải đứng trên quan điểm hiệu quả
kinh tế xã hội.
- Hiệu quả kinh tế - xã hội: Phản ánh mối tương quan giữa kết quả tổng
hợp về mặt kinh tế và xã hội với các chi phí sản xuất xã hội bỏ ra để đạt được
kết quả đó.
- Hiệu quả phát triển bền vững: là hiệu quả kinh tế - xã hội có được do
những tác động hợp lý để tạo ra nhịp độ tăng trưởng tốt và đảm bảo những lợi
ích kinh tế - xã hội, nhưng có tính tới yếu tố môi trường về lâu dài.
* Căn cứ vào yêu cầu tổ chức quản lý kinh tế và các yếu tố cơ bản của
sản xuất có thể chia HQKT thành:
- HQKT quốc dân: HQKT tính chung cho toàn bộ nền sản xuất xã hội.

11


- HQKT vùng và lãnh thổ: được xem xét đối với từng vùng kinh tế tự
nhiên và phạm vi lãnh thổ hành chính.
- HQKT khu vực sản xuất và chi phí vật chất.
- HQKT của từng đơn vị sản xuất kinh doanh.
- Hiệu quả các biện pháp kỹ thuật và quản lý.
* Căn cứ vào các yếu tố tham gia vào quá trình sản xuất thì HQKT
gồm có:
- Hiệu quả sử dụng vốn và thiết bị máy móc.

- Hiệu quả sử dụng đất đai.
- Hiệu quả sử dụng lao động.
- Hiệu quả sử dụng công nghệ kỹ thuật mới.
Các cách phân loại trên làm cơ sở để chúng ta đánh giá HQKT một
cách đúng đắn. Như vậy khi đánh giá hiệu quả phải xem xét một cách toàn
diện cả về mặt thời gian và không gian trong mối quan hệ hiệu quả chung của
nền kinh tế quốc dân với hiệu quả bộ phận của các đơn vị, xí nghiệp, địa
phương, quan hệ giữa vấn đề kinh tế - xã hội với kỹ thuật của sản xuất và môi
trường sinh thái, quan hệ giữa HQKT hiện tại với tương lai. Hiệu quả đó bao
gồm cả HQKT và xã hội, có mối quan hệ mật thiết đến nhau như một thể
thống nhất không thể tách rời.
2.1.4 Đặc điểm, tiêu chuẩn đánh giá hiệu quả kinh tế sử dụng đất trồng rau
và hoa màu và ý nghĩa của nó
2.1.4.1 Đặc điểm của đất đai trong sản xuất nông nghiệp
Đất nông nghiệp, theo quan điểm của người sử dụng và nghiên cứu
kinh tế với nghĩa thông thường là toàn bộ đất đai được sử dụng trong quá
trình sản xuất nông nghiệp. Đất nông nghiệp bao gồm đất được sử dụng
vào trồng trọt, chăn nuôi, nuôi trồng thuỷ sản và nghiên cứu thí nghiệm về
nông nghiệp.

12


Đặc điểm của đất nông nghiệp là tư liệu sản xuất chủ yếu đặc biệt, có
độ phì và không thể thay thế được. Đất đai được gọi là tư liệu sản xuất đặc
biệt vì nó vừa là đối tượng lao động, vừa là tư liệu lao động. Chỉ có thông
qua đất, các tư liệu sản xuất mới tác động đến cây trồng và sử dụng đất đai
đúng hướng.
Diện tích đất đai có giới hạn về mặt tự nhiên, nên con người không thể
tự ý tăng diện tích lên một cách vô hạn như các tư liệu sản xuất khác.

