Tải bản đầy đủ (.doc) (63 trang)

Luận văn phát triển ngành dịch vụ kinh nghiệm trung quốc tế và thực tiễn ở việt nam

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (444.16 KB, 63 trang )

LI M U
1.Sự cần thiết của đề tài
Trong thế kỷ XXI, xu thế chung của mọi nền kinh tế trên thế giới là hớng tới toàn cầu hoá
và quốc tế hoá các thị trờng dịch vụ, đa tăng trởng dịch vụ lên hàng đầu và trở thành tăng trởng của ngành công nghiệp sạch cho vấn đề phát triển kinh tế và đảm bảo các vấn đề môi
trờng và xã hội. Sức mạnh của ngành dịch vụ trong nền kinh tế ngày càng tăng. Vào năm
2001, bình quân ngành dịch vụ chiếm 72% GDP của các nớc phát triển, 52% GDP của các nớc
đang phát triển và 57% GDP của các nớc CEE. Dịch vụ chiếm 2/3 tổng dòng FDI vào trong
những năm 2001 - 2002, đạt bình quân 500 tỷ USD/năm.

Nhận thức đợc những vai trò và tiềm năng phát triển kinh tế to lớn của lĩnh vực
dịch vụ đem lại, ngày 24 tháng 12 năm 2004 Thủ tớng Chính phủ ban hành chỉ thị
số 49/2004/CT-TTg về phát triển dịch vụ trong kế hoạch phát triển kinh tế - xã hội
5 năm 2006 - 2010 nhằm nâng cao vị trí và vai trò của khu vực dịch vụ. Ngành dịch
vụ đợc xem là một trong những ngành mũi nhọn để phát triển kinh tế đất nớc trong
đó tập trung phát triển các lĩnh vực dịch vụ có tiềm năng nh du lịch, bảo hiểm, vận
tải hàng không, vận tải biển, kho bãi, chuyển tải, tài chính, ngân hàng, kiểm toán, bu chính viễn thông, xây dựng, xuất khẩu lao động... khuyến khích phát triển dịch vụ
mới có sức cạnh tranh cao.
Nhận thấy tầm quan trọng của vấn đề này, em đã chọn đề tài "Phát triển ngành dịch
vụ - kinh nghiệm Trung Quốc tế và thực tiễn ở Việt Nam"
2. Tình hình nghiên cứu
Có rất nhiều nghiên cứu và tài liệu từ trớc đến nay đề cập đến vai trò và sự phát triển
của ngành dịch vụ của Việt Nam và các quốc gia khác trên thế giới. Nhng các tài liệu và nghiên
cứu này chủ yếu nghiên cứu dịch vụ dới góc độ phục vụ quá trình chuyển dịch cơ cấu kinh tế,
cũng nh quá trình chuyển dịch cơ cấu ngành dịch vụ, có công trình nghiên cứu ngành dịch vụ
trong quá trình điều chỉnh chính sách kinh tế hay điều chỉnh cơ cấu kinh tế Vì vậy,
hiện cha có công trình nào đa ra một hệ thống hoàn chỉnh những lí luận và dữ liệu thống kê
một cách tổng hợp và khái quát về sự ra đời và phát triển của ngành dịch vụ trên thế giới, kinh
nghiệm Trung Quốc và thực tiễn ở Việt Nam.
3.Mục đích nghiên cứu
1



Mục đích nghiên cứu của đề tài là đa ra đợc vai trò và tầm quan trọng của ngành
dịch vụ trong phát triển kinh tế trên thế giới, phân tích đánh giá tiến trình phát triển
ngành dịch vụ của Nhật Bản và Trung Quốc và rút ra bài học kinh nghiệm cho Việt
Nam trong việc phát triển lĩnh vực dịch vụ nhằm gia nhập WTO. Trên cơ sở đó đề ra
một số giải pháp góp phần mở cửa và phát triển ngành dịch vụ ở Việt Nam trong thời gian
tới.
4. Đối tợng và phạm vi nghiên cứu
Đề tài tập trung nghiên cứu tổng quan về ngành dịch vụ cũng nh phát triển ngành dịch
vụ nhằm đáp ứng quá trình chuyển dịch cơ cấu ngành theo hớng tiến bộ của Trung Quốc và
Nhật Bản trên cơ sở đó rút ra bài học kinh nghiệm cho quá trình phát triển ngành dịch vụ ở
Việt Nam.
5.Phơng pháp nghiên cứu
Phơng pháp nghiên cứu tổng quát đợc sử dụng trong đề tài là phơng pháp duy vật biện
chứng kết hợp duy vật lịch sử. Các phơng pháp cụ thể là phơng pháp thống kê so sánh, dự báo,
logic - lịch sử, phân tích - tổng hợp
6. Đóng góp của đề tài:
-Hệ thống hoá một cách toàn diện các quan điểm và các lí luận về ngành dịch vụ và
vai trò, tầm quan trọng của lĩnh vực dịch vụ.
-Đa ra thực trạng ngành dịch vụ ở Trung Quốc và bài học kinh nghiệm của Trung Quốc
trong việc phát triển lĩnh vực dịch vụ.
-Đa ra cách đánh giá sát thực về thời cơ và những thách thức khi phát triển ngành dịch vụ
ở Việt Nam đồng thời đề xuất những kiến nghị có tính chất định hớng nhằm cải thiện môi
trờng pháp lý, phát triển ngành công nghệ dịch vụ ở Việt Nam
7.Kết cấu của đề tài:
Ngoài phần Mở đầu, Kết luận và Tài liệu tham khảo, Khoá luận tốt nghiệp có 4 chơng:
Chơng1: Tổng quan về ngành dịch vụ và sự phát triển của ngành dịch vụ
Chơng 2: Phát triển dịch vụ ở Trung Quốc bài học kinh nghiệm đối với Việt Nam.
Chơng 3: Thực trạng ngành dịch vụ ở Việt Nam
Chơng 4: Một số giải pháp phát triển ngành dịch vụ ở Việt Nam


2


Chơng 1
Tổng quan về ngành dịch vụ và
sự phát triển của ngành dịch vụ
1.1.Khái niệm, đặc điểm của dịch vụ

Theo Các Mác, dịch vụ là con đẻ của nền kinh tế sản xuất hàng hoá nên dịch
vụ với t cách là sản phẩm cũng là một loại hàng hoá và có thể hiểu dịch vụ là giá trị
và giá trị sử dụng.
Vào những thập niên 1930 của thế kỷ XX, Allan Fisher và Collin Clark là
những ngời đầu tiên đề xuất chia nền kinh tế thành 3 lĩnh vực: lĩnh vực một bao
gồm nông nghiệp, lâm nghiệp, thuỷ sản, lĩnh vực hai bao gồm công nghiệp, và lĩnh
vực ba là những hoạt động kinh tế đặc biệt không đợc liệt kê vào lĩnh vực một và
lĩnh vực hai. Nh vậy ngay cả đến tên gọi của lĩnh vực dịch vụ cũng còn cha xuất
hiện và ngời ta chỉ hiểu nó nh là một phần dôi ra của nền kinh tế khi mà lĩnh vực
sản xuất chế tạo đợc hiểu nh nền tảng của toàn bộ nền kinh tế nói chung.
Năm 1977, khi vai trò của ngành dịch vụ ngày càng tăng và nhu cầu dịch vụ
trở nên nhiều hơn, T.P. Hill đã cố gắng đa ra định nghĩa về dịch vụ nh sau Dịch vụ
là sự thay đổi về điều kiện hay trạng thái của ngời hay hàng hoá thuộc về sở hữu
của một chủ thể kinh tế nào đó do sự tác động của chủ thể kinh tế khác với sự đồng
ý trớc của ngời hay chủ thể kinh tế ban đầu. Song định nghĩa này còn nhiều thiếu
sót và cha đáp ứng đợc tính chất trừu tợng và sự vận động không ngừng của lĩnh vực
dịch vụ.
Cho đến nay cha có một định nghĩa về dịch vụ đợc chấp nhận trên phạm vi
toàn cầu. Tính vô hình và khó nắm bắt của dịch vụ, sự đa dạng, phức tạp của các
loại hình dịch vụ làm cho việc định nghĩa dịch vụ trở nên khó khăn. Hơn nữa, các
quốc gia khác nhau có cách hiểu về dịch vụ không giống nhau, phụ thuộc vào trình

độ phát triển kinh tế của mỗi quốc gia.
Trong việc đa ra khái niệm dịch vụ, có một số quan điểm sau:
-Theo Pocket Oxford Dictionary công nghệ dịch vụ đợc định nghĩa là ngành
cung cấp thứ gì đó vô hình dạng để phân biệt ngành công nghệ sản xuất là
3


ngành cung cấp các loại hàng hoá cụ thể sờ thấy đợc
-Theo nghĩa rộng: dịch vụ bao gồm tất cả các hoạt động mà kết quả của nó thể
hiện dới dạng vật chất. Các hoạt động dịch vụ bao gồm tất cả các lĩnh vực ở mức độ
cao, có tác động tới sự phát triển kinh tế - xã hội của toàn bộ hoặc một quốc gia
hoặc vùng. Các hoạt động này không chỉ hạn chế trong một lĩnh vực cụ thể nh giao
thông, du lịch, thơng mại, ngân hàng bu chính viễn thông, bảo hiểm mà còn bao
gồm cả môi trờng, văn hoá, hành chính, t vấn pháp lý và t vấn tình cảm.
-Theo nghĩa hẹp: dịch vụ bao gồm việc làm việc cho một ngời khác hoặc một
cộng đồng nhằm làm thoả mãn một số nhu cầu của con ngòi nh đi lại, cung cấp nớc,
sửa chữa và bảo dỡng máy móc, thiết bị hoặc các công trình.
-GATS đa ra khái niệm Dịch vụ bằng cách liệt kê dịch vụ thành 12 ngành lớn
và 155 phân ngành khác nhau.
Nhng chúng ta có thể hiểu dịch vụ bằng cách tìm ra các đặc điểm nổi bật và
khác biệt của dịch vụ so với hàng hoá. Có bốn đặc điểm nổi bật sau:
Thứ nhất, dịch vụ mang tính vô hình. Tính vô hình của dịch vụ thể hiện ở chỗ
dịch vụ là những thứ mà khi đem bán không thể rơi vào chân bạn 1. Quá trình sản
xuất hàng hóa tạo ra những sản phẩm hữu hình có tính chất cơ, lý, hoá học,... nhất
định, có tiêu chuẩn về kỹ thuật cụ thể và do đó có thể sản xuất theo tiêu chuẩn hóa.
Khác với hàng hóa, sản phẩm dịch vụ không tồn tại dới dạng vật chất bằng những
vật phẩm cụ thể, không nhìn thấy đợc và do đó không thể xác định chất lợng dịch
vụ trực tiếp bằng những chỉ tiêu kỹ thuật đợc lợng hóa.
Thứ hai, quá trình sản xuất (cung ứng) dịch vụ và tiêu dùng dịch vụ xảy ra
đồng thời. Trong nền kinh tế hàng hóa, sản xuất hàng hóa tách khỏi lu thông và tiêu

dùng. Do đó hàng hóa có thể đợc lu kho để dự trữ, có thể vận chuyển đi nơi khác
theo nhu cầu của thị trờng. Khác với hàng hóa, quá trình cung ứng dịch vụ gắn liền
với tiêu dùng dịch vụ. Thí dụ với dịch vụ t vấn đầu t, khi chuyên gia về đầu t t vấn
khách hàng cũng là lúc khách hàng tiếp nhận và tiêu dùng xong dịch vụ t vấn do
ngời chuyên gia này cung ứng.
Thứ ba, không thể lu trữ đợc dịch vụ. Sự khác biệt này là do sản xuất và tiêu dùng dịch
1

