Tải bản đầy đủ (.pdf) (32 trang)

Quan hệ hợp tác giữa Việt Nam và các tổ chức phi chính phủ quốc tế trong năm năm qua và định hướng tương lai

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (769.81 KB, 32 trang )

Báo cáo kết quả nghiên cứu

Quan hệ hợp tác giữa Việt Nam và các tổ
chức phi chính phủ quốc tế trong năm
năm qua và định hướng tương lai.
Viện nghiên cứu Xã hội, Kinh tế và Môi trường


Mục Lục
Danh mục biểu ................................................................................................................................ 4
1.

Giới thiệu ................................................................................................................................. 5
a.

2.

3.

4.

Phương pháp nghiên cứu................................................................................................. 5

INGOs ở Việt Nam ................................................................................................................. 6
a.

Các lĩnh vực hoạt động của INGOs................................................................................ 6

b.

Nhân sự của INGOs ........................................................................................................ 8



c.

Ngân sách hoạt động ....................................................................................................... 8

d.

Phương pháp tiếp cận .................................................................................................... 10

e.

Địa bàn hoạt động và đối tượng hưởng lợi .................................................................. 12

f.

Vai trò của các tổ chức INGOs ..................................................................................... 13

Đối tác và quan hệ đối tác .................................................................................................... 14
a.

Đối tác của INGOs ........................................................................................................ 14

b.

Quan hệ đối tác .............................................................................................................. 15

c.

Các thách thức trong quan hệ đối tác ........................................................................... 17


Kết quả hoạt động ................................................................................................................. 18
a.

Phát triển kinh tế xóa đói giảm nghèo .......................................................................... 19

b.

Xây dựng năng lực, trao quyền và tăng cường sự tham gia của người dân ............... 20

c.

Cải thiện khả năng tiếp cận và chất lượng giáo dục .................................................... 21

d. Cải thiện khả năng tiếp cận và chất lượng dịch vụ y tế, nước sạch và phịng chống
HIV ........................................................................................................................................ 22

5.

e.

Bình đẳng giới và quyền phụ nữ và trẻ em .................................................................. 23

f.

Quản lý tài nguyên và thiên tai ..................................................................................... 24

g.

Phát triển xã hội dân sự địa phương ............................................................................. 25


h.

Xây dựng năng lực đối tác và quản trị nhà nước ......................................................... 26

Mơi trường chính sách và các thách thức gặp phải trong hoạt động của INGOs ............. 27
a.

Mơi trường chính sách .................................................................................................. 27

b.

Thủ tục hành chính trong việc cấp và gia hạn giấy phép hoạt động .......................... 28

c.

Thẩm định phê duyệt dự án. ......................................................................................... 28

d.

Nghi ngại về hoạt động của INGOs ............................................................................. 29

e.

Minh bạch về chi phí quản lý của INGOs.................................................................... 29

f.

Hài hịa về thủ tục .......................................................................................................... 29
2



6.

g.

Kinh phí quản lý dự án .................................................................................................. 30

h.

Nguồn tài trợ .................................................................................................................. 30

Kết luận và kiến nghị ............................................................................................................ 30

3


Danh mục biểu
Biểu 1: Năm bắt đầu làm việc ở Việt Nam (% các tổ chức) ........................................................ 6
Biểu 2: Lĩnh vực hoạt động của các INGOs ................................................................................. 6
Biểu 3: Số lĩnh vực làm việc trung bình của tổ chức phân loại theo ngân sách hoạt động trung
bình hàng năm (USD) ............................................................................................................. 7
Biểu 5: Trình độ học vấn của nhân viên........................................................................................ 8
Biểu 4: cơ cấu các tổ chức theo số lượng nhân viên .................................................................... 8
Biểu 6: Ngân sách hoạt động của các INGOs từ 2006 - 2010 (USD) ......................................... 9
Biểu 7: tỷ lệ chuyển ngân sách cho các đối tác của các tổ chức INGOs (%) ............................. 9
Biểu 8: Ngân sách dự kiến giai đoạn 2011-2013 của INGOs (USD) ........................................ 10
Biểu 9: Đánh giá của ingos về thái độ của đối tác với các đối tượng hưởng lợi (%) ............... 11
Biểu 10: Các tổ chức INGOs hoạt động vận động chính sách (%) ........................................... 13
Biểu 11: Ảnh hưởng của INGOs tới chính sách ......................................................................... 14
Biểu 12: Số đối tác của các tổ chức INGOs ................................................................................ 15

Biểu 13: Sự tham gia của đối tác địa phương ............................................................................. 16
Biểu 14: đánh giác của INGOs về năng lực của đối tác Việt Nam ........................................... 17
Biểu 15: Quan hệ đối tác của INGOs .......................................................................................... 18
Biểu 16: Mức độ hài lòng của INGOs với đối tác ...................................................................... 26
Biểu 17: Mục đích hoạt động của các INGOs tại Việt Nam ...................................................... 27
Biểu 18: đánh giá của INGOs về mơi trường chính sách của Việt Nam................................... 28
Biểu 19: Đánh giá của INGOs về thủ tục hành chính (%) ......................................................... 28

4


1. Giới thiệu
Các tổ chức phi chính phủ quốc tế (INGOs) đã hoạt động ở Việt Nam hơn hai mươi năm qua và đóng
góp rất lớn cho việc phát triển kinh tế xã hội và xóa đói giảm nghèo. Thành tựu giảm nghèo ngoạn
mục của Việt Nam từ 58% năm 1997 xuống cịn khoảng 12% năm 2010 chắc chắn có phần đóng góp
đáng kể của khoảng 900 tổ chức INGOs và Văn phòng dự án đang hoạt động ở Việt Nam.
Cùng với sự phát triển kinh tế xã hội và hội nhập quốc tế, Việt Nam đã thay đổi rất nhiều so với hai
mươi năm trước đây. Những cơ hội và thách thức của Việt Nam cũng khác rất nhiều so với hai thập
kỷ trước. Nhiều tổ chức INGOs đã và đang điều chỉnh chiến lược hoạt động của mình cho phù hợp
hơn với tình hình mới. Để hỗ trợ tốt hơn cho các tổ chức INGOs hoạt động tốt hơn nữa, PACCOM
muốn tìm hiểu các khó khăn và thách thức, quan hệ đối tác giữa các tổ chức INGOs và chính quyền
trong việc triển khai các dự án phát triển để từ đó đưa ra các giải pháp tháo gỡ từ phía chính quyền
trung ương cũng như đối tác địa phương.
Để giúp cho việc định hướng được khách quan, PACCOM đã hợp tác với Viện nghiên cứu xã hội
kinh tế và môi trường (iSEE) tiến hành nghiên cứu này.
a. Phương pháp nghiên cứu
Nhóm nghiên cứu lựa chọn cả phương pháp thu thập thơng tin định lượng và định tính. Về định
lượng, nhóm nghiên cứu đã lựa chọn phương pháp thu thập thông tin bằng bảng câu hỏi tự điền trên
internet (xem phụ lục 1). Nhóm nghiên cứu thiết kế hai bảng hỏi với nội dung tương tự cho INGOs và
các đối tác của họ. Việc này nhằm thu thập thơng tin từ hai chiều nhằm nhìn nhận kết quả một cách