Đất đai có vị trí cố định và nó gắn liền với điều kiện thời tiết, khí hậu
của từng vùng cụ thể, vì thế con người không thể di chuyển đất đai từ nơi này
sang nơi khác mà phải bố trí hệ thống canh tác với các cây trồng và vật nuôi
thích hợp với từng vùng sinh thái theo vị trí của đất đai, điều đó có nghĩa là
sản xuất nông nghiệp mang tính chất địa phương rõ rệt.
Đất nông nghiệp gồm các loại:
- Đất canh tác (đất trồng cây hàng năm)
- Đất trồng cây lâu năm
- Diện tích đồng cỏ đã được cải tạo để chăn thả gia súc
- Diện tích mặt nước đã được cải tạo để nuôi trồng thuỷ sản
Trong đó đất canh tác là một bộ phận của đất nông nghiệp, được sử
dụng trồng cây hàng năm và còn được gọi là đất trồng cây hàng năm. Đất
canh tác là đất có tiêu chuẩn về chất lượng nhất định, được thường xuyên cày
bừa, cuốc xới để trồng cây có chu kỳ sản xuất dưới 1 năm.
* Đặc điểm của đất trồng rau và hoa màu
Rau và hoa màu chủ yếu thích hợp trồng trên đất có thành phần cơ giới
nhẹ và trung bình, hay ta thường gọi là đất pha cát.
- Ưu nhược điểm của đất pha cát:
+ Ưu điểm: thích hợp với nhiều loại cây có củ và cây có chu kỳ sinh
trưởng thấp như các loại rau, khoai lang, khoai tây, lạc. Trong đất các rễ và củ
dễ dàng vươn xa, vươn sâu mà không bị đất chèn ép. Các cây họ đậu cũng có

13


thể thích ứng với đất pha cát. Một số vùng đất cát người ta còn trồng các loại
dưa hấu, dưa lê hoặc các cây đặc chủng như thuốc lá. Muốn đạt năng suất cao
nhất chỉ có thể trồng những loại cây trồng phù hợp với đất pha cát, đồng thời
áp dụng các biện pháp canh tác hợp lý. Dễ làm đất, chăm sóc ít tốn công.
.


Nhược điểm: dễ bị khô hạn do có tổng thể tích khe hở lớn, nghèo mùn,

dễ bị đốt nóng và mất nhiệt nên bất lợi cho sinh vật phát triển, kết cấu rời rạc,
dễ cày bừa, nhưng đất dễ bị lắng rẽ, bí chặt, khả năng hấp phụ thấp, giữ nước
và giữ phân kém do chứa it keo, nên nếu bón nhiều phân vào một lúc, cây
không sử dụng hết thì sẽ bị rửa trôi. Khi bón phân hữu cơ phải vùi sâu để
tránh sự đốt cháy.
Đối với đất trồng rau thường có thành phần cơ giới nhẹ hơn, lắm cát
hơn, (do bộ rễ của rau yếu và chu kỳ sản xuất thấp hơn) do đó nó đòi hỏi chế
độ chăm sóc kỹ hơn và phức tạp hơn đất hoa màu và các loại đất khác.
2.1.4.2 Tiêu chuẩn đánh giá hiệu quả kinh tế sử dụng đất trồng rau, hoa màu
và ý nghĩa của nó
Hiện nay, tiêu chuẩn để đánh giá hiệu quả kinh tế vẫn còn đang là một
vấn đề phức tạp và còn có nhiều ý kiến chưa thống nhất. Tuy nhiên đa số các
nhà kinh tế đều cho rằng tiêu chuẩn cơ bản và tổng quát khi đánh giá HQKT
là mức độ đáp ứng nhu cầu xã hội và sự tiết kiệm lớn nhất về chi phí tiêu hao
các nguồn lực. Vì nhu cầu thì rất đa dạng, lại thay đổi theo thời gian và tuỳ
thuộc vào trình độ khoa học công nghệ - kỹ thuật được áp dụng vào sản xuất,
nên ở mỗi thời kỳ phát triển khác nhau, tiêu chuẩn để đánh giá hiệu quả cũng
khác nhau. Nhìn chung có thể coi lượng kết quả thu được tối đa trên một đơn
vị chi phí là tiêu chuẩn để đánh giá hiệu quả kinh tế hiện nay.
Trong nền sản xuất nông nghiệp, đất đai là nguồn lực quan trọng nhất,
là tư liệu sản xuất đặc biệt không thể thiếu được. không có đất đai thì không
thể tiến hành sản xuất nông nghiệp. Nhưng nguồn lực này lại bị giới hạn và
đang có nguy cơ giảm dần về diện tích và chất lượng. Chính vì vậy yêu cầu

