Tải bản đầy đủ (.pdf) (8 trang)

SKKN GIẢI PHÁP KHẮC PHỤC TÌNH TRẠNG học SINH bỏ học

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (384.88 KB, 8 trang )

SKKN 2013

GIẢI PHÁP KHẮC PHỤC TÌNH TRẠNG
HỌC SINH BỎ HỌC
I. LÝ DO CHỌN ĐỀ TÀI.
Thời gian gần đây, dư luận đang “nóng” lên vì những thông tin học sinh bỏ
học. Tình trạng học sinh bỏ học hàng loạt đang gia tăng trên các địa phương khiến
những ai có tâm huyết với giáo dục không khỏi trăn trở.
Đây cũng là vấn đề nhức nhối, là mối quan tâm của Trung tâm Kỹ thuật
Tổng hợp - Hướng nghiệp Đồng Nai, đồng thời cũng là bài toán nan giải trong
công tác quản lý của Ban lãnh đạo, Trung tâm đã đưa ra nhiều biện pháp ngăn
chặn hiện tượng này, nhưng hiệu quả chưa đạt được như mong muốn.
Nhìn vào thực tế, chúng ta không thể không trăn trở băn khoăn trước những
hiện tượng học sinh không khẳng định được mục đích, tầm quan trọng của việc
học để mình có một nghề nghiệp vững chắc, rất nhiều học sinh đến đăng ký rồi
không học, hoặc đang học thì bỏ học giữa chừng, dẫn đến tình trạng nguồn ngân
sách nhà nước bị lãng phí với số lượng không nhỏ.
II. TỔ CHỨC THỰC HIỆN ĐỀ TÀI:
1. cơ sở lý luận:
Công văn số: 2092/BGDĐT-VP ngày 14 tháng 3 2008 : phối hợp chỉ đạo
nhằm khắc phục tình trạng học sinh bỏ học.
Những nguyên nhân cơ bản nhất khiến học sinh phải bỏ học nó xuất phát từ
nhà trường, học sinh, gia đình và toàn xã hội trích bài “nguyên nhân và biện pháp
chống bỏ học” tác giả Phạm Thanh Bình - nghiên cứu giáo dục - 1992 số 242.
Nguyên nhân của tình trạng bỏ học gia tăng thì có nhiều, từ các phía của
môi trường giáo dục : nhà trường, gia đình và xã hội. Trước hết từ phía nhà
trường, nhìn chung nhà trường của chúng ta chưa quan tâm nhiều đến giáo dục cá
thể, đến từng học sinh, tất cả học sinh trong một lớp đều cùng một cách dạy, trong
khi năng lực tiếp thu rất khác nhau, có cả học sinh cá biệt. Cách dạy này những
học sinh học yếu sẽ bị lướt, mỗi ngày hỏng một ít và cuối cùng không theo kịp
trình độ chung của lớp. Các em mất căn bản từ lớp dưới nên càng lên lớp trên


càng hỏng, càng học càng chán, sự học như cuộc rượt đuổi mà đích đến ngày càng
xa, dẫn đến bỏ cuộc.
2. Phạm vi thực hiện đề tài:
Thực hiện tại Trung tâm Kỹ thuật Tổng hợp - Hướng nghiệp Đồng Nai, do
xuất phát từ đặc thù riêng của đơn vị là dạy nghề phổ thông ngoài ra có phối hợp
với các trường đại học đào tạo các ngành, nghề trong đó có vừa học nghề và học
bổ túc văn hóa. Đề tài này thực hiện bên mảng bổ túc văn hóa.
Người thực hiện :

N

N

Trang 1


SKKN 2013

3. Đánh giá thực trạng.
Số liệu thống kê tại Trung tâm Kỹ thuật Tổng hợp - Hướng nghiệp Đồng
Nai :
BÁO CÁO THỐNG KÊ TÌNH HÌNH HỌC SINH BỎ HỌC BTVH
NĂM HỌC 2011-2012.
TT