khách quan hơn. Tuy nhiên, do số lượng bảng hỏi trả lời bởi đối tác rất hạn chế nên khơng đủ độ tin
cậy để phân tích. Chính vì vậy nhóm nghiên cứu chỉ có thơng tin đánh giá từ phía INGOs. Thơng tin
thu thập được được mã hóa để phân tích thống kê (Sử dụng phần mềm SPSS 19) nhằm tìm ra sự khác
biệt về cấu trúc, hoạt động, mục tiêu cũng như các đánh giá về đối tác, về môi trường hoạt động tại
Việt Nam của các INGOs.
Trong quá trình thực hiện nghiên cứu, do những điều kiện khách quan và chủ quan khác nhau nên
nghiên cứu này có một số hạn chế như sau: (i) Việc thực hiện thu thập thông tin bằng bảng hỏi tự điền
trên internet nên có thể chưa tiếp cận được với tất cả các INGOs đang hoạt động tại Việt Nam. Việc
xác định cỡ mẫu cũng như tính đại diện của mẫu điều tra vì thế cũng có hạn chế; (ii) Do là bảng hỏi tự
điền nên mặc dù các câu hỏi đưa ra đều là đơn nghĩa và rõ ràng về mặt ngơn ngữ nhưng cũng vẫn cịn
hạn chế về tính chính xác trong các câu trả lời của người được hỏi; (iii) Thực hiện một bộ câu hỏi lớn,
với nhiều chủ đề khác nhau trên công cụ bảng hỏi tự điền cũng là một trở ngại cho người trả lời, dẫn
đến có thể bị thiếu hụt thơng tin; (iv) Trả lời câu hỏi thang đo 5 cấp độ là một hình thức tương đối mới
do đó cũng là lý do làm cho người trả lời gặp khó khăn khi phải phân biệt và lựa chọn cấp độ trả lời;
(v) Các thống kê, phân tích bằng phương pháp định lượng có thể cho thấy một số phát hiện và nhận
định chung về xu hướng, nhưng việc tìm hiểu sâu để chỉ ra nguyên nhân thì cần kết hợp với nghiên
cứu bằng phương pháp định tính.
Phương pháp thu thập thơng tin định tính được thực hiên chủ yếu thơng qua phỏng vấn bán cấu trúc
và chia làm hai đợt. Đợt một nhóm nghiên cứu gặp đại diện của một số tổ chức INGOs hoạt động
trong một số lĩnh vực khác nhau như OHK, AAV, WWF, WPF, Child Fund và MCNV để tìm hiểu
thông tin sơ bộ về hoạt động của họ. Thông tin này cũng được sử dụng để thiết kế bảng hỏi thu thập
thông tin định lượng cũng như định hướng nghiên cứu thực địa.

5


Nghiên cứu thực địa được thực hiện ở hai tỉnh Thanh Hóa (CRS, CARE) và Yên Bái (World Vision).
Đây là hai tỉnh có khá nhiều INGOs đang hoạt động. Tại mỗi tỉnh, nhóm kiên cứu làm việc với đại
diện của UBND tỉnh, huyện, xã và Ban quản lý dự án. Nhóm cũng gặp các hộ gia đình phỏng vấn sâu
cũng như thăm các hoạt động dự án ở thôn bản. Vì điều kiện kinh phí có hạn, nên nhóm nghiên cứu

không thể đi thực địa nhiều hơn, thăm nhiều dự án của INGOs và gặp nhiều đối tác địa phương hơn
cũng như người hưởng lợi. Chính vì vậy, thơng tin định tính cũng chỉ mang tính minh họa một phần
chứ khơng có tính đại diện cho hoạt động của tất cả các INGOs ở Việt Nam. Trong phần phân tích,
nhóm nghiên cứu chỉ có thể sử dụng thơng tin từ các tổ chức đã gặp cũng như một số báo cáo thứ cấp
thu thập được.

2. INGOs ở Việt Nam
Nhiều INGOs đã hoạt động ở Việt Nam từ thời chiến tranh và theo Nguyễn Kim Hà trích nguồn từ
một báo cáo của MCNV , Secours Populaire Francais có
Biểu 1: Năm bắt đầu làm việc ở Việt
thể là tổ chức INGOs đầu tiên hoạt động tại Việt Nam vào Nam (% các tổ chức)
năm 1948. Khi chiến tranh kết thúc cùng sự cấm vận của
Hoa Kỳ vào năm 1979 hầu như không cịn INGOs nào
hoạt động ở Việt Nam. Nhờ chính sách đổi mới năm 1986,
15.4
Việt Nam thu hút nhiều tổ chức INGOs đến hoạt động.
35.2
Với sự ra đời của Ủy ban điều phối viện trợ nhân dân
(PACCOM) vào năm 1989, số lượng INGOs hoạt động ở
49.5
Việt Nam tăng mạnh. Theo kết quả điều tra trình bày ở
biểu đồ 1, phần lớn các tổ chức phi chính phủ đang hoạt
động đã đến Việt Nam trong giai đoạn từ năm 1990 đến
năm 2000 (chiếm 49,5%). Điều này chứng tỏ thành công
< 1990 1990 - 2000 > 2000
của chính sách đối ngoại cởi mở của Việt Nam cũng như
hoạt động của PACCOM trong việc kêu gọi viện trợ để
phát triển kinh tế xã hội và xóa đói giảm nghèo.
Cho đến nay, theo báo cáo của PACCOM thì có khoảng 900 tổ chức INGOs và Văn phòng đại diện
dự án đang hoạt động trong rất nhiều lĩnh vực khác nhau ở hầu hết các tỉnh và Thành phố của Việt