14



cấp bách đặt ra là phải sử dụng đất đai mội cách đầy đủ, hợp lý, tiết kiệm và
đem lại hiệu quả cao nhất.
Việt Nam là một nước nông nghiệp trên 50% lao động xã hội đang làm
việc trong khu vực nông thôn, trình độ thấp trong khi ruộng đất lại ít, vì vậy
cần phải tác động vào đất đai một cách có hiệu quả nhất để mang lại thu nhập,
đồng thời đảm bảo các yêu cầu về xã hội, môi trường. Xuất phát từ những yêu
cầu đó, quan điểm khi đánh giá hiệu quả sử dụng đất là với số lượng diện tích
đất đai nhất định cần phải tiến hành sản xuất đạt kết quả cao nhất với những
chi phí thấp nhất về lao động và các yếu tố khác trong một khoảng thời gian
nhất định, nhưng đồng thời phải đảm bảo sự phát triển bền vững.
Sử dụng đất phải cố gắng cực tiểu hoá chi phí sản xuất và cực đại hoá
lượng sản phẩm thu được trên một đơn vị diện tích. Điều này có nghĩa là việc
sử dụng đất có hiệu quả phải đảm bảo các yêu cầu:
- Thu được nhiều giá trị nông sản phẩm trên một đơn vị diện tích, tăng
thu nhập cho người lao động, với chi phí sản xuất trên một đơn vị sản phẩm
thấp nhất.
- Đảm bảo cho sản xuất nông nghiệp phát triển theo hướng sản xuất
hàng hóa trong cơ chế thị trường, đáp ứng yêu cầu của sự nghiệp CNH –
HĐH đất nước.\
Đảm bảo tăng độ phì của đất, cải tạo và bảo vệ đất, chống ô nhiễm,
xói mòn, bảo vệ môi trường sinh thái, từng bước phát triển nền nông
nghiệp bền vững.
2.1.5 Các yếu tố ảnh hưởng đến hiệu quả kinh tế trong sử dụng đất trồng
rau, hoa màu
2.1.5.1 Nhóm nhân tố tự nhiên
Các cây trồng nói chung và cây rau và cây hoa màu nói riêng sinh
trưởng và phát triển theo các quy luật tự nhiên riêng vốn có của chúng, đồng
thời chịu tác động rất nhiều của nhóm nhân tố tự nhiên như thời tiết, khí hậu,

15



nguồn nước tự nhiên. Các quy luật sinh học và điều kiện ngoại cảnh tồn tại
độc lập với ý muốn chủ quan của con người. Nếu như điều kiện tự nhiên
thuận lợi, cây trồng vật nuôi sẽ sinh trưởng phát triển mạnh, cho năng xuất và
chất lượng cao. Ngược lại, nếu điều kiện tự nhiên không thuận lợi sẽ gây ảnh
hưởng không tốt đến sự sinh trưởng và phát triển của cây trồng dẫn đến năng
suất, chất lượng sản phẩm và hiệu quả kinh tế đạt được thấp và các quá trình
đó gắn liền với đất đai cùng với việc sử dụng nó. Chính vì vậy trong quá
trình sử dụng đất canh tác, nhất là trong quá trình sử dụng đất trồng rau và
hoa màu sẽ không đạt được hiệu quả nếu như chúng ta không nắm vững các
quy luật của tự nhiên và sinh vật để có thể hạn chế các tác hại, đồng thời lợi
dụng để tác động một cách phù hợp tới cây trồng, vật nuôi sinh trưởng, phát
triển theo chiều hướng có lợi cho con người.
2.1.5.2 Nhóm nhân tố công nghệ và kỹ thuật
Đây là một trong những nhân tố có ảnh hưởng trực tiếp đến kết quả và
hiệu quả trong sản xuất ngành trồng trọt và nó đồng hành với quá trình sử
dụng đất. Công nghệ trong nông nghiệp là tập hợp các tri thức khoa học nông
nghiệp áp dụng vào quá trình sử dụng đất. Công nghệ áp dụng trong nông
nghiệp cần theo hướng làm giảm sự lệ thuộc quá mức vào việc sử dụng các
sản phẩm hóa học của người nông dân. Nhờ áp dụng công nghệ và kỹ thuật
mới vào sản xuất, đã giúp cho quá trình sản xuất đạt hiệu quả cao hơn, giúp
cho con người sản xuất ra nhiều sản phẩm hơn, với số lượng nguồn lực không
đổi, thậm chí còn ít hơn. Tuy nhiên, việc áp dụng công nghệ và kỹ thuật mới
cần phải kết hợp hài hoà với công nghệ cổ truyền đang có trong dân, đồng
thời phải chú ý đến môi trường sinh thái.
2.1.5.3 Nhóm nhân tố kinh tế tổ chức
2.1.5.3.1 Trình độ sản xuất của người dân
Sản xuất nông nghiệp phụ thuộc nhiều vào điều kiện tự nhiên, nhưng
trình độ của người sản xuất có ảnh hưởng không nhỏ đến năng suất của cây


