Tải bản đầy đủ (.doc) (32 trang)

Tiểu luận đánh giá thực trạng tham gia của cộng đồng vào chương trình 135 theo 4 tiêu chí công khai minh bạch, công bằng, hiệu quả, bền vững

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (273.87 KB, 32 trang )

LỜI MỞ ĐẦU
Nghèo đói không phải là một vấn đề mới nổi lên trong xã hội trong những năm
gần đây. Nghèo và làm thế nào để thoát khỏi tình trạng nghèo luôn là câu hỏi thường
trực đối với các nhà lãnh đạo của mỗi quốc gia. Xuất phát từ một đất nước có nền kinh
tế thuần nông, việt nam có tỷ lệ nghèo đói tương ứng cao. Từ ngày 1/1/2006, việt nam
bắt đầu áp dụng chuẩn nghèo mới ( cao gấp hai lần chuẩn nghèo cũ ) khiến cho tỷ lệ
hộ nghèo tăng từ 7% lên 22%. Kết quả là nước ta có đến 4 triệu hộ nghèo. Với dự kiến
đến năm 2010, Việt Nam sẽ ra khỏi nhóm các nước kém phát triển và giảm hơn 30%
số người nghèo theo tiêu chí mới, nước ta đã có rất nhiều các chính sách, chương trình
và dự án…nhằm đạt được mục tiêu này. Một điển hình trong số đó là chương trình xóa
đói giảm nghèo 135. Đây là một chương trình thuộc nhóm các chương trình XĐGN do
Bộ Nông nghiệp và phát triển nông thôn thực hiện. Chương trình được xây dựng nhằm
mục đích: giảm tỷ lệ hộ nghèo tại các xã đặc biệt khó khăn xuống dưới 25% trong năm
2005, cung cấp nước sạch, tăng tỷ lệ theo học trong độ tuổi đi học lên trên 70%, hỗ trợ
sản xuất cho người nghèo, kiểm soát các bệnh xã hội và nguy hiểm, làm đường tới các
trung tâm cụm xã và phát triển thị trường nông thôn. Thế nhưng, để có được chương
trình XĐGN thành công cần phải có sự kết hợp giữa các nhà lãnh đạo và cộng đồng.
Bởi chỉ khi “ dân biết, dân làm, dân bàn, dân kiểm tra “ thì công trình mới thực sự đi
vào đời sống của nhân dân và phát huy hiệu quả.
Với những lý do đó, dưới sự hướng dẫn của giáo viên ThS. Phí Thị Hồng Linh,
nhóm em – KH3 – đã nghiên cứu đề tài “ Đánh giá thực trạng tham gia của cộng đồng
vào chương trình 135 theo 4 tiêu chí công khai minh bạch, công bằng, hiệu quả, bền
vững”. Do thời gian và trình độ có hạn, bài viết của nhóm em chắc chắn sẽ không
tránh khỏi những sai sót. Rất mong sự góp ý của cô giáo và các bạn để bài viết của
nhóm em được hoàn thiện hơn.
Em xin chân thành cảm ơn!

1


CƠ SỞ LÝ LUẬN


1.Các khái niệm chung

Dân cư là một bộ phận những người dân cùng cư trú trong một khu vực địa lý
hoặc khu vực hành chính và có mối quan hệ dân – chính.
Cộng đồng là tập hợp những dân cư cùng chung sống trên một lãnh thổ nhất
định, hợp tác vì những lợi ích chung và cùng chia sẻ những giá trị văn hóa chung.
Sự tham gia của cộng đồng là sự chia sẻ của cộng đồng đối với các hoạt động
cụ thể trong việc xác định các mục tiêu, xác định nội dung cụ thể, triển khai tổ chức
thực hiên, giám sát đánh giá và vận hành, bảo dưỡng.
2. Các hình thức tham gia

Có nhiều tiêu chí để phân loại các hình thức tham gia:
- Theo hình thức tham gia:
+ Tham gia trực tiếp với tư cách cá nhân hoặc thông qua các đại diện cộng đồng
như chính quyền các cấp, đại biểu được pháp luật thừa nhận hoặc các tổ chức được xã
hội công nhận.
+ Tham gia gián tiếp thông qua các nhóm tư vấn cộng đồng, thường là tư vấn
theo chủ đề.
- Theo tính chất tham gia:
+ Tham gia bị động.
+ Cung cấp thông tin.
+ Chia sẻ ý kiến.
+ Tham gia vị lợi.
+ Tham gia vị chức.
3. Tác dụng của sự tham gia.

Người dân tham gia với vai trò là chủ thể của quá trình xác định mục tiêu và đưa
ra các quyết định có liên quan đến chính sách. Điều này sẽ giúp cho các quyết định
đáp ứng đúng nhu cầu của cộng đồng.
Các tác dụng cụ thể:


2


- Người dân đóng góp nguồn lực để tổ chức triển khai thực hiện các hoạt động
phát triển. Đây là một nguồn lực rất đáng quý trong tình trạng ngân sách còn hạn chế
của nhà nước ta hiện nay.
- Việc kiểm tra giám sát của người dân cũng đảm bảo thực hiện nghiêm túc và
chất lượng các hoạt động phát triển, do khi đó quyền lợi của họ đã được gắn chặt với
mục tiêu của chính sách.
- Giảm bớt mâu thuẫn trong cộng đồng và tăng mối liên kết cộng đồng – chính
quyền.
- Giúp quảng đại quần chúng có đầy đủ hơn các thông tin về quan điểm, chính
sách mới của nhà nước.

3


ĐÁNH GIÁ SỰ THAM GIA CỦA CỘNG ĐỒNG
I. Đánh giá chung về chương trình 135

Nghị định 29/1998/NĐ-CP đã quy định rất chi tiết các việc được thông báo đến
người dân, những việc người dân được tham gia ý kiến, những việc được trực tiếp
kiểm tra, giám sát và được trực tiếp quyết định. Đây là công cụ quan trọng để giải
quyết và cải thiện tình trạng vi phạm nguyên tắc dân chủ ở cơ sở. Người dân đã được
tham gia nhiều hơn trong việc phân bổ nguồn lực, ra quyết định tổ chức thực hiện.
Điều này được thể hiện rõ ở các nguyên tắc trong tổ chức thực hiện Chương trình 135
như công khai cho dân biết nguồn vốn của Chương trình, để người dân được tham gia
lựa chọn và quyết định công trình đầu tư, công khai cho dân biết định mức được
hưởng khi đóng góp công lao động xây dựng công trình…. Quán triệt nguyên tắc này,

nhiều địa phương đã thực hiện tốt việc công khai, dân chủ, tạo điều kiện cho người dân
tham gia ngay từ khâu lập kế hoạch, quy hoạch.
II. Đánh giá dựa trên các tiêu chí cụ thể

1. Tính công khai, minh bạch
1.1. Khái niệm công khai, minh bạch:
Minh bạch là một khái niệm khá trừu tượng. Để đo lường tính minh bạch là
một công việc hết sức khó khăn. Nhiều người vẫn thường hiểu minh bạch đồng
nghĩa với công khai. Thực ra, khái niệm minh bạch là khái niệm rộng hơn, nó
bao gồm cả cơ hội, tính bình đẳng trong tiếp cận thông tin, tính tin cậy, nhất
quán của thông tin, tính dự đoán trước được và sự cởi mở của cơ quan cung cấp
thông tin.
Khái niệm “công khai”, “minh bạch” được Từ điển tiếng Việt do Hoàng Phê chủ
biên, Viện ngôn ngữ học xuất bản năm 2004 giải nghĩa như sau:
- Công khai (t): tính từ hay tính ngữ và tổ hợp tương đương không giữ kín, mà để
cho mọi người đều có thể biết. Phiên toà công khai, công khai trên báo chí.
- Minh bạch (t): Rõ ràng, rành mạch. Tài chính minh bạch, Diễn đàn thiếu minh
bạch.
Từ điển từ và ngữ Hán Việt của Giáo sư Nguyễn Lân do Nhà xuất bản Văn học
xuất bản năm 2003 giải thích khái niệm “công khai” và “minh bạch” như sau:
4