Nam. Dưới đây, báo cáo sẽ giới thiệu chi tiết về các tổ chức cũng như hoạt động của họ.
a. Các lĩnh vực hoạt động của INGOs
Lĩnh vực hoạt động của INGOs thường được xác Biểu 2: Lĩnh vực hoạt động của các INGOs
định dựa trên tơn chỉ mục đích của tổ chức như (số tổ chức)
Oxfam là xóa đói giảm nghèo, giải quyết bất bình
đẳng xã hội, sự tham gia của người dân và trách
nhiệm của nhà nước; World Population
Foundation thì xác định lĩnh vực hoạt động của
mình là quyền và sức khỏe tình dục (SRH); WWF
là bảo vệ môi trường và tài nguyên thiên nhiên,
Quỹ cứu trợ nhi đồng là quyền trẻ em và FHI là
sức khỏe và chất lượng cuộc sống. Dựa vào điều
kiện kinh tế xã hội của địa phương và nhu cầu của
người dân, INGOs sẽ cụ thể hóa các dự án can
thiệp của mình.

60
50
40
30
20
10
0

53

53

57


27

25
9

Phát Giáo Y tế
triển dục sức
kinh tế
khỏe
xã hội

giảm
nghèo

14

15

Văn Nhân Bình Quản Phát
hóa quyền đẳng trị nhà triển
giới nước xã hội
dân
sự

6


Nhìn chung các lĩnh vực hoạt động của INGOs rất phong phú nhu cầu về viện trợ nước ngoài của các
địa phương cịn rất lớn và đa dạng. Ví dụ như ở Yên Bái nhu cầu có các dự án về cơ sở hạ tầng, nước
sạch, thủy lợi nhỏ, văn hóa xã hội, vệ sinh mơi trường, biến đối khí hậu hoặc hỗ trợ sản xuất cho

những xã khó khăn được tỉnh chú trọng ưu tiên. Ở Thanh Hóa, những vấn đề như nước sạch, trồng
rừng ngập mặn, phòng chống thiên tai được quan tâm đặc biệt. Bên cạnh đó, phịng chống HIV, dịch
bệnh và biến đối khí hậu là vấn đề chung của cả nước, không kể thành thị hoặc nông thôn.
Đáp ứng nhu cầu đa dạng của Việt Nam, các tổ chức INGOs hoạt động trong rất nhiều lĩnh vực khác
nhau. Khoảng một nửa các tổ chức hoạt động trong 2 đến 4 lĩnh vực và một phần tư chỉ tập trung vào
một lĩnh vực chuyên môn của mình. Theo biểu đồ 2 ở bên, đa số các INGOs đang hoạt trong lĩnh vực
phát triển kinh tế, xóa đói giảm nghèo và cung cấp dịch vụ xã hội như y tế và giáo dục. Đây là những
lĩnh vực INGOs rất có kinh nghiệm và đã thực hiện ngay từ ngày đầu đến Việt Nam.
Về sự tương đồng giữa ngân sách và số lĩnh vực hoạt động, theo biểu đồ 3 thì những tổ chức có mức
ngân sách thấp (nhỏ hơn $500.000) có số lĩnh
vực hoạt động trung bình là ba. Những tổ chức Biểu 3: Số lĩnh vực làm việc trung bình của tổ
có ngân sách từ $500.000 trở lên thì có số lĩnh chức phân loại theo ngân sách hoạt động trung
vực hoạt động trung bình từ 3,8 hoặc 4. Nhìn bình hàng năm (USD)
chung các tổ chức INGOs thường có sứ mệnh rõ
ràng, hoạt động khá tập trung trong một số lĩnh 5.0
vực là thế mạnh của mình. Ví dụ như
4.0
4.0
3.8
ADI/VOCA có ngân sách hàng năm rất lớn 3.0
3.0
nhưng chỉ hoạt động duy nhất trong việc thúc
2.0
đẩy phát triển cacao bền vững ở Việt Nam.
1.0
>1.000.000

500.0001.000.000

<500.000


Một xu thế thay đổi khá rõ trong những năm gần 0.0
đây đó là ngồi các lĩnh vực “truyền thống” có
khá nhiều tổ chức bắt đầu hoạt động trong các
lĩnh vực như quyền con người, dân chủ cơ sở,
quản trị nhà nước và phát triển xã hội dân sự.
Xu hướng này được nhiều tổ chức INGOs đề cập trong chiến lược hoạt động của mình trong những
năm tới. Theo nhiều tổ chức INGOs, nhu cầu về xóa đói giảm nghèo đã khơng cịn cấp bách như trước
và chính phủ Việt Nam đã có nhiều nguồn lực hơn để đầu tư cho vùng khó khăn nhờ thành tựu phát
triển kinh tế vượt bậc trong hơn hai thập kỷ qua. Bên cạnh đó, các vấn đề về quyền con người, sự phát
triển của xã hội dân sự và trách nhiệm của nhà nước ngày càng quan trọng cho nỗ lực phát triển toàn
diện và bền vững của Việt Nam.
Trong các cuộc thảo luận với chính quyền địa phương, có cái nhìn khác nhau về xu hướng mới này.
Nhiều cán bộ khẳng định tuy Việt Nam bắt đầu vào ngưỡng thu nhập trung bình nhưng nhu cầu về
phát triển cơ sở hạ tầng, xóa đói giảm nghèo còn rất lớn đặc biệt ở các vùng có đồng bào dân tộc thiểu
số sinh sống. Chính vì vậy, các tổ chức INGOs không nên chuyển nguồn lực sang các lĩnh vực “mềm”
khác. Một số đối tác địa phương cũng e ngại không muốn các tổ chức INGOs làm về vấn đề dân chủ
cơ sở, quản trị nhà nước và quyền con người vì coi đây là những vấn đề nhạy cảm, vấn đề của nhà
nước hơn là của các tổ chức nước ngồi.
Tuy nhiên, cũng có cán bộ địa phương đồng tình với việc INGOs mở rộng hoạt động sang việc xây
dựng năng lực, dân chủ cơ sở, mơ hình phát triển bền vững. Theo họ, chính việc tham gia của người
dân làm tăng trách nhiệm của chính quyền địa phương. Điều này khơng những làm cho chất lượng dự
án được tốt lên mà còn làm cho việc thực hiện dân chủ cơ sở và trách nhiệm giải trình tăng lên. Các
7