Khối lớp

Số HS
đầu năm


Số HS
cuối năm

Số HS
bỏ học

Số %HS
Bỏ học

1

10

45

30

15

33.33%

2

11

35

31

4


11.42%

3

12

35

33

2

5.71%

115

94

21

18.26%

Cộng

Qua quá trình thống kê, khảo sát của trung tâm : 60 % học sinh bỏ học vì
trình độ học lực yếu kém, sinh ra chán nản khi việc kiểm tra, thi cử bị xiết chặt
theo tinh thần của cuộc vận động “hai không”; 3.71% do trường xa đi lại khó
khăn; 13.03 % học sinh bỏ học vì nghèo, khó khăn; 4.50 % bỏ học vì sức ép gia
đình; 7.51% tai nạn dịch bệnh và 12.25 % học sinh bỏ học vì những nguyên nhân

khác.
- Đa số học viên bỏ học là do bị hỏng kiến thức nhiều từ các năm học ở lớp
dưới, nhiều học viên đã nghỉ học nhiều năm nên không thể tiếp thu nổi bài học của
chương trình mới những năm gần đây. Một số học viên vì hoàn cảnh gia đình khó
khăn phải nghỉ học để tìm việc làm. Tuy nhiên một số học viên ở độ tuổi thanh
thiếu niên bỏ học vì gia đình không quan tâm đến việc học của các em dẫn đến các
em tự do trốn học đi chơi ngày này sang ngày khác và cuối cùng phải bỏ học vì
kiến thức bị hỏng quá nhiều.
- Giáo viên chủ nhiệm có vai trò lớn trong việc phát hiện, động viên học
sinh khi các em có ý định bỏ học và cũng đòi hỏi giáo viên chủ nhiệm đầu tư
nhiều hơn cho công tác quản lý học sinh. Điều quan trọng nhất trong nhà trường là
thực hiện khẩu hiệu “ Tất cả vì học sinh thân yêu”, thầy giáo phải là người hiểu,
người chia sẻ đáng tin cậy nhất, bằng tình thương để cảm hoá tạo được động lực
cho các em vượt khó khăn. Rất nhiều học sinh nhờ sự quan tâm của thầy giáo mà
các em vượt qua khúc quanh khó khăn nhất của cuộc đời, trở thành người thành
đạt. Mối liên hệ gia đình – nhà trường cần phải thực hiện tốt hơn, qua số điện
thoại liên lạc, qua họp phụ huynh, qua việc giáo viên đến nhà học sinh khi cần.
Trong quá trình thực hiện nhiệm vụ tôi nhận thấy rằng, tuy lãnh đạo Trung
tâm và phòng giáo vụ đã cùng đề ra nhiều biện pháp trong công tác quản lý học
sinh, nhưng vẫn còn tỉ lệ không nhỏ các em học sinh bỏ học, hoặc đăng ký rồi
không học. Nhìn chung vì trách nhiệm và lương tâm của người làm công tác quản
Người thực hiện :