- Công khai (Công: việc chung, khai, mở): cho mọi người biết, không giữ bí mật,
không giấu giếm, ví dụ: Từ năm 1950, Mỹ đã công khai can thiệp vào nước ta - Hồ
Chí Minh.
- Minh bạch: (Minh: sáng, bạch: trắng) rõ ràng, ví dụ: Trở về minh bạch nói
tường - Truyện Kiều.
- Khoản 2, Điều 2 Luật phòng, chống tham nhũng đã nêu rõ khái niệm công khai,
đó là “việc cơ quan, tổ chức, đơn vị công bố, cung cấp thông tin chính thức về văn

bản, hoạt động hoặc về nội dung nhất định”.
Có thể giải thích khái niệm “công khai, minh bạch trong hoạt động của cơ quan
nhà nước” là việc làm cho hoạt động của các cơ quan nhà nước phải bảo đảm tính rõ
ràng, công khai và khách quan phù hợp với thực tiễn và các quy định của pháp luật.
Công khai, minh bạch hoạt động của các cơ quan nhà nước vừa là một đòi hỏi
khách quan của quá trình thực thi quyền lực nhà nước, vừa là cơ chế kiểm soát quyền
lực nhà nước. Hoạt động của nhà nước là hoạt động mang tính quyền lực. Nội dung,
phạm vi, giới hạn của hoạt động đó được pháp luật quy định. Công khai, minh bạch
hoạt động của các cơ quan nhà nước trước hết phải bảo đảm cho các hoạt động của
nhà nước nằm trong khuôn khổ pháp luật, được đánh giá bởi tiêu chí, thước đo của
pháp luật.
1.2 Nội dung đánh giá
1.2.1 Thông tin đến người dân
a. % dân cư biết đến chương trình
Số liệu điều ra của Kiểm toán Nhà nước tại 10 tỉnh, qua phát phiếu và phỏng vấn
2083 người dân cho thấy:
- 91% người dân được biết có Chương trình 135 đầu tư cho xã.
- 86% người dân được hỏi ý kiến khi dự án được đầu tư.
- 94% người dân cho rằng công trình, dự án của Chương trình 135 được đầu tư là
hợp lý.
- 95% người dân đánh giá công trình 135 đầu tư sử dụng đúng mục đích.
- 70% người dân được tham gia học tập về Chương trình.
- 97% người dân cho rằng nên kéo dài thời gian thực hiện Chương trình 135.

5


b. Các kênh thông tin đến người dân
Những mặt được:
- Đổi mới công tác truyền thông trong chương trình 135

Ngày 11/5/2007, tại Uỷ ban Dân tộc, Vụ Chính sách Dân tộc chủ trì đã chủ trì
cuộc họp với Tạp chí Dân tộc nhằm đổi mới công tác truyền thông trong Chương trình
135 năm 2007. Tiến sĩ Trần Văn Thuật, Vụ trưởng Vụ Chính sách Dân tộc chủ trì cuộc
họp đã nêu ra nội dung thảo luận tập trung vào các nội dung và đề ra những giải pháp
nhằm nâng cao hiệu quả và tác dụng của Bản tin Chương trình 135 năm 2007. Đồng
chí Nguyễn Văn Thảo, Biên tập viên cao cấp, Tổng biên tập Tạp chí Dân tộc đã trình
bày báo cáo đánh giá kết quả xuất bản Bản tin Chương trình 135 năm 2006 và kế
hoạch triển khai công tác truyền thông 2007, nêu rõ trong quá trình thực hiện, Tạp chí
Dân tộc và Ban thư ký Chương trình 135 (nay là Vụ Chính sách Dân tộc) đã phối hợp
chặt chẽ trong chuẩn bị tin, bài, ảnh; Tạp chí chủ động đặt bài với cộng tác viên, tổ
chức biên tập, xuất bản, phát hành Bản tin Chương trình 135 đúng định kỳ, đảm bảo
chất lượng, số lượng và hoàn thành nhiệm vụ được giao. Bản tin 135 đã là cầu nối giữa
Ban chỉ đạo Trung ương với Ban chỉ đạo các tỉnh, huyện và cán bộ địa phương, và đặc
biệt là người dân… Với những cố gắng trong biên tập, xuất bản, cùng với những đóng
góp của Vụ Chính sách Dân tộc, Bản tin Chương trình 135 đã có những đóng góp, tạo
nên “thương hiệu” của chương trình, thực sự là Bản tin hướng dẫn thực hiện mục tiêu,
nhiệm vụ và trao đổi kinh nghiệm, của Chương trình 135.
Các đại biểu đều tán thành với nội dung báo cáo và nêu lên những ý kiến đánh
giá về những việc làm tốt và những việc cần khắc phục trong thời gian tới.
Giới truyền thông với Kết quả họp báo Kiểm toán Chương trình 135 giai đoạn II
năm 2007
Được ghi nhận như một sự đổi mới mạnh mẽ của Ủy ban Dân tộc - Cơ quan
thường trực Chương trình 135 của Chính phủ, nhằm tăng cường sự công khai minh
bạch trong quản lý triển khai thực hiện một chương trình , buổi Họp báo công bố kết
quả Kiểm toán Chương trình 135 giai đoạn II ngày 30 tháng 10 năm 2008 tại KS
Hanoi Horizon đã thu hút sự chú ý đặc biệt của giới truyền thông.
Đài Truyền hình Việt Nam đã đưa tin cả trong Bản tin Thời sự VTV1 buổi 23h
ngày 30/10/2008 và Bản Tin Chào Buổi sáng ngày 31/10/2008 để nhấn mạnh ý nghĩa
6



của Chương trình 135 như là một chương trình xóa đói giảm nghèo đang rất được lòng
dân.
Báo Nhân dân số ra ngày 31 tháng 10 khẳng định “Chương trình 135 giai đoạn II đã
góp phần làm thay đổi cơ bản bộ mặt của nông thôn miền núi, vùng dân tộc thiểu số,
đời sống đồng bào dân tộc từng bước được cải thiện, tỷ lệ hộ đói nghèo giảm nhanh,
giáo dục, đào tạo, sức khỏe của người dân được chăm lo, kết cấu hạ tầng được cải
thiện rõ rệt”. Dẫn lời Phó Tổng Kiểm toán Nhà nước Lê Minh Khái, Báo Nhân dân bổ
sung “quá trình triển khai thực hiện Chương trình 135 giai đoạn 2 bước đầu có những
yếu tố thuận lợi trong công tác quản lý, chỉ đạo, phát huy tính dân chủ cơ sở, các
công trình được đầu tư đều có sự tham gia giám sát của người dân, được người
dân đánh giá phù hợp và phát huy hiệu quả. Năm 2007, dự án cơ sở hạ tầng đã
thanh toán cho 3.594 công trình với tổng giá trị 1.396 tỷ đồng, đạt 115% dự toán và
gần 84,9% kinh phí được sử dụng”.
(Trích: />Báo Hà Nội Mới thì tập trung vào sự công khai, dân chủ và kết quả của quá
trình triển khai thực hiện Chương trình 135 ở địa phương, Phóng viên Hoàng Hùng ghi
nhận từ Buổi họp báo công bố Báo cáo Kiểm toán của Chương trình 135 giai đoạn II
năm 2007, “Chương trình 135 giai đoạn II trong năm 2006 và 2007 đã được thực hiện
dân chủ, công khai và được các địa phương quan tâm, chỉ đạo thông qua tổ chức họp
dân, lấy ý kiến xây dựng kế hoạch. Từ đó tiến hành đăng ký các hộ nghèo được hỗ trợ
cây con giống, vật tư, máy móc thiết bị... Cho đến nay, Chương trình 135 đã và đang
xây dựng được 11.765 công trình, dự án, trong đó công trình giao thông là 42%, thủy
lợi 22,8%, trường học là 18%...” (Trích: />Trong khi báo Xây dựng điện tử có bài phân tích với tiêu đề “Chương trình 135 giai
đoạn II - sử dụng đúng mục đích và hiệu quả ” trong đó cũng có những phân tích cụ
thể về hiệu quả của Chương trình 135 giai đoạn II. (Trích:
/>Báo Thanh Tra lại có những phân tích chuyên môn ghi nhận sự cố gắng của các địa
phương trong việc thực hiện các kiến nghị của Báo cáo Kiểm toán năm 2006 “Kết quả
kiểm toán cho thấy, Chương trình 135 giai đoạn II đã đạt được những kết quả nhất

7



định. Những tồn tại, yếu kém qua kết quả kiểm toán Chương trình năm 2006 phần lớn
đã được các địa phương khắc phục”
(Trích:

/>
Báo Điện tử Đảng Cộng sản Việt Nam đăng bài nêu rõ “Kết quả kiểm toán cho thấy,
Chương trình 135 giai đoạn II (2006-2010) đã đạt được những kết quả nhất định.
Những tồn tại, yếu kém qua kết quả kiểm toán Chương trình năm 2007 phần lớn đã
được các địa phương khắc phục. Việc phân bổ vốn cơ bản đúng định mức, đối tượng,
nội dung chương trình. Công tác giải ngân kịp thời, trên 80,2 % kinh phí được sử
dụng, đạt 119,31% dự toán giao. Việc sử dụng vốn, kinh phí nhìn chung đúng mục
đích và có hiệu quả hơn”
Trích: />topic=5&subtopic=10&leader_topic=84&id=BT29100862266)
Bên cạnh những kết quả đạt được, các báo, đài cũng đưa tin về một số tồn tại cần
được khắc phục trong triển khai thực hiện Chương trình 135 giai đoạn II. Tuy nhiên,
việc kiến nghị xử lý xuất toán số tiền trên: 675 triệu đồng trên tổng số vốn đầu tư đã
giải ngân khoảng 1.396 tỷ đồng chiếm chưa đến 0,05% nguồn vốn cho thấy, “Chương
trình 135 giai đoạn II là một trong những Chương trình có kết quả kiểm toán tốt nhất
trong số những Chương trình mục tiêu quốc gia được Kiểm toán Nhà nước tiến hành
kiểm toán trong năm 2007” (Theo ông Lê Minh Khái, Phó Tổng Kiểm toán Nhà nước
phát biểu tại buổi Họp báo). Nói thêm về những tồn tài được nêu trong Báo cáo Kiểm
toán, Báo Dân tộc cũng dẫn lời ông Hà Hùng cho biết “đến thời điểm hiện tại, các tồn
tại như đã nêu trong Báo cáo Kiểm toán đã được các Bộ, ngành trung ương và Chính
phủ xem xét giải quyết triệt để”. Nhìn chung, việc tổ chức họp báo công bố kết quản
Kiểm toán thực hiện Chương trình 135 giai đoạn II đã tạo ra một sự thay đổi rất lớn
trong nỗ lực tăng cường sự công khai, dân chủ về hoạt động của một Chương trình
xóa đói giảm nghèo của Chính phủ. Buổi họp báo đã được các phương tiện truyền
thông, các nhà tài trợ quốc tế và các bên liên quan đánh giá rất cao về cách làm minh

bạch của Ủy ban Dân tộc với tư cách là cơ quan Thường trực của Chương trình 135
giai đoạn II.

8


Hậu Giang
Để nâng cao hiệu quả thực hiện Chương trình 135, Ban Dân tộc tỉnh Hậu Giang
đang mở đợt tập huấn kiến thức cho cán bộ cơ sở, ấp và cộng đồng. Trả lời phỏng vấn
của phóng viên, Trưởng ban Dân tộc tỉnh Hậu Giang Nguyễn Xuân Tươi, cho biết:
- Mục đích mở lớp lần này nhằm phổ biến rộng rãi các chính sách để phát triển
kinh tế - xã hội cho vùng dân tộc, đồng thời hướng dẫn đào tạo kiến thức khoa học kỹ
thuật, nâng cao nhận thức đối với người dân, vận dụng vào phát triển kinh tế hộ, nhóm
hộ gia đình. Đối với cán bộ xã, ấp sẽ được phổ biến một cách cụ thể rộng rãi các cơ
chế quản lý thực hiện Chương trình 135, kiến thức về quản lý dự án đầu tư, báo cáo
tổng hợp và giám sát đánh giá. Các kiến thức về tổ chức họp dân, tổng hợp ý kiến, lập
kế hoạch có sự tham gia của người dân, về giám sát đầu tư, về kinh tế hộ, về thị trường

Một buổi thuyết giảng chương trình 135 (giai
đoạn II) tại huyện Vị Thủy.

tiêu thụ sản phẩm.
Ban chỉ đạo chương trình mở đợt tập huấn này là dịp để các học viên học hỏi
kinh nghiệm thảo luận, trao đổi những thuận lợi, khó khăn trong quá trình triển khai
thực hiện chương trình để từ đó cùng rút ra những phương pháp tốt nhất trong sử dụng
nguồn vốn hỗ trợ, tổ chức sản xuất và phát triển kinh tế, xây dựng cơ sở hạ tầng, hỗ trợ
giúp đỡ học sinh nghèo ở địa phương đạt kết quả tốt, đúng với mục tiêu của chương
trình. Bên cạnh đó, giúp cho học viên và cộng đồng biết phát huy vai trò của mình
trong quá trình tham gia thực hiện Chương trình 135, xây dựng đề án hỗ trợ kế hoạch
vốn cho năm 2009 của từng địa phương.

Hạn chế:

9


- Còn nhiều chương trình, dự án, trong đó có cả các chương trình mục tiêu quốc
gia, các chính sách dân tộc tính minh bạch, công khai còn nhiều hạn chế rõ nhất là rất
ít người dân nắm được một cách tường tận trên địa bàn xã có các chương trình đang
được triển khai, diễn ra trong bao lâu, do ai thực hiện và lợi ích của người dân được
hưởng từ chương trình là những gì. Đối với cán bộ cơ sở (cấp xã) thì tình hình cũng
không khá hơn là bao. Đang có một lỗ hổng lớn trong việc thông tin về các chương
trình, dự án đối với cấp cơ sở đã ảnh hưởng không ít đến hình thức và mức độ tham
gia của địa phương và cộng đồng. Đồng thời, thông tin không đầy đủ cũng hạn chế và
gây trở ngại cho công tác giám sát, đánh giá. Ví như trong Chương trình vay vốn tín
dụng của Ngân hàng người nghèo trước đây, ngay đến cán bộ xã của nhiều xã vùng
cao cũng không nắm được mức cho vay tối đa của Ngân hàng đối với người dân là bao
nhiêu, thời hạn cho vay là bao lâu và hỗ trợ của tỉnh, của ngân hàng đối với người vay
vốn là gì.
Đaklăk
- Khó khăn trong thực hiện chương trình 135 của tỉnh Đăk Lăk đến nay vẫn chưa
đạt hiệu quả như mong muốn lại bắt nguồn từ khâu tuyên truyền. Việc tuyên truyền
nội dung, ý nghĩa, mục đích của chương trình đến người dân còn yếu. Cách thức tuyên
truyền chưa hợp lý. Thậm chí, một số cán bộ ở thôn, buôn còn chưa nắm rõ nội dung
thực hiện chương trình. Việc thực hiện quy chế dân chủ ở cơ sở còn rất nhiều hạn chế,
nặng về hình thức. Với phương châm dân biết, dân làm, dân bàn, dân kiểm tra nhưng
quá trình thực hiện thì người dân chưa được trực tiếp tham gia đóng góp ý kiến và
giám sát quá trình thi công các công trình. Hơn nữa, trình độ, năng lực của một số cán
bộ trong ban giám sát của các xã, phường, thị trấn còn yếu, không thường xuyên kiểm
tra các công trình, buông lỏng giám sát các chủ thầu trong quá trình thi công. Một lý
do dẫn đến việc lơ là giám sát một phần do không có quy định kinh phí bồi dưỡng cho

những cán bộ này.
1.2.2 Mức độ tham gia của người dân
a. Trong khâu lập kế hoạch
Mặt được:

10


- Sự tham gia của cộng đồng trong công tác lựa chọn và thực hiện CT đã
được cải thiện, phát huy được tính công bằng, dân chủ. Các cuộc họp thôn/bản đề xuất
lựa chọn CT được trưởng thôn/bản thông báo rộng rãi cho các hộ dân trước 2 đến 3
ngày để người dân có điều kiện chuẩn bị và tham gia dự họp đông đủ. Đây là lần đầu
tiên người dân được làm chủ đầu tư toàn diện từ khâu lựa chọn, lập kế hoạch, thực
hiện tới duy tu bảo dưỡng, do đó thu hút được rất nhiều người dân tham gia. Kiểm tra
ngẫu nhiên hồ sơ tại xã cho thấy các biên bản họp thôn/bản đề xuất CT được ghi chép
đầy đủ theo mẫu. Số người tham dự so với số hộ trong thôn bản chiếm từ 60% đến
100% (ở dự án GNMB). VD. Bản Pồ Chồ (Bát Xát, Lào Cai); thôn Rì (Lục Ngạn, Bắc
Giang). Ở các xã miền núi, vùng sâu, vùng xa, dân tộc ít người, phụ nữ ít tham gia vào
các hoạt động xã hội hơn nam giới, số phụ nữ tại các cuộc họp thôn bản chiếm tỷ lệ
30-80% tùy thuộc vào từng thời điểm mà tỷ lệ này có thể thay đổi, ví dụ: vào thời vụ
thu hoạch, nam thường đi họp nhiều hơn nữ và ngược lại lúc nhàn rỗi thì phụ nữ đi
họp đông hơn nam. Sự tham gia tích cực của cộng đồng đã thể hiện được tính dân chủ
trong thực hiện đó là: (i) người dân được tiếp cận với các thông tin về dự án (ii) được
họp, đề xuất và thảo luận về các CT ưu tiên đầu tư cho thôn/bản; (iii) được cử người
thay mình giám sát các nhóm thợ thực hiện các CT; (iv) được đề xuất các nhóm thợ
tham gia thực hiện các CT; (v) trực tiếp tham gia thực hiện các CT góp phần thu nhập;
(vi) đưa ra quy chế vận hành, bảo trì và quản lý các CT (hương ước).
Hạn chế
- Tuy nhiên, do trình độ văn hoá có hạn nên việc ghi chép biên bản họp thôn
chưa mạch lạc, một số biên bản họp thôn ghi thiếu các thông tin như: tổng số hộ, số

người tham dự, ngày tháng họp nhầm lẫn giữa ngày âm lịch và ngày dương lịch. thiếu
thông về Qui mô CT, số người hưởng lợi, thiếu thứ tự ưu tiên cho CT. Sự tham gia
phát biểu ý kiến của phụ nữ và nhóm người dễ bị tổn thương trong thôn tuỳ thuộc vào
tính chất cuộc họp, nhưng nhìn chung vẫn rụ rè do tập quán và hiểu biết hạn chế.
- Trong quá trình phát triển xã hội, thôn bản, đặc biệt là ở những vùng sâu, vùng
xa, vùng núi cao vẫn cồn nhiều khó khăn về đời sống và văn hoá (hộ nghèo chiếm 6080%). Do địa hình khó khăn, phức tạp (có xã như Mo Rây-Kon Tum rộng gần bằng
tỉnh Thái Bình, đi từ thôn này sang thôn khác phải mất cả ngày đường đi bộ) nên việc
đầu tư cho các thôn bản không phải dễ dàng vì kinh phí có hạn. Bên cạnh đó, trình độ
11


dân trí của nhiều dân thôn bản vẫn còn rất thấp, Chẳng hạn có xã/thôn trình độ văn hoá
của bí thư, chủ tịch chỉ mới lớp 3 lớp 4 (xã Đắc Kôi-Kon Rẫy, Kon Tum), thôn Sử Pán
1 xã Sử Pán có hộ dân nhưng trong số 70 phụ nữ của các chỉ có 2 người biết đánh vần
và viết được ít chữ. Số lao động nhiều mà thiếu tay nghề, phong tục tập quán lạc hậu
(đám ma, cưới hỏi,…) vẫn nặng nề. Một số thanh niên trẻ được đo tạo nhưng khi học
xong họ ở lại làm việc ở các thị trấn hoặc thành phố làm ăn mà hầu hết không về thôn
bản. Đó là những trở ngại lớn cho phát triển nông thôn. Mặt khác, một số các công
trình được đầu tư nhưng chất lượng của các công trình chưa đảm bảo chất lượng, hiệu
quả thấp (VD. Trường xây xong không có học sinh học ở Cát Tiên-Lâm Đồng, hệ
thống nươc tự chảy ở Đắc Kôi –Kon Tum, mương nước vừa làm xong đã hỏng ở Sa
Pa-Lao Cai,…).
c. Trong tổ chức thực hiện
Mặt được:
- Sự tham gia đóng góp của người dân đã tăng lên đáng kể
Đóng góp của người dân địa phương vào các công trình thường dưới dạng vật
liệu xây dựng hoặc ngày công lao động, ngày công giám sát, tình nguyện đóng góp
phần đất đai khi có công trình cần sử dụng mà không đòi hỏi bồi thường, cá biệt cũng
có nơi đóng góp tiền để thực hiện dự án.
Hạn chế:

- Sự thiếu minh bạch còn thể hiện qua việc thực hiện cơ chế đấu thầu và thực
hiện thầu. Công tác đấu thầu và thực hiện thầu còn mang tính hình thức, việc tổ chức
đấu thầu hạn chế, thực chất là chỉ định thầu, cộng đồng hầu như đứng ngoài cuộc.
Chính vì vậy, nhiều hạng mục người dân hoàn toàn có thể đảm đương được lại được
giao cho các nhà thầu thực hiện và trong quá trình thực hiện họ lại khoán lại cho người
dân.
Bình Định
Việc thực hiện các phương châm, mục tiêu của Chính phủ quy định trong các dự
án chương trình như: "dân chủ công khai"; "dân biết dân làm dân kiểm tra"; "xã có
công trình dân có việc làm" cũng còn nhiều khiếm khuyết. Đối với việc việc nghiệm
thu bàn giao và quản lý sử dụng và bảo dưỡng các công trình, các Ban quản lý dự án

12


chưa hướng dẫn cách thức sử dụng, quy trình vận hành, quản lý, bảo trì để địa phương
và nông dân quản lý sử dụng. Vì thế, một số công trình đầu mối về thủy lợi, hệ thống
cửa của các công trình dân dụng, hệ thống máy bơm nước sạch không được nông dân
bảo vệ. Một số công trình chợ, trạm khuyến nông, lâm, nhà văn hóa ở các trung tâm
cụm xã ĐBKK làm xong không được bố trí sử dụng gây lãng phí…

13


d. Trong giám sát, đánh giá
Điểm mạnh
- Công tác tổ chức theo dõi cộng đồng thực hiện CT đến cấp xã
- Hệ thống văn bản của chương trình gồm có các tài liệu như quyết định, quy chế,
nghị quyết, thông tin, hướng dẫn từ TW đến xã được ban hành và triển khai thực hiện,
tạo cơ sở pháp lý để thực hiện Chương trình.


Ban chỉ đạo

Bộ phận TD&ĐG

GSĐG

Chương trình TW

TW

độc lập

BCĐ

Cán bộ TD&ĐG tỉnh

Chương trình tỉnh

BCĐ

Cán bộ theo dõi

Chương trình huyện

đánh giá huyện

BCĐ

Cán bộ theo dõi


Ban

Chương trình xã

đánh giá BPT xã

GSĐG
cộng đồng

Sơ đồ 1: Hệ thống GSĐG

- Một số tỉnh đã ban hành hướng dẫn thực hiện một câch dân chủ công khai.
Lựa chọn công trình theo nguyên tắc công khai, dân chủ, người dân tham gia.
Hội đồng nhân dân xã quyết định hạng mục, quy mô và, khả năng nguồn vốn tại xã.
Vai trò Ban giám sát xã được khẳng định trong quá trình giám sát thi công và nghiệm
thu công trình. Đặc biệt về giám sát đánh giá Chương trình 135 đã đóng góp kinh
14


nghiệm để Chính phủ đưa ra Quyết định số 80/2005/QĐ-TTg ngày 18/4/2005 về việc
ban hành Quy chế giám sát đầu tư của cộng đồng (bước đầu có sự tham gia của cộng
đồng). Theo Quyết định này, Ban GSĐG cộng đồng xã do chủ tịch Hội đồng nhân dân
làm trưởng ban, các thành viên là đại diện Hội đồng nhân dân xã, các Hội. Nhờ có các
Ban GSĐG cộng đồng mà nhiều vụ tiêu cực trong quản lý, thi công CT được ngăn
chặn, góp phần làm tăng chất lượng công trình, tăng tính dân chủ công khai và minh
bạch trong tài chính, tạo niềm tin trong nhân dân đối với Lãnh đạo các cấp. Thông tư
666/2001 TTLT/BKH-UBDTMN-TC-XD về hướng dẫn quản lý đầu tư xây dựng
công trình hạ tầng thuộc CT 135. Thông tư¬ 894/2001/TT-UBDTMN hướng dẫn tổng
hợp và báo cáo thống kê dự án HTCS và TTCX cúng được ban hành.