kinh nghiệm cụ thể của INGOs trong các lĩnh vực này cũng là các bài học tốt cho Việt Nam áp dụng
trong các chương trình dự án của mình.
Biểu 4: cơ cấu các tổ chức theo số
b. Nhân sự của INGOs

lượng nhân viên
Tính theo số lượng nhân sự tại thời điểm tháng 8 năm
2010, có sự chênh lệch khá lớn giữa các INGOs tham
2.4
3.5
gia nghiên cứu này như trình bày ở biểu đồ 4. Tổ chức ít
30.6
nhất chỉ có 01 nhân sự1 để duy trì sự đại diện hoặc đóng
vai trò là người liên lạc trong nước, trong khi tổ chức
63.5
nhiều nhất có tới 486 nhân sự (RCH International). Tính
bình quân mỗi tổ chức có 19,36 nhân sự. Trong đó, các
tổ chức có qui mơ dưới 10 nhân sự chiếm 63,5%, tiếp
theo là các tổ chức có từ 11 đến 50 nhân sự chiếm
30,6%. Số các tổ chức có từ 51-100 nhân sự chỉ có 2,4%
< 10
11- 50
51 - 100
> 100
và trên 100 nhân sự chỉ có 3,5%.
Biểu 5: Trình độ học vấn của nhân viên
Nam

Nữ

249
206

101 94
56

4

28 26 26

7

Tiến sĩ

Thạc sĩ Đại học

Cao
đẳng

Trung
học trở
xuống

Nhân viên Việt Nam

4

10

Tiến sĩ

42 46 31
28
Thạc sĩ Đại học

4


9

Cao
đẳng

2

7

Trung
học trở
xuống

Nhân viên nước ngồi

Tính trung bình mỗi tổ chức có 12,23 nhân viên Việt Nam, trong đó có 6,07 nữ và 6,16 nam. Số nhân
viên nước ngồi trung bình là 4,26 nhân viên, trong đó 1,72 là nữ và 2,54 là nam2. Đa phần các nhân
Việt Nam và quốc tế làm việc trong các tổ chức INGOs có bằng đại học và trên đại học như được
trình bày ở biểu đồ 5. Rõ ràng đây là một lực lượng lao động đơng đảo và có trình độ cao của Việt
Nam.
c. Ngân sách hoạt động

1

Có sáu tổ chức có 1 nhân sự là LIBRARY OF VIETNAM PROJECT, Courage, METHODIST MISSION SOCIETY
(MMS), The Alliance for Children, Inc, Vets With A Mission, War Legacies Project
2

Nếu lấy tỉ lệ trung bình nhân cho số lượng 900 tổ chức đăng ký hoạt động ở Việt Nam theo PACCOM, có

thể tạm tính có 11.007 nhân viên Việt Nam và 3.834 nhân viên nước ngoài đang làm cho các tổ chức
INGOs ở Việt Nam

8


Ngân sách hoạt động của các tổ chức INGOs cũng rất đa dạng có thể chia thành ba nhóm dựa trên
ngân sách hoạt động năm 2010. Nhóm thứ nhất là các tổ chức có ngân sách hàng năm dưới 500.000
USD, nhóm thứ 2 là nhóm các tổ chức có ngân sách nhiều hơn 500.000 và ít hơn 1.000.000 USD và
nhóm thứ 3 là nhóm các tổ chức có ngân sách trên 1.000.000 USD. Tính trung bình các tổ chức thuộc
nhóm 1 có ngân sách khoảng $187.000 /năm, các tổ chức thuộc nhóm 2 có ngân sách khoảng
$655.000/năm và các tổ chức nhóm ba có ngân sách khoảng $5.600.000/năm. Đa số các tổ chức
INGOs hoặc văn phịng dự án có mức ngân sách nhỏ hơn $500,000/năm (70%), mỗi nhóm cịn lại
chiếm 15%.
Số liệu thu thập cho thấy các tổ chức thuộc nhóm 1 và 2 khơng có nhiều biến động về ngân sách trong
giai đoạn từ 2006 – 2010, trong khi nhóm 3 có sự biến thiên khá lớn như trình bày ở biểu đồ 6 dưới
đây. Các tổ chức thuộc nhóm 3 tính trung bình năm 2007 có ngân sách thâp nhất trong 5 năm qua
nhưng sau đó đã tăng liên tiếp trong 2 năm 2008 và 2009, đến năm 2010 lại có xu hướng giảm xuống.
Tuy nhiên, số liệu thu thập được vào
Biểu 6: Ngân sách hoạt động của các INGOs từ
thời điểm chưa kết thúc năm 2010
2006 - 2010 (USD)
nên xu hướng giảm này có thể sẽ thay
đổi khi có báo cáo tổng kết chính
8000000
thức tồn bộ năm 2010 của các tổ
chức.
6000000
4000000
2000000

0
2006

2007

<500000

2008

2009

500000-1000000

2010
>1000000

Biểu 7: tỷ lệ chuyển ngân sách cho các đối tác
của các tổ chức INGOs (%)
100
80
60
40
20
0
2006
<500000

2007

2008

500000-1000000

2009

2010
>1000000

Ngân sách từ các INGOs được
chuyển cho các đối tác ở cả 3 nhóm
có xu hướng biến thiên khá giống
nhau trong 5 năm vừa qua và khơng
có nhiều biến đổi. Tuy nhiên, một
phát hiện khá thú vị là những tổ chức
có ngân sách thấp hơn thì lại có tỉ lệ
ngân sách chuyển cho đối tác cao hơn
như biểu đồ 7 dưới đây. Tỉ lệ chuyển
tiền cho đối tác trung bình trong 5
năm gần đây của nhóm có ngân sách
dưới 500.000 USD/năm là 74,4%, của
nhóm 500.000-1.000.000USD/năm là
59,35%

nhóm
trên
1.000.000USD/năm là 39,68%). Theo
kết quả nghiên cứu thì đa số (77,6%)
các tổ chức INGOs dùng hình thức
chuyển khoản và 12.2% trả bằng tiền
mặt hoặc séc. Tuy nhiên, vẫn có đến
26,5% tổ chức vẫn dùng cách thanh

tốn trực tiếp các hoạt động triển khai
bởi đối tác.

