Tải bản đầy đủ (.pdf) (27 trang)

SKKN một số PHƯƠNG PHÁP gây HỨNG THÚ học tập hóa học CHO học SINH TRUNG học PHỔ THÔNG

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (805.38 KB, 27 trang )

Trường THPT Xuân Mỹ

Giáo viên Hoàng Nguyễn Quỳnh Quyên

SỞ GIÁO DỤC VÀ ĐÀO TẠO ĐỒNG NAI
Đơn vị: Trường THPT Xuân Mỹ
Mã số:

SÁNG KIẾN KINH NGHIỆM
MỘT SỐ PHƯƠNG PHÁP GÂY HỨNG THÚ HỌC TẬP HÓA
HỌC CHO HỌC SINH TRUNG HỌC PHỔ THÔNG

Người thực hiện: Hoàng Nguyễn Quỳnh Quyên
Lĩnh vực nghiên cứu:
Quản lý giáo dục
Phương pháp dạy học bộ môn
Phương pháp giáo dục
Lĩnh vực khác
Có đính kèm
Mô hình

Phần mềm

Phim ảnh

Hiện vật khác

Năm học: 2012 - 2013

1



Trường THPT Xuân Mỹ

Giáo viên Hoàng Nguyễn Quỳnh Quyên

SƠ LƯỢC LÝ LỊCH KHOA HỌC
_______________
I. THÔNG TIN CHUNG VỀ CÁ NHÂN
1. Họ và tên: Hoàng Nguyễn Quỳnh Quyên
2. Ngày tháng năm sinh: 25/08/1981
3. Nam, nữ: nữ
4. Địa chỉ: Ấp Hoàn Quân – Xã Long Giao – Huyện Cẩm Mỹ - Tỉnh
Đồng Nai.
5. Điện thoại: 0613. 790113 (CQ)/0613. 790081 (NR);
ĐTDĐ: 01686079080.
6. Fax:
E-mail:
7. Chức vụ: Phó Hiệu trưởng.
8. Đơn vị công tác: Trường THPT Xuân Mỹ.
II. TRÌNH ĐỘ ĐÀO TẠO
- Trình độ chuyên môn, nghiệp vụ cao nhất: Cử nhân Sư phạm.
- Năm nhận bằng: 2003.
- Chuyên ngành đào tạo: Hóa học.
III. KINH NGHIỆM KHOA HỌC
- Lĩnh vực chuyên môn có kinh nghiệm: giảng dạy môn hóa học.
- Số năm có kinh nghiệm: 8 năm.
- Các sáng kiến kinh nghiệm đã có trong 5 năm gần đây: Hóa học và
đời sống.

2



Trường THPT Xuân Mỹ

Giáo viên Hoàng Nguyễn Quỳnh Quyên

Sáng kiến kinh nghiệm

MỘT SỐ PHƯƠNG PHÁP GÂY HỨNG
THÚ HỌC TẬP HÓA HỌC CHO
HỌC SINH TRUNG HỌC PHỔ THÔNG
A – Lí do chọn đề tài
I/ TẦM QUAN TRỌNG CỦA SỰ HỨNG THÚ VÀ NIỀM SAY MÊ:
Đam mê là chìa khóa của mọi thành công trong công việc và trong cuộc
sống! Pierre Omidyar một trong những doanh nhân thành đạt giàu có nhất thế giới,
cho rằng yếu tố quan trọng nhất quyết định nên thành công là niềm đam mê: “Bạn
phải tin tưởng vào những điều mình đang làm và thật sư đam mê với điều đó thì
mới có thể dành đủ thời gian và công sức để đi đến thành công”.
Trong học tập, sự hứng thú và say mê giúp học sinh đạt được kết quả cao
nhất. Khơi gợi cho học sinh sự hứng thú, say mê chính là phương pháp thức tỉnh tài
năng tiềm ẩn trong mỗi con người, đó cũng là nhiệm vụ cao cả và khó khăn của
mỗi thầy, cô giáo.
Tuy nhiên, sự đam mê, hứng thú không phải là thành phần bất biến của một
môn học nào cả. Không thể kết luận rằng môn toán khô khan, khiến học sinh không
có hứng thú học tập. Còn môn văn thì sống động nên dễ thu hút học sinh. Điều đó
là hoàn toàn không đúng, mà sự đam mê hứng thú phụ thuộc rất nhiều vào phương
pháp dạy học, cách thức truyền đạt của mỗi thầy cô giáo.
Hiện nay nền giáo dục của ta đang thay đổi để dạy học theo hướng phát huy
tính tích cực, chủ động của học sinh. Mà muốn học sinh phát huy được tính tực,
chủ động thì phải tạo cho các em một sự hứng thú, say mê đối với môn học.


3


Trường THPT Xuân Mỹ

Giáo viên Hoàng Nguyễn Quỳnh Quyên

Hóa học là một môn khoa học thực nghiệm vốn rất gần gũi với cuộc sống và
cũng xuất phát từ nhu cầu thực tiễn của cuộc sống. Giảng dạy môn hóa học cũng
như các môn học khác, những phương pháp nhằm giúp học sinh yêu thích hứng thú
và say mê môn học chính là nhờ sự tinh tế và tài tình của giáo viên. Trãi qua nhiều
năm giảng dạy tôi đã đúc rút ra cho mình một số phương pháp mang lại hiệu quả
cao trong việc giảng dạy môn Hóa học, sau đây tôi xin giới thiệu hai phương pháp
tiêu biểu:
1. Phương pháp vào bài thu hút tạo sự hứng thú tìm hiểu cho học sinh.
2. Phương pháp truyền thụ kiến thức giáo khoa được gắn liền với thực tiễn
cuộc sống khơi gợi niềm say mê học tập của học sinh.
II – QUÁ TRÌNH CHUẨN BỊ
1. Xem xét thực trạng:
Trước tình hình học hoá học phải đổi mới phương pháp dạy học đã và đang
thực sự là yếu tố quyết định hiệu quả giờ dạy. Một trong những yếu tố để đạt giờ
dạy có hiệu quả và tiến bộ là phải phát huy tính thực tế, giáo dục về môi trường, về
tư tưởng vừa mang bản sắc dân tộc mà không mất đi tính cộng đồng trên toàn thế
giới, những vấn đề cũ nhưng không cũ mà vẫn có tính chất cập nhật và mới mẽ,
đảm bảo: tính khoa học – hiện đại, cơ bản; tính thực tiễn và giáo dục kỹ thuật tổng
hợp, tính hệ thống sư phạm.
Tuy nhiên mỗi tiết học có thể không nhất thiết phải hội tụ tất cả những quan
điểm nêu trên, cần phải nghiên cứu kỹ lưỡng, đừng quá lạm dụng khi lượng kiến
thức không đồng nhất .