Liberalizing international Transactions in Services, tr.1

4


vụ diễn ra đồng thời nên không thể sản xuất dịch vụ hàng loạt và lu giữ trong kho sau đó mới
tiêu dùng.
Thứ t, dịch vụ có tính đa chủng: tính đa chủng của dịch vụ có nghĩa là mỗi sản phẩm
dịch vụ đều khác với những sản phẩm dịch vụ đợc tạo ra trớc đó. Điều này xảy ra khi quy
trình sản xuất cho mỗi khách hàng đều khác nhau vì mỗi khách hàng phản ứng hay hoạt động
theo một cách riêng, mỗi tơng tác giữa khách hàng và ngời cung cấp dịch vụ trong một chừng
mực nào đó là độc nhất. Đây là kết quả của tính giao tiếp cao với khách hàng của sản phẩm
dịch vụ.
Hộp 1. Ví dụ về sự tơng phản của ngành hoạt động dịch vụ
và hoạt động sản xuất
Các hoạt động sản xuất
Hàng hoá gởi đến khách hàng
Khách hàng

Tiền sảnh
Bán hàng và tiếp
thị


Hậu đờng
Sản xuất
Các hoạt động
điều hành

Các hoạt động dịch vụ
Khách hàng
nghiệp

đến

doanh Tiền sảnh

Khách hàng

Hậu đờng

Tiếp thị
Hoạt động điều
Hoạt động điều hành
hành

Dịch vụ đến khách hàng

Vậy ta có thể đi đến kết luận về khái niệm dịch vụ nh sau:
Dịch vụ là những hoạt động mang tính xã hội, tạo ra các sản phẩm hàng hóa không tồn
tại dới hình thái vật thể, nhằm thoả mãn kịp thời, thuận lợi và hiệu quả hơn các nhu cầu trong
sản xuất và đời sống con ngời.
1.2. Các loại hình dịch vụ

Có nhiều cách phân loại dịch vụ đã đợc đa ra. Những cách này có những góc nhìn khác
nhau về loại dịch vụ đợc cung cấp và xác định những tơng đồng hay khác biệt đợc sử dụng
trong việc phân loại các dịch vụ. Điều này có ý nghĩa quan trọng trong việc đánh giá hiệu
quả của ngành dịch vụ theo những tiêu chí cụ thể.
*GATT chia dịch vụ làm 12 phân ngành lớn là: dịch vụ kinh doanh, dịch vụ liên lạc,
dịch vụ xây dựng và thi công, dịch vụ phân phối, dịch vụ giáo dục, dịch vụ môi trờng, dịch
vụ tài chính, dịch vụ liên quan đến sức khoẻ và dịch vụ xã hội, các dịch vụ giải trí và thể
thao, dịch vụ vận tải, dịch vụ khác.
5


*Văn phòng đánh giá kỹ thuật ở Washington D.C đa ra một trong những cách phân loại
đơn giản nhất nh sau:
Hộp 2. Phân loại các dịch vụ của Văn phòng Đánh giá Kỹ thuật ở Washington
Dịch vụ cho ngời Dịch vụ tài chính: Ngân hàng, bảo hiểm, cho thuê tài
sản xuất
chính
Vận chuyển và phân phối: Biển, đờng sắt, xe tải, hàng không,
buôn sỉ, kho vận, phân phối
Công nghiệp và kỹ thuật: Hợp đồng đặc quyền và bán buôn,
dịch vụ thiết kế máy, thiết kế kiến trúc, đấu thầu xây dựng,
những dịch vụ quản lý khác, kế toán
Những dịch vụ trung gian khác: vi tính, xử lý dữ liệu, truyền
thông, quảng cáo, địa ốc, du lịch, an ninh, bu phẩm
Dịch vụ cho khách
Buôn lẻ
Chăm sóc y tế
hàng
Du lịch, giải trí
Giáo dục

Những dịch vụ xã hội khác (bao gồm cả dịch vụ công)
Những dịch vụ cá nhân khác (nhà hàng, tiệm giặt,)
*Cán cân thanh toán của Việt Nam hiện có 6 loại dịch vụ là: vận tải đờng biển và đờng
hàng không, bảo hiểm, bu chính viễn thông, ngân hàng, du lịch, và dịch vụ khác.
*Theo tiêu chí phân loại của Riddle ghi nhận những ngành dịch vụ với vai trò là yếu tố
đầu vào quan trọng cho xuất khẩu hàng hoá và dịch vụ hớng tới mục tiêu tăng trởng kinh tế
nhanh thì ngành dịch vụ bao gồm:
-Những ngành dịch vụ truyền thống (dịch vụ hạ tầng cơ sở) nh giao thông vận tải, tài
chính, bảo hiểm đóng vai trò làm những nhân tố đầu vào hỗ trợ chính thức cho kinh
doanh.

-Những ngành dịch vụ gắn liền với công nghệ hiện đại có tác động mạnh đến sự
tăng trởng kinh tế hiện nay là : dịch vụ viễn thông, dịch vụ hỗ trợ kinh doanh và
dịch vụ nghề nghiệp, dịch vụ vi tính, dịch vụ giáo dục đào tạo.
1.3.Tính tất yếu của sự chuyển dịch cơ cấu kinh tế theo hớng phát triển ngành dịch vụ

Các xã hội sơ khai sống nhờ canh tác sinh tồn và đổi hàng lấy hàng đều
không có nhu cầu, hoặc rất ít cho dịch vụ. Trong nền kinh tế tự cung tự cấp hoạt
động dịch vụ thờng mang tính tự phát, các hoạt động dịch vụ chỉ là hoạt động tự
phục vụ. Dịch vụ hỗ trợ sản xuất còn ở mức sơ khai, dịch vụ cho nhu cầu cá nhân đợc thực hiện chủ yếu trong phạm vi gia đình. Khi nền kinh tế hàng hóa ra đời và
6


phát triển mạnh, đòi hỏi một sự lu thông trôi chảy, thông suốt liên tục để thoả mãn
nhu cầu ngày càng gia tăng của con ngời thì dịch vụ phát triển. Và đặc biệt từ khi
có cuộc cách mạng công nghiệp thì nhu cầu dịch vụ phát triển và mở rộng rất
nhanh. Ví dụ, quá trình công nghiệp hoá và chuyên môn hoá xã hội làm nảy sinh
nhu cầu cho dịch vụ vận chuyển. Tiếp theo đó là các nhu cầu về dịch vụ tài chính và
bảo hiểm ,... ra đời.
Thông thờng các quốc gia trên thế giới trải qua các giai đoạn thăng tiến phát triển sau:


-Giai đoạn l: Nông nghiệp - Công nghiệp - Dịch vụ
-Giai đoạn 2: Công nghiệp - Nông nghiệp - Dịch vụ
-Giai đoạn 3: Công nghiệp - Dịch vụ - Nông nghiệp
-Giai đoạn 4: Dịch vụ - Công nghiệp - Nông nghiệp
Xu thế chung của cơ cấu kinh tế của các quốc gia trên thế giới là tỷ trọng ngành nông
nghiệp không ngừng thu nhỏ lại, tỷ trọng ngành công nghiệp từ mở rộng đi đến thu nhỏ, tỷ
trọng ngành dịch vụ thì không ngừng mở rộng. Nh vậy, tỷ trọng những ngành kinh tế sản xuất
vật chất nh công nghiệp, nông nghiệp ngày càng thấp trong khi tỷ trọng của những ngành kinh
tế dịch vụ ngày càng cao. Nhng xu thế đó không phải là tuyệt đối và vô hạn mà là tơng đối
và có điều kiện:
-Việc giảm tỷ trọng nông nghiệp và công nghiệp phải có tiền đề là năng suất lao động
những ngành kinh tế sản xuất vật chất đợc nâng cao mạnh mẽ nhằm phục vụ xã hội công
nghiệp phát triển, có thể đảm bảo những nhu cầu sống cơ bản của con ngời với chất lợng cao.
-Tỷ trọng ngành dịch vụ nâng cao phải đợc xây dựng trên cơ sở một nền kinh tế sản
xuất vật chất phát triển mạnh
Trong giai đoạn phát triển đầu tiên của nền kinh tế, năng lực sáng tạo cái mới của khoa
học kỹ thuật là có hạn và sự đóng góp của kỹ thuật trong quá trình sản xuất xã hội ở vào thời kỳ
đó chỉ giữ vai trò thứ yếu. Sự đóng góp của các yếu tố tài nguyên thiên nhiên, vốn, sức lao
động, ... là nguồn gốc tăng trởng kinh tế. Những yếu tố này trở thành những yếu tố đầu vào
quan trọng cho ngành công nghiệp và nông nghiệp là những ngành lấy sản phẩm trực tiếp từ
tự nhiên và chế biến sản phẩm tự nhiên. Do vậy, trong những giai đoạn đầu ngành chủ đạo
hay trụ cột của sự phát triển kinh tế là nông nghiệp và công nghiệp. Cùng với sự phát triển của
sức sản xuất, việc tăng cờng đầu t vào nghiên cứu phát triển khoa học, tổ chức quản lý, vận
hành,... ngày càng đợc chú trọng và nâng cao cha từng thấy trong quá trình sản xuất, công cụ
lao động và đối tợng lao động đã thay đổi nội dung truyền thống của nó, hàm lợng khoa học kỹ
7


thuật, công nghệ và thông tin tăng lên rất nhiều, tính di chuyển của sức sản xuất mạnh. Thích