Ngân sách dự kiến trong 3 năm sắp tới từ 2011- 2013 được trình bày ở biểu đồ 8. Nhìn chung các tổ
chức đều dự kiến sẽ tăng ngân sách hoạt động, tuy nhiên đối với nhóm 2 và nhóm 3 thì xu hướng tăng
9


này chỉ kéo dài đến năm 2012 và có dự báo giảm ngân sách vào năm 2013. Có thể các tổ chức này có
nguồn ngân sách dựa vào các nhà tài trợ khá lớn và hiện tại khá nhiều nhà tài trợ có ý định rút khỏi
Việt Nam vào những năm 2013-2015.
Biểu 8: Ngân sách dự kiến giai đoạn 2011-2013 của
INGOs (USD)

Các nguồn tài trợ của INGOs là khơng
hồn lại. Để tăng hiệu quả hoạt động

Thousands

cũng như tính sở hữu và trách nhiệm
của địa phương, 30,6% các tổ chức
3,958
3,795
INGOs có chính sách u cầu địa
3,596
phương cùng đóng góp vào dự án.
Trong số đó tỷ lệ đóng góp của đối tác
địa phương chiếm từ 5% đến 40%,
trung bình là 27,14%, cịn tỷ lệ đóng
722

724
699
góp của người dân từ 4% đến 70%,
404
361
304
trung bình là 30,8%. Hình thức đóng
2011
2012
2013
góp của người dân rất đa dạng có thể
<500.000
500.000-1.000.000
>1.000.000
bằng tiền mặt, cơng lao động hoặc vật
liệu sẵn có ở địa phương. Nhiều tổ
chức INGOs cho rằng việc đóng góp khơng chỉ tăng quy mơ đầu tư mà cịn tăng sự tham gia và tính
sở hữu của người dân địa phương từ đó nâng cao hiệu quả dự án. Ví dụ như tổ chức CARE trong một
dự án nhỏ hỗ trợ cộng đồng ở Thanh Hóa có tổng kinh phí là 256 triệu VND thì CARE cung cấp các
trang thiết bị với giá trị 178 triệu VND cịn người dân đóng góp ở mức 80.000 VND/khẩu khơng tính
người già và trẻ em. Tương tự như vậy, các hoạt động xây dựng cơ sở hạ tầng của World Vision ở
Yên Bái cũng có yêu cầu người dân đóng góp cơng lao động và vật liệu sẵn có ở địa phương (cát, sỏi)
và tổng giá trị lên đến 10% ngân sách dự án.
4,500
4,000
3,500
3,000
2,500
2,000
1,500

1,000
500
-

d. Phương pháp tiếp cận
Phương pháp hoạt động phổ biến được áp dụng là phương pháp có sự tham gia của người dân với
70.5% tổ chức trả lời có sử dụng phương pháp này. Bên cạnh đó, cũng có 24.6% tổ chức có áp dụng
phương pháp tiếp cận theo quyền và một tỉ lệ tương tự có tính đến nhạy cảm văn hóa.
Phương pháp triển khai dự án có sự tham gia của người dân được nhìn nhận khá tích cực bởi chính
quyền địa phương và người dân. Một đối tác của tổ chức Tầm nhìn thế giới ở huyện Văn Yên tỉnh
Yên Bái có nói “mọi thứ đều điều tra từ người dân lên, nếu có gì khơng phù hợp thì gặp gỡ trao đổi lại
để tìm ra sự đồng thuận. Điều quan trọng là tiêu chí lựa chọn phải do người dân đưa ra và quyết định.”
Ý kiến này cũng được đồng tình ở Thanh Hóa khi lãnh đạo tỉnh thể hiện sự tâm đắc và ủng hộ INGOs
vì INGOs trực tiếp làm việc với người dân, lắng nghe và quan tâm tới an sinh xã hội và đời sống
người dân, nhằm giúp những đối tượng nghèo thoát nghèo.
Sự tham gia của người dân được các tổ chức INGOs nhấn mạnh trong toàn bộ chu trình dự án. Sự
tham gia này thường bắt đầu từ khâu khảo sát nhu cầu và lập kế hoạch dự án. Có lẽ, đây là một trong
những khác biệt quan trọng mà chính quyền địa phương và người dân đều thừa nhận và tạo ra sự khác
biệt của INGOs. Nó đảm bảo các can thiệp đúng với nhu cầu của người dân, từ đó lơi kéo sự tham gia
đóng góp cũng như tăng chất lượng dự án. Nhiều tổ chức đã thể chế sự tham gia của người dân trong
chính sách của mình và u cầu đối tác và nhân viên cùng thực hiện. Hơn nữa, sự tham gia cũng là
một trong những mục đích mà các tổ chức INGOs vận động đối tác địa phương áp dụng. Trong một
chừng mực nào đó, có thể nói là đã thành cơng vì nhiều chương trình quốc gia cũng như hoạt động
của địa phương đã bắt đầu áp dụng phương pháp này.
10