Ngoài các văn bản của TW, một số tỉnh ban hành hướng dẫn thực hiện dân chủ
công khai và công tác giám sát thực hiện CT 135 đến cấp xã. Có những sáng kiến
trong thực hiện (xã Thổ Bình tỉnh Tuyên Quang. Ban giám sát xã gồm các thành phần
như trong văn bản TW, xã đã đưa cả hai giáo viên giúp Ban GSĐG cộng đồng để giám
sát).
Việc giám sát được thực hiện bởi chính những người có uy tín trong thôn và
được cộng đồng thôn/bản lựa chọn. Trong quá trình thực hiện CT, Ban giám sát xã cử
người xuống hiện trường cùng trưởng thôn theo dõi giám sát. Ở thôn bản cũng lập tổ
giám sát do trưởng thôn đứng đầu, thành viên là những người có uy tín và hiểu biết kỹ
thuật xây dựng cơ bản. Tổ này thay nhau thường xuyên có mặt tại hiện trường để giám
sát tổ thợ thi công TDA từ khối lượng vật liệu đến chất lượng xây lắp. Mặt khác, đối
với các CT quy mô nhỏ kết cấu đơn giản được thi công dưới sự giám sát của chính
cộng đồng người dân hưởng lợi. Nhìn chung, công tác giám sát cộng đồng được thực
hiện suôn sẻ. Hoạt động giám sát bước đầu đã có nề nếp, người giám sát quen với kỹ
thuật xây dựng và phát huy tốt vai trò giám sát. VD, tổ giám sát làm đường xóm Nhội
(người Dao) khi phát hiện tổ thợ ủi đường (đất đá phong hoá) làm sai so với thiết kế và
đòi tăng giá, tổ giám sát đã xử lý và kiên quyết buộc tổ thợ phải chấp nhận yêu cầu và
thực hiện theo đúng thiết kế.

15


Một số tồn tại:
- Có quá nhiều văn bản pháp lý cho việc thực hiện chương trình 135... nhưng ít
thấy văn bản đề cập đến việc báo cáo giám sát đánh giá thực hiện của các cơ sở về việc
thực hiện đúng, đạt theo yêu cầu của các chỉ số mục tiêu CT hay không. Ngoài văn bản
của TW còn có các văn bản của địa phương. Một số văn bản có nhưng nội dung trùng
lặp, chồng chéo đôi khi không rõ ràng.
Một số chương trình chưa có cơ chế theo dõi, giám sát và đánh giá trên cơ sở
khoa học, theo những tiêu chí nhất định, mang tính độc lập, khách quan: Văn kiện

chương trình có Mục tiêu chung chưa rõ ràng. Tuy nhiên, các mục tiêu cụ thể và các
nhiệm vụ (hoạt động) chủ yếu tập trung về hạ tầng cơ sở mà chưa đề cập đến phát triển
bền vững. Các kết quả của các hoạt động tuy có các chỉ số nhưng chưa cụ thể để làm
căn cứ đánh giá mục tiêu có đạt được hay không. Mặt khăc, chưa có cơ chế TD&ĐG
có sự tham gia của người dân/cộng đồng. Một số tỉnh đã có văn bản hướng dẫn theo
dõi đánh giá cộng đồng bằng việc thành lập Ban giám sát công trình xã. Tuy nhiên,
chức năng nhiệm vụ của Ban giám sát là theo dõi xây dựng công trình mà chưa đề cập
đến đánh giá tác động của CT. Hiện tại, đa số các xã chưa có Ban giám sát cộng đồng.
- Công tác thanh tra, giám sát chưa mạnh ở trong khối quản lý chương trình.
Phần lớn các sai phạm được phát hiện là do người dân. Nếu đặt câu hỏi, Cán bộ
chuơng trình có biết những sai phạm không? Thì chắc chắn ở một góc độ nhất định là
họ có biết, thậm chí biết khá rõ nhưng họ không nêu ra. Trả lời đầy đủ câu hỏi này chỉ
có cán bộ giám sát đánh giá trả lời hoặc cộng đồng giám sát đánh giá trả lời nếu họ có
quyền và năng lực (quyền ở đây là văn bản pháp lý Nhà nước trao cho họ, năng lực ở
đây là họ được đào tạo bài bản, có kinh nghiệm và có tính trung thực)
- Chưa có các tổ chức độc lập tham gia theo dõi giám sát và đánh giá.
- Trình độ năng lực của một số thành viên trong Ban giám sát ở các xã vùng cao,
vùng xa còn thấp. Một số Ban giám sát có người đã được tham gia tập huấn về kỹ
năng giám sát xây dựng nhưng không đủ trình độ tiếp thu hoặc đã quên những gì đã
học. Trao đổi với một số người làm giám sát ở thôn bản, khi hỏi “giám sát làm việc
gì?” họ trả lời là “ra trông coi, xem thôi”.
- Không có phụ cấp cho các giám sát viên ở thôn bản nên việc khuyến khích
động viên họ làm nhiệm vụ bị hạn chế.

16


- Ở một số nơi, trưởng nhóm thợ nhận thầu (CT đường thôn) lại nằm trong Ban
giám sát, VD, CT đường giao thông khu Bông 2 (Thanh Sơn Phú Thọ).
- Việc thay đổi nhân sự cũng có ảnh hưởng đến công tác giám sát, do người giám

sát cũ đã được tập huấn nghỉ và thay bằng người mới chưa được đào tạo nên họ chỉ có
mặt trên hiện trường và làm nhiệm vụ trông coi.
- Việc giám sát mua sắm hàng hoá còn chưa thật sự được coi trọng dẫn tới việc
mua máy móc và thiết bị không đúng chủng loại hoặc sai công suất.
1.3 Giải pháp
1.3.1 Khuyến nghị chung:
a. Bài học kinh nghiệm – cơ sở đưa ra khuyến nghị
• Tính công khai, minh bạch và dân chủ trong thực hiện CT. Tất cả thủ tục từ khâu lập
kế hoạch, mua sắm đấu thầu, giám sát, thực hiện và nghiệm thu thanh toán đều có sự tham gia
của người dân. Thực tế đã chứng minh ở nơi no cán bộ sâu sát với người dân, thông tin được
công khai hóa, dân chủ trong việc đề xuất CT, giám sát thi công, minh bạch rõ ràng trong
thanh quyết toán… thì người dân tin tưởng, đoàn kết và đồng lòng thực hiện. Nơi nào dân
hiểu về CT thì nơi đó các CT được thực hiện nhanh và đạt chất lượng tốt.
• Trong tổ chức tập huấn cần lựa chọn học viên sao cho phù hợp với trình độ cấp xã, tài
liệu phải sát thực tế công việc: gọn, đơn giản, thiết thực và dễ hiểu, tập trung vào hướng dẫn
thực hnh.
• Sự chỉ đạo, quản lý, kiểm tra đôn đốc sát sao của Ban chỉ đạo tỉnh, Ban QLDA tỉnh,
UBND huyện, Ban QLDA huyện là rất quan trọng trong việc kịp thời đưa ra những văn bản
hướng dẫn, cụ thể hoá các quy định, biểu mẫu hoá văn bản thủ tục tại cộng đồng địa phương
của mình. Tránh sự chồng chéo trong quản lý giữa Đảng và chính quyền.
• Phải thực sự trao quyền làm chủ/phân cấp cho cấp xã trong việc quản lý CT, tạo động
lực làm việc, nâng cao trách nhiệm, khả năng học hỏi, tìm tòi, sáng tạo và tự ra quyết định.
Chủ trương phân cấp cho xã là đúng đắn, cấp trên không nên ôm hết. Quá trình phân cấp cần
có bước đi phù hợp.

b. Khuyến nghị
• Cần có cơ chế để các tổ chức giám sát độc lập (Hiệp hội, Hội, NGO,..) để hỗ trợ giám
sát đánh giá và hỗ trợ Ban giám sát xã/thôn.