N

N

Trang 2



SKKN 2013

lý, đây không những là danh dự, uy tín của Trung tâm mà còn là uy tín của ngành
giáo dục, từ đó tôi mạnh dạn rút ra những nguyên nhân sau đây :
a./ Nguyên nhân từ Trung tâm, giáo viên đứng lớp :
Giáo viên chủ nhiệm có vai trò lớn trong việc phát hiện, động viên học sinh
khi các em có ý định bỏ học và cũng đòi hỏi giáo viên chủ nhiệm đầu tư nhiều hơn
cho công tác quản lý học sinh. Điều quan trọng nhất trong trung tâm là thực hiện
khẩu hiệu “ Tất cả vì học sinh thân yêu”, thầy giáo phải là người hiểu, người chia
sẻ đáng tin cậy nhất, bằng tình thương để cảm hoá tạo được động lực cho các em
vượt khó khăn. Rất nhiều học sinh nhờ sự quan tâm của thầy giáo mà các em vượt
qua khúc quanh khó khăn nhất của cuộc đời, trở thành người thành đạt. Mối liên
hệ gia đình – nhà trường cần phải thực hiện tốt hơn, qua số liên lạc, qua họp phụ
huynh, qua việc giáo viên đến nhà học sinh khi cần. Dĩ nhiên để giáo viên làm
được những việc này cần có cơ chế phù hợp trong điệu kiện hiện nay.
Học sinh về học tại Trung tâm với số lượng không nhỏ, nhưng không gian
chật hẹp, không có sân bãi cho học sinh giải trí sau những giờ học, chưa gây được
sự hấp dẫn lôi cuốn cho học sinh. Đội ngũ giáo viên tuy có lòng nhiệt tình và năng
lực chuyên môn giảng dạy tốt nhưng chỉ chú trọng giờ lên lớp giảng dạy làm sao
có chất lượng, hết giờ ra về chứ chưa chú trọng đến việc theo dõi giáo dục học
sinh, thiếu bao quát tình hình lớp…, học sinh học tập như thế nào? kết quả tiếp thu
ra sao… ? (vì đa số ở Trung tâm là giáo viên thỉnh giảng).
b./ Nguyên nhân từ gia đình
Về phía gia đình, một số chưa quan tâm hoặc quan tâm chưa đúng cách.
Việc cha mẹ ít khi họp phụ huynh, không biết con học lớp nào, học như thế nào
chiếm tỷ lệ không nhỏ, sổ liên lạc ít khi xem để biết giáo viên nhận xét con mình.
Vì thế mà có hiện tượng con xin tiền rất nhiều lần đóng tiền trường, nhưng tiền
này dùng chơi điện tử, ăn qùa…Một số gia đình chiều con không đúng cho con
quá nhiều tiền mà không biết con dùng tiền để làm gì, sa vào chốn ăn chơi rồi bỏ
học. Khi con học yếu, thay vì động viên, lại trút lên đầu đứa trẻ bao lời thị phi,

thậm chí là những trận đòn. Phần nữa một số gia đình khó khăn thu nhập thấp,
việc đóng đủ học phí cho con trở thành gánh nặng, không kham nổi, không thể
tính chuyện đóng tiền cho con học thêm. Một tỷ lệ khá cao trong số bỏ học là gia
đình mà cha mẹ không hòa thuận, nhiều em bỏ nhà để khỏi nghe cha mẹ cãi nhau
rồi bỏ học luôn, có em hoặc chỉ ở với mẹ, hoặc chỉ ở với bố, với ông bà nội, ngoại.
Việc lo cho con vì thế mà được sao hay vậy.
Gia đình (phụ huynh) là tác động đến nhận thức rất quan trọng đối với học
sinh. Do cơ chế kinh tế thị trường hiện nay cuốn hút, chạy theo kinh tế là chủ yếu,
nên ít có điều kiện, gia đình không có nhiều thời gian quan tâm đến việc học hành
của con em mình, dẫn đến tình trạng các em bỏ học mà gia đình không hề hay
biết.
Người thực hiện :

N

N

Trang 3


SKKN 2013

c./ Nguyên nhân từ phía học sinh:
Thực tế học sinh phải xác định động cơ học tập của mình là học cho ai ?
học để làm gì ? … học như thế nào để đạt hiệu quả cao… nên chưa hứng thú trong
học tập. Hoặc trong tâm lý của các em còn có gia đình, Cha Mẹ đã có cơ sở làm
việc sẵn mình sẽ thừa kế nên chưa hiểu ra được việc học là rất quan trọng, là cơ
sở, ý thức, kỹ năng để các em đi vào lao động, làm phương tiện thúc đẩy nâng cao
năng suất, chất lượng hiệu quả cao hơn. Đôi khi có không ít học sinh, do hoàn
cảnh gia đình còn nhiều khó khăn, các em phải vừa đi học, vừa đi làm để nâng cao