Chính vì muốn huy động sự tham gia tối đa nên các tổ chức INGOs thường làm trực tiếp với cấp cơ
sở, cấp trực tiếp triển khai hoạt động. Điều này quyết định các thủ tục tài chính như đầu tư trực tiếp
tới địa phương, không qua cấp trung gian huyện, mọi hoạt động thanh toán, giải ngân đều ở địa

phương. Việc phân cấp trong việc triển khai dự án, quản lý cũng được đánh giá rất cao. Chính các
kinh nghiệm này góp phần nâng cao năng lực của cấp cơ sở cũng như góp phần vào q trình phân
cấp trong việc quản lý các chương trình chính sách của Việt Nam. Điều quan trọng là đảm bảo người
trực tiếp liên quan đến dự án có thể biết thơng tin và có quyền ra quyết định.
Phương pháp tiếp cận dựa trên quyền được nhiều tổ chức như AAV, CARE, Oxfam, Save the
chirldren, WPF, và FHI áp dụng. Các tổ chức này thường có các dự án triển khai nâng cao năng lực và
nhận thức của người dân (right holders) và chính quyền địa phương (duty bearers). Đây cũng là các tổ
chức tham gia nhiều nhất vào các hoạt động mạng lưới, vận động chính sách và hỗ trợ sự phát triển
của các tổ chức xã hội dân sự địa phương. Các tổ chức này không ngại bày tỏ quan điểm chính trị
trong đói nghèo, quyền con người cũng như các vấn đề nhức nhối khác như dân chủ cơ sở, tham
nhũng và trách nhiệm giải trình của nhà nước. Theo các tổ chức này, việc áp dụng phương pháp tiếp
cận dựa trên quyền có thể giúp cho họ và đối tác hiểu hơn về nguyên nhân của đói nghèo, bất bình
đẳng để có những giải pháp tồn diện hơn.
Tuy nhiên khi đề cập phương pháp tiếp cận dựa trên quyền nhiều đối tác địa phương thấy nhậy cảm
và có nơi không muốn làm. Trên thực tế, quyền con người vẫn là một chủ đề còn bị né tránh đặc biệt
ở cấp cơ sở. Nhiều người cho rằng đây không phải là vai trị của INGOs mà là cơng việc nội bộ của
Việt Nam. Tuy nhiên, khi thực hiện các chủ đề này trong khuôn khổ pháp luật của Việt Nam, cụ thể
trong dự án và tiến hành từ từ, có nghiên cứu trao đổi kỹ càng thì đối tác cũng đồng ý hợp tác và triển
khai. Các INGOs thành công trong việc trao đổi và áp dụng phương pháp này thường bắt đầu bằng
việc sử dụng các khung pháp luật của Việt Nam như Nghị định dân chủ cơ sở, Luật bình đẳng giới
hoặc Luật phịng chống HIV
Biểu 9: Đánh giá của INGOs về thái độ của đối tác với
để tạo ra niềm tin cũng như
các đối tượng hưởng lợi (%)
tránh cảm giác áp đặt từ bên
60.0
ngồi vào.
47.8

41.3


42.4

Đối tác ln coi trọng sự tham gia
của phụ nữ

45.7

Đối tác luôn tôn trọng ý kiến của
người hưởng lợi

50.0

46.7

43.5

Đối tác không định kiến người
có HIV

Đối tác khơng định kiến với
người khuyết tật

Đối tác khơng có định kiến với
người dân tộc thiểu số

Đối tác ln coi trọng văn hóa
của cộng đồng người hưởng lợi

Đối tác nhắm đúng đối tượng

hưởng lợi dự án mà INGOs
mong muốn

Bình đẳng giới, nhậy cảm văn
40.0
34.8
hóa và khơng định kiến, kỳ thị
và phân biệt đối xử cũng là một 30.0
phương pháp tiếp cận dược hầu 20.0
hết các tổ chức INGOs coi
10.0
trọng. Những tổ chức làm với
.0
người dân tộc thiểu số, người
có HIV hoặc người khuyết tật
rất quan tâm đến các nguyên
tắc này. Nhiều tổ chức coi đây
là một trọng tâm trong việc xây
dựng năng lực cho đối tác.
Theo kết quả nghiên cứu trình
bày ở biểu đồ 9 dưới đây, chỉ
có gần một nửa số INGOs tham
gia nghiên cứu hài lòng với thái độ của đối tác với các đối tượng hưởng lợi của dự án. Điều đó chứng
tỏ cịn khá nhiều việc phải làm nhằm xóa bỏ định kiến và tăng cường sự tham gia cũng như tiếng nói
thực sự của các đối tượng thiệt thòi hơn trong xã hội.
11


Xây dựng mơ hình và thăm quan học tập là phương pháp mà INGOs sử dụng khá nhiều khi muốn giới
thiệu và áp dụng một phương pháp, kỹ thuật hoặc nội dung can thiệp mới. Từ các mơ hình thực hiện

thành công, INGOs và đối tác sẽ đúc kết thành các bài học để nhân rộng hoặc giới thiệu cho chính phủ
áp dụng và xây dựng chính sách. Phương pháp này được áp dụng cho các hoạt động sinh kế bền vững,
giới thiệu phương pháp quản lý tài nguyên dựa vào cộng đồng, tổ nhóm nơng dân, phương pháp canh
tác đất dốc, phòng chống HIV, dự án quản lý cơ sở hạ tầng dựa vào cộng đồng, phương pháp giảng
dậy lấy học sinh làm trung tâm.
Tuy nhiên, có nhiều nhận xét về tính khả thi và khả năng nhân rộng của các mơ hình do INGOs xây
dựng. Theo đối tác, chi phí quản lý, hỗ trợ kỹ thuật từ chuyên gia và sự tham gia của người dân
thường đẩy giá thành mơ hình lên q cao làm cho ngân sách của nhà nước khó lịng đáp ứng. Trong
trao đổi, nhiều gợi ý là việc nhân rộng mơ hình khơng nhất thiết phải là copy mơ hình mà nên tập
trung nhân rộng các ngun tắc của mơ hình như sự tham gia của người dân, vai trò của các bên, kỹ
thuật mới hoặc giống mới. Việc nhân rộng nên được coi là sự đơn giản hóa mơ hình và xây dựng
thành hướng dẫn hoặc chính sách. Trên thực tế, có rất nhiều mơ hình đã thành cơng như việc thể chế
hóa sự tham gia của người dân trong việc xây dựng cơ sở hạ tầng nơng thơn, chương trình 135 hoặc
việc tơn trọng quyền và tính bảo mật của người có HIV. Có lẽ, việc xây dựng mơ hình và thăm quan
vẫn là một phương pháp hiệu quả của INGOs cho người dân cũng như chính phủ.
BOX 1: Để thuyết phục đối tác địa phương và phụ huynh đầu tư vào giáo dục cho con em mình,
CRS đã tổ chức đi thăm quan cho một đoàn gồm 2 thành viên Ban giám hiệu, 15 giáo viên và 25
phụ huynh đại diện cho các lớp, Bí thư Đồn và Chủ tịch Hội phụ nữ đến trường mầm non Tân
Sơn ở TP. Thanh Hóa. Sau chuyến đi, chính quyền địa phương, nhà trường và phụ huynh đã nhận
ra sự thiệt thòi của con em mình trong việc tiếp cận cơ sở vật chất và phương pháp giáo dục mới.
Sau chuyến đi, tất cả các bên đã ngồi lại và bàn bạc kế hoạch xây dựng trường theo từng bước:
hoàn chỉnh khu nhà 6 tầng, làm lại sân sau, thuê hoạ sĩ vẽ tường, thiết kế môi trường xanh - sạch đẹp, đặt các bồn hoa, kêu gọi đầu tư trị chơi ngồi trời nhằm nâng cao thể chất cho học sinh, thu
hút đông học sinh tới trường hơn.