Thực tế giảng dạy cho thấy:
Môn hoá học trong trường phổ thông là một trong những môn học khó đối
với nhiều học sinh, nếu không có những bài giảng và phương pháp hợp lý, phù hợp
với thế hệ học trò dễ làm cho học sinh thụ động trong việc tiếp thu, cảm nhận dẫn
đến chán nản. Đã có hiện tượng một số bộ phận học sinh không muốn học hoá học,
ngày càng lạnh nhạt với giá trị thực tiễn của hoá học.
Nhiều giáo viên chưa quan tâm đúng mức đối tượng giáo dục, chưa đặt ra
cho mình nhiệm vụ và trách nhiệm nghiên cứu, hiện tượng dùng đồng loạt cùng
một cách dạy, một bày giảng cho nhiều lớp, nhiều thế hệ học trò là không ít. Do

4


Trường THPT Xuân Mỹ

Giáo viên Hoàng Nguyễn Quỳnh Quyên

phương pháp ít có tiến bộ mà người giáo viên đã trở thành người cảm nhận, truyền
thụ tri thức một chiều. Giáo viên nên là người hướng dẫn học sinh chủ động trong
quá trình lĩnh hội tri thức hoá học.
Thực hiện điều tra ở một số giáo viên bộ môn và học sinh bằng những phiếu
điều tra trắc nghiệm, mỗi phiếu với một vấn đề điều tra, kết quả như sau:
15% học sinh chấp nhận học thuộc lòng dù không hiểu bài và không hứng thú.
40% HS chưa yêu thích và học tốt bộ môn hóa học.
75% giáo viên chọn cách vào bài nhanh để đảm bảo thời gian giảng bài.
80% giáo viên cố gắng hoàn thành bài giảng theo nội dung sách giáo khoa.
75% HS tỏ ra rất căng thẳng với khâu kiểm ta bài cũ trước khi vào bài mới.
85% Học sinh thích học tập đi đôi với những kiến thức thực tế trong cuộc sống
90% giáo viên bộ môn thấy hiệu quả cao trước một tiết học mở đầu bài giảng
tốt, một bài giảng thực tế sinh động.

95% HS đều chú ý tập trung khi một người thầy khơi gợi vấn đề đầy mâu thuẫn,
thắc mắc trước một bài mới.
100% HS đồng ý “Rất yêu thích và hứng thú với những bài học bắt đầu bằng sự
kích thích, không khí thật vui vẻ”.
2. Chuẩn bị bài giảng .
Việc xây dựng các kiểu, hình thức vào bài và kết hợp kiến thức thực tiễn
cuộc sống phụ thuộc vào mỗi bài học cụ thể và thời gian cho phép và đã được giáo
viên bộ môn thực hiện trong quá trình soạn giảng. Giáo viên cần có sự chuẩn bị:
 Các loại tranh ảnh, đoạn phim, thiết bị, hóa chất cần thiết cho vào bài ở từng tiết
học.
 Những thông tin, tư liệu bổ sung mở rộng, nâng cao kiến thức.
 Những kiến thức thời sự, kinh tế, thực tiễn cuộc sống liên quan tới bài học.
 Những câu chuyện về lịch sử, câu chuyện vui, hài hước liên quan đến nội dung
bài giảng.

B – Nội dung đề tài:

5


Trường THPT Xuân Mỹ

Giáo viên Hoàng Nguyễn Quỳnh Quyên

I – PHƯƠNG PHÁP MỞ BÀI GÂY HỨNG THÚ CHO HỌC SINH:
Là một phương pháp đa dạng, phong phú, phụ thuộc vào kỹ năng sư phạm,
vốn kiến thức và bản sắc riêng của mỗi nhà giáo. Khi mở bài giáo viên đóng vai
trò như một người dẫn chương trình dẫn dắt người nghe bước vào nội dung bài
học bằng các cách khác nhau tùy thuộc vào nội dung bài học. Giáo viên phải có
sự chuẩn bị trước để xem xét những kiến thức liên quan đến nội dung bài học từ

đó có cách mở bài phù họp.
Một số ví dụ minh họa cho phương pháp mở bài gây hứng thú.
1. Phương pháp sử dụng các thông tin thời sự:
Kiểu vào bài này được đánh giá cao về việc liên hệ thực tế, cập nhật thông tin
nóng bỏng hàng ngày liên quan đến khoa học hóa học cần giải thích, làm rõ. Qua
đó, học sinh ngày càng yêu thích bộ môn, tự giác theo dõi các tin tức liên quan và
tự tìm cách trả lời bằng kiến thức đã học. Với hình thức này, tuyệt đối thông tin
phải chính xác, giáo viên không thể tự đưa ra thông tin mà không có minh chứng,
khiến học sinh nghi vấn thông tin
Ví dụ 1: Bài “Sản xuất Nhôm” – Lớp 12.
Hungary đã ban bố tình trạng khẩn cấp ở ba tỉnh vào ngày 5/10/2010 sau khi lũ
bùn chứa hóa chất độc từ một nhà máy nhôm nhấn chìm nhiều làng và gây bỏng
đối với người dân. “Thảm họa sinh thái” này có thể đe dọa tới các con sông lớn.
Bùn đỏ là chất thải sinh ra khi bô xít được tinh chế thành ô xít nhôm, nguyên liệu
cơ bản để sản xuất nhôm. Chất thải này được xử lý bằng cách cất trữ trong các bể
chứa, khi nước bốc hơi sẽ để lại một chất bùn khô đỏ như đất sét. Đây được coi là
thảm họa môi trường tồi tệ nhất ở Hungary từ trước đến nay.
Chất gì trong thứ bùn đỏ trên? Thảm họa gì có thể tiếp tục xảy ra từ sự cố đó?
Ví dụ 2: Bài “Clo” – Lớp 10
“Ngày 12/7/2011, nguồn tin Bộ nội vụ Iraq cho biết, hàng trăm người đã phải
nhập viện sau khi đám mây chứa khí clo bọ rò rỉ bao phủ một khu dân cư phía
Đông thủ đô Baghdad, vụ rò rỉ xảy ra đêm 12/7 khi các ống chứa khí clo được sử
dụng tại nhà máy xử lý nước thuộc quận Sadr City phát nổ do lỗi kỹ thuật” (Báo
Vietnamnet).