16


trồng và vật nuôi. Việc áp dụng kỹ thuật mới vào sản xuất không đảm bảo
chắc chắn mang lại HQKT cao ngay từ lúc mới áp dụng nếu như người nông
dân không có kiến thức khoa học và thành thạo kỹ thuật. Những người nông
dân nắm vững kỹ thuật, có kinh nghiệm sản xuất, trình độ tổ chức quản lý tốt
bao giờ cũng thu được sản phẩm nhiều hơn, hiệu quả kinh tế cao hơn trên một
đơn vị diện tích so với người nông dân có trình độ học vấn thấp, không hoặc
ít am hiểu về kỹ thuật nông nghiệp.
2.1.5.3.2 Quy mô sản xuất
Quy mô sản xuất có ảnh hưởng trực tiếp đến hiệu quả kinh tế trong sản
xuất. Quy mô sản xuất càng lớn thì chi phí quản lý cũng như các chi phí khác
được tiết kiệm hơn và ngược lại.
2.1.5.3.3. Thị trường
Hệ thống thị trường thực hiện sự trao đổi hàng hóa, của quá trình hoạt
động kinh tế theo cơ chế thị trường. Nói đến thị trường là nói đến cung cầu
của một loại sản phẩm hàng hóa hoặc hàng hoá dịch vụ nào đó. Đây là yếu tố
quan trọng ảnh hưởng đến lượng sản phẩm sản xuất ra của người sản xuất.
Khi cầu của một loại hàng hoá xuất hiện trên thị trường thì người sản xuất sẽ
tìm cách đáp ứng mức cầu của hàng hoá đó, sản phẩm nào được thị trường
chấp nhận sẽ đứng vững, tồn tại và đem lại HQKT cao cho người sản xuất.
2.1.5.3.4 Cơ sở hạ tầng
Trong sản xuất nông nghiệp cơ sở hạ tầng đóng vai trò rất quan trọng.
Nếu cơ sở hạ tầng không tốt sẽ làm ảnh hưởng đến hiệu quả sản xuất, năng
xuất và chất lượng cây trồng, nhất là vào mùa hạn hán và lũ lụt. Đầu tư xây
dựng cơ sở hạ tầng phục vụ cho quá trình sản xuất sẽ tạo động lực kích thích
phát triển nông nghiệp hàng hoá và các hoạt động phi nông nghiệp, trên cơ sở
đó tăng thu nhập cho các hộ gia đình ở nông thôn.


17


2.1.5.3.5 Các chính sách liên quan đến sản xuất nông nghiệp
Các chính sách của chính phủ được đưa ra nhằm tác động vào một lĩnh
vực cụ thể của nền kinh tế. Đặc biệt trong sản xuất nông nghiệp, điều này
được thể hiện rõ. Nếu chính sách đúng đắn phù sẽ góp phần thúc đẩy sản xuất
phát triển, và ngược lại nếu chính sách không phù hợp sẽ góp phần kìm hãm
sự phát triển của sản xuất. Trên thực tế chúng ta đã thấy rõ điều này ở thời kỳ
bao cấp. Hiện nay, một số chính sách nông nghiệp mới ra đời như chính sách
trợ giá nông sản, chính sách khuyến nông… đã góp phần thúc đẩy việc phát
triển sản xuất nông nghiệp, đem lại hiệu quả kinh tế cao hơn, sử dụng hợp lý
và có hiệu quả các nguồn lực hơn.
2.2 CƠ SỞ THỰC TIỄN CỦA ĐỀ TÀI
2.2.1 Tình hình nghiên cứu nâng cao hiệu quả sử dụng đất canh tác trên
thế giới
Cho tới nay, trên thế giới đã có nhiều nhà khoa học nghiên cứu đưa ra
nhiều phương pháp đánh giá để tìm ra các giải pháp nhằm nâng cao hiệu quả
sử dụng đất canh tác. Các nước Đông Nam Á đã áp dụng các phương pháp
như: phương pháp chuyên khảo, phương pháp mô phỏng, phương pháp phân
tích kinh tế… vào việc áp dụng đánh giá hiệu quả sử dụng đất canh tác thông
qua việc tập chung hướng nghiên cứu vào việc đánh giá hiệu quả đối với từng
loại cây trồng, từng giống cây trồng, để từ đó sắp sếp, bố trí một công thức
luân canh phù hợp hơn, khai thác một cách tối ưu tiềm năng của đất.
Các nhà khoa học nghiên cứu trên thế giới đã đưa ra một số cây trồng
mới có năng suất và chất lượng cao, giúp cho việc sử dụng đất ngày càng có
hiệu quả hơn. Tạp chí Farming JaPan của Nhật Bản ra hàng tháng đã giới
thiệu nhiều công trình của các nước trên thế giới về các hình thức sử dụng đất
đai. Các nhà khoa học Nhật Bản hệ thống hoá tiêu chuẩn hiệu quả sử dụng đất