ứng với xức sản xuất có hàm lợng thông tin cao và có tính di chuyển mạnh, phơng thức tổ chức
và cơ cấu của nền kinh tế cũng nảy sinh những thay đổi tơng ứng, đầu vào của các yếu tố
sản xuất và sự phân bổ các ngành nghề này càng nghiêng về các ngành công nghệ mới và
ngành dịch vụ, khiến cho tỷ trọng của các ngành nghề đó trong cơ cấu kinh tế tăng lên vô cùng
mạnh mẽ.
Nh vậy, sự mở rộng ngành dịch vụ phải đợc xây dựng trên cơ sở nâng cao năng suất lao
động của lĩnh vực sản xuất vật chất. Năng suất lao động tơng đối cao của công nghiệp và
nông nghiệp, dùng một số lợng lao động hạn chế nào đó để làm ra nhiều sản phẩm đã tạo cho
sự phát triển của ngành dịch vụ có một cơ sở vững chắc, thu hút mạnh mẽ sức lao động từ lĩnh
vực công nghiệp và nông nghiệp di chuyển đến, tăng nhanh tốc độ phát triển của nó cũng nh
tăng tỷ trọng của nó trong nền kinh tế quốc dân. Nh vậy, những biến động về cơ cấu kinh tế
hình thành do các ngành trực tiếp sản xuất vật chất giải phóng vốn và sức lao động, còn
ngành dịch vụ thì không ngừng thu hút ngời và vốn mới khiến tỷ trọng của ngành dịch vụ tăng
lên. Nhờ khả năng cung cấp và phục vụ nên nó có tác động ngợc trở lại lĩnh vực sản xuất vật
chất, thúc đẩy các ngành công nghiệp và nông nghiệp phát triển cao về chất, tăng mạnh về lợng, làm cho lĩnh vực sản xuất vật chất ngày càng hiện đại hoá.
Trớc chiến tranh thế giới thứ II, các nớc phát triển trên thế giới về cơ bản đã hoàn thành
quá trình phi nông nghiệp hoá và công nghiệp hoá cơ cấu ngành khiến tỷ trọng của ngành
nông nghiệp giảm và tỷ trọng của ngành công nghiệp tăng.
Sau chiến tranh thế giới thứ hai, do sự phát triển của cuộc Cách mạng Khoa học - Công
nghệ, cơ cấu ngành ở các nớc công nghiệp phát triển lại xuất hiện xu thế biến động mới. Tỷ
trọng lao động trực tiếp sản xuất trong nội bộ các ngành giảm, tỷ trọng lao động trí óc, phục vụ
điều tra tỷ trọng, triển khai kỹ thuật, phỏng vấn, quảng cáo,... tăng khiến tỷ trọng giữa các
ngành nghiêng về dịch vụ và ngành dịch vụ đợc trang bị kỹ thuật cao và lợng thông tin lớn có
vai trò ngày càng tăng trong nền kinh tế quốc dân. Hiện nay, ngành dịch vụ đã trở thành
lĩnh vực vô cùng quan trọng có giá trị sản phẩm cao nhất và tạo nhiều công ăn việc làm nhất.
Hoạt động của dịch vụ không chỉ đợc coi nh là chất kết dính và xúc tác mà còn đợc
xem nh là đòn bẩy tạo bớc đột phá cho nền kinh tế, đặc biệt là trong thời đại chuyển sang
nền kinh tế tri thức. ở một số nớc đang phát triển, các ngành dịch vụ hiện đại rất kém phát
triển, không những thế, họ còn xem trọng sản xuất hơn dịch vụ và có xu hớng tập trung các
nguồn lực cho sản xuất, kể cả các nguồn lực bên ngoài. Sản xuất là quan trọng và không ai phủ

nhận vai trò của nó nhng tầm quan trọng của nó không thể lấn át dịch vụ. Nếu ta tập trung
đầu t vào sản xuất thép, xi măng nhng không đầu t thích đáng vào các dịch vụ tài chính,
8


ngân hàng, bảo hiểm, t vấn thì sản xuất thép, xi măng sẽ rơi vào tình trạng chi phí cao,
chất lợng thấp, thiếu thị trờng Một nhà đầu t nớc ngoài khi đầu t vào sản xuất thì khi họ
bí, cần t vấn không có, cần vay vốn lại khó khăn, cần bảo hiểm lại quá phức tạp, cần liên lạc
viễn thông lại quá đắt Do vậy, nhà đầu t nớc ngoài sẽ nản lòng và từ bỏ ý định đầu t vào
nớc đó. Môi trờng dịch vụ hoạt động kém là một trở ngại lớn đối với nhà đầu t từ các nớc phát
triển vì họ đang quen với môi trờng đầu t có hoạt động dịch vụ rất tốt.

Nhằm đáp ứng sự phát triển nhảy vọt của sức sản xuất cũng nh sức tiêu dùng
của xã hội, hệ thống dịch vụ không còn thụ động nh trớc đây mà phát triển một
cách chủ động và tích cực. Tính linh hoạt và năng động của cơ chế thị tr ờng đã làm
thay đổi các hoạt động dịch vụ truyền thống, đồng thời làm nảy sinh nhiều loại hình
dịch vụ mới. Cơ chế thị trờng cũng đặt tất cả các hoạt động dịch vụ vào môi trờng
cạnh tranh sôi động, khiến các ngành kinh tế dịch vụ phát triển nhanh chóng cả bề
rộng lẫn chiều sâu, trên cơ sở cải tiến kỹ thuật và phong cách phục vụ văn minh.
Nếu nh trớc đây, sự phân biệt rạch ròi giữa ba ngành là tơng đối rõ ràng thì
ngày nay ranh giới giữa chúng ngày càng mờ nhạt. Đó là vì nền sản xuất hiện đại
với hiệu quả kinh tế cao, đã chú ý nhiều đến việc sáng tạo ra cái mới, chất lợng và
mạo hiểm, những hoạt động dịch vụ thích ứng với điều đó nh nghiên cứu khoa học,
đào tạo, điều tra, nghiên cứu, tăng lên, một số hoạt động hình thành nên những
ngành nghề mới độc lập, một số nằm trong nội bộ ngành hay xí nghiệp, những
mạng lới dịch vụ thông tin nhiều tầng nấc đó không đơn thuần là đối tợng dịch vụ,
phơng thức và nội dung dịch vụ nữa thờng rất khó phân biệt chúng thuộc ngành nào.
Lại thêm cách kinh doanh kiểu nhà máy của nông nghiệp và dịch vụ cùng phơng
châm đa dạng hoá kinh doanh của các công ty khiến ranh giới giữa các ngành ngày
càng lu mờ. Ví dụ, trong phân loại tiêu chuẩn ngành nghề ở Mỹ, các ngành cấp nớc,

điện, khí đốt ban đầu thuộc công nghiệp, sau chuyển thành dịch vụ,
Tầm quan trọng của khu vực dịch vụ tại bất cứ quốc gia nào đều một phần tuỳ thuộc vào
giai đoạn phát triển kinh tế đơng thời. Tuy nhiên, ở các quốc gia khác nhau, trình tự về quá
trình chuyển dịch cơ cấu kinh tế không nhất thiết phải lần lợt trải qua từng giai đoạn nêu trên.
Thực tế cho thấy nhiều nớc đã bỏ qua hoặc đi xuyên qua một hay hai giai đoạn và họ đã thành
công. Đó là các nớc Singapore, Hàn Quốc, Thái Lan. Ngày nay, nhiều nớc đã đặt ngành dịch
vụ vào vị trí hàng đầu, là mũi nhọn trong chiến lợc phát triển kinh tế - xã hội của mình.
1.4. Vai trò và tầm quan trọng của ngành dịch vụ trong nền kinh tế hiện đại
9


Phát triển và nâng cao chất lợng các ngành dịch vụ trớc hết nhằm đáp ứng nhu cầu của
xã hội, trực tiếp góp phần nâng cao chất lợng cuộc sống dân c. Khi mức thu nhập, mức sống
càng cao, nhu cầu về các loại dịch vụ của dân c càng lớn. Phát triển dịch vụ còn nhằm nâng
cao hiệu quả của sản xuất kinh doanh.
Quá trình toàn cầu hóa các thị trờng thế giới hiện nay chủ yếu xuất phát từ quá trình
quốc tế hóa ngành dịch vụ. Mặc dù đối với các nhà hoạch định chính sách, dịch vụ mang
tính vô hình nhng nó lại đóng vai trò hết sức quan trọng để thúc đẩy mọi mặt của hoạt
động của nền kinh tế.
-Tăng trởng của ngành dịch vụ vẫn tiếp tục dẫn đầu trong nền kinh tế.
Một phần là do công nghệ thông tin và viễn thông phát triển nhanh chóng hỗ trợ cho cung
ứng dịch vụ. Xét từ khía cạnh môi trờng, dịch vụ đợc coi là ngành công nghiệp sạch. Nhiều
doanh nghiệp kinh doanh dịch vụ không cần lợng vốn ban đầu quá lớn và vì vậy kể cả cá
nhân với số vốn không nhiều cũng có thể thành lập doanh nghiệp cung ứng dịch vụ. Đi đôi với
việc đảm bảo đáp ứng kịp nhu cầu dịch vụ ngày càng lớn, các doanh nghiệp cung cấp dịch
vụ cũng góp phần chính yếu tạo công ăn việc làm mới - hơn 90% việc làm mới trên toàn cầu,
kể từ giữa thập kỷ 90 của thế kỷ XX là từ khu vực dịch vụ. Tại nhiều quốc gia trên thế giới,
nhất là các quốc gia phát triển, tỷ trọng lao động trong các ngành dịch vụ so với toàn bộ lực lợng
lao động chiếm khoảng 60 - 70%. Chẳng hạn tính đến cuối năm 2002, ngành du lịch tạo và
việc làm cho khoảng 204 triệu lao động trên toàn thế giới, chiếm 10,6% lực lợng lao động thế

giới. Đóng vai trò đặc biệt quan trọng trong các nền kinh tế đang phát triển, các công ty dịch
vụ đã tạo ra việc làm phù hợp cho những sinh viên tốt nghiệp đại học (nhờ đó ngăn chặn tình
trạng chảy máu chất xám ở những nớc kém phát triển) đồng thời cho cả những ngời chỉ mới tốt
nghiệp phổ thông vốn rất khó tìm đợc việc làm, nhất là phụ nữ.
Ngay cả ở những nớc kém phát triển nhất, các ngành dịch vụ cũng đóng góp không dới
35% tổng sản phẩm quốc nội (GDP) và trung bình trên 50% ở hầu hết các nớc. Nhiều nền kinh
tế xem qua tởng là sản xuất nhng thực ra dịch vụ mới là ngành chủ đạo, bởi giá trị mà nó tạo ra
chiếm tới hơn một nửa GDP, nh ở các nớc phát triển bình quân ngành dịch vụ chiếm 72%
GDP: Đức (72%), Hồng Kông (89%), Singapore (72%) và Mỹ (76%). Hơn nữa, kể cả trong sản
xuất hàng hóa, các đầu vào dịch vụ cũng chiếm phần lớn trong trị giá gia tăng (tới 70%).
-Tổng tỷ trọng và giá trị thơng mại dịch vụ quốc tế ngày càng tăng
Đến năm 1996, thơng mại dịch vụ thế giới đã vợt qua con số 1,3 nghìn tỷ USD với tốc độ
tăng trởng trung bình hàng năm bằng hoặc cao hơn tốc độ tăng của thơng mại hàng hóa. Tổng
giá trị thơng mại dịch vụ những năm đầu thế kỷ 21 đã tăng gấp 4 lần so với tổng giá trị th ơng
mại dịch vụ năm 1980. Giá trị thơng mại dịch vụ năm 2002 đạt 2.900 tỷ USD, chiếm 20% tổng
giá trị thơng mại thế giới. Tính chung cả giai đoạn 1980 2002, hàng năm thơng mại dịch vụ
trên thế giới tăng trung bình 9%, cao hơn tốc độ 6% của thơng mại hàng hoá. Về đầu t, FDI
10