6


Trường THPT Xuân Mỹ


Giáo viên Hoàng Nguyễn Quỳnh Quyên

Tại sao hàng trăm người đã phải nhập viện vì khí clo? Tại sao clo lại được sử
dụng tại các nhà máy xử lý nước?
Đối với phương pháp này, giáo viên nên thường xuyên cập nhật thông tin trên
các phương tiện thông tin (báo, đài,…) để có những tin tức mới nhất liên quan đến
nội dung bài học. Như vậy mới có thể thu hút được sự chú ý và sự hứng thú của
học sinh. Các em đặc biệt hứng thú với các tình hình xã hội đang xảy ra.
2. Phương pháp đặt câu hỏi gợi mở:
Giáo viên đặt một câu hỏi khêu gợi trí tò mò, một câu đố vui, sau đó dẫn dắt vào
bài mới
Ví dụ 1: Bài “Axit bazo” – Lớp 11 được gợi mở bằng 1 câu hỏi đơn giản nhưng
thực tế: Tại sao bị ong đốt lại bôi vôi ?
Ví dụ 2: Bài “Andehit” – Lớp 11 được gợi mở bằng câu hỏi: Người ta đã làm
gì để tấm thủy tinh trở thành gương soi?
Ví dụ 3: Bài “Axit cacboxylic” – Lớp 12 được gởi mở bằng câu hỏi: Trong quả
chanh có thành phần gì gây nên vị chua? Thành phần của thuốc trị đau dạ dày
do dư axit là gì? Tại sao? (Giáo viên có thể chuẩn bị một gói thuốc đau dạ dày
cho học sinh xem thành phần của thuốc).
3. Phương pháp kể chuyện:
Với cách vào bài này, giáo viên kể một câu chuyện nhỏ và vui, rồi từ tình huống
hay vấn đề trong câu chuyện để dẫn vào bài học.
Ví dụ: Bài “Nhôm” – lớp 12 được bắt đầu bằng một câu chuyện:
Vào khoảng 2000 năm trước, Hoàng đế La Mã được 1 người thợ tặng cho 1 cái
chén bằng kim loại lấp lánh như bạc nhưng nhẹ hơn bạc, và người thợ nói rằng thứ
kim loại này ông luyện được từ đất sét. Ban đầu, hoàng đế rất thích thú với chiếc
chén mới, nhưng sau đó ông nghĩ rằng nếu để cho tên dân đen kia luyện được
nhiều kim loại này từ đất sét thì vàng, bạc của ông ở trong kho sẽ mất giá trị. Vì
vậy ông ra lệnh chém đầu người thợ và phá xưởng. Mãi đến thế kỉ XVI, Paracelsus
mới xác định được vết tích của thứ kim loại trên trong đất phèn. Vài chục năm sau

đó, Berzelius và Humphry Davy mới đặt tên cho thứ kim loại đó là Aluminium.
Năm 1827, Friedrich Wohler đã thành công trong việc điều chế ra nhôm nhưng
mới chỉ thu được ở dạng hạt, 18 năm sau mới điều chế được nhôm ở dạng khối.

7


Trường THPT Xuân Mỹ

Giáo viên Hoàng Nguyễn Quỳnh Quyên

Năm 1886 là năm sản xuất nhôm hàng loạt nhưng nhôm vẫn được xem là kim loại
quí hơn vàng, bạc. Vào thời đó, các quốc vương mặc hoàng bào đính cúc nhôm.
Năm 1889, Mendeleev được xứ sở vương quốc sương mù tặng cho 1 cái cân làm
bằng nhôm. Hoàng đế napoleon III có một bộ dụng cụ ăn uống làm bằng nhôm, và
bộ dụng cụ này được dùng để tiếp đãi những vị khách quí, còn thường ngày thì
ông sử dụng bộ dụng cụ bằng vàng, bạc. Hơn 100 năm sau, nhôm đã không còn là
kim loại quí đối với thợ kim hoàn song với công nghiệp, đặc biệt là công nghiệp
chế tạo máy, công nghiệp ô tô, công nghiệp hàng không, thì nhôm vẫn là một loại
nguyên liệu quan trọng vì những tính năng ư việt của nó và giá thành rẻ nữa.
4. Phương pháp liên hệ thực tế:
Giáo viên qua một câu chuyện, một ví dụ thực tế rồi dẫn dắt vào bài mới. Kiểu
vào bài này giúp học sinh có hứng thú trong học tập, mong muốn giải thích được
các hiện tượng xung quanh các em, ngoài ra nó còn làm cho học sinh yêu thích
môn học do thấy được mức độ quan trọng của hóa học trong đời sống hàng ngày.
Ví dụ 1: Bài “Xà phòng và chất giặt rửa tổng hợp” – Lớp 12
Em hãy cho biết tại sao phải dùng xà phòng hay nước rửa chén để làm sạch các vết
bẩn? Tại sao phải dùng các chất giặt rửa trên với nước? Vai trò của nước và của xà
phòng như thế nào trong việc làm sạch các vết bẩn?
Ví dụ 2: “Bài ankin” – Lớp 11

Em có biết thành phần của các khí được sử dụng khi hàn gió đá? Khí đá là gì?
5. Phương pháp trực quan sinh động:
Giáo viên cho HS xem những vật thật, mô hình, bức tranh, những đoạn phim …
thường tạo nên những ấn tượng mạnh. Thông qua các phương tiện trực quan, học
sinh sẽ ngày càng hứng thú, mong chờ tiết học hóa và yêu thích bộ môn hơn.
Cách vào bài này đặc biệt thích hợp với việc ứng dụng công nghệ thông tin
trong dạy học, giáo viên có thể truy tìm các hình ảnh, mô hình, tranh, phim thí
nghiệm… minh họa trên các phương tiện hỗ trợ như internet, sách báo…
Mặt khác, đây cũng là cách vào bài hiệu quả khi giáo viên sử dụng và phát huy
tác dụng của các đồ dùng dạy học có tại phòng thiết bị, dụng cụ thí nghiệm hoặc tự
chế tác trong đời sống hàng ngày
Ví dụ 1: Bài “ Hóa học và vấn đề môi trường” – Lớp 12

8


Trường THPT Xuân Mỹ

Giáo viên Hoàng Nguyễn Quỳnh Quyên

Khí thải các nhà máy

9


Trường THPT Xuân Mỹ

Giáo viên Hoàng Nguyễn Quỳnh Quyên

Rác thải


Hậu quả khôn lường
Ví dụ 2: Bài “Axit sunfuric – muối sunfat” – Lớp 10

10


Trường THPT Xuân Mỹ

Giáo viên Hoàng Nguyễn Quỳnh Quyên

6. Phương pháp tổ chức hoạt động tập thể:
Chia lớp học thành từng nhóm, yêu cầu giải một bài tập hay thực hiện một trò
chơi, nhóm hoàn thành nhiệm vụ trước tiên sẽ có một giải thưởng nho nhỏ. Phương
pháp này có tác dụng khuyến khích tinh thần học tập của học sinh, tăng cường tính
thân thiện, đoàn kết nhóm học tập, học sinh được thể hiện nhóm mình với tập thể
giúp tiết học sẽ sôi nổi hơn.
Ví dụ: Bài “ Luyện tập Axit sunfuric – Hóa 10”
Bước 1: Chia lớp thành 8 nhóm, mỗi nhóm Giáo viên đã chuẩn bị sẵn cho một viết
lông và một tờ giấy A3