thông qua hệ thống cây trồng trên đất canh tác là sự phối hợp giữa các cây

18


trồng và gia súc, các phương pháp trồng trọt và chăn nuôi… các nhà khoa học
Hàn Quốc đã đề xướng và phát triển phương pháp canh tác tự nhiên tại Hàn
Quốc, đến nay phương pháp này đã được áp dụng rất thành công không
những tại Hàn Quốc mà còn ở một số nước trong khu vực Châu Á như Thái
Lan, Trung Quốc, Nhật Bản… sản xuất theo phương pháp canh tác tự nhiên
sẽ kiểm soát được toàn bộ quá trình sản xuất từ nguyên liệu đầu vào để tạo ra
các chế phẩm, quá trình làm đất, bón phân, chăm sóc (sử dụng hợp lý chất
dinh dưỡng cho cây trồng) do vậy sản phẩm mang tính an toàn cao, nâng cao
năng suất. Nói chung về việc sử dụng đất đai, các nhà khoa học trên thế giới
đều cho rằng đối với các vùng nhiệt đới có thể thực hiện các công thức luân
canh cây trồng hàng năm, có thể chuyển từ chế độ canh tác cũ sang chế độ
canh tác mới tiến bộ hơn, mang lại kết quả và hiệu quả cao hơn.
Hiện nay, khi dân số tăng nhanh thì nhu cầu lương thực thực phẩm
cũng tăng theo trong khi đất nông nghiệp đang ngày bị thu hẹp dần. Theo tài
liệu của FAO, năm 1980 diện tích đất trồng trọt trên toàn thế giới là gần 1467
triệu hecta (chiếm10%) tổng diện tích đất tự nhiên của thế giới. Trong đó có
tới 973 triệu hecta là ở vùng đồi núi. Hàng năm đất bị xói mòn mất khoảng 57
triệu hecta. Trên toàn thế giới có gần 1200 triệu hecta đất bị thoái hoá ở mức
trung bình hoặc nghiêm trọng, có gần 544 triệu hecta đất canh tác mất khả
năng sản xuất do không sử dụng hợp lý. Trung Quốc chiếm 23% dân số thế
giới nhưng chỉ có 7% đất canh tác. Theo thống kê mới nhất cho thấy diện tích
đất đai bị cát hoá của Trung Quốc đã đạt hơn 1 triệu 740 nghìn km2, chiếm
18,2% diện tích lãnh thổ. Diện tích cát hoá đang lan rộng với tốc độ mỗi năm
3436km2. Ấn Độ 30% diện tích đất bị xói mòn. 31% diện tích Tây Ban Nha
có nguy cơ trở thành sa mạc.

Dự báo tới năm 2025, 2/3 đất canh tác ở Châu phi sẽ biến mất cùng với
1/3 đất canh tác ở Châu Á và 1/5 của Nam Mỹ. Các khu vực bị ảnh hưởng