trình độ, nhưng do công việc phải tăng ca, đi ca vào lớp học trễ, vào lớp học với
tinh thần không thật thoải mái do công việc, học không hiểu bài nên dẫn đến tình
trạng các em chán học, phải bỏ học giữa chừng không thể theo hết trọn khóa học.
d./ Về khía cạnh xã hội:
Một số phong trào mang tính xã hội cao chưa phản ứng kịp thời tình hình
này, chưa bổ sung tiêu chí cụ thể cho nội dung hoạt động hạn chế học sinh bỏ học.
Các đoàn thể chưa quan tâm nhiều đến việc con em của đoàn viên, hội viên bỏ
học. Ra khỏi nhà, khỏi trường là bao nhiêu thứ cám dổ mà các em chưa đủ bản
lĩnh để tránh xa cái xấu. Bên cạnh đó, phải kể đến tác động mặt trái của cơ chế thị
trường: Một số kiếm tiền bằng mọi giá, bất kể hậu qủa của việc mình làm đến đâu,
kể cả dụ dỗ học sinh chơi trò điện tử, tham gia các trò chơi đỏ đen, các tệ nạn. Một
mức độ nào đó xu hướng thương mại hóa đã xuất hiện trong một số giáo viên ở
nơi có điều kiện kinh tế khá ví thế mà ít quan tâm đến sự học của học sinh nhất là
học sinh học yếu.
III. BIỆN PHÁP KHẮC PHỤC.
Từ những lý luận và thực trạng nêu trên tôi đưa ra một số biện pháp như sau :
1. Đối với Trung tâm
Ngay từ đầu năm học, Trung tâm phổ biến mục đích học nghề, nội qui, qui
chế học tập. Có sự phối hợp đồng bộ giữa Trung tâm và gia đình cũng như đối với
học sinh đó, làm bản cam kết trong việc đăng ký học. Nếu vi phạm hoặc bỏ học sẽ
chịu trách nhiệm bồi thường kinh phí đào tạo do ngân sách nhà nước đài thọ. Tổng
kết lớp, có mời phụ huynh để động viên khuyến khích tạo tiếng vang cho Trung
tâm.
Để hạn chế tình trạng học viên bỏ học, trung tâm đã áp dụng các hình thức
miễn giảm học phí cho gia đình chính sách, khen thưởng cho học viên học chăm,
khá, giỏi, ban cán sự lớp để động viên cho các em học tốt hơn nữa. Trong năm học
2012 trung tâm thực hiện chế độ miễn giảm học phí từ 30/% đến 100% cho ban
cán sự lớp và học sinh được hưởng chính sách và cho học sinh nghèo với 63 lượt
số tiền là 36.252.000đ. Căn cứ kết quả học tập trung tâm đã trao học bổng cho 29
lượt học sinh đạt khá, giỏi, xuất sắc với số tiền 16.365.000đ

Người thực hiện :

N

N

Trang 4


SKKN 2013

Trước hết phía trung tâm tăng cường công tác quản lý hơn nữa: quản lý học
sinh, quản lý giáo viên, quản lý nề nếp dạy học, thực hiện đúng đầy đủ những quy
định về quản lý nhà trường. Cần quan tâm đến học sinh học yếu, học sinh cá biệt,
bằng các biện pháp giáo dục riêng: Tổ chức các tiết phụ đạo, nắm chắc hoàn cảnh
và khả năng tiếp thu của từng học sinh.
Như lời Thủ tướng Nguyễn Tấn Dũng đã nói “Cần phải có ngay một cuộc
vận động nói không với hiện tượng học sinh bỏ học vì nghèo. Xã hội ta không thể
để cho con em vì nghèo mà thất học”. Từ đó Trung tâm rà soát lại những chính
sách ưu tiên, hỗ trợ học sinh nghèo, bổ sung những ưu đãi mới, có những giải
pháp vận động nguồn tài chính cho học sinh nghèo, thực hành tiết kiệm để dành
tiền cho học sinh nghèo, đẩy mạnh phong trào từ thiện trong các nhà trường, vận
động những học sinh khá giả giúp đỡ bạn nghèo.
Đối với những học sinh học kém, học sinh ở lại lớp, giáo viên cần tìm hiểu
nguyên nhân. Nếu do hỏng kiến thức của lớp dưới thì tổ chức bồi dưỡng phụ đạo
để các em theo kịp bạn bè, đề xuất các chính sách hỗ trợ như miễn, giảm học phí
đối với những học sinh có hoàn cảnh kinh tế khó khăn, tạo điều kiện để các em
tiếp tục việc học.
Tôi biết vài trường hợp gia đình không thật sự quá khó khăn nhưng bắt
buộc con em mình nghỉ học để lao động. Nhà trường nên phối hợp với chính