11


Trường THPT Xuân Mỹ

Giáo viên Hoàng Nguyễn Quỳnh Quyên

Bước 2: Ra yêu cầu: Mỗi nhóm hãy tìm ra 10 chất khác nhau đều không phản ứng
với dung dịch H2SO4 loãng nhưng có phản ứng với H2SO4 đặc. Viết phương trình

phản ứng minh họa.
Giải thưởng: Trong thời gian không quá 5 phút nhóm nào hoàn thành trước tiên sẽ
được cộng 1 điểm cho mỗi thành viên.
Kết luận: Mở đầu bài giảng là một trong những yếu tố quyết định tính toàn vẹn
của bài học, có tác dụng phát huy tính tích cực, sáng tạo cho học sinh, tạo không
khí hứng khởi cho các em khi bắt đầu vào bài học mới. Một mở đầu tốt coi như bài
học đã thành công được một nửa, chính vì vậy một nhà sư phạm tài năng luôn coi
trọng bước mở đầu bài giảng sao cho thật hiệu quả.
B. PHƯƠNG PHÁP TRUYỀN THỤ KIẾN THỨC KẾT HỢP VỚI KIẾN
THỨC THỰC TIỄN CUỘC SỐNG.
Hóa học là một môn khoa học thực nghiệm vốn rất gần gũi với cuộc sống và
cũng xuất phát từ nhu cầu thực tiễn của cuộc sống. Học hoá để hiểu, giải thích được
các vấn đề thực tiễn thông qua cơ sở cấu tạo nguyên tử, phân tử, sự chuyển hoá của
các chất bằng các phương trình phản ứng hoá học... Đồng thời là khởi nguồn, là cơ
sở phát huy tính sáng tạo ra những ứng dụng phục vụ trong đời sống của con người.
Hoá học góp phần giải tỏa, xoá bỏ hiểu biết sai lệch làm phương hại đến đời sống,
tinh thần của con người. Một bài giảng được xem là hiệu quả khi người giáo viên
hoàn thành được nhiệm vụ trên.
Hóa học trong đời sống là vô vàn các mối liên hệ người giáo viên cáo thể
linh động, khéo léo dẫn dắt học sinh cùng tìm hiểu nguyên nhân, phát hiện vấn đề
và giải đáp thắc mắc. Sau đây là một số ví dụ minh họa.
Ví dụ 1: Tục ngữ Việt Nam có câu: “Nước chảy đá mòn”, câu này mang hàm ý
của khoa học hoá học như thế nào?
Vì trong nước có lẫn khí CO2 nên sẽ xảy ra phản ứng:
CaCO3  CO2  H 2O  Ca  HCO3 2 . Khi nước chảy sẽ cuốn Ca(HCO3)2 trôi theo,
qua thời gian đá sẽ bị mòn dần.
Áp dụng: Hiện tượng này thường thấy ở những phiến đá ở những dòng chảy
đi qua. Nếu không để ý, trong xây dựng sẽ có ảnh hưởng không ít. Góp phần hiểu
được dụng ý của khoa học của câu tục ngữ, làm cho hoá học trở nên gần gũi, có ý


12


Trường THPT Xuân Mỹ

Giáo viên Hoàng Nguyễn Quỳnh Quyên

thơ hơn. Giáo viên có thể áp dụng trong khi dạy về muối CaCO3 (lớp 11 hay lớp
12).
Ví dụ 2: Giải thích hiện tượng tạo thạch nhũ với những hình dạng phong phú
trong các hang động?
Trong đá thông thường chủ yếu là CaCO3, khi trời mưa, trong không khí có
CO2 tạo môi trường axit làm tan được đá vôi, những giọt nước mưa rơi xuống như
vô vàn mũi dao nhọn, sắc khắc vào đá những đường nét khác nhau
CaCO3  CO2  H 2O  Ca( HCO3 )2

Và xuất hiện quá trình điện ly:
Ca ( HCO3 ) 2  Ca 2  2 HCO3

CaCO3  Ca2+ + CO32– Theo thời gian dần tạo ra các hang động khi nước có Ca(HCO3)2 ở đất đá do áp
suất nhiệt độ đột nhiên thấp nên khi giọt nước nhỏ từ từ có tồn tại phương trình:
Ca(HCO3)2  CaCO3 + CO2 + H2O
Như vậy lớp CaCO3 lưu lại ngày càng nhiều, dày gọi đó là nhũ có màu, hình thù đa
dạng.
Áp dụng:
Hiện tượng này thường thấy trong các hang động núi đá. Giáo viên có thể áp dụng
trong khi dạy đến phần về các muối cacbonat (Hóa 11) hay hợp chất của Canxi
(Hóa 12).
Ví dụ 3: Cao dao Việt Nam có câu:
“Lúa chiêm lấp ló đầu bờ,

Hễ nghe tiếng sấm phất cờ mà lên”
Câu này mang hàm ý của khoa học hoá học như thế nào?
Câu ca dao nhắc nhở người làm lúa: Vụ chiêm khi lúa đang trổ đòng đòng
mà có trận mưa rào, kèm theo sấm chớp thì sẽ rất tốt và cho năng suất cao sau này.
Do trong không khí có ~ 80% khí N2 và ~ 20% khí O2, khi có chớp (tia lửa
điện) sẽ tạo điều kiện cho N2 hoạt động:
3000 C
N 2  O2 
 2 NO
o

Sau đó:

2 NO  O2  2 NO2

Khí NO2 sẽ tan vào trong nước mưa:
4 NO2  O2  2 H 2O  4 HNO3

13


Trường THPT Xuân Mỹ

Giáo viên Hoàng Nguyễn Quỳnh Quyên

HNO3  H   NO3

Nhờ hiện tượng này, hàng năm làm tăng 6 − 7 kg N cho mỗi mẫu đất. Ngày
nay, người ta đã điều chế Ure [(NH2)2CO] từ không khí để chủ động bón cho cây
trồng. Trong nền nông nghiệp hiện đại cần phải dùng nhiều phân bón và nhiệm vụ

của nghành công nghiệp hoá chất “hướng về không khí đòi lương thực” là càng
lớn.
Áp dụng: Đây là một câu ca dao mang một ý nghĩa thực tiễn, thấy rõ trong
đời sống. Vấn đề này có thể xen vào trong tiết dạy phân đạm (Hóa 11). Tạo cho học
sinh khu vực làm nông nghiệp có thể tiện kiểm nghiệm trong đời sống, tự quan sát.
Ví dụ 4: Tại sao nước máy lại có mùi clo?
Khi sục vào nước một lượng nhỏ Clo vào nước có tác dụng sát trùng do clo
tan 1 phần (gây mùi) và phản ứng 1 phần với nước:
H2O + Cl2  HCl + HClO
Hợp chất HClO không bền có tính oxi hoá mạnh: HClO  HCl + O
Oxi nguyên tử có khả năng diệt khuẩn, vì vậy người ta dùng khí Clo làm sác nước
nên nước máy có mùi khí clo.
Áp dụng: Vấn đề này đang đang được sử dụng làm sạch nước hiện nay trong
các nhà máy nước cung cấp nước trong thành phố, thị xã, thị trấn… Giúp học sinh
hiểu và giải toả thắc mắc, hiểu được vai trò của hoá học và học sinh có thể kiểm
nghiệm qua thực tế. Giáo viên có thể xen vào bài giảng về Clo (Hóa 10).
Ví dụ 5: Ma trơi là gì? Ma trơi thường gặp ở đâu?
“Ma trơi” chỉ là cái tên gọi mê tín mà thực chất, trong cơ thể (xương động
vật) có chứa một hàm lượng P khi chết phân huỷ tạo 1 phần thành khí PH3
(Photphin) khi có lẫn một chút khí P2H4 (Diphotphin), khí PH3 tự bốc cháy ngay
trong điều kiện thường tạo thành khối cầu khí bay trong không khí
P2 H 4
2 PH 3  4O2 
 P2O5  3H 2O

Điều trùng lặp ngẫu nhiên là: Người ta thường gặp “Ma trơi” ở các nghĩa địa càng
tăng nên tính chất kịch tính.
Áp dụng: Vấn đề này phải được đề cập trong bài giảng về P để giải thích hiện
tượng trong đời sống “Ma trơi”. Tránh tình trạng mê tín dị đoan, làm cho cuộc sống
lành mạnh. Hiện tượng này giáo viên có thể đề cập trong bài về P (Hóa 11).