17



• Việc công khai đầy đủ thông tin về chương trình/dự án cho người dân các thôn bản là
điều hết sức cần thiết.
• Cán bộ giám sát ở thôn/xã cần theo dếi, kiểm tra, ghi chép đầy đủ các hoạt động trên
hiện trường, số ngày công, tiền công của người dân, thời gian thực hiện, chất lượng công trình
và bàn giao đưa vào sử dụng, cam kết của thôn bản.
• Đối với buổi họp bàn giao CT, biên bản họp thôn cần có ý kiến của người dân về chất
lượng CT, về mức đóng góp của họ đối với việc thực hiện duy tu bảo dưỡng công trình.
• Tài liệu hoá phương pháp tiếp cận có sự tham gia của người dân trong quá trình thực
hiện TDA thuộc hợp phần NSPTX đặc biêt là: (1) Tài liệu hướng dẫn theo dõi, báo cáo cấp
xã, (2) Nhật ký GSĐG CT của thôn/xã

c. Khuyến nghị trong một số trường hợp cụ thể
- Kiến nghị về kênh thông tin:
Kết luận, Tiến sĩ Trần Văn Thuật đã nêu lên những giải pháp: cần phối hợp chặt
chẽ hơn nữa giữa Vụ Chính sách Dân tộc và Tạp chí Dân tộc trong định hướng, tuyền
truyền; nội dung cần đi sâu làm rõ hơn nữa tư tưởng chỉ đạo của Ban chỉ đạo Chương
trình 135 Trung ương; sự quan tâm của các tổ chức quốc tế đầu tư kinh phí thực hiện
chương trình; sự tham gia của người dân; việc phân cấp xã làm chủ đầu tư; các tiêu chí
để phân định các xã ra, vào chương trình; chế độ dân chủ, công khai, minh bạch; phản
ánh các mô hình, điển hình ở các địa phương và đặc biệt cần phải bám sát cơ sở để
phản ánh chính xác, kịp thời.
Ví dụ về giải pháp cho tỉnh Đăk lăk:
GP: Để tiếp tục thực hiện tốt chương trình 135 giai đoạn 2, tỉnh Đăk Lăk cần
tăng cường tuyên truyền cho người dân về mục đích, ý nghĩa nội dung của chương
trình. Các hình thức tuyên truyền cần phong phú, phù hợp với trình độ của đồng bào
dân tộc. Dự án đào tạo cán bộ xã, thôn, buôn để nâng cao trình độ về quản lý hành
chính và kinh tế cần có biện pháp phổ biến kịp thời, hiệu quả hơn. Đối với các dự án
ổn định và phát triển sản xuất nông, lâm nghiệp gắn với chế biến tiêu thụ sản phẩm

nên giao cho một cơ quan chuyên môn thực hiện, bảo đảm chuyên sâu. Việc giám sát
quá trình thi công các công trình, nhất là các công trình trọng điểm cần chú trọng, bám
sát hiện trường thi công, kịp thời chấn chỉnh những sai sót khâu kỹ thuật.
- Kiến nghị về khâu ban hành các VB giám sát:
18


Khi ra văn bản mới: Khi một văn kiện có tầm chiến lược hay vấn đề quan trọng,
các văn bản sẽ được ban hành để triển khai thực hiện một mục tiêu nào đó, chẳng hạn
chương trình 135, cần có sự đánh giá các nội dung văn bản pháp lý trước đó có được
thực hiện hoặc đã thực hiện đến mức độ nào. Đánh giá cần làm rõ nội dung nào của
văn bản trước phải để lại tiếp tục thực hiện và nội dung nào cần bỏ hoặc thay đổi. Văn
bản ban hành có nội dung mới (bao gồm cả phần để lại từ văn bản trước và nội dung
bổ sung) sẽ thay cho văn bản cũ. Trong văn bản mới cũng nên ghi rõ là thay cho
những văn bản nào. Nếu làm được như vậy thì số lượng văn bản áp dụng sẽ không
nhiều, thực hiện sẽ dễ dàng đặc biệt dễ dàng hơn cho người chịu trách nhiệm về quản
lý và giám sát đánh giá.
2. Tính công bằng
Sự phân bổ một số tổng cố định 500 triệu đồng cho từng xã trong CT 135 là một
hình thức tương đối công bằng trong điều kiện nguồn lực hạn chế và mang lại lợi ích
về tính minh bạch và rõ ràng. Nhưng do đây là một công cụ còn tương đối đơn giản để
giảm nghèo vì các xã có số dân lớn và/hoặc các xã có nhiều người nghèo hơn (và do
vậy có nhiều nhu cầu về hạ tầng cơ sở hơn như là về cung cấp nước sạch, nhà ở v.v..)
lại vẫn nhận cùng một số vốn từ trung ương.
Đối với chương trình xóa đói giảm nghèo, mặc dù Trung Ương có một công thức
phân bổ nguồn lực từ ngân sách nhà nước cho các tỉnh, nhưng không phải lúc nào
cũng biết rõ công thức này đuợc áp dụng như thế nào, và có phải bất cứ lúc nào công
thức này cũng được tuân thủ hay không.
Có sự khác nhau rất lớn trong phân bổ nguồn lực xóa đói giảm nghèo cho các
tỉnh (cả theo số tuyết đối và cả theo đầu hộ nghèo). Việc phân bổ nhiều cho các tỉnh

không quá nghèo cho thấy cùng các hộ nghèo như nhau nhưng nếu sống ở các tỉnh
khác nhau lại nhận được những lợi ích từ chính phủ hoàn toàn khác nhau.
Thông thường, việc tăng cường các nguồn đóng góp thêm của tỉnh cho số phân
bổ trung ương (hoặc còn gọi là ‘bổ sung’) càng làm gia tăng sự cách biệt giữa các tỉnh
về nguồn lực. Các tỉnh giàu hơn càng có nhiều khả năng tạo nguồn lực bổ sung trong
khi các tỉnh nghèo hơn phụ thuộc nặng nề vào nguồn vốn Trung Ương.
Một số vốn cố định phân bổ cho một xã nghèo trong CT 135 có lợi ở tính rõ ràng
và minh bạch; nó cũng thể hiện sự phân phối công bằng rõ ràng các nguồn lực quý

19


hiếm. Nhưng các xã có số dân lớn hơn và/hoặc các xã có tương đối nhiều hộ nghèo
hơn lại nhận cùng một số vốn phân bổ từ trung ương như nhau. Mặc dù trung ương đã
có tiêu chí phân bổ nguồn lực ngân sách trong chương trình xóa đói giảm nghèo giữa
các tỉnh nhưng còn chưa rõ việc áp dụng các tiêu chí trên như thế nào, và có phải lúc
nào tiêu chí cũng được tuân thủ hay không. Do vậy, có sự khác biệt lớn trong thực tiễn
phân bổ các nguồn lực của chương trình xóa đói giảm nghèo tỉnh (cả về mặt tuyệt đối
cũng như trên cơ sở đầu hộ nghèo). Đồng thời cũng có khác biệt về số vốn phân bổ
theo năm giữa các tỉnh.
Mặc dù không hoàn toàn là không liên quan gì đến tỷ lệ nghèo, phần lớn các
phân bổ dành cho các tỉnh đỡ nghèo hơn (trong chương trình xóa đói giảm nghèo) cho
thấy các hộ nghèo như nhau nhưng lại nhận nguồn lực của chính quyền và lợi ích được
hưởng khác nhau tuỳ thuộc vào nơi sinh sống.
Thông thường, việc bổ sung nguồn ngoài ngân sách Trung Ương càng làm tăng
sự khác biệt về nguồn lực giữa các tỉnh. Các tỉnh giàu hơn có nhiều khả năng hơn để
tạo vốn bổ sung trong khi các tỉnh nghèo hơn lại phụ thuộc nhiều vào nguồn vốn trung
ương. Mặc dù có hỗ trợ bổ sung, số thực đến khoảng USD 270 một đầu hộ nghèo một
năm, tức là ngay cả đối với các tỉnh giàu nguồn lực (như Tuyên Quang) số này cũng
thấp hơn 1 $ ngày ĐGN giữa các tỷ trọng đối với việc thực hiện các hợp phần chương

trình xóa đói giảm nghèo. Nên ban hành hướng dẫn tới huyện và xã nhằm đảm bảo
việc đóng góp của hộ gia đình được công bằng, và không tạo gánh nặng bất thường
cho hộ gia đình nghèo.
Có thể lấy ra một ví dụ cụ thể về việc đánh giá chương trình 135 như một chương
trình hợp ý Đảng, lòng dân ở tỉnh Trà Vinh:
Kết thúc chương trình 135 giai đoạn I, Trà Vinh còn 25 xã đặc biệt khó khăn cần
được hỗ trợ trong giai đoạn II. Sau hơn 1 năm thực hiện Chương trình 135 giai đoạn II,
chương trình tiếp tục đạt được những kết quả to lớn trên nhiều lĩnh vực. Kết quả đó đã
tác động tích cực đến phát triển kinh tế - xã hội của các xã đặc biệt khó khăn, đời sống
của đồng bào các dân tộc thiểu số tiếp tục được nâng cao
Trà Vinh là tỉnh thuộc khu vực đồng bằng sông Cửu Long, nằm giữa phần hạ lưu
của sông Tiền và sông Hậu Thực hiện chương trình 135 giai đoạn I (1999-2005), Trà
Vinh có 38 xã đặc biệt khó khăn thuộc diện đầu tư của Chương trình 135 giai đoạn