quyền địa phương kiên trì tuyên truyền lay chuyển nhận thức của phụ huynh học
sinh. Học chính là con đường thoát khỏi đói nghèo một cách vững chắc nhất. Nếu
đã vận động nhiều lần nhưng phụ huynh học sinh vẫn buộc con bỏ học thì nhà
nước cũng cần thiết vận dụng những biện pháp chế tài cứng rắn hơn.
Nhanh chóng vận động học sinh trở lại trường : Trước mắt triển khai nhiều
biện pháp nhằm nhanh chóng vận động học sinh trở lại trường. Lãnh đạo trung
tâm yêu cầu các giáo viên có kế hoạch tổ chức phụ đạo, bồi dưỡng học sinh yếu
kém và động viên các gia đình có con em học yếu, hoàn cảnh khó khăn. Đồng
thời, với trách nhiệm và đạo đức nghề nghiệp, mỗi nhà giáo cần làm hết trách
nhiệm để học sinh trở lại trường. Đối với những học sinh gia đình nghèo thường
phải “tha phương cầu thực”, hay đường đi học quá xa thì tổ chức các trường, lớp
bán trú, nội trú để tiện cho các em và gia đình; vận động các cá nhân, tổ chức tài
trợ học bổng để giúp các em có bảo hiểm y tế, có đủ quần áo, sách vở để học tập.
Trung tâm thực hiện việc rà soát, phân loại học sinh vào đầu năm học và
cuối mỗi học kỳ để có kế hoạch phụ đạo học sinh yếu kém, giúp đỡ học sinh có
hoàn cảnh khó khăn, tăng cường mối quan hệ giữa nhà trường, gia đình và xã hội
để kịp thời khắc phục, hạn chế các nguyên nhân có thể dẫn đến tình trạng học sinh
bỏ học, kịp thời huy động những học sinh vừa mới bỏ học tiếp tục đến trường.
Giáo viên chủ nhiệm lớp phải là nhân tố trung tâm trong việc phối hợp tổ chức,
quản lý giáo dục học sinh, thường xuyên quan hệ với gia đình học sinh để có biện
Người thực hiện :