19


nhiều nhất là vùng khô cằn nằm cạnh những sa mạc hiện nay, bao gồm nhiều
vùng ở cận shahara (Châu Phi) hay sa mạc Gobi ở Trung Quốc.
Tài nguyên đất dùng vào sản xuất nông nghiệp trên thế giới vốn đã
không nhiều, nhưng lại ngày càng bị thu hẹp bởi sự gia tăng của mục đích phi
nông nghiệp, trong khi đó khả năng mở rộng không còn nhiều.
Do vậy, phát triển nông nghiệp nhằm đảm bảo nhu cầu nông sản và
luơng thực cho gần 7 tỷ người trên trên trái đất này yêu cầu chúng ta cần phải
nghiên cứu các biện pháp sử dụng đất nông nghiệp tối ưu theo hướng thâm
canh tăng vụ trên cơ sở bố trí hệ thống cây trồng hợp lý là cần thiết.
2.2.2 Tình hình nghiên cứu hiệu quả sử dụng đất canh tác nói chung ở
nước ta hiện nay
2.2.2.1 Vài nét về tình hình sử dụng đất canh tác nước ta
Việt Nam có nhiều nét đặc thù với các nước trên thế giới với diện tích
đất ít, người đông, trình độ phát triển kinh tế thấp, tốc độ đô thị hoá tăng
nhanh. Hiện nay nước ta có khoảng 9,382 triệu ha đất nông nghiệp, chiếm
khoảng 28,5% tổng diện tích đất tự nhiên của cả nước với khoảng 70% dân số
sống ở nông thôn và 50% lao động đang hoạt động ở lĩnh vực nông nghiệp,
lâm nghiệp và ngư nghiệp. Tốc độ tăng dân số bình quân hàng năm là 2%.
Theo dự kiến nếu tốc độ tăng dân số đạt kế hoạch từ 1 – 2%/năm thì dân số
Việt Nam sẽ là 100,8 triệu người vào năm 2015, trong khi quỹ đất nông
nghiệp hầu như không tăng.
Dựa vào nguồn đất đai hiện có, theo phương pháp đánh giá của FAO
các nhà nghiên cứu đã xác định một số loại hình sử dụng đất chính sau.
- Loại hình sử dụng đất bền vững:

+ Loại hình sử dụng trồng lúa 2 – 3 vụ, có 51 đơn vị đất đai, chủ yếu
trên các nhóm đất phù sa, nhóm đất cát biển, nhóm đất lầy.

20


+ Loại sử dụng trồng lúa màu có 59 đơn vị đất đai, phân bố tập chung ở
các nhóm đất như nhóm đất xám, nhóm đất phù sa, nhóm đất cát với chủ yếu
là 2 vụ màu và lúa màu.
+ Loại sử dụng trồng cây công nghiệp dài ngày có 82 đơn vị đất đai, sử
dụng trồng cây ăn quả có 30 đơn vị đất đai, đất rừng 166 đơn vị đất đai.
- Loại hình sử dụng đất không bền vững về kinh tế: đất được sử dụng
trồng lúa một vụ, tuy nhiên loại hình này chưa tận dụng hết khả năng của đất,
hệ số sử dụng còn thấp, hiệu quả kinh tế không cao, không ổn định.
- Loại hình sử dụng đất không bền vững về môi trường: chủ yếu là loại
đất trồng cây cạn ngắn ngày, có 134 đơn vị đất đai. Do địa hình cao, dốc,
thoát nước và không có khả năng tưới, đất trở nên khô hạn, dễ bị rửa trôi xói
mòn, làm cho môi trường đất bị phá huỷ nghiêm trọng do đó cần thay đổi cơ
cấu cây trồng một cách hợp lý.
- Loại hình sử dụng đất bền vững về kinh tế và môi trường: đây là loại
hình đất đồi núi trọc có 215 đơn vị đất đai.
Qua bảng 2.1 ta thấy sản lượng lương thực từ năm 1980 đến nay có
tăng lên theo xu hướng ổn định. Mặc dù diện tích đất canh tác bị giảm đi qua
các năm. Hệ số sử dụng ruộng đất tuy có tăng lên khá đều đặn nhưng vẫn
chưa cao.
Bảng 2.1: Tình hình đất nông ngiệp và đất canh tác Việt Nam
Chỉ tiêu
ĐVT 1980
1985
1990

1994
2000
2010
3
1. Đất nông nghiệp
10 ha 6913.4 6942.2 6993.2 7367.2 8072.6 8821.5
- Đất canh tác
103ha 5974.2 5625.8 5339.0 5463.8 5630.0 5876.4
- Đất lúa
103ha 4672.5 4296.6 4108.8 4230.1 4230.0 <4351.0
2. BQ diện tích/khẩu
- Đất nông nghiệp
m2
1292.0 1156.0 1156.0 1014.0 984.5
882.2
2
- Đất canh tác
m
1116.0 935.0 935.0 752.0 686.5
587.6
3. Một số chỉ tiêu
- Diện tích gieo trồng 103ha
7480.3 8104.5 8907.8 >11000 >13500
6
- Năng suất lúa
10 tấn
27.8
31.9
35.6
38-40