e. Địa bàn hoạt động và đối tượng hưởng lợi (kiểm tra lại)
Các tổ chức INGOs hoạt động rộng khắp ở các địa bàn khác nhau khơng những ở miền núi (32,8%),
nơng thơn (35,8%) mà có một tỉ lệ đáng ngạc nhiên các tổ chức có làm ở vùng đơ thị (38,8%). Có thể
vấn đề nghèo đô thị, di dân, các vấn đề về HIV, dân chủ cơ sở, quyền con người, thích nghi với biến
đổi khí hậu, vận động chính sách ngày càng được quan tâm.
Việc lựa chọn địa bàn hoạt động của INGOs phụ thuộc vào chiến lược và ưu tiên của tổ chức. Ở địa

phương nào có vấn đề quan tâm nổi cộm thì sẽ được ưu tiên lựa chọn bên cạnh các tiêu chí như đối
tác, khả năng tiếp cận địa bàn cũng như tính đại diện về vùng địa lý. Ví dụ như Oxfam Anh và Oxfam
Hồng Kong chỉ tập trung vào các tỉnh có đồng bào người dân tộc thiểu số vì đối tượng họ ưu tiên là
người dân tộc thiểu số. Các tổ chức làm về HIV như FHI và PACT thì tập trung vào các địa bàn nóng
như Hà Nội, TP. Hồ Chí Minh, Cần Thơ, Quảng Ninh, Hải Phịng, Điện Biên nơi có tỉ lệ người có
HIV và rủi ro lây nhiễm cao. Số địa bàn hoạt động phụ thuộc vào ngân sách cũng như tính đại diện
cần có. Ví dụ như xxx chỉ hoạt động ở xxx địa bạn trong khi một số tổ chức khác thì hoạt động ở rất
nhiều vùng khác nhau như MCNV có hoạt động ở 16 tỉnh hoặc AAV có hoạt động ở 18 tỉnh trên khắp
cả nước.

12


Song song với địa bàn, người nghèo nông thôn (55,2%), trẻ em (53,7%), phụ nữ (40,3%) người dân
tộc thiểu số (38,8%), người khuyết tật (32,8%), người nghèo đô thị (26,9%) là những đối tượng chủ
yếu của INGOs. Bên cạnh đó, cũng có nhiều tổ chức quan tâm đến người có HIV, người lớn tuổi,
thanh niên, người đồng tính/MSM và người di cư. Rõ ràng, hoạt động của các tổ chức INGOs khơng
chỉ cịn tập trung vào vấn đề xóa đói giảm nghèo ở nông thôn miền núi mà đã dần dần mở rộng qua đô
thị cũng như các vấn đề và đối tượng đặc thù khác.
f. Vai trò của các tổ chức INGOs
Các tổ chức INGOs có nhiều vai trị khác nhau trong việc triển khai dự án. Đa số trong số họ coi
mình có vai trị hỗ trợ tài chính (76,1%), hỗ trợ kỹ thuật (58,2%) và hỗ trợ phương pháp (52,2%). Bên
cạnh đó, tương ứng cũng có tới 41,8% và 44,8% tổ chức coi mình có vai trị là người triển khai hoặc
đồng triển khai dự án với đối tác địa phương. Điều này cũng phản ánh đúng cách nhìn phổ biến của
các INGOs – họ coi mình là đối tác hỗ trợ, cùng đồng hành với đối tác địa phương hơn chỉ đơn thuần
là nhà tài trợ. Các tổ chức INGOs tin rằng, song song với tài chính thì các hỗ trợ về kỹ thuật và
phương pháp sẽ đảm bảo chất lượng dự án. Chính vì vậy mà 68,8% và 64% tổ chức được hỏi cho rằng
phương pháp triển khai dự án và kiến thức kỹ thuật là đóng góp quan trọng nhất của INGOs trong khi
chỉ có 24,6% cho rằng tài chính là đóng góp quan trọng nhất của họ cho đối tác.
Một vai trò phổ biến của INGOs được cả chính quyền địa phương, người dân và bản thân các INGOs

thừa nhận đó là hỗ trợ giải quyết các vấn đề ở cộng đồng. Nhiều đối tác địa phương tỉnh Thanh Hoá
và Yên Bái coi INGOs là kênh hỗ trợ người nghèo - nhóm đối tượng dễ bị tổn thương mà Nhà nước
chưa quan tâm hết được. Khi được hỏi về vai trò của INGOs, người dân và cán bộ địa phương thường
nhắc đến vai trị cứu trợ nhân đạo, cung cấp tín dụng, phát giống mới hoặc xây dựng cơ sở hạ tầng
nông thôn của INGOs. Có lẽ, điều này cũng đúng vì đây là công việc quan trọng nhất cũng như được
đầu tư nhiều nhất của hầu hết các INGOs hoạt động ở Việt Nam.
Ngồi vai trị đóng góp trực tiếp vào thay đổi cuộc sống của người hưởng lợi, các INGOs còn có vai
trị chia sẻ kinh nghiệm, phương pháp làm cũng như xây dựng chương trình quốc gia, chính sách và
khung pháp lý cho những vấn đề liên quan. Nhiều INGOs như Oxfam, CARE, AAV, E&D, đóng góp
trực tiếp cho việc xây dựng chương trình 135 của Ủy ban dân tộc (CEMA) và chính sách trợ cấp xã
hội của Bộ LĐTB&XH (MOLISA); các tổ chức như FHI, PACT, PATH, etc. tham gia vào việc xây
dựng luật phòng chống HIV, các tổ chức như PyD và Oxfam tham gia vào việc xây dựng luật bình
đẳng giới, CARE tham gia xây dựng chiến lược phịng chống thiên tai và biến đổi khí hậu quốc gia.
Việc đóng góp này được thực hiện qua nhiều kênh như các dự án hỗ trợ trực tiếp cho cơ quan hoạch
định chính sách, đối tác địa phương, diễn đàn quốc gia hoặc thông qua các nhà tài trợ song phương và
đa phương.
Mức độ tham gia hoạt động vận động chính sách của INGOs ở các lĩnh vực khác nhau là khác nhau
như được trình bày ở biểu đồ 10 dưới đây. Nhiều tổ chức coi việc tham gia vận động chính sách như
một phần khơng thể thiếu trong
hoạt động của mình như Oxfam,
20.0
18.5
17.4
ICCO và E&D.
Biểu
18.0 10: Các tổ chức INGOs hoạt động vận động
chính
sách (%)
16.0
14.0