N

N

Trang 5


SKKN 2013


pháp giúp đỡ học sinh, vận động học sinh vừa mới bỏ học đi học lại, tổ chức cho
học sinh thực hiện tốt việc tự học để vươn lên.
Chi bộ trung tâm cần có hội nghị bàn sâu, ra nghị quyết chuyên đề, giao
trách nhiệm cụ thể cho từng đảng viên vận động học sinh trở lại trường, tìm cho
được cách khắc phục, với sự quan tâm, giúp đỡ đặc biệt. Việc bỏ học mỗi học
sinh một lý do, vì vậy giải pháp ở đây từ các xã, phường là giải pháp cho từng học
sinh, cho mỗi nguyên nhân cụ thể.
2. Đối với phụ huynh, học sinh.
Để việc học của học sinh đạt kết quả tốt, không chỉ phụ thuộc vào giáo viên
dạy giỏi, cơ sở vật chất đầy đủ mà phụ thuộc phần nhiều vào nhu cầu, thích thú,
phù hợp nghề của học sinh. Mà phụ huynh còn phải góp phần quan tâm, khuyến
khích động viên các em ý thức trong việc học tập. Định hướng cho học sinh chọn
nghề đúng năng khiếu, sở thích không dẫn đến tình trạng bỏ học giữa chừng.
Các em ở lứa tuổi này vốn có tính hiếu động, thích khám phá, dễ bị kích
động, lôi kéo, thích được tự khẳng định. Một số em do bị ảnh hưởng bởi các phim
ảnh bạo lực, thích được làm “người hùng”, do vậy gia đình thường xuyên tăng
cường giáo dục, định hướng những hành vi chuẩn mực trong quan hệ cư xử, trong
nhận thức cho các em nhưng không quá máy móc, áp đặt, thô bạo. nhiều năm làm
công tác quản lý, giảng dạy đã cho chúng tôi thấy rằng đối tượng học sinh bỏ học,
nguyên nhân chủ yếu có tính quyết định là do gia đình. Nếu gia đình nào tạo ra
một bầu không khí phi đạo đức, thiếu lành mạnh như cha mẹ li hôn, vợ chồng mâu
thuẫn nhau, gia đình có người nghiện ngập ma túy, rượu chè, cờ bạc,… thường
đối xử thô bạo đối với các em thì tỉ lệ học sinh vi phạm nội quy, vi phạm đạo đức
là rất cao. Một số gia đình phụ huynh chỉ biết nuông chiều, thỏa mãn những tính
hiếu kỳ, những ước muốn kỳ quặc của trẻ. Điều này dễ dàng làm nãy sinh ở trẻ
tính cách e ngại lao động, ngại tự phục vụ, gặp những khó khăn, trở ngại đơn giản
là chúng than vãn, thoái thác. Có thể điều này sẽ làm cho trẻ trở thành những kẻ
phung phí tiêu xài quá mức, hoặc trở thành một con người sống ích kỷ đến lạnh
lùng.

Hãy tập cho các em có tính tự lập ngay từ nhỏ và biết chịu đựng, biết khắc
phục những khó khăn thiếu thốn trong cuộc sống đời thường. Phải để cho các em
thấy được sự lao động, vất vả và khó nhọc khi làm ra đồng tiền và sử dụng đồng
tiền như thế nào cho có hiệu quả.
Một nguyên nhân cơ bản là gia đình thiếu quan tâm, kiểm tra, đôn đốc, nhắc
nhở, động viên các em trong học tập, vui chơi. Có gia đình phó thác hẳn việc giáo
dục con cái cho thầy cô giáo, cho nhà trường. Có gia đình thiếu biện pháp giáo
dục, thiếu kết hợp với nhà trường, với các lực lượng giáo dục khác. Không ít gia
đình chỉ biết làm ăn, đầu tư kinh tế, xem nhẹ việc giáo dục con cái. Nếu có nắm
thông tin về con cái thì cũng chung chung, một chiều rất phiến diện.
Người thực hiện :

N

N

Trang 6


SKKN 2013

Góp phần giáo dục làm giảm nguy cơ học sinh bỏ học là một công việc khó
khăn, phức tạp, hết sức nhạy cảm, đòi hỏi sự kiên trì, lòng nhiệt tình, một trách
nhiệm cao, một tình thương chân thành và cần thiết có một sự phối hợp thường
xuyên, chặt chẽ, có hiệu quả từ các lực lượng giáo dục nhất là vai trò của gia đình.
IV. K T
ẢC
ĐỀ TÀI:
a.Số liệu thống kê:
SO SÁNH K T