14


Trường THPT Xuân Mỹ

Giáo viên Hoàng Nguyễn Quỳnh Quyên

Ví dụ 6: Tại sao khi nấu nước giếng ở một số vùng lại có lớp cặn ở dưới đáy
ấm? Cách tẩy lớp cặn này?
Trong tự nhiên nước ở một số vùng là nước cứng tạm thời, là nước có chứa
muối Ca(HCO3)2, Mg(HCO3)2. Khi nấu sôi sẽ xảy ra phản ứng hoá học :
t
Ca  HCO3 2 
 2CaCO3   CO2   H 2O
o

t
Mg  HCO3 2 
 2MgCO3   CO2   H 2O
o

CaCO3, MgCO3 sinh ra đóng cặn.
Cách tẩy cặn ở ấm: Cho vào ấm 1 lượng dấm (CH3COOH 5%) và rượu, đun
sôi rồi để nguội qua đêm thì tạo thành 1 lớp cháo đặc chỉ hớt ra và lau mạnh là
sạch.
Áp dụng: Giáo viên có thể áp dụng trong bài giảng về nước cứng (Hóa 12).
Mục đích cung cấp mẹo vặt trong đời sống cũng góp phần cho học sinh hiểu bản
chất của vế đề có trong đời sống hàng ngày, học sinh có thể ứng dụng trong đời gia
đình mình, tạo sự hưng phấn trong học tập. Đó là một thí nghiệm tự làm được.

Ví dụ 7: Sherlock Homes đã phát hiện ra cách lấy dấu vân tay của tội phạm
lưu trên các vật ở hiện trường như thế nào chỉ sau một vài phút thí nghiệm?
Lấy một tờ giấy sạch, ấn một ngón tay vào mặt giấy rồi nhấc ra sau đó đem
phần giấy có dấu vân tay đặt trên miệng ống nghiệm có đựng cồn iod, dùng đèn
cồn để đun nóng phần đáy ống nghiệm. Đợi cho khí màu tím thoát ra (I2) từ ống
nghiệm thấy phần giấy có vân tay dần hiện lên rõ nét (màu nâu). Nếu bạn cất tờ
giấy có vân tay đi mấy tháng sau làm tương tự cũng vẫn có hiện tượng như trên.
Do đầu ngón tay có chất béo, dầu khoáng, mồ hôi, khi ấn tay vào giấy sẽ lưu
lại một phần trên giấy mặc dù mắt thường không nhận ra. Các chất này khi gặp hơi
Iod cho màu nâu (chú ý hơi Iod rất độc không được ngửi).
Áp dụng: Đây là câu chuyện nêu lên ứng dụng của hoá học trong đời sống,
giúp học sinh hiểu biết nhiều hơn. Giáo viên có thể áp dụng trong các bài giảng về
chất béo (Hóa 12), bài Iod (Hóa 10)
Ví dụ 8: Tại sao phải ăn muối có Iod?
Ăn muối để bổ sung hàm lượng Iod cho cơ thể, trong cơ thể một người
trưởng thành có chứa 20 – 50mg Iod chủ yếu tập trung tuyến giáp trạng, thiếu Iod
trong tuyến này thì cơ thể sẽ bị một số bệnh: Bướu cổ, nặng hơn là dẫn đến đần

15


Trường THPT Xuân Mỹ

Giáo viên Hoàng Nguyễn Quỳnh Quyên

độn, phụ nữ thiếu Iod dẫn dến vô sinh, có biến chứng sau khi sinh. Mỗi ngày phải
đảm bảo cho cơ thể tiếp xúc với < 150 microgam Iod.
Áp dụng: Điều này đề cập trong bài giảng về Iod (Hóa 10) giúp học sinh
hiểu được vai trò tại sao toàn dân phải ăn muối Iod. Giúp các em tự nhận thấy tầm
quan trọng của muối Iod, tăng tính hiểu biết hơn.

Ví dụ 9 : Tại sao khi ăn cơm nhai kỹ sẽ thấy vị ngọt?
Cơm chứa một lượng lớn tinh bột, khi ăn cơm trong tuyến nước bọt của người có các enzim. Khi nhai kỹ trộn đều, tuyến nước bọt làm tăng cơ hội chuyển hoá
một lượng tinh bột theo phản ứng thuỷ phân thành mantozơ, glucozơ gây ngọt theo
sơ đồ:
Amilaza , H O
Mantaza , H O
 C12 H 22O11 
 C6 H12O6
 C6 H10O5 n 
2

TB

2

Mantozo

Glucozo

Áp dụng: Vấn đề này có thể đề cập đến trong bài dạy về tinh bột (Hóa 12),
cung cấp cho học sinh kiến thức cơ bản của sự chuyển hoá tinh bột trong khi ăn. Đó
cũng là một hiện tượng tự nhiên đều cảm nhận được trong các bữa cơm.
Ví dụ 10: Vì sao không nên ăn hoa quả ngay sau bữa ăn?
Trái cây có loại đường đơn là monosaccarit và một số loại axit sẽ kết hợp với
axit trong dạ dày tạo ra Axit tactaric, Axit citric làm cho dạ dày đầy hơi.
Một số loại hoa quả có hàm lượng Tanin và Pectin cao, chúng sẽ kết hợp với
dịch vị, chất xơ và protein trong thức ăn, dễ tạo thành những hạt rắn, khó tiêu hóa.
Những hạt này hình thành sỏi ở dạ dày, ruột.
Nên ăn hoa quả sau bữa ăn khoảng 1−3 giờ.
Áp dụng: Giáo viên có thể áp dụng vấn đề này vào bài axit cacboxylic (Hóa 12)

Ví dụ 11: Vì sao vắt chanh vào cốc sữa đặc có đường sẽ thấy có kết tủa?
Trong sữa có thành phần protein gọi là Cazein. Khi vắt chanh vào sữa làm tăng độ
chua, tức làm giảm pH của dung dịch sữa tới pH đúng với điểm đẳng điện của
cazein thì chất này sẽ kết tủa.
Khi làm phomat, người ta cũng tách Cazein theo nguyên tắc tương tự và cho lên
men tiếp.
Áp dụng: Giáo viên có thể đưa các vấn đề thực tế này vào bài axit cacboxylic (Hóa
12).