vào khu vực dịch vụ chiếm khoảng 24% trong tổng FDI năm 1970, đến năm 1990 chiếm
50%, đến năm 2002 tỷ lệ này tăng lên hơn 60% giá trị đầu t trực tiếp nớc ngoài và đạt bình
quân 500 tỷ USD/năm trong giai đoạn từ năm 2000 2004. Trong khi đó FDI toàn cầu giảm
liên tục từ năm 2000 đạt 1400 tỷ, giảm 41% năm 2001, 20,5% năm 2002 và 25% năm 2003 và
chỉ phục hồi vào năm 2004 với mức 755 tỷ. Mỹ, Liên minh Châu Âu, Nhật Bản là những nớc có
sức mạnh cạnh tranh lớn trong các lĩnh vực nh tài chính, viễn thông, vận tải và các nớc này
đang tăng cờng vị trí của mình trong thơng mại dịch vụ nhiều hơn là thơng mại hàng hoá.
Thị phần trong thơng mại dịch vụ thế giới của các nớc đang phát triển và đang chuyển
đổi ngày càng tăng, trong đó tăng nhanh nhất là xuất khẩu những dịch vụ khác, nh dịch vụ
hỗ trợ kinh doanh và dịch vụ nghề nghiệp, viễn thông, xây dựng, dịch vụ tài chính, dịch vụ

văn hóa, giáo dục, y tế
*Về những lĩnh vực dịch vụ cụ thể:
Dịch vụ cơ sở hạ tầng: Những dịch vụ hạ tầng cơ sở (nh dịch vụ công ích, xây dựng,
vận tải, viễn thông, dịch vụ tài chính,...) có tác dụng hỗ trợ cho tất cả các loại hình kinh doanh.
Trong tất cả các lĩnh vực dịch vụ thì dịch vụ hạ tầng là dịch vụ đầu vào quan trọng nhất
cho toàn bộ lĩnh vực dịch vụ và tổng thể nền kinh tế quốc dân. Phát triển đợc các dịch vụ hạ
tầng sẽ nâng cao đợc năng lực cạnh tranh cho các ngành dịch vụ khác và nền kinh tế.
Dịch vụ tài chính bao gồm hệ thống ngân hàng thơng mại, hệ thống ngân

hàng đầu t, các công ty bảo hiểm, các quỹ đầu t, quỹ hu trí, các thị trờng chứng
khoán xuyên quốc gia, các sàn giao dịch mua bán hàng hoá và các sản phẩm tài
chính đủ loại
Dịch vụ tài chính là huyết mạch nuôi sống và phát triển nền kinh tế, từ sản
xuất đến phân phối và tiêu thụ. Dịch vụ tài chính huy động nguồn tiền tệ nhàn rỗi
trong xã hội, chuyển dòng vốn từ nơi hiệu quả thấp đến nơi có hiệu quả cao, tạo ra
điều kiện vật chất cho mọi hoạt động của các chủ thể kinh tế, giải quyết mọi nhu
cầu về vốn, điều tiết các hoạt động kinh tế. Sự phát triển của dịch vụ tài chính thúc
đẩy nền kinh tế tăng trởng và phát triển. áp suất của huyết mạch tài chính báo hiệu
cho sức khoẻ" của nền kinh tế. ở Mỹ và một số nớc phát triển trên thế giới, hệ
thống tín dụng cho các cơ quan quản lý nhà nớc (qua việc cung ứng cho quốc
phòng, an ninh, t pháp, giáo dục, y tế), các xí nghiệp (qua việc mua bán nguyên
liệu sản xuất, trang thiết bị, dự trữ tồn kho) và t nhân (qua việc mua sắm hàng tiêu
dùng hàng ngày, xe ôtô, nhà ở, thiết bị nội thất..) đặc biệt phát triển. Nhờ chính hệ
thống tín dụng rất tốt mà nền kinh tế Mỹ mới có thể phát triển nh hiện nay. Qua
11


những chơng trình lợi ích công cộng nớc Mỹ đã phát triển mạnh nhờ sức tiêu thụ
lớn của nhà nớc. Và nhà nớc đã đợc cung cấp phơng tiện để tiêu thụ qua các hệ
thống tài chính phát hành trái phiếu và huy động tín dụng trong nhân dân. Có thể

nói là đại đa số ngời Mỹ đều vay tiền với thời hạn từ 10 năm đến 30 năm để mua
nhà ở. Đa số ngời Mỹ mua xe ôtô, tivi, tủ lạnh, máy giặt v.v đều vay tín dụng từ 2
năm đến 5 năm. Thậm chí có nhiều ngời Mỹ mua quần áo, thời trang với tiền vay từ
3 tháng đến 6 tháng. Các cửa hàng còn quảng cáo rao bán hàng tiêu dùng với khẩu
hiệu: Giao hàng ngay, chỉ trả tiền sau 3 tháng.
Các thị trờng tài chính khác trên thế giới, ít nhiều đều mô phỏng theo thị trờng tài chính Mỹ. Thêm vào đó thị trờng tài chính thế giới hoạt động không ngừng
suốt 24/24 giờ. Theo chiều quay của mặt trời, mỗi ngày thị trờng Tokyo mở cửa
hoạt động trớc tiên, rồi đến Sydney, Hong Kong, Seoul, Shanghai, Singapore, Thái
Lan, Malaysia Bombay, Moscow, Berlin, Paris, London v ợt qua Đại Tây Dơng đến Mỹ, Canada không lúc nào ngừng hoạt động.
-Dịch vụ viễn thông. Đây là một dịch vụ công cộng cơ bản cho mọi nền kinh tế, và là
xa lộ để qua đó thực hiện phần lớn những trao đổi dịch vụ. Khả năng cạnh tranh của các
nền kinh tế quốc gia phụ thuộc nhiều vào khả năng có thể truy nhập vào các mạng viễn thông
một cách nhanh chóng, dễ dàng và không quá tốn kém. Tốc độ và hiệu quả trao đổi thông tin
không chỉ ảnh hởng tới tất cả những giao dịch kinh doanh, mà mạng lới viễn thông hiện đại
cũng thúc đẩy cho ba nội dung chuyển dịch quan trọng trong cơ cấu ngành:
a) Những dịch vụ cơ bản nh y tế và giáo dục có thể đợc cung cấp dới hình thức y tế từ
xa và giáo dục từ xa, nhờ đó có thể cung cấp các dịch vụ chuyên môn có chất lợng cao tới
những vùng dân c xa xôi hẻo lánh nhất nhằm thu hẹp khoảng cách về mức sống giữa các nền
kinh tế phát triển với các nền kinh tế đang phát triển, đồng thời tạo điều kiện để dân c nông
thôn, vùng sâu, vùng xa cũng đợc sử dụng các dịch vụ.
b) Khả năng có những cơ cấu lao động phân tán (làm việc từ xa), cho phép con ngời có
thể làm việc cho những tổ chức lớn từ những cộng đồng nhỏ. Xu hớng này rất quan trọng để
duy trì và bảo vệ các cộng đồng ở vùng xa (và nhờ vậy giảm áp lực về dân số ở những vùng đô
thị lớn) thông qua tăng thêm khả năng lựa chọn việc làm.
c) Sự hình thành những hoạt động hậu văn phòng gắn với việc làm kỹ năng cao là một
giải pháp góp phần hạn chế di dân.
Hiện nay, sự liên kết giữa viễn thông với dịch vụ vi tính đã cho phép các công ty sử
12



dụng công nghệ thông tin một cách có hiệu quả để hợp tác với các đối tác chiến lợc của mình tại
một nớc khác và cung cấp dịch vụ giữa các quốc gia một cách nhanh chóng. Do quá trình tự do
hóa thơng mại dịch vụ trong khuôn khổ Hiệp định Chung về Thơng mại và Dịch vụ (GATS)
và các hiệp định tự do thơng mại khu vực, các công ty kinh doanh dịch vụ ở tất cả các nền kinh
tế đang phải đối mặt với cạnh tranh quốc tế ngày càng gia tăng. Để tồn tại và thành công trong
một nền kinh tế toàn cầu, nhu cầu thiết yếu của mọi cộng đồng kinh doanh nào là có thể
truy nhập mạng Internet với giá rẻ, tốc độ cao. Lần đầu tiên Internet đã tạo ra một sân chơi thực
sự bình đẳng cho cuộc cạnh tranh giữa các công ty cung ứng dịch vụ vừa và nhỏ thuộc những
nớc đang phát triển và các công ty cung cấp dịch vụ lớn xuyên quốc gia. Ngợc lại, vì ngày càng
có nhiều ngời tiêu dùng dịch vụ đến với Internet hơn để tìm kiếm thông tin về những dịch vụ
sẵn có trên thế giới và mua những dịch vụ ấy cho nên những công ty không có điều kiện truy
nhập hiệu quả vào mạng Internet sẽ có nguy cơ bị đào thải.
Một trong những khác biệt có tính cạnh tranh trực tiếp nhất là cớc viễn thông quốc tế, nó
rất quan trọng và thờng là đầu vào tốn kém đối với các công ty cung cấp dịch vụ. Điện thoại
Internet cho phép cung cấp những dịch vụ fax và điện thoại quốc tế với cớc phí rẻ ngang bằng
gọi nội hạt (do sử dụng tốt hơn độ rộng băng tần). Một khác biệt nữa là khả năng môi giới dịch
vụ, với khả năng này mạng Internet đang xoá bỏ nhiều chức năng trung gian (các nhà phân phối,
bán buôn, và trong một số trờng hợp thậm chí cả bán lẻ) và hỗ trợ khách hàng tự phục vụ trên
mạng. Đồng thời một loạt những hoạt động kinh doanh mới đang nổi lên (thiết kế và trang trí
trang web, cung cấp dịch vụ truy nhập Internet, thúc đẩy thơng mại điện tử, v.v..) và đây
chính là những cơ hội cạnh tranh cho các công ty của các nớc đang phát triển.
Các công ty kinh doanh dịch vụ đang tích cực sử dụng Internet để có thể dễ dàng trao
đổi với khách hàng và các đối tác chiến lợc của mình; để tìm kiếm và tham gia đấu thầu các
hợp đồng quốc tế; để nghiên cứu những thị trờng xuất khẩu mới và những thông lệ, tập quán
quốc tế phù hợp nhất; và để nâng cao năng lực của mình đối với các khách hàng tiềm năng.
Internet còn tạo động lực làm bùng nổ thơng mại điện tử trong cả các nền kinh tế phát triển
cũng nh đang phát triển. Những nghiên cứu còn cho thấy hiện tại, giá trị trao đổi về dịch vụ
qua mạng đã cao hơn 10 lần giá trị mua hàng tiêu dùng. Việc phát triển những dịch vụ chuyên
môn hóa cao đòi hỏi lợng khách hàng phải đủ lớn để đảm bảo cho mức độ chuyên môn đó.
Khả năng tiếp cận với những khách hàng tiềm năng rộng khắp trên thế giới thông qua thơng mại

điện tử với sự hỗ trợ của Internet đang giúp tạo nên lợng khách hàng quan trọng đó.
-Dịch vụ giáo dục và đào tạo cần phải sẵn có để đảm bảo đào tạo một lực lợng lao
động đủ chuyên môn. Cạnh tranh quốc tế đã chuyển từ cạnh tranh về giá cả sang chất lợng và
tính linh hoạt. Điều đó có nghĩa là nhân công trình độ thấp và giá rẻ không còn là một lợi
thế cạnh tranh nữa. Nhiều nền kinh tế phát triển đang bị hạn chế lớn do không có một đội ngũ
13


lao động tay nghề cao, do hệ thống giáo dục phần lớn chỉ cung cấp những kiến thức cũ của
chơng trình đào tạo trong nớc vốn rất hạn chế. Kết quả là làm giảm hiệu quả kinh doanh bởi
các nhà quản lý không tìm đợc ngời lao động có trình độ kỹ thuật và tay nghề đủ để đáp
ứng. Ví dụ nhân viên trong lĩnh vực dịch vụ không những phải có kỹ thuật (gồm cả khả năng
về công nghệ thông tin) mà còn phải có trình độ giao tiếp và năng lực giải quyết vấn đề.
Điều này cho phép nhân viên phục vụ khách hàng một cách hiệu quả để cung cấp dịch vụ có
chất lợng. Ngân hàng Thế giới đang thử nghiệm một cách đánh giá mới về của cải của một
quốc gia thông qua việc đo Vốn con ngời. Ngân hàng đã xác định ở những nớc thu nhập cao
nh Nhật Bản, vốn con ngời chiếm hơn 80% của tổng tài sản quốc gia.