Ả THỐNG KÊ TÌNH HÌNH BỎ HỌC VÀ VẬN ĐỘNG HỌC
SINH TRỞ LẠI LỚP
Số HS

S
T
T

Khối
lớp

1

Số HS vận động trở
lại lớp

bỏ học

Số % vận động HS
trở lại lớp

2011-2012

2012-2013

2011-2012

2012-2013


2011-2012

2012-2013

10

15

8

4

3

26.66%

37.5%

2

11

4

1

3

1


33.33%

100%

3

12

2

1

1

1

50%

100%

Cộng

21

10

8

5


36.66%

50%

Kết quả trên cũng nhờ vào sự quan tâm cuả ban lãnh đạo trung tâm. Mỗi
giáo viên chủ nhiệm lớp phải lên danh sách những học sinh có nguy cơ bỏ học
(gồm những em có hoàn cảnh kinh tế khó khăn, những em học kém…), phân
nhóm để có biện pháp phù hợp giúp đỡ các em. Điều rất quan trọng là đối với
những học sinh có nguy cơ bỏ học, giáo viên phải siêng tới thăm gia đình các em
để hiểu rõ hoàn cảnh của các em, trò chuyện với các bậc phụ huynh để hiểu được
những suy nghĩ của họ, để thông tin về các loại hình đào tạo, về các chính sách xã
hội…
b. Kết luận.
Khắc phục và hạn chế tình trạng học sinh bỏ học hiện nay đang là bài toán
khó. Tuy nhiên với việc triển khai đồng bộ nhiều biện pháp, thực hiện các giải
pháp một cách tích cực, chủ động; đẩy mạnh hiệu quả công tác tuyên truyền, vận
động sẽ góp phần hạn chế tình trạng học sinh bỏ học. Để làm được điều này, trước
hết về phía nhà trường, giáo viên phải thực sự tạo được môi trường học tập, niềm
đam mê, hứng thú học tập cho học sinh. Mỗi giáo viên không ngừng nâng cao
trình độ chuyên môn để có những tiết giảng lôi cuốn học sinh vào không khí học
tập sôi nổi, hào hứng. Tuy nhiên, nếu chỉ có sự cố gắng từ phía nhà trường, giáo
viên và chính quyền địa phương thôi chưa đủ, mà bản thân mỗi học sinh và gia
đình cần nhận thức rõ mục đích và ý nghĩa thiết thực của việc học tập. Xây dựng
một động cơ học tập đúng đắn đó là: “học cho chính bản thân mình và học để
ngày mai lập nghiệp”.
Người thực hiện :

N

N


Trang 7


SKKN 2013

Vì vậy phải có sự phối kết hợp chặt chẽ, thường xuyên giữa ba lực lượng
giáo dục là gia đình – nhà trường – xã hội thì hiện tượng bỏ học của học sinh sẽ
giảm đi rất nhiều.
IV.ĐỀ X ẤT, KH Y N NGHỊ.
Tăng cường công tác chỉ đạo bồi dưỡng kiến thức chuyên môn nghiệp vụ
cho đợi ngũ, khơi lòng yêu nghề của cán bộ giáo viên.
Đề nghị nên tổ chức quỹ vì học sinh nghèo, quyên góp từ các doanh nghiệp,
tổ chức cá nhân để giúp học sinh nghèo đến trường.
Trên đây là một số biện pháp đã và đang thực hiện tại Trung tâm Kỹ thuật
Tổng hợp - Hướng nghiệp Đồng Nai, xuất phát từ đặc thù riêng của đơn vị trong
việc hạn chế tình trạng học sinh bỏ học và vận động trở lại lớp. Có thể cách này
chưa hay song bước đầu đã thu được một số kết quả. Vậy rất mong được sự góp ý
chỉ đạo của lãnh đạo ngành giáo dục để đạt kết quả cao hơn.
V . TÀI LIỆ TH M KHẢO:
1. Công văn số: 2092/BGDĐT-VP ngày 14 tháng 3 năm 2008
2. “nguyên nhân và biện pháp chống bỏ học” tác giả Phạm Thanh Bình // nghiên
cứu giáo dục - 1992
3. Báo cáo số 338/BC-TTHN ngày 18 tháng 12 năm 2012 Báo cáo tổng kết hoạt
động năm 2012 của trung tâm KTTH Hướng Nghiệp ĐN.
4. Báo cáo số 93/BC-TTHN ngày 07 tháng 05 năm 2013 báo cáo tổng kết năm
học 2012 – 2013 đối với giáo dục thường xuyên.
5. Tham khảo một số tài liệu trên Internet.
Biên Hòa ngày 16/05/2013


Người thực hiện.

Lương Văn Hà

Người thực hiện :

N

N

Trang 8



×