16


Trường THPT Xuân Mỹ

Giáo viên Hoàng Nguyễn Quỳnh Quyên

Ví dụ 12: Người ta đã làm gì để tấm thủy tinh trở thành gương soi?
Thời xa khi muốn soi mình phải soi qua mặt nước, khi đến thời đồ đồng thau
thì bằng gương làm bằng đồng nhưng nhanh ố, sau dần chuyển sang thuỷ ngân
tráng sau tấm kính phẳng, nhưng thuỷ ngân gây ngộ độc. Dần dần và ngày nay người ta đã thay thế bằng bạc tráng sau tấm kính nhờ phản ứng anđehit (R−CHO) với
dung dịch AgNO3/NH3 hay thay andehit bằng glucozơ.
RCHO  2 AgNO3  3NH 3  H 2O  RCOONH 4  2 Ag   NH 4 NO3

Ag tạo ra bám chặt vào gương, người ta quét lên mặt sau chiếc gương một Hóa sơn
dầu bảo vệ. Phích nước cũng chế tạo kiểu này.
Áp dụng: Đây là một ứng dụng của hợp chất có chức andehit vào đời sống.
Giáo viên có thể nêu vấn đề này trong các tiết dạy về andehit, glucozơ…(Hóa 11
hay Hóa 12). Để học sinh hiểu phần nào về sự tạo gương, ruột phích.
Ví dụ 13: Cloramin là chất gì ? Tại sao được bộ y tế sự dụng nhằm ngăn ngừa
dịch tả bùng phát vào tháng 10 năm 2010?

Cloramin là chất NH2Cl và NHCl2. Khi hoà tan cloramin vào nước sẽ giải
phóng cho ra khí Clo. Clo tác dụng với nước tạo ra HClO.
H2O + Cl2  HCl + HClO
HClO có tính oxy hóa rất mạnh nên phá hoại hoạt tính một số enzim trong vi
sinh vật, làm cho vi sinh vật chết.
Cloramin không gây độc hại cho người dùng nước đã được khử trùng bằng chất
này.
Áp dụng: Cloramin là chất được sử dụng nhiều để làm sạch nước trong
những vùng lụt bão. Giáo viên có thể đề cập đến chất này trong bài Clo (Hóa 10).
Ví dụ 14: Vua chất dẻo là chất nào? Tại sao có tên gọi là Vua chất dẻo?
Teflon có tên thay thế là: Poli(tetrafloetilen) [(−CF2−CF2−)n]. Đó là loại
polime nhiệt dẻo, có tính bền cao với các dung môi và hóa chất. Nó có độ bền nhiệt
cao, có độ bền kéo cao và có hệ số ma sát rất nhỏ. Teflon bền với môi trường hơn
cả Au và Pt, không dẫn điện.
Do có các đặc tính quý đó, teflon được dùng để chế tạo những chi tiết máy
dễ bị mài mòn mà không phải bôi mỡ (vì độ ma sát nhỏ), vỏ cách điện, tráng phủ
lên chảo, nồi,… để chống dính.

17


Trường THPT Xuân Mỹ

Giáo viên Hoàng Nguyễn Quỳnh Quyên

Áp dụng: Giáo viên có thể vận dụng vào bài polime (Hóa 12)
Ví dụ 15: Thuốc diệt chuột là chất gì? Tại sao chuột thường chết ở gần nguồn
nước sau khi ăn phải thuốc diệt chuột?
Thuốc chuột có thành phần chính là Zn3P2. Sau khi ăn, Zn3P2 bị thủy phân rất
mạnh, tạo thành khí PH3 (photphin) rất độc:

Zn3 P2  6 H 2O  3Zn(OH ) 2  2 PH 3 

Làm cho hàm lượng nước trong cơ thể chuột giảm; nó khát và đi tìm nước.
Chính PH3 đã giết chết chuột.
Càng nhiều nước đưa vào cơ thể chuột → PH3 thoát ra càng nhiều → chuột
càng nhanh chết. Nếu không có nước uống, chất độc chưa phát tán, thời gian sống
của chuột được kéo dài hơn.
Áp dụng: Giáo viên có thể vận dụng ứng dụng này trong bài Photpho (Hóa
11).
Ví dụ 16: Vì sao than đá chất thành đống lớn có thể tự bốc cháy?
Do than đá tác dụng với khí O2 trong không khí tạo ra khí CO2, phản ứng tỏa nhiệt.
C  O2  CO2 

H  0

Nhiệt tỏa ra được tích góp dần dần, khi đạt đến nhiệt độ cháy của than thì than tự
bốc cháy.
Áp dụng: Giáo viên có thể đưa vấn đề này vào bài C (Hóa 11) hoặc bài O2
(Hóa 10).
Ví dụ 17: Vì sao bôi vôi vào chỗ ong, kiến đốt sẽ đỡ đau?
Do trong nọc đốt của ong, kiến, nhện có axit hữu cơ tên là axit fomic
(HCOOH). Vôi là chất bazơ nên trung hòa axit giúp giảm bớt lượng axit nên đỡ
đau hơn.
2HCOOH  Ca(OH )2   HCOO 2 Ca  2H 2O

Áp dụng: Giáo viên có thể vận dụng vấn đề này vào bài axit cacboxylic (Hóa
9 hay Hóa 11) hoặc bài một số hợp chất quan trọng của canxi (Hóa 12).
Ví dụ 18: Vì sao ban đêm không nên để nhiều cây xanh trong nhà?
Ban ngày, do có ánh sáng mặt trời nên cây xanh tiến hành quá trình quang
hợp, hấp thụ CO2 và giải phóng khí O2.

as
6nCO2  5nH 2O 
(C6 H10O5 ) n  6nO2 
clorophin

18


Trường THPT Xuân Mỹ

Giáo viên Hoàng Nguyễn Quỳnh Quyên

Nhưng ban đêm, do không có ánh sáng mặt trời, cây xanh không quang hợp,
chỉ có quá trình hô hấp nên cây hấp thụ khí O2 và thải ra khí CO2 làm cho phòng
thiếu khí O2 và quá nhiều khí CO2.
Áp dụng: Giáo viên có thể vận dụng vấn đề này vào bài tinh bột (Hóa 12).
Ví dụ 19: Vì sao muối NaHCO3 được dùng để chế thuốc đau dạ dày?
Trong dạ dày, có chứa dung dịch HCl. Người bị đau dạ dày là người có nồng
độ dung dịch HCl cao hơn bình thường làm dạ dày bị bào mòn. NaHCO3 dùng để
chế thuốc đau dạ dày vì nó làm giảm hàm lượng dung dịch HCl có trong dạ dày
nhờ phản ứng:
NaHCO3  HCl  NaCl  CO2  H 2O

Áp dụng: Giáo viên có thể vận dụng kiến thức này vào bài HCl (Hóa 10), bài
một số hợp chất quan trọng của Natri (Hóa 12).
Ví dụ 20: Vì sao trong công nghiệp thực phẩm, (NH4)2CO3 được dùng làm bột
nở?
NH4)2CO3 được dùng làm bột nở vì khi trộn thêm vào bột mì, lúc nướng
bánh thì (NH4)2CO3 sẽ bị phân hủy thành các chất khí và hơi nên làm cho bánh xốp
và nở hơn.

t
( NH 4 )2 CO3 
 2 NH 3  CO2   H 2O 
0

Áp dụng: Giáo viên có thể áp dụng vấn đề này vào bài muối amoni (Hóa 11)
hoặc muối cacbonat (Hóa 11).
Ví dụ 21: Vì sao nước rau muống đang có màu xanh, khi vắt chanh vào thì
nhạt màu?
Có một số chất hoá học được gọi là chất chỉ thị màu, chúng làm cho màu của
dung dịch thay đổi khi độ axit thay đổi.
Trong rau muống (và vài loại rau khác) có chất chỉ thị này. Trong chanh có
7% axit citric. Vắt chanh vào nước rau làm thay đổi độ axit, do đó làm thay đổi
màu nước rau. Khi chưa vắt chanh, nước rau muống có màu xanh là chứa chất kiềm
canxi.
Áp dụng: Giáo viên có thể đưa các vấn đề thực tế này vào bài axit cacboxylic (Hóa
12).