-Dịch vụ hỗ trợ kinh doanh chuyên môn và dịch vụ nghề nghiệp hỗ trợ cho
các hoạt động kinh doanh khác. Các dịch vụ này chiếm một vị trí quan trọng
trong hạ tầng cơ sở dịch vụ của bất kỳ một nền kinh tế nào và là dịch vụ đầu
vào cho tất cả các ngành công nghiệp, sản xuất hàng hóa và dịch vụ. Giá trị
sản lợng DVHTPTKD và dịch vụ nghề nghiệp chuyên môn ớc tính chiếm 3.000
tỷ USD trong năm 2001 hay xấp xỉ 10% tổng GDP toàn cầu. Xuất khẩu
DVHTPTKD và dịch vụ chuyên môn trong năm 2001 ớc đạt 733,6 tỷ USD
(IMF - BOP data), chiếm 24% tổng sản phẩm toàn thế giới. Những nớc đang
phát triển chiếm xấp xỉ 1/4 giá trị kim ngạch xuất khẩu DVHTPTKD và dịch
vụ chuyên môn. Từ năm 1990, tăng trởng trong xuất khẩu DVHTPTKD từ
những nớc đang phát triển đạt tốc độ tăng nhanh hơn 50% so với mức tăng
của những nền kinh tế thị trờng phát triển (khoảng 10.5% trung bình 1 năm

so với 6.5%/năm).
Trong các nền kinh tế đang phát triển, trung bình có ít nhất một phần ba của giá
trị đầu vào mà các doanh nghiệp mua là những dịch vụ nh hạch toán kế toán, luật pháp,
bảo hiểm, nghiên cứu, thiết kế, marketing, vận tải, bu điện và điện nớc. Chất lợng và
mức độ sẵn có của chúng tác động tới khả năng tăng trởng và cạnh tranh trong xuất khẩu
của các ngành công nghiệp trong nớc có sử dụng đến những dịch vụ này, và ảnh hởng
đến khả năng thu hút đầu t vào nớc đó. Dịch vụ hỗ trợ kinh doanh giúp các doanh nghiệp
đặc biệt là các doanh nghiệp vừa và nhỏ tăng trởng nhờ tạo cơ hội cho họ ký hợp đồng
nhận hỗ trợ chuyên môn. Nếu thiếu các dịch vụ hỗ trợ kinh doanh, các doanh nghiệp vừa
và nhỏ phải tăng chi phí hành chính để tuyển thêm nhân viên mới (mà những ng ời này
thờng chỉ biết chung chung chứ không có chuyên môn) hoặc nếu không sẽ tiến hành
14


kinh doanh và bỏ qua những khâu này.

Chơng 2.
Phát triển dịch vụ ở Trung Quốc
- bài học kinh nghiệm đối với Việt Nam

Trung Quốc mặc dù cha thực sự trở thành một nớc phát triển và còn đang tiến hành
quá trình CNH,HĐH, nhng với những tiềm năng kinh tế to lớn cùng với những thành tựu kinh
tế vợt trội từ sau cải cách kinh tế ở Trung Quốc thì việc học tập kinh nghiệm phát triển
dịch vụ của Trung Quốc,một quốc gia láng giềng có nhiều điểm tơng đồng về kinh tế,
chính trị, xã hội với Việt Nam, là điều hết sức cần thiết trong bối cảnh hiện nay.
2.1.Chuyển dịch cơ cấu kinh tế theo hớng CNH, HĐH - tiền đề phát triển ngành dịch vụ
hiện đại ở Trung Quốc
Qua mô hình phát triển kinh tế của nhiều nớc, có một nhận định chung đợc đa ra là : sự
thay đổi cơ cấu ngành tuỳ thuộc vào diễn biến thay đổi của hai loại yếu tố là mức thu nhập
bình quân đầu ngời và cơ cấu của các yếu tố đầu vào (nh tiền vốn, lao động, tài nguyên).

Thu nhập tăng làm cho cơ cấu nhu cầu thay đổi tơng đối thống nhất, điều này đa đến sự
thay đổi của cung cấp dẫn đến sự thay đổi trong thơng mại và kỹ thuật.
Từ sau khi cải cách mở cửa, kinh tế Trung Quốc bớc vào giai đoạn CNH toàn diện, cơ cấu
ngành đã có sự thay đổi rõ rệt. Những thay đổi này vừa tuân theo các quy luật chung của
CNH lại vừa có những đặc điểm riêng của Trung Quốc.
Trong thời kỳ 1978-1992, khu vực II (các ngành chế tạo, chế biến,) với công nghiệp
làm chủ thể có tốc độ tăng trởng bình quân năm đạt 10,7% tăng gấp đôi so với tốc độ tăng trởng bình quân năm của khu vực I (nông nghiệp và khai mỏ). Theo giá so sánh, tỷ lệ khu vực II
trong GDP tăng từ 48,6% năm 1978 lên 60,9% năm 1992. Trong thời gian này, tỷ lệ của công
nghiệp trong GDP tăng từ 44,8% lên 56,2%. Chính sự thay đổi này làm cho mức độ CNH đợc
nâng cao rõ rệt. Trong khi tỷ trọng của khu vực II trong GDP tăng nhanh thì tỷ trọng khu vực I
trong GDP lại giảm rõ rệt, mức giảm là từ 28,4% xuống còn 17,3% trong vòng 14 năm. Sự thay
đổi mạnh trong cơ cấu đợc xem là nguồn gốc chủ yếu làm cho kinh tế tăng trởng với nhịp độ
15


cao.
Thay đổi trong phân bố lao động giữa các ngành cũng phần nào nói lên sự thay đổi cơ
cấu kinh tế. Trong 14 năm (1978-1992), tỷ lệ lao động làm việc trong khu vực I trong tổng lao
động xã hội giảm 12% (từ 70% giảm xuống 58,5%). Trong khi đó, mức tơng ứng ở khu vực III
(các ngành dịch vụ) tăng 8% (từ 12,1% lên 19,8%). Những biến đổi cơ cấu trên đây đợc xem
là những xu thế có biểu hiện thống nhất với quy luật chung về CNH ở nhiều nớc trên thế giới.
Các lý thuyết về CNH chỉ ra vấn đề mang tính quy luật là :
-Trong quá trình CNH, sự thay đổi cơ cấu nhu cầu biểu hiện là nhu cầu tiêu dùng về
thực phẩm có xu hớng giảm tơng đơi, nhu cầu về hàng công nghiệp, vui chơi, giải trí, tăng
lên mở đờng cho những ngành dịch vụ hiện đại phát triển.
-Thu nhập càng tăng thì mức đầu t cũng tăng.
Chi phí tiêu dùng của c dân Trung Quốc từ thập kỷ 80 cho thấy, từ cuối kế hoạch 5 năm
lần thứ 6 (1981-1985), đặc biệt là từ sau vụ thu hoạch kỷ lục năm 1984, đã bắt đầu xuất
hiện hiện tợng tiêu dùng lơng thực giảm tơng đối trong khi nhu cầu đối với hàng công nghiệp
tăng lên rất nhanh. Mặt khác, tỷ lệ tích luỹ và tỷ lệ đầu t của Trung Quốc luôn cao hơn so với

các nớc có cùng mức thu nhập. Từ đầu thập kỷ 90, gia tăng đầu t thể hiện rõ hơn là một đặc
trng nổi bật trong phát triển kinh tế của Trung Quốc. Tình trạng căng thẳng về năng lợng,
nguyên vật liệu, cũng nh về giao thông vận tải xảy ra ở Trung Quốc trong nửa cuối thập kỷ 80
(dẫn đến lạm phát cao trong thời kỳ 1988 1989) và đầu thập kỷ 90 đã phản ánh rõ ràng về
tình trạng gia tăng nhu cầu hàng công nghiệp và tăng nhanh đầu t.
Từ đầu thập kỷ 90, Trung Quốc một mặt chủ trơng đẩy mạnh các chơng trình xoá đói
giảm nghèo, mặt khác khuyến khích đầu t vào các khu vực miền Trung và miền Tây,
khuyến khích đầu t của các công ty đa quốc gia lớn, có kỹ thuật tiên tiến của Trung Quốc.
Điều này càng thúc đẩy tăng tiêu dùng hàng công nghiệp, đặc biệt là các mặt hàng mới, có
kỹ thuật cao, tiên tiến.
Tất cả các nhân tố trên đều làm cho nhu cầu về sản phẩm công nghiệp tăng nhanh, do
đó thúc đẩy công nghiệp phát triển mạnh, nâng cao tỷ trọng của công nghiệp trong nền kinh
tế quốc dân. Đồng thời với sự phát triển các ngành công nghiệp, quá trình đô thị hoá diễn ra
đồng thời với CNH sẽ thúc đẩy các ngành dịch vụ phát triển mạnh, do vậy tỷ trọng các khu vực
II và III trong tổng sản phẩm xã hội tiếp tục tăng nhanh trong khi tỷ trọng của khu vực I tiếp
tục giảm mạnh.
Nếu nh ngành nông nghiệp của Trung Quốc có vai trò thay đổi nhanh qua các giai đoạn
khác nhau. Tỷ trọng của nông nghiệp giảm dần và sự phát triển của nông nghiệp dựa nhiều
16


vào sự phát triển của công nghiệp để nhận đợc ngành càng nhiều hơn đầu t trung gian, đặc
biệt là về kỹ thuật và vốn. Công nghiệp một mặt cung cấp các yếu tố vật chất đầu vào cho
phát triển nông nghiệp, mặt khác lại trực tiếp hay gián tiếp thu hút lao động d thừa từ nông
nghiệp. Những tác động từ phía công nghiệp nh trên là con đờng tăng thu nhập cho nông dân
rất có hiệu quả và cũng là điều kiện để phát triển nông nghiệp lâu dài. Công nghiệp là
một ngành lớn, do vậy, vừa phải có mối quan hệ hợp lý bên trong các ngành công nghiệp. Chỉ
khi nào các ngành chế tạo, chế biến, xây dựng phát triển thì các ngành dịch vụ mới tránh
đợc sự phồn vinh giả tạo. Chỉ khi khu vực II cung cấp nhiều sản phẩm thì khu vực III mới có
cơ sở vật chất để mở rộng.