20


1999 – 2005. Thực hiện Chương trình 135 giai đoạn II (2006 - 2010), Trà Vinh có 25
xã đặc biệt khó khăn được Trung ương hỗ trợ đầu tư từ năm 2006.
Năm 2007, Trà Vinh được Trung ương phân bổ 21,5 tỷ đồng để thực hiện 3 dự
án trên địa bàn 25 xã đặc biệt khó khăn, gồm: dự án hỗ trợ phát triển sản xuất (3 tỷ
đồng), dự án xây dựng cơ sở hạ tầng 17,5 tỷ đồng và dự án đào tạo, bồi dưỡng nâng
cao năng lực cán bộ cơ sở và cộng đồng 1 tỷ đồng. Song song đó, tỉnh còn phải thực
hiện phần vốn của năm 2006 chuyển sang là 14.535,875 triệu đồng thuộc các dự án: hỗ
trợ phát triển sản xuất 3 tỷ đồng, xây dựng cơ sở hạ tầng 4,015 tỷ đồng, dự án xây
dựng các Trung tâm cụm xã còn dở dang 7 tỷ đồng và dự án đào tạo, bồi dưỡng cán bộ
cơ sở và cộng đồng 520.875.000 đồng (do Trung ương bổ sung vào tháng 12 năm
2006). Với sự phân bổ như vậy, đến nay sau hơn 1 năm thực hiện, Trà Vinh đã đầu tư
xây dựng 68 hạng mục công trình cơ sở hạ tầng các loại, 9 hạng mục thuộc các Trung
tâm cụm xã còn dở dang, đã tổ chức mở 37 lớp tập huấn nâng cao năng lực cán bộ cơ

sở và cộng đồng thuộc các xã đặc biệt khó khăn, có 4.822 học viên tham dự, ngoài ra
Ban còn phối hợp với Trường Đại học Trà Vinh mở 9 lớp dạy nghề ngắn hạn cho
thanh niên dân tộc thiểu số ở các xã đặc biệt khó khăn có 180 học viên tham dự và
phối hợp với Ban quản lý dự án 135 các huyện tổ chức mở 1 lớp tập huấn cho 69 cán
bộ quản lý Chương trình 135 ở các xã đặc biệt khó khăn về quy trình xây dựng cơ bản
thuộc Chương trình 135 giai đoạn II để tạo điều kiện cho cán bộ các xã đặc biệt khó
khăn nâng cao năng lực và chuyển giao cho xã làm chủ đầu tư. Riêng dự án hỗ trợ phát
triển sản xuất đến nay đang điều chỉnh lại dự án theo khung định mức kinh tế - kỹ
thuật đối với các loại cây trồng, vật nuôi và chi phí tập huấn, hội thảo thực hiện dự án
hỗ trợ sản xuất thuộc Chương trình 135 giai đoạn 2006 - 2010 trình UBND huyện
thẩm định và phê duyệt.
Qua hơn một năm thực hiện Chương trình 135 giai đoạn II trên địa bàn tỉnh Trà
Vinh, nhìn chung nguồn vốn của chương trình được đưa vào kế hoạch quản lý thống
nhất theo danh mục riêng và triển khai đầu tư đúng đối tượng, đúng địa bàn và đúng
mục tiêu. Các công trình hoàn thành đã được đưa vào sử dụng và từng bước phát huy
hiệu quả khẳng định sự quan tâm của Đảng, Nhà nước đối với đồng bào ở các xã đặc
biệt khó khăn ở vùng sâu, vùng xa, vùng dân tộc thiểu số. Đến nay, ở 25 xã đặc biệt
khó khăn đã có 99% xã có đường ô tô, 100% xã có điện lưới quốc gia, tỷ lệ hộ sử dụng

21


điện đạt 49,64%; 46,61% số hộ được sử dụng nước sinh hoạt hợp vệ sinh… Các công
trình thiết yếu phục vụ cho phát triển kinh tế - xã hội đã tạo tiền đề cho việc phát triển
sản xuất, chuyển dịch cơ cấu cây trồng, vật nuôi, giao lưu hàng hoá thuận tiện, con em
vùng sâu, vùng xa có điêu kiện học hành, đảm bảo điều kiện chăm sóc sức khoẻ cho bà
con, đẩy nhanh tốc độ phát triển kinh tế - xã hội, cơ bản không còn hộ đói, giảm hộ
nghèo đáng kể, nâng cao đời sống vật chất, tinh thần cho nhân dân nói chung và đồng
bào dân tộc ở các xã đặc biệt khó khăn nói riêng.
Xuất phát từ tình hình thực tế của địa phương, cụ thế như trình độ đội ngũ cán bộ

các xã đặc biệt khó khăn còn hạn chế, lại thường xuyên thay đổi, luân chuyển cán bộ
nên trong năm 2007 tỉnh chỉ giao cho 3 xã làm chủ đầu tư. Trong năm 2008, tỉnh phân
cấp mạnh cho xã làm chủ đầu tư đạt ít nhất 60% theo định hướng của Ủy ban Dân tộc.
Trong đó, những xã đặc biệt khó khăn được phân cấp làm chủ đầu tư đều có
thành lập Ban quản lý dự án của xã để giúp UBND xã quản lý và tổ chức triển khai
thực hiện chương trình trên địa bàn. Ngoài ra, các xã đều có thành lập Ban giám sát
xã gồm các ngành đoàn thể của xã, ấp và một số người có uy tín trong cộng đồng
tham gia, do chủ tịch hoặc phó chủ tịch HĐND xã làm Trưởng Ban giám sát để tham
gia giám sát quá trình thi công công trình cũng như giám sát việc quản lý, khai thác và
bảo quản công trình khi đã đưa vào sử dụng. Chính vì vậy, trong thời gian qua các
công trình hạ tầng thuộc Chương trình 135 được xây dựng trên địa bàn đều đạt chất
lượng cao, ít thất thoát, đáp ứng nhu cầu bức xúc của người dân ở địa phương, phù
hợp với mục tiêu phát triển kinh tế - xã hội và công trình phát huy được hiệu quả cao.
Một vài giải pháp để khắc phục những hạn chế trong tính công bằng:
- Kiện toàn các cơ chế xác định đối tượng để làm tăng phạm vi bao phủ đối với
đối tượng hưởng lợi là ng ư ời nghèo
Hệ thống xác định các hộ nghèo hiện tại sử dụng các ngưỡng nghèo được xây
dựng một cách chủ quan dùng để đánh giá chất lượng sống của hộ đối chiếu với một
chuẩn nghèo tuyệt đối. Các ngưỡng này thường khác so với quan niệm của địa phương
và do vậy mà cũng có sử dụng thêm cả các tiêu chí nghèo tương đối để xác định các
hộ nghèo nhất. Hơn nữa, việc xác định các hộ nghèo được định hướng bởi áp lực phải
đạt các mục tiêu giảm nghèo do trung ương đề ra.