19


Trường THPT Xuân Mỹ

Giáo viên Hoàng Nguyễn Quỳnh Quyên

Ví dụ 22:Vì sao các đồ vật bằng bạc để lâu ngày thường bị xám đen? Vì sao
dùng đồ bằng bạc đựng thức ăn, thức ăn lâu bị ôi?
Do bạc tác dụng với khí O2 và H2S có trong không khí tạo ra bạc sunfua (Ag2S)
màu đen.
4 Ag  O2  2 H 2 S  2 Ag 2 S  2 H 2O


Khi bạc sunfua gặp nước sẽ có một lượng rất nhỏ đi vào nước thành ion Ag+.
Ion Ag+ có tác dụng diệt khuẩn rất mạnh, chỉ cần 1/5 tỉ gam bạc trong 1 lít nước
cũng đủ diệt vi khuẩn. Không cho vi khuẩn phát triển nên giữ cho thức ăn lâu bị ôi
thiu.
Áp dụng: Đây là những ứng dụng rất hay của kim loại bạc. giáo viên có thể
đưa những vấn đề này vào bài về kim loại (Hóa 12).
Ví dụ 23: Làm cá bớt tanh bằng phương pháp nào?
Khi nấu canh cá thì cho thêm chất chua (me, giấm,…) để làm giảm mùi tanh
của cá.
Chất chua (axit lactic có trong nước dưa, me, axit axetic có trong giấm, axit
citric có trong chanh…) nâng cao hương vị và hạn chế mùi tanh của cá.
Trong chất tanh của cá, có chứa hỗn hợp các amin [(CH3)2NH và (CH3)3N],
có tính bazơ yếu. Các chất chua dùng để nấu canh cá đều là axit hữu cơ, chúng có
phản ứng với các amin tạo thành muối. Do đó làm giảm hoặc làm mất vị tanh của
cá.


Ví dụ: CH 3COOH  (CH3 ) 2 NH   (CH3 ) 2 NH 2   CH3 COO
Áp dụng: Giáo viên có thể vận dụng vấn đề này vào bài Amin (Hóa 12)
Ví dụ 24: Tại sao khi đi gần các sông, hồ bẩn vào ngày nắng nóng, người ta
thường ngửi thấy mùi khai?
Khi nước sông, hồ bị ô nhiễm nặng bởi các chất hữu cơ giàu chất đạm, như:
nước tiểu, phân hữu cơ, rác thải hữu cơ, … lượng Ure trong các chất hữu cơ sinh ra
nhiều. Dưới tác dụng của men ureaza của các vi sinh vật, ure bị phân hủy thành
CO2 và NH3.
( NH 2 )2 CO  2 H 2O  CO2  2 NH 3

Lượng NH3 sinh ra hoà tan trong nước dưới dạng một cân bằng động:
NH3 + H2O  NH4+ + OH¯ (∆H < 0)


20


Trường THPT Xuân Mỹ

Giáo viên Hoàng Nguyễn Quỳnh Quyên

Như vậy, khi trời nắng (nhiệt độ tăng), cân bằng trên sẽ dịch chuyển theo
chiều nghịch, tức là NH3 sinh ra do phản ứng phân hủy ure không bị hoà tan trong
nước mà bị tách ra, bay vào không khí làm cho không khí xung quanh sông, hồ có
mùi khai khó chịu.
Áp dụng: Giáo viên có thể đưa vấn đề này vào bài amoniac (Hóa 11) hoặc
bài cân bằng hoá học (Hóa 10).
Ví dụ 25:
Giải thích vì sao khi nấu canh cua thì có gạch cua nổi lên? Khi nấu trứng thì
lòng trắng trứng kết tủa lại?
Vì trong những trường hợp đó có xảy ra sự kết tủa protit bằng nhiệt, gọi là sự
đông tụ. Một số protit tan trong nước tạo thành dung dịch keo, khi đun nóng sẽ bị
kết tủa.
Áp dụng: Giáo viên có thể đưa vấn đề này vào bài protit (Hóa 12) để giải
thích hiện tượng thực tế này và học sinh có thể làm thí nghiệm tại nhà.
Ví dụ 26:
Tại sao hôm lại được dùng làm dây dẫn điện cao thế? Còn dây đồng lại được
dùng làm dây dẫn điện trong nhà?
Tuy đồng dẫn điện tốt hơn nhôm nhưng nhôm là kim loại nhẹ (khối lượng
riêng của nhôm là 2,70g/cm3) đồng là kim loại nặng (khối lượng riêng của đồng là
8,92g/cm3) Do đó, nếu như dùng đồng làm dây dẫn điện cao thế thì phải tính đến
việc xây các cột điện sao cho chịu được trọng lực của dây điện. Việc làm đó không
có lợi về mặt kinh tế. Còn trong nhà thì việc chịu trọng lực của dây dẫn điện không

ảnh hưởng lớn lắm. Vì vậy ở trong nhà thì ta dùng dây đẫn điện bằng đồng.
Áp dụng: Giáo viên có thể vận dụng vấn đề này vào bài Tính chất vật lý của kim
loại (Hóa 12)
Ví dụ 27: Tại sao khi đánh rơi nhiệt kế thủy ngân thì không được dùng chổi
quét mà nên rắc bột S lên trên?
Thủy ngân (Hg) là kim loại ở dạng lỏng, dễ bay hơi và hơi thủy ngân là một
chất độc. Vì vậy khi làm rơi nhiệt kế thủy ngân nếu như ta dùng chổi quét thì thủy
ngân sẽ bị phân tán nhỏ, làm tăng quá trình bay hơi và làm cho quá trình thu gom
khó khăn hơn. Ta phải dùng bột S rắc lên những chỗ có thủy ngân, vì S có thể tác
dụng với thủy ngân tạo thành HgS dạng rắn và không bay hơi.