Trong thập kỷ 80, công nghiệp nhẹ luôn phát triển nhanh hơn công nghiệp nặng. Từ
năm 1992, nhịp độ tăng trởng công nghiệp nặng mới bắt đầu vợt lên trên công nghiệp nhẹ.
Trong thời kỳ 1995-2000, Trung Quốc bớc vào giai đoạn phát triển công nghiệp nặng, hoá chất
với trọng điểm là công nghiệp gia công chế tạo, công nghiệp lắp ráp, vật liệu xây dựng
đáp ứng các nhu cầu củng cố, phát triển hơn nữa cơ sở hạ tầng, đặc biệt là xây dựng nhà ở
bán cho dân. kích cầu trong nớc. đồng thời, các ngành công nghiệp nhẹ và công nghiệp sản
xuất nguyên vật liệu cũng vẫn duy trì nhịp độ phát triển cao.
Sự phát triển của các ngành dịch vụ cơ sở hạ tầng giúp hoàn thiện các hoạt động kinh tế
xã hội, điều hoà thống nhất các mặt sản xuất, phân phối, trao đổi, tiêu dùng. Theo đà phát
triển của các khu vực I và II, khu vực thứ III trở nên ngày càng quan trọng chiếm tỷ trọng ngày
càng lớn trong cơ cấu ngành của nền kinh tế. Theo dự kiến, khu vực dịch vụ sẽ đóng góp 50%
GDP của Trung Quốc trong một vài thập kỷ tới so với mức 33% hiện nay.
Với nhịp độ phát triển công nghiệp và nông nghiệp hiện nay ở Trung Quốc, khu vực III
đợc hiểu rộng hơn, không chỉ bao gồm các ngành thơng mại, dịch vụ đang đứng trớc những
thách thức bị hạn chế phát triển do các trang bị cơ cấu hạ tầng còn yếu kém, các ngành tài
chính tiền tệ, ngân hàng kém phát triển và tiến trình đô thị hoá diễn ra chậm chạp.
Hiện nay, Trung Quốc chủ trơng tăng đầu t ngân sách cho phát triển cơ sở hạ tầng và
những nỗ lực gia nhập thành công WTO giúp Trung Quốc từng bớc khắc phục những hạn chế
trên, tạo điều kiện phát triển hơn nữa khu vực III.
2.2.Chính sách và biện pháp phát triển ngành dịch vụ ở Trung Quốc

Ngoài những tiền đề cần thiết tạo điều kiện cho việc hiện đại hoá và phát triển
lĩnh vực dịch vụ nh đã nêu ở mục 2.1, Trung Quốc còn phải thực thi nhiều những
biện pháp và những chính sách trong nội bộ lĩnh vực dịch vụ nhằm từng bớc đa
ngành dịch vụ lên vị thế mới nhằm tạo ra những chuyển biến cơ bản thúc đẩy tăng
17


trởng kinh tế.
2.2.1.Những chính sách phát triển lĩnh vực dịch vụ.

Năm 1995 tỷ trọng của khu vực I, II, III trong tổng giá trị sản phẩm trong nớc tơng ứng là
20,6%, 48,4% và 37,1%. So với năm 1980, tỷ trọng của khu vực I trong tổng giá trị sản phẩm
trong nớc đã giảm 9,5%. Đến năm 2000, ngành dịch vụ vẫn chỉ chiếm một tỷ trọng khiêm tốn
là 33,2% trong tổng GDP, không những thấp hơn nhiều so với các nớc phát triển phơng Tây mà
còn thấp hơn so với một số nớc đang phát triển. Về cơ cấu việc làm, tỷ trọng của khu vực I (so
với năm 1980) giảm 15,8%, chiếm 52,9%, khu vực II chiếm 23%, tăng 5,3%, khu vực III chiếm
24,1%, tăng 11,1 %. Nếu so với các nớc phát triển, tỷ trọng khu vực I của Trung Quốc là quá cao,
tỷ trọng của khu vực III của Trung Quốc là quá thấp; còn so với các nớc đang phát triển, tỷ trọng
khu vực II của Trung Quốc là tơng đối cao, tỷ trọng của khu vực III là quá thấp. Nh vậy những
thách thức trong quá trình phát triển kinh tế ở Trung Quốc chủ yếu là ở lĩnh vực dịch vụ do
khoảng cách giữa Trung Quốc và các nớc phơng Tây trong lĩnh vực này còn quá lớn.
Chính vì vậy, từ những năm 1990, Trung Quốc đã đa ra một số chính sách điều chỉnh
cơ cấu ngành dịch vụ nhằm phát triển ngành này phát triển hiệu quả cao:
Thứ nhất, chính sách thúc đẩy cải cách và mở cửa ngành dịch vụ:
Do chính sách mở cửa đối với ngành dịch vụ chậm chạp nên từ đầu những năm 1990
đến nay, một số ngành dịch vụ nh tiền tệ, bảo hiểm, giao thông vận tải, đờng sắt, và hàng
không, thông tin, giáo dục y tế. vẫn bị Trung Quốc hạn chế hay cấm không cho thành phần
phi quốc hữu tham gia. ở một số ngành, kinh tế quốc hữu còn nắm giữ vị trí độc quyền hoặc
trực tiếp lũng đoạn kinh doanh. Trong các ngành liên quan đến quốc kế dân sinh, kinh tế quốc
hữu đều chiếm u thế tuyệt đối: Ngành năng lợng, bu điện, hầu nh kinh tế quốc hữu nắm
100%. Trong lĩnh vực tài chính, nhà nớc vẫn khống chế trên 90% tiền gửi, trên 90% nghiệp
vụ bảo hiểm, công ty chứng khoán quốc hữu vẫn là chủ thể của ngành chứng khoán. Các ngành
vận tải đờng sắt, viễn dơng về cơ bản đều do kinh tế quốc hữu quản, nó thực hiện trên 97%
lợng chu chuyển hàng hoá của ngành giao thông vận tải, trong các nghiệp vụ thông tin, thành
phần kinh tế phi quốc hữu cũng có một tỷ trọng nhất định, nhng những nghiệp vụ thông tin cơ
bản đều do kinh tế quốc hữu làm chủ. Điều này khiến ngành dịch vụ thiếu sức cạnh tranh, cơ
chế thị trờng không thể phát huy đợc vai trò điều tiết có hiệu quả. Để đẩy mạnh phát triển
của ngành này, Trung Quốc đã tăng cờng chính sách mở cửa, tích cực cải cách doanh nghiệp
dịch vụ quốc hữu, thông qua việc điều chỉnh chính sách ngành nghề, cho phép và khuyến
khích các thành phần kinh tế phi quốc hữu tham gia vào các ngành nghề này.

Thứ hai, chính sách đẩy mạnh tiến trình thị trờng hoá và đô thị hoá.
18


Trong quá trình chuyển đổi thể chế, kinh tế thị trờng cha phát triển một cách đầy đủ,
đặc biệt là mức độ thị trờng hoá đối với ngành dịch vụ còn thấp làm nảy sinh những trở ngại
cho việc phát triển ngành dịch vụ, Trung Quốc chủ trơng thông qua thúc đẩy cải cách thể chế
để đẩy nhanh tiến trình thị trờng hoá kinh tế, từ đó thúc đẩy việc phát triển cơ cấu ngành
dịch vụ.
Ngoài ra, để phát triển hiệu quả ngành dịch vụ, Trung Quốc còn dựa vào việc thúc
đẩy quá trình đô thị hoá. Bởi mức độ phát triển ngành dịch vụ thống nhất với mức độ đô thị
hoá. Việc đô thị hoá ở Trung Quốc muộn mằn chính là nguyên nhân quan trọng ảnh hởng đến
sự phát triển và chuyển đổi cho cấu chậm của ngành dịch vụ. Trớc tình hình này, để thúc
đẩy mở rộng nhiều ngành dịch vụ mới và phát triển nhiều tầng bậc ngành dịch vụ, Trung
Quốc đã ra sức thúc đẩy tiến trình thành thị hoá trên cơ sở đẩy nhanh cải cách thể chế thành
thị và nông thôn, tăng cờng vai trò của chính sách vĩ mô đối với thành thị hoá. Hiện nay, tốc
độ đô thị hoá diễn ra nhanh mỗi năm có thêm khoảng 15 triệu ngời Trung Quốc nhập hộ khẩu ở
thành phố.
Thứ ba, chính sách thu hút vốn đầu t trực tiếp nớc ngoài vào ngành dịch vụ.
Từ khi cải cách mở cửa đến nay, đầu t trực tiếp của nớc ngoài ở Trung Quốc nghiêng về
ngành công nghiệp, tỉ lệ đầu t vào ngành dịch vụ tơng đối thấp, chủ yếu tập trung ở số ít
ngành truyền thống. Do vậy, để thúc đẩy ngành này tăng trởng, Trung Quốc khuyến khích
các nhà đầu t nớc ngoài đầu t vào phát triển ngành dịch vụ.
Những ngành mới cho phép thơng gia nớc ngoài đến đầu t bao gồm: bảo hiểm, bán lẻ thơng mại, hớng dẫn du lịch, vận tải hàng không, đại lý vận chuyển hàng hoá quốc tế, vận tải
đờng thuỷ, vận tải đờng bộ, thuyền bè, bảo hiểm y tế, kế toán, t vấn thông tin, Tuy nhiên
cũng có một số lĩnh vực, Trung Quốc vẫn phải có điều kiện với các thơng gia nớc ngoài đến
đầu t, ví dụ nh một số ngành mở cửa mang tính chất thí điểm, một số dự án đầu t của thơng
gia nớc ngoài bị hạn chế ở một số khu vực, thơng gia nớc ngoài không đợc nắm 100% cổ
phần
2.2.2.Biện pháp phát triển dịch vụ ở Trung Quốc