43-53
- SL lương thực
Tạ/ha
18.2
21.49
26.2
30-32
38-40
(Nguồn: Tổng cục thống kê và báo cáo quy hoạch sử dụng đất năm 2010)

21


Nhìn chung, điều kiện đất đai đa dạng, trình độ canh tác ngày càng
tăng, hệ số sử dụng ruộng đất tăng lên, cơ cấu sản xuất được bố trí hợp lý
hơn, năng suất cây trồng tăng khá nhanh. Đây là xu hướng tốt là cơ sở quyết
định để nâng cao HQKT trong sử dụng đất.
2.2.2.2 Một số công trình nghiên cứu hiệu quả sử dụng đất trồng cây hoa
màu có liên quan tới đề tài
Trong những năm gần đây, bên cạnh việc nghiên cứu đưa các giống cây
trồng mới vào sản xuất, các biện pháp tăng hiệu quả sử dụng đất đều dựa vào việc
nghiên cứu đưa ra các công thức luân canh mới, bằng phương pháp đánh giá hiệu
quả của từng giống cây trồng, từng công thức luân canh. Từ đó các công thức luân
canh tiến bộ, các kiểu sử dụng đất luôn được cải tiến để khai thác ngày một tốt hơn
tiềm năng của đất.
Vấn đề luân canh bố trí hệ thống cây trồng để tăng vụ, trồng gối, trồng
xen nhằm sử dụng các nguồn lợi về đất đai, khí hậu để bố trí hệ thống các cây
trồng đã được nhiều tác giả đề cập đến như: Bùi Huy Đáp (1974), Ngô Thế
Dân (1982), Vũ Tuyên Hoàng (1987). Trong đó các loại cây hoa màu đặc biệt
là lạc và đậu tương được chú ý (diện tích đậu tương tăng 282%, diện tích lạc

tăng 207%).
Chương trình quy hoạch tổng thể vùng đồng bằng sông Hồng
(VIE/89/032) đang nghiên cứu đề xuất dự án phát triển đa dạng hoá nông
nghiệp đồng bằng sông Hồng. Nội dung quan trọng nhất là phát triển hệ thống
cây trồng để nâng cao hiệu quả sử dụng đất nông nghiệp từ năm 1993 – 2010.
Nghiên cứu hệ thống cây trồng trên đất dốc nhằm nâng cao năng suất
cây trồng và bảo vệ môi trường sinh thái ở nước ta với các công trình nghiên
cứu như: Nguyễn Ngọc Bình (1987), Nguyễn Tử Siêm(1993), Nguyễn Thanh
Trà (1996).

22


Kết quả nghiên cứu, bố trí luân canh cây họ đậu trên đất 3 vụ làm
tăng HQKT sử dụng đất hoa màu và nâng cao độ phì của đất bạc màu ở
tỉnh Sóc Sơn.
Nhìn chung các công trình nghiên cứu cũng như thực tiễn khai thác
tiềm năng đất đai hiện nay mới giải quyết được phần nào những vấn đề đang
đặt ra của việc sử dụng đất đai. Nhiều mô hình canh tác có năng suất cây
trồng cao, bảo vệ môi trường nhưng hiệu quả kinh tế đem lại thấp. Trong khi
đó có mô hình đạt hiệu quả kinh tế cao nhưng chưa có gì đảm bảo cho việc
khai thác lâu dài ổn định. Vì vậy để nâng cao hiệu quả sử dụng đất đòi hỏi
phải có những biện pháp kinh tế kỹ thuật đồng bộ phù hợp.