21


Trường THPT Xuân Mỹ

Giáo viên Hoàng Nguyễn Quỳnh Quyên

Hg  S  HgS 

Quá trình thu gom thủy ngân cũng đơn giản hơn.
Áp dụng: Giáo viên có thể vận dụng vấn đề này vào bài Lưu huỳnh (Hóa 10),
tính chất hóa học của kim loại (Hóa 12)
Ví dụ 28: Những cái nhất trong thế giới kim loại
 Kim loại có khối lượng riêng lớn nhất: Osmi (Os) với d = 22,7g/cm3.
 Kim loại có nhiệt độ nóng chảy cao nhất: Vonfram (W) với tnc = 34100C.
 Kim loại nhẹ nhất: Liti (Li) với d = 0,53g/cm3.
 Kim loại dẻo nhất: Vàng (Au)
 Kim loại có nhiệt độ nóng chảy thấp nhất: thủy ngân (Hg) với tnc = −390C.
 Kim loại dẫn điện, dẫn nhiệt tốt nhất: Bạc (Ag)

 Kim loại được con người sử dụng làm công cụ sớm nhất: Đồng (Cu)
 Kim loại có trữ lượng lớn nhất: Nhôm (Al), chiếm 7% về khối lượng vỏ trái
đất.
Áp dụng: Giáo viên có thể vận dụng vào bài Đại cương về kim loại (Hóa 12).
Ví dụ 29: : Vì sao cồn có thể sát khuẩn?
Cồn là dung dịch Ancol etylic (C2H5OH) có khả năng thẩm thấu rất cao, có
thể xuyên qua màng tế bào tiến sâu vào trong gây đông tụ protein làm cho tế bào bị
chết (Do protein là cơ sở sự sống của tế bào).
Thực tế thấy rằng chỉ có cồn 75% là có khả năng sát trùng tốt nhất, vì nếu
cồn > 75% thì nồng độ cồn quá cao làm cho protein bị đông tụ nhiều, làm protein
trên bề mặt vi khuẩn đông cứng hình thành một Hóa vỏ cứng ngăn không cho cồn
thấm vào nên vi khuẩn không bị chết. Nếu cồn quá loãng (< 75%) thì hiệu quả sát
trùng kém.
Áp dụng: Trong y tế, cồn được sử dụng đại trà khi tiêm, rửa vết thương …
nhưng có ít người quan tâm tại sao lại dùng cồn? Trong khi học, nếu học sinh được
biết sẽ rất tốt cho cuộc sống. Giáo viên có thể đưa vấn đề này vào trong các tiết dạy
về bài Ancol etylic (Hóa 11).
Ví dụ 30: Thí nghiệm: Xà phòng giúp làm sạch chất béo như thế nào?
Làm thế nào mà xà phòng có thể làm sạch chất béo? Sau đây là thí nghiệm
vui giúp hiểu rõ hơn phản ứng của dầu và xà phòng.

22


Trường THPT Xuân Mỹ

Giáo viên Hoàng Nguyễn Quỳnh Quyên

Bước 1: Trước tiên, chuẩn bị 2 lọ
sạch có nắp đậy. Ở mỗi lọ, cho vào nửa

phần nước thường và 1 hay 2 giọt màu
thực phẩm, lắc đều. Sau đó, cho nửa phần
còn lại là dầu ăn thông thường, còn
khoảng trống ở phần nắp cho thao tác lắc
đều dung dịch nước và dầu.

Bước 2: Cho một ít xà phòng dạng dung
dịch vào 1 lọ, đậy nắp, lắc đều 2 lọ khoảng
30 giây. Thoạt tiên, ở cả 2 lọ không thấy gì
khác nhau, nước và dầu đều trộn lẫn với
nhau.

Bước 3: Sau đó để dung dịch ổn định vài
phút thì thấy lọ chỉ có nước và dầu (không
có xà phòng) tách lớp rõ ràng, nhưng lọ có
xà phòng thì dung dịch vẫn trộn đều với
nhau
Dầu, nước và xà phòng đều có cấu
tạo từ nhiều phân tử. Trong đó có phân tử

23


Trường THPT Xuân Mỹ

Giáo viên Hoàng Nguyễn Quỳnh Quyên

hydrophillic háo nước (attracted to water) và hydrophobic kỵ nước (repelled by
water). Xà phòng là 1 chuỗi phân tử rất dài có 1 đầu là hydrophillic, đầu kia là
hydrophobic. Phân tử nước sẽ liên kết với xà phòng ở đầu hydrophillic, còn dầu

liên kết ở hydrophobic. Do đó, dầu và nước liên kết với nhau nhờ cấu tạo xà phòng
ở giữa chuỗi. Khi rửa trôi nước, dầu do có liên kết với xà phòng, còn xà phòng kết
hợp với nước sẽ trôi theo và như thế là sạch chất dầu bám trên đồ vật.

C – Hiệu quả đề tài
1. Kết quả nghiên cứu:
Trải qua nhiều năm giảng dạy, có những lúc chưa hài lòng về một bài giảng,
một tiết học chưa hay. Đến bây giờ khi đã áp dụng những kinh nghiệm nêu trên
chúng tôi đã cảm nhận được rằng: Học sinh thích học hoá hơn, kết quả học tập của
các em cao hơn, thậm chí có cả những học sinh đã về nhà tự quan sát và tái tạo lại
hiện tượng thực tế, rồi cùng chia sẻ băn khoăn và nhờ giáo viên giải đáp thắc mắc.
Trong giờ học, chúng tôi đã cố gắng kết hợp hài hoà trong phong cách dạy
của mình có thể làm cho giờ học mang không khí rất thoải mái giúp học sinh tiếp
thu bài tốt hơn, hiệu quả hơn, nhưng thời gian dành cho các vấn đề trên là không
nhiều nên cần phụ thuộc vào người dạy cần phải linh hoạt và khéo léo.
2. Kết quả đối chứng:
Tùy thuộc vào từng đối tượng học sinh và đặc trưng của mỗi lớp, thực tế
giảng dạy cho thấy các lớp chưa được áp dụng hoặc lớp ít được áp dụng so với
những lớp được áp dụng một cách thường xuyên phương pháp có sự khác nhau rõ
rệt.
Mức độ áp dụng Lớp
trên các lớp trực
tiếp giảng dạy
Thường xuyên áp 12A1, 10A8
dụng
Áp dụng nhiều, 12A4
không
thường
xuyên
10A9

Có áp dụng

Kết quả
Trung
bình

Yếu
Kém

Giỏi

Khá

40%

50% 10%

0

32%

52% 12%

4%

25%

35% 30%

10%




24


Trường THPT Xuân Mỹ

Giáo viên Hoàng Nguyễn Quỳnh Quyên

3. Kết luận: Để có những tiết học đạt hiệu quả cao luôn là mục đích hướng tới của
mỗi giáo viên có lương tâm và trách nhiệm với nghề nghiệp, nhưng đây không phải
là điều dễ dàng đạt được, người thầy phải nhận thức rõ vai trò là người “Thắp sáng
ngọn lửa” chủ động lĩnh hội tri thức trong từng học sinh. Trong nội dung đề tài
này, tôi đã đề cập đến một số vấn đề xung quanh cuộc sống và có ý nghĩa thực tiễn,
thậm chí có thể gặp, tiếp xúc hàng ngày được giải thích bằng kiến thức hóa học. Hy
vọng đây là vấn đề gợi mở ra một hướng mới trong dạy − học hoá học, tôi sẽ tiếp
tục áp dụng và phát triển phương pháp trên trong các năm học sau.

25


×