Do ngành dịch vụ Trung Quốc do phát triển sau nên vẫn còn khá mới mẻ, yếu ớt, cộng thêm
sự nuông chiều của nhà nớc qua chính sách u đãi và cho hởng sự độc quyền trong nhiều
lĩnh vực khiến cho nó tơng đối kém sức đề kháng trớc những đòi hỏi của thị trờng thế giới
thông qua các định chế của WTO. Nhằm thực hiện các chính sách phát triển dịch vụ trên,
Trung Quốc đã thực hiện những biện pháp sau chủ yếu sau:
-Thanh lý và chỉnh đốn những lĩnh vực mở cửa hiện có. Tiến hành điều tra những
19


ngành đã mở cửa và số lợng mở cửa, xử phạt nghiêm khắc đối với những trờng hợp tự động mở
cửa đối ngoại, vi phạm chính sách hiện hành của nhà nớc.
-Quy hoạch mục tiêu phát triển ngành dịch vụ trong thời gian ngắn hạn, trung hạn, và dài
hạn, kiên trì chủ động mở cửa thị trờng. Theo Hiệp định chung về mậu dịch dịch vụ của
WTO quy định từng bớc thực hiện tự do hoá, cho phép các quốc gia đang phát triển mở cửa thị
trờng trên phạm vi tơng đối hẹp và hạn chế các nhà đầu t nớc ngoài tham gia vào thị trờng của
các quốc gia đang phát triển. Vì vậy, việc mở cửa thị trờng dịch vụ của Trung Quốc phải phù
hợp nhu cầu quốc tế và sức chịu đựng ở trong nớc, những lĩnh vực mở cửa phải có tính ổn
định tơng ứng.
-Phân loại mở cửa thị trờng, mở cửa phải phù hợp với phát triển. Trọng điểm phát triển là
ngành giao thông vận tải, thông tin bu điện, ngành dịch vụ thơng mại, du lịch, t vấn thông tin,
bảo hiểm tiền tệ.
Đối với những ngành dịch vụ đe doạ đến an ninh quốc gia và sự ổn định xã hội nh dịch
vụ xây dựng cơ bản, nghe nhìn cũng nh những ngành dịch vụ gây tổn hại đến sức khoẻ của
ngời dân mà nhà nớc cấm kinh doanh thì không đợc mở cửa.
Đối với những ngành dịch vụ nh vận tải, thơng mại và du lịch quốc tế có sức cạnh tranh tơng đối mạnh thì từng bớc mở rộng cửa, đối với những lĩnh vực cần đầu t xây dựng lớn mà
Trung Quốc không có vốn thì nới lỏng mức hạn chế một cách thích hợp đối với các thơng gia nớc
ngoài, cho phép các thơng gia nớc ngoài dùng hình thức BOT tham gia vào thị trờng ngành
dịch vụ Trung Quốc.
Những ngành nh tiền tệ, thông tin, t vấn thông tin và bảo hiểm là những ngành cần
thiết trong phát triển kinh tế quốc dân, mức độ dịch vụ thơng mại hoá trong nớc thấp, năng lực

tự cấp trong nớc không đủ Tuy nhiên việc mở cửa đối với những ngành này, ở mức độ nhất
định sẽ xung đột với sự phát triển của các doanh nghiệp dịch vụ trong nớc, thậm chí còn ảnh
hởng đến sự ổn định của hệ thống tiền tệ nhà nớc, vì vậy Trung Quốc chủ trơng hạn chế
mức độ và những bớc mở cửa.
Đối với một số ngành không liên quan nhiều đến phát triển kinh tế quốc dân đặc biệt
những ngành lầy khoa học kỹ thuật cao làm hạt nhân, Trung Quốc lại chủ trong khuyến khích
mở cửa, cho phép các nhân viên kỹ thuật chuyên nghiệp nớc ngoài vào để thu hút kỹ thuật tiên
tiến, thu hút vốn, thúc đẩy phát triển ngành này.
2.3.Những thành tựu và những tồn tại trong phát triển lĩnh vực dịch vụ ở Trung Quốc
Từ khi cải cách, mở cửa đến nay, Trung Quốc liên tục duy trì tốc độ tăng tr ởng kinh tế
cao, thời kỳ 1981 - 1990 GDP bình quân hàng năm đạt 9,3% ; thời kỳ kế hoạch 5 năm lần thứ
20


tám đạt 12%, năm 2004 đạt tăng trởng 9,25% dẫn đầu thế giới về tốc độ tăng trởng. Tính ổn
định trong tăng trởng kinh tế của Trung Quốc từng bớc đợc tăng cờng.
Sau nhiều năm cải cách mở cửa, thực lực kinh tế Trung Quốc đợc tăng cờng rõ rệt, sức
mạnh tổng thế của nền kinh tế Trung Quốc trên trờng quốc tế đợc nâng lên nhanh chóng, quy
mô kinh tế Trung Quốc đã vợt lên dẫn đầu các nớc đang phát triển, khoảng cách với các nớc phát
triển chủ yếu cũng thu hẹp dần dần. Nhng vì dân số Trung Quốc khá đông, cho nên tính
bình quân theo đầu ngời, Trung Quốc vẫn thuộc loại nớc có thu nhập thấp.
Trong lĩnh vực dịch vụ, với những phát triển vợt trội trong lĩnh vực công nghệ thông tinngành trụ cột của nền kinh tế, thì quan điểm về nền kinh tế Trung Quốc đang dần thay
đổi. Trớc kia Trung Quốc thờng đợc xem nh một nhà cung cấp những dịch vụ chất lợng kém,
giá rẻ thì này Trung Quốc dần đợc các nền kinh tế Châu Âu công nhận đang có một bớc nhảy
vọt về thị phần dịch vụ công nghệ cao và có sức cạnh tranh lớn với họ.Với những cố gắng của
mình, Trung Quốc đã đạt đợc một số thành tựu to lớn nh:

Thứ nhất, dịch vụ tài chính - ngân hàng
Sự phát triển không ngừng của dịch vụ tài chính ngân hàng ở Trung Quốc là một kênh
quan trọng thu hút đầu t nớc ngoài, huy động một cơ số lớn tiền vốn d thừa của dân chúng, cung

cấp vốn cho hoạt động kinh doanh của các doanh nghiệp - bộ phận sử dụng nhiều vốn nhất và
cũng đóng góp cho tăng trởng kinh tế nhiều nhất
Tính đến cuối tháng 11/2000, tiền gửi ngân hàng của c dân trong cả nớc đạt 7230 tỷ
NDT tăng 801,9 tỷ so với đầu năm. Dự trữ ngoại tệ của Trung Quốc đã lên tới 212 tỷ USD (đứng
thứ hai trên thế giới chỉ sau Nhật Bản).

Hiện nay, tất cả các tổ chức tài chính Trung Quốc đang nâng cấp dịch vụ, việc
quản lí nội bộ và cơ sở hạ tầng của mình. Hệ thống quản lí hoạt động đang đợc thay
đổi nhiều hơn theo mô hình thơng mại và khả năng thu lợi nhuận cũng đang tăng
dần đạt đến tiêu chuẩn quốc tế. Đến cuối năm 1999, số d nợ cho vay của các ngân
hàng có vốn đầu t nớc ngoài tại Trung Quốc là 21,8 tỷ USD, trong đó 87% là vốn
vay trong nớc, 70% số tiền cho vay này đợc cung cấp từ nguồn vốn của ngân hàng
mẹ ở nớc ngoài. Nh vậy, ngân hàng có vốn đầu t nớc ngoài đã trở thành một kênh
thu hút đầu t nớc ngoài quan trọng giúp Trung Quốc tăng trởng và phát triển kinh
tế. Đến cuối năm 1999, các tổ chức ngân hàng Trung Quốc đã đặt 472 chi nhánh
kinh doanh tại nớc ngoài, tài sản của các chi nhánh này là 144,3 tỷ USD. Khi gia
nhập WTO, quan hệ kinh tế đối ngoại của Trung Quốc sẽ tiếp tục đợc mở rộng tăng
21


cờng tiến trình quốc tế hoá dịch vụ tài chính của Trung Quốc và sự phát triển lớn
mạnh của ngành này trên thế giới.
Nhằm hiện đại hoá việc thanh toán trong ngành tài chính Trung Quốc đang
từng bớc nâng cao hơn hệ thống mạng thanh toán điện tử, nh mạng liên lạc điện tử
đợc truyền qua vệ tinh ở các thành phố với một khối lợng lớn các giao dịch nhằm
cung cấp dịch vụ thuận tiện nhất cho ngành tài chính, vợt qua những vấn đề khó
khăn trong thanh toán.
Kì phiếu, hối phiếu, séc, trái phiếu thơng mại và thẻ ngân hàng đợc sử dụng
rộng rãi ở Trung Quốc. Hệ thống thanh toán việc chuyển nhợng vốn và trái phiếu
thơng mại sẽ đợc cải thiện hơn. Tên thực phải đợc sử dụng cho các tài sản tài chính

cá nhân và séc cá nhân sẽ đa vào sử dụng thí điểm. Hệ thống chính sách nắm chứng
khoán sẽ đợc thành lập và việc thanh toán sẽ đợc thống nhất thông qua việc thúc
đẩy quá trình làm thủ tục và nâng cao thêm dịch vụ thanh toán nhằm thanh toán các
giao dịch chứng khoán.
Thứ hai, dịch vụ thông tin liên lạc
Trong số các thị trờng thông tin liên lạc dẫn đầu ở khu vực châu á Thái Bình Dơng,
Trung Quốc là một trong các thị trờng có triển vọng nhất. Theo thống kê, Trung Quốc có
295,488 triệu thuê bao điện thoại cố định và 305,283 triệu thuê bao điện thoại di động năm
2004. Số ngời sử dụng Internet đã xấp xỉ 70 triệu ngời. Sở dĩ có sự phát triển nhanh chóng này
là do đặc điểm thị trờng dịch vụ thông tin di động của Trung Quốc phát triển đặc biệt
nhanh: cứ mỗi tháng có thêm 2 triệu ngời sử dụng điện thoại di động trong năm 1999 - 2000.
Thậm chí theo dự báo triển vọng phát triển ngành dịch vụ thông tin di động, Trung Quốc có
thể chuyển từ vị trí thứ hai lên thứ nhất (hiện Mỹ đứng vị trí thứ nhất) về số thuê bao điện
thoại di động. Và công ty China Mobile của Trung Quốc sẽ vợt Vodafone (hiện dẫn đầu thế
giới trong lĩnh vực dịch vụ liên lạc di động) về doanh thu. Về tổng số vốn thị trờng, China
Mobile hiện là công ty lớn nhất khu vực châu á - Thái Bình Dơng. Các hãng sản xuất thiết bị
liên lạc hàng đầu thế giới hiện đang nắm giữ những vị trí trọng yếu tại thị trờng thiết bị
viễn thông Trung Quốc, đặc biệt là điện thoại di động. Trong khi các nhà sản xuất thiết bị
viễn thông hàng đầu thế giới nắm giữ vị trí vững chắc trên thị trờng thiết bị thông tin
Trung Quốc, các nhà cung cấp dịch vụ thông tin nớc ngoài có ít khả năng hoạt động ở nớc này
hơn. Tỉ trọng của các hãng nớc ngoài trong vốn cổ phần tại các liên doanh trên thị trờng Trung
Quốc hiện không vợt quá 49%.
22