23


PHẦN III
ĐẶC ĐIỂM ĐỊA BÀN NGHIÊN CỨU VÀ PHƯƠNG PHÁP
NGHIÊN CỨU


3.1 ĐẶC ĐIỂM ĐỊA BÀN NGHIÊN CỨU
3.1.1 Điều kiện tự nhiên của xã Yên Đồng – Ý Yên – Nam Định
3.1.1.1 Vị trí Địa lý
Yên Đồng là một xã đồng bằng nằm trên dải đất phù xa thuộc đồng
bằng Sông Hồng ở phía Đông Nam huyện Ý Yên.
- Phía Đông giáp xã Yên Nhân
- Phía Tây giáp xã Yên Khang
- Phía Nam giáp xã Yên trị
- Phía Bắc giáp xã Yên Thắng
Yên Đồng có điểm thuận lợi là gần thị xã Ninh Bình đang trên đà phát
triển lại nằm sát trục đường 10 nối Tỉnh Ninh Bình và Nam Định, nên nên có
lợi thế lớn cho giao thưong, là một trong các tiềm lực to lớn cần phải phát huy
để phát triển kinh tế xã.
3.1.1.2 Địa hình đất đai
Địa hình xã Yên Đồng tương đối bằng phẳng, tuy nhiên độ cao đất đai
trong xã tương đối gồ gề, nhấp nhô, hình thành các giải đất thấp dần từ Nam
xuống Bắc từ Đông sang Tây. Đất có địa hình cao dùng để trồng rau và hoa
màu chiếm khoảng 40% diện tích, đất có địa hình trung bình chiếm khoảng
20% diện tích dùng để trồng lúa màu, đất trũng khoảng 40% diện tích chuyên
trồng lúa và thả cá.
3.1.1.3 Điều kiện khí hậu, thủy văn

24


Khí hậu thời tiết xã Yên Đồng mang đặc điểm khí hậu của vùng đồng
bằng Bắc Bộ, chia làm hai mùa rõ rệt, mùa mưa nóng ẩm, mưa nhiều, mùa
khô lạnh và hanh. Mùa nóng kéo dài từ tháng 5 đến tháng 10, nhiệt độ hàng
tháng dao động trong khoảng từ 250C đến 300C. Mùa lạnh kéo dài từ tháng 11

đến tháng 4 năm sau, nhiệt độ hàng tháng giao động trong khoảng từ 12 0C
đến 240C. Nhiệt độ trung bình trong năm khoảng 23 0C. Vào mùa Hè nhiệt độ
tăng cao, trời nắng nhiệt độ trong ngày cao nhất có thể lên tới trên 37 0C. Vào
mùa Đông nhiệt độ xuống thấp, trời rét, nhiệt độ trong ngày có thể xuống tới
dưới 60C. Trung bình trong năm có khoảng hơn 200 ngày có nhiệt độ từ 20 0C
đến 300C, nhiệt độ thích hợp cho cây trồng vật nuôi phát triển. Độ ẩm trung
binh 86%, lượng mưa trung bình cả năm 1563,3mm, có khoảng 150 đến 170
ngày mưa. Mùa mưa ẩm, nóng kéo dài từ tháng 4 đến tháng 10, lượng mưa
trong mùa mưa chiếm 80% đến 85% lượng mưa cả năm. Trong khi đó lượng
mưa vào mùa khô chỉ chiếm 20 – 25% tổng lượng mưa cả năm. Do lượng
mưa không đều giữa các tháng trong năm nên thường gây ra các hiện tượng
hạn hán vào mùa khô và úng lụt vào mùa mưa.
Nhìn chung, điều kiện thời tiết khí hậu của xã Yên Đồng tương đối
thuận lợi cho việc phát triển nông nghiệp, có điều kiện thâm canh gối vụ,
chuyển đổi cơ cấu các loại cây trồng, vật nuôi. Tuy nhiên việc phòng chống
và giảm nhẹ thiên tai cũng là một vấn đề đặt ra đối với xã Yên Đồng.
3.1.2 Điều kiện kinh tế - xã hội của xã Yên Đồng – Ý Yên – Nam Định
3.1.2.1 Tình hình phân bổ và sử dụng đất đai
Xã Yên Đồng có tổng diện tích đất tự nhiên là 1071.87 ha, diện tích
này hầu như không thay đổi qua 3 năm, (nguyên nhân do xã không có sông
ngòi lớn chảy qua nên hàng năm hầu như không có sự bồi đắp). Chỉ có sự
biến động giữa các loại đất. Diện tích đất nông nghiệp giảm dần qua 3 năm,
năm 2007 là 764.03 ha, đến năm 2008 chỉ còn 762.60 ha giảm 0.15%. Diện

25


×