22


- Việc đặt các mục tiêu giảm nghèo thiết thực , ví dụ, mục tiêu cho cả 2 năm thay
vì 1năm có thể giúp tăng phạm vi bao phủ đối tượng hưởng lợi là ngư ời nghèo.
Cần đảm bảo công bằng hơn nữa bằng cách tiến hành phân bổ vốn XĐGN trung
ương rõ ràng hơn và được liên hệ minh bạch hơn tới mức độ nghèo đói ở cấp xã và

tỉnh.
Nguồn vốn cấp cho tỉnh cần ổn định và chắc chắn hơn, có thể thông qua khung
kế hoạch 3 năm (với các số phân bổ trung ương được thông báo trước)
- Chính quyền trung ương nên đưa ra các mục tiêu có thể đạt được (nếu có thể
thảo luận riêng với từng tỉnh) về huy động nguồn vốn địa phương và theo dõi giám sát
các mục tiêu trên cơ sở hàng năm
3. Tính hiệu quả
3.1 Giai đoạn I( 1998-2005)
Chi phí:
CT 135 với tổng số vốn khoảng 10 nghìn tỷ đồng.
Nguồn vốn thực hiện chương trình gồm: Vốn Ngân sách Trung ương, từ 1999
đến 2005 là 9.142,2 tỷ đồng. Vốn Ngân sách địa phương thực hiện 2 dự án Xây dựng
cơ sở hạ tầng và Trung tâm cụm xã là 527 tỷ đồng. Vốn huy động từ các Tổng Công
ty, các địa phương có điều kiện giúp đỡ, các Bộ, ngành và Quỹ người nghèo từ năm
1999 - 2004 là 509 tỷ đồng. Vốn tham gia đóng góp của người dân bằng các hình thức
tham gia lao động xây dựng công trình, khai thác vật liệu sẵn có ở địa phương, hoặc tài
sản, hoa màu, đất đai bị mất khi xây dựng công trình.
Kết quả:
Sau 7 năm thực hiện, Chương trình 135 đã góp phần quan trọng làm thay đổi cơ
bản diện mạo nông thôn, miền núi. Chương trình đã xây dựng được trên 25.000 công
trình hạ tầng và 498 trung tâm cụm xã; đã đưa vào sử dụng trên 20.000 công trình thiết
yếu các loại và trên 200 trung tâm cụm xã. Hiện nay đã có trên 70% số xã đã xây dựng
được 5 hạng mục công trình thiết yếu: Đường giao thông, hệ thống điện, trường học,
thuỷ lợi nhỏ và trạm y tế; 56% số xã đã đầu tư xây dựng đủ 8 hạng mục công trình
thiết yếu. Trên các địa bàn thụ hưởng Chương trình 135, 86% xã có trường tiểu học,
73% xã có trường trung học cơ sở kiên cố; 96% xã có trạm y tế đảm bảo phục vụ

23



khám, chữa bệnh, chăm sóc sức khoẻ ban đầu cho người dân; 74% xã có trạm bưu
điện văn hoá xã; 61% xã có trạm truyền thanh; 44% xã có chợ. Đã có thêm 500 xã có
đường ô tô đến trung tâm xã, 28 tỉnh trong chương trình đã đạt 100% xã có đường ô tô
đến trung tâm, tỷ lệ đường giao thông cơ giới và dân sinh đến trung tâm xã đạt 97,42%
tăng 62,42% so với trước năm 1998.
Chương trình 135 đã xây dựng được hệ thống kết cấu hạ tầng nông thôn quan
trọng, đây là lực lượng vật chất to lớn làm thay đổi bộ mặt các xã đặc biệt khó khăn,
góp phần cải thiện đời sống, nâng cao thu nhập, xoá đói giảm nghèo và tạo tiền đề
công nghiệp hoá, hiện đại hoá vùng dân tộc và miền núi.
Chương trình đã đóng góp quan trọng vào giảm tỷ lệ hộ nghèo ở các xã đặc biệt
khó khăn. Nhờ đầu tư cho công tác thuỷ lợi, khai hoang tăng diện tích canh tác, đưa
nhanh giống cây trồng, vật nuôi năng suất, chất lượng cao dần dần thay thế cho những
tập quán sản xuất lạc hậu phụ thuộc vào thiên nhiên đã giúp cho các xã đặc biệt khó
khăn ổn định lương thực và nâng mức bình quân lương thực tự sản xuất từ 286
kg/người/năm của năm 1998 lên 320 kg/người/năm vào năm 2004, nhiều địa phương
đạt đến 500 kg/người/năm.
Từ thực tế phát triển sản xuất, đã hình thành một số vùng kinh tế hàng hoá, ngày
càng có nhiều hộ làm ăn giỏi, mô hình sản xuất kinh doanh có hiệu quả trên địa bàn.
Trên địa bàn chương trình đã cơ bản không còn hộ đói kinh niên, tốc độ giảm nghèo
khá nhanh, bình quân mỗi năm giảm 4-5% hộ nghèo (tỷ lệ hộ đói nghèo bình quân trên
địa bàn trước khi có chương trình gần 60%, đến năm 2005 còn 20%), một số địa
phương, tỷ lệ hộ nghèo giảm 7-8%/năm.
Chương trình 135 góp phần quan trọng cải thiện đời sống của đồng bào các dân
tộc vùng đặc biệt khó khăn trên các lĩnh vực đời sống xây dựng: văn hoá, giáo dục, y
tế và sức khoẻ cộng đồng… Chương trình đã tác động mạnh mẽ đến giáo dục, y tế,
văn hoá vùng đồng bào dân tộc và miền núi. Nhà nước có chính sách tăng cường phát
triển giáo dục, đầu tư bằng nhiều nguồn lực nên đến nay hầu hết các xã Chương trình
135 đều có trường tiểu học và trung học cơ sở kiên cố, đã tạo điều kiện thu hút trên
90% trẻ em trong độ tuổi đến trường. Nhiều địa phương đã hoàn thành phổ cập giáo
dục tiểu học, có nơi đã phổ cập trung học cơ sở. Đến nay hầu hết các xã đặc biệt khó

khăn đã có trạm y tế, đa số thôn bản đã có y tế cộng đồng, góp phần ngăn chặn cơ bản

24


được các dịch bệnh xã hội hiểm nghèo, nâng cao sức khoẻ và cải thiện đời sống cho
đồng

bào.
Các dự án quy hoạch sắp xếp dân cư và định canh định cư đã góp phần ổn định

đời sống cho đồng bào các dân tộc sống phân tán trong điều kiện khó khăn khắc
nghiệt, được tiếp cận các dịch vụ xã hội. Tỷ lệ đồng bào được tiếp cận với thông tin
ngày càng tăng, chất lượng dịch vụ ngày một tốt hơn.
Nhờ kinh tế được cải thiện nên đời sống văn hoá đã được nâng cao một bước,
phát triển phong phú hơn, văn hoá truyền thống của các dân tộc được tôn trọng, giữ
gìn và phát huy, cùng với chính sách trợ giá máy thu thanh và chương trình phủ sóng
truyền hình vùng lõm, chính sách cấp không thu tiền báo chí… đã đưa số xã được thụ
hưởng văn hoá thông tin tăng nhanh, chủ trương, đường lối, chính sách, pháp luật của
Đảng và Nhà nước ngày càng đến được với đồng bào nhiều hơn, nhanh hơn.
Đại diện 1 số vùng:
Thôn Đam (Mỹ Xuyên)_Sóc Trăng: Nhờ Chương trình 135 triển khai đầu tư
xây dựng hạ tầng, 14 ấp trong xã đã có nhiều đổi thay. Đường giao thông từ trung tâm
xã đến tận xóm, ấp được đầu tư nâng cấp, tạo điều kiện thuận lợi cho bà con đi lại, trao
đổi hàng hóa dễ dàng. Điện thắp sáng mọi nhà, trạm y tế, trường tiểu học, trung học cơ
sở được xây dựng khang trang, có điểm bưu điện văn hóa xã, cửa hàng tạp hóa... Hàng
loạt hệ thống kênh mương thủy lợi được nạo vét, đào đắp mới, tạo điều kiện khai thác
hiệu quả tiềm năng của đồng đất Tham Đôn. Đến nay, cả xã không còn hộ đói, hộ
nghèo giảm xuống dưới 30%. Số hộ còn lại đều có mức sống từ trung bình khá trở lên,
trong đó có khoảng 20% số hộ nhờ biết tính toán làm ăn đã trở nên giàu có”.

KL: ta thấy chi phí tham gia đóng góp của người dân bằng các hình thức tham
gia lao động xây dựng công trình, khai thác vật liệu sẵn có ở địa phương, hoặc tài sản,
hoa màu, đất đai bị mất khi xây dựng công trình, nhưng họ thu lại được rất nhiều cả về
vật chất lẫn tinh thần: thu nhập của họ được nâng lên và đời sống văn hoá được cải
thiện rõ rệt. Chính điều đó đã cho ta thấy hiệu quả của chương trình là khá cao.
3.2 Giai đoạn II( 2006-2010)
Chi phí:
Chương trình 135 giai đoạn II bắt đầu từ năm 2006 với tổng số vốn dự kiến
khoảng 12 nghìn tỷ đồng.
25


×