Thứ ba, thơng mại quốc tế
Trung Quốc đang phát triển mạnh mẽ với tốc độ hết sức mạnh mẽ trong lĩnh vực này.
Tổng kim ngạch buôn bán của Trung Quốc năm 2004 đạt 1100 tỷ USD. Nh vậy, sau 55 năm kể
từ ngày nớc CHND Trung Hoa ra đời, kim ngạch xuất khẩu của Trung Quốc đã tăng gấp 750
lần. Với những nỗ lực của chính phủ Trung Quốc tiến hành kiểm soát kinh tế vĩ mô nhằm

giải quyết những mâu thuẫn trong quá trình xây dựng kinh tế là yếu tố quan trọng hàng đầu
làm cho ngoại thơng Trung Quốc tăng trởng vững chắc. Bên cạnh đó là chính sách mở cửa nền
kinh tế khiến cho tỷ trọng xuất nhập khẩu tăng nhanh và dần trở thành một nền kinh tế h ớng
theo xuất khẩu. Tính riêng về hàng hoá xuất nhập khẩu, Trung Quốc là quốc gia đứng thứ 6
trong số 30 quốc gia trao đổi buôn bán hàng đầu thế giới.
Theo các chuyên gia kinh tế tính toán, với tốc độ phát triển nh hiện nay, Trung Quốc sẽ trở
thành quốc gia thơng mại đứng thứ hai trên thế giới chiếm 10% tỷ phần xuất khẩu của thế giới,
chỉ sau Mỹ (12%), vợt xa Nhật Bản (5%). Trung Quốc chiếm 40% mức tăng nhập khẩu dự
kiến của các nớc đang phát triển Trung Quốc trở thành nền kinh tế lớn thứ hai thế giới vào
năm 2020, chiếm 8% sản lợng toàn thế giới, chỉ đứng sau Mỹ, chiếm 19% nền kinh tế toàn
cầu.
Thứ t, khoa học kỹ thuật, văn hoá giáo dục
Khoa học kỹ thuật là sức sản xuất thứ nhất, hiện nay, đóng góp của nó vào tăng tr ởng
kinh tế ở các nớc phát triển là trên 60%, còn ở Trung Quốc chỉ vào khoảng 30%. Tuy nhiên, qua
cố gắng nhiều năm cải cách, Trung Quốc đã có 11% thành quả kỹ thuật cao đạt hoặc giữ đợc
trình độ đi đầu thế giới nh những thành công trong kỹ thuật then chốt máy tính với kỹ năng
cao, kỹ thuật mạng viễn thông, kỹ thuật tổng đài điện tử số, Trong vòng hơn 10 năm qua,
giá trị sản lợng ngành kỹ thuật cao của Trung Quốc tăng bình quân mỗi năm trên 20% tỷ lệ
trong tổng cơ cấu kinh tế quốc dân tăng từ 1% lên 15%. Năm 2001, kim ngạch xuất nhập khẩu
các loại sản phẩm kỹ thuật cao đạt 46,5 tỷ USD, chiếm 17,5% tổng kim ngạch xuất khẩu cả nớc.
Trong 10 năm qua, tại một số thành phố lớn và vừa, Trung Quốc đã xây dựng đợc 53 khu phát
triển kỹ thuật cao. Với những thành công vợt bậc của ngành hàng không vũ trụ Trung Quốc,
Trung Quốc phóng tàu Thần Châu 5, lần đầu tiên Trung Quốc đa ngời vào vũ trụ, mở ra khả
năng cho Trung Quốc chiếm lĩnh một phần thị trờng dịch vụ phóng tàu vũ trụ của thế giới và
đem lại cho Trung Quốc nhiều lợi ích về kinh tế, quân sự, chính trị, làm cho các cờng quốc
quân sự khác phải kiêng nể.
Giáo dục là nền tảng khoa học kỹ thuật, sự cao thấp về trình độ phát triển giáo dục sẽ
ảnh hởng đến tố chất con ngời, đặc biệt là nhân tố chủ yếu để nâng cao năng suất, do đó
sẽ tác động đến sự phát triển của sức sản xuất. Năm 1992, tỷ lệ ngời biết chữ ở Trung Quốc
23



đạt 73%, cao hơn mức bình quân của thế giới. Trình độ phát triển giáo dục bậc trung học và
tiểu học ở Trung Quốc tơng đối cáo, bậc đại học vẫn còn lạc hậu, điều này về cơ bản phù hợp
với yêu cầu của trình độ phát triển sức sản xuất giai đoạn hiện nay. Nhng để đáp ứng đợc yêu
cầu nâng cao chất lợng tăng trởng kinh tế, phát triển theo chiều sâu thì nhiệm vụ phát triển
giáo dục bậc đại học vẫn còn rất nặng nề. Hiện nay, tại các thành phố của Trung Quốc, hơn
80% số ngời tìm đợc đợc việc làm đã tốt nghiệp trung học phổ thông trở lên hoặc đã qua đào
tạo dạy nghề, 45 triệu ngời đợc cấp giấy chứng nhận đủ tiêu chuẩn nghề nghiệp. Mục tiêu của
Trung Quốc trong 3 năm tới đào tạo đợc 500.000 kỹ s và kỹ s cao cấp trong các ngành chế tạo,
dịch vụ và các ngành có hàm lợng kỹ năng nghiệp vụ cao
*Mặc dù đạt đợc rất nhiều thành tựu trong phát triển lĩnh vực dịch vụ nhng Trung Quốc
vẫn còn không ít những tồn tại đối với các ngành nghề dịch vụ:
-Những thách thức về thể chế quản lý và cơ chế kinh doanh
Ngành dịch vụ của Trung Quốc, chủ yếu là tài chính, bảo hiểm, viễn thông, ngoại thơng, văn hoá, giáo dục và y tế trong một thời gian dài trớc đây do chính phủ độc quyền cung
cấp, không có cơ chế và thể chế thị trờng. Hơn 20 năm thực hiện cải cách, cho đến nay, cải
cách trong những ngành này diễn ra chậm chạm, gặp nhiều khó khăn, hiệu quả hạn chế. Vì
vậy, hiện nay vẫn không có thể chế và cơ chế thị trờng theo đúng nghĩa. Trong khi đó,
WTO lại yêu cầu thể chế thị trờng và cơ chế thị trờng, các nớc phát triển phơng Tây đều có
cơ chế và thể chế thị trờng hoàn thiện. Tình hình này tạo nên sự chênh lệch lớn đối với hiện
thực Trung Quốc.
-Những thách thức đối với hệ thống và năng lực giám sát quản lý vĩ mô của nhà n ớc. Trật
tự thị trờng hiện nay tơng đối hỗn loạn, còn nhiều hàng nhái, hàng kém chất lợng trên thị trờng, trật tự tài chính cũng có vô vàn vấn đề, tỷ lệ tài sản xấu tơng đối cao, độ tin cậy giảm,
con số thua lỗ và tỷ lệ thua lỗ của các doanh nghiệp quốc doanh đã một thời gian giảm xuống,
nhng gần đây lại tăng lên; những vấn đề nh sản xuất, xây dựng chồng chéo mặc dù đã giải
quyết nhiều lần nhng vẫn đang phát triển và lan tràn. Điều này làm tăng những khó khăn cho
Trung Quốc trong điều tiết vĩ mô, cũng là thách thức mới đối với năng lực điều tiết vĩ mô.
-Thách thức trong việc giành lấy nhân tài quản lý cao cấp. Cạnh tranh con ngời là cạnh
tranh cơ bản nhất trong các cuộc cạnh tranh. Trung Quốc vốn thiếu những chuyên gia tổng hợp
cao nhất, nhất là những chuyên gia tài năng trong lĩnh vực tài chính, bảo hiểm, viễn thông.

Sau khi gia nhập WTO, hầu hết các doanh nghiệp nớc ngoài tại Trung Quốc đều thực hiện
chiến lợc nhân tài tại chỗ, tuyển dụng những chuyên gia cao cấp của nớc tiếp nhận đầu t với
đãi ngộ cao. Nh vậy, chắc chắn sẽ nổ ra cuộc tranh giành chuyên gia tài năng. Hiện nay, các
doanh nghiệp Trung Quốc khó có thể cạnh tranh với các doanh nghiệp nớc ngoài về mức đãi
24


ngộ, chắc chắn sẽ bị mất đi một số nhân tài u tú.
-Thách thức trong việc tranh giành thị trờng và tranh giành khách hàng có tiềm năng.
Hiện nay, ngành ngân hàng, chứng khoán, bảo hiểm của Trung Quốc hầu hết đều thực hiện
kinh doanh phân ngành, quản lý phân ngành, chủng loại nghiệp vụ đơn điệu, năng lực cung
cấp dịch vụ tổng hợp cho xã hội và khách hàng kém. Còn trên thế giới hầu hết đều thực hiện
kinh doanh liên ngành, ngân hàng đã tham gia vào bảo hiểm, chứng khoán, thậm chí cả những
ngành phi tài chính, trở thành siêu thị tài chính, có chức năng dịch vụ và chức năng sáng tạo
mạnh mẽ. Nh vậy, sau khi Trung Quốc gia nhập WTO, nghiệp vụ kinh doanh đồng Nhân dân
tệ đợc mở rộng, rất có thể một bộ phận khách hàng có tiềm năng sẽ chuyển sang ngân hàng,
bảo hiểm và các ngành có vốn đầu t nớc ngoài khác. Khách hàng có tiềm năng và chuyên gia
cao cấp thờng có mối liên hệ về mặt kinh doanh. Chuyên gia cao cấp chạy sang các công ty nớc
ngoài cũng có thể kéo theo một bộ phận khách hàng. Vì vậy, cuộc đấu tranh giành giật thị
trờng sẽ tơng đối phức tạp.
Nhằm khắc phục những khó khăn, đơng đầu với những thách thức mới trong phát triển
lĩnh vực dịch vụ, Trung Quốc đang thực hiện một số điều chỉnh trong thời gian tới.
-Mở cửa hơn nữa ngành dịch vụ cho phép thơng gia nớc ngoài đầu t vào các dịch vụ nh
thông tin, tiền tệ, bảo hiểm, thơng mại, du lịch, văn hoá. Từ khi Trung Quốc mở cửa lĩnh vực
này, những ngành độc quyền từng bớc mở cửa cho nớc ngoài, xuất hiện một loạt các doanh
nghiệp liên doanh, thậm chí doanh nghiệp 100% vốn nớc ngoài. Nhng việc xoá bỏ độc quyền,
mở cửa trong nớc vẫn còn diễn ra chậm chạp, thậm chí còn quá ít, không tạo đợc môi trờng
cạnh tranh. Việc mở cửa thông thoáng và sâu rộng khắc phục sự lạc hậu của mở cửa trong nớc,
xoá bỏ dần độc quyền sẽ làm cho ngành dịch vụ của Trung Quốc phát triển nhanh chóng.
-Sắp xếp lại nguồn tài nguyên, nâng cao hiệu quả kinh tế và tỉ lệ ngành dịch vụ

chiếm trong GDP. Theo ớc tính của tổ chuyên đề Trung tâm nghiên cứu phát triển Quốc vụ
viện, việc gia nhập WTO khiến cho tỷ lệ tăng trởng bình quân từ năm 1998 đến năm 2010
tăng lên khoảng 1%, tỷ lệ thu lợi nhuận do tự do hoá mậu dịch nông nghiệp đem lại ớc tính
chiếm 2/3 tổng mức lợi nhuận, do vậy mức độ phát triển ngành dịch vụ cũng tăng lên t ơng ứng
trong GDP.
-Điều chỉnh cơ cấu ngành nghề trong nớc, mở rộng không gian cho ngành dịch vụ phát
triển. Theo thống kê, từ năm 1998 đến năm 2010 có khoảng 9,6 triệu sức lao động nông nghiệp
chuyển sang ngành công nghiệp và dịch vụ, ngành dệt và may mặc có thể tăng thêm 5,4
triệu cơ hội việc làm. Điều này làm cho sức lao động của Trung Quốc chuyển dịch từ ngành
nông nghiệp chuyển sang ngành công nghiệp và dịch vụ, tạo điều kiện cho ngành dịch vụ
phát triển.
25


×