10.9

12.0

9.8

10.0
8.0
6.0

4.3

4.3

4.0

Hoạt động vận động chính sách
được thực hiện qua nhiều cách
khác nhau như (i) xây dựng năng
lực của cơ quan xây dựng chính
sách; (ii) xây dựng mơ hình và
đúc kết kinh nghiệm để chia sẻ;

2.0
.0
Phát triển
kinh tế xã
hội và xóa
đói giảm
nghèo


Giáo dục

Y tế sức
khỏe

Văn hóa

Quyền con Quản trị
người
nhà nước

13


(iii) thu thập thông tin và ý kiến của người dân về chính sách và (iv) trao đổi ý kiến chuyên gia để
thảo luận về chính sách. Một số tổ chức tập trung vào khâu xây dựng chính sách để đảm bảo nội dung
chính sách phù hợp và có lợi cho đối tượng quan tâm. Rất nhiều tổ chức tập trung vào khâu triển khai
chính sách vì họ tin rằng chính sách của Việt Nam tương đối tốt nhưng triển khai thì lại chưa tốt. Bên
cạnh đó, nhiều tổ chức hoạt động ở các địa phương nơi chính sách được thực thi nên có nhiều cơ hội
tham gia hơn. Theo kết quả nghiên cứu, có 46% tổ chức được hỏi cho rằng hoạt động của mình có ảnh
hưởng lên chính sách của chính phủ tuy nhiên mức độ ảnh hưởng có khác nhau. Các tổ chức INGOs
cho rằng mình tạo ra ảnh hưởng về phương pháp triển khai chính sách là nhiều nhất (70.30%) và
khoảng một nửa cho rằng ḿnh có gây tác động đến nội dung và ảnh hưởng của chính sách như kết
quả thể hiện trong biểu đồ 11.
Một vai trị mà ít khi được đề cập đến
trong văn bản chính thức đó là cầu nối
thơng tin giữa Việt Nam và các nước
trên thế giới, trong một chừng mực nào
Tác động của chính sách

48.15%
đó có thể gọi là ngoại giao nhân dân.
Trên thực tế, có rất nhiều giao lưu giữa
Việt Nam và các nước thông qua nhân
Phương pháp triển khai
70.37%
viên, người dân và các nhà tài trợ của các
tổ chức phi chính phủ. Hình thức có thể
qua các chuyến thăm làm việc, hội thảo
Nội dung chính sách
55.56%
hoặc trao đổi kinh nghiệm. Trong chừng
mực nào đó, đây là một kênh thơng tin
về Việt Nam, đặc biệt là các chính sách
0.00% 20.00% 40.00% 60.00% 80.00%
về xóa đói giảm nghèo, điều kiện kinh tế
xã hội cũng như những thay đổi của Việt Nam với bạn bè quốc tế. Kinh nghiệm làm việc của INGOs
với chính phủ, đối tác và người dân chắc chắn sẽ ảnh hưởng đến hình ảnh của Việt Nam. Điều này
được khẳng định bởi lãnh đạo tỉnh Thanh Hóa khi nói INGOs “là kênh thu hút thêm vốn và mở rộng
quan hệ đối ngoại, từ đó nâng cao hình ảnh của Thanh Hố với thế giới cũng như giới thiệu về một
môi trường cởi mở, thân thiện nơi đây.”
Biểu 11: Ảnh hưởng của INGOs tới chính sách

Một vai trị mà nhiều INGOs khơng thừa nhận đó là tính đại diện cho người dân trong việc giải quyết
các vấn đề của họ. INGOs coi mình là người hỗ trợ, cầu nối hơn là người đại diện. Tuy nhiên, do cách
làm và chủ đề làm đặc biệt là sự tham gia, dân chủ cơ sở mà nhiều địa phương đặt câu hỏi về tính đại
diện của các INGOs trong việc đưa tiếng nói của người dân lên các cấp chính quyền. Điều này cũng là
một câu hỏi mà một số đại diện của INGOs đưa ra. INGOs đang đại diện cho ai? Liệu INGO có là
tiếng nói đại diện của người dân địa phương khơng? Liệu INGOs có thể là cầu nối giữa người dân
Việt Nam và chính phủ Việt Nam? Trong các cuộc phỏng vấn, các INGOs thường phủ nhận vai trị

này và cho rằng chỉ có các tổ chức Việt Nam và người Việt Nam mới có vai trò đại diện này.

3. Đối tác và quan hệ đối tác
a. Đối tác của INGOs
Về số đối tác của tổ chức INGOs qua khảo sát cho thấy có sự khác biệt giữa các nhóm tổ chức theo
qui mơ ngân sách. Các tổ chức thuộc nhóm 1 và 2 có ít đối tác hơn hẳn so với nhóm 3. Đối tác của
nhóm 1 và 2 thường là đối tác phi chính phủ trong khi đó đối tác của các tổ chức thuộc nhóm 3 (nhóm
có ngân sách hoạt động lớn trên 1 triệu USD) thường là các đối tác chính phủ như biểu đồ 12 dưới
đây.
14


Biểu 12: Số đối tác của các tổ chức INGOs
45

42

40
35
30
25
20
15
10
5

13

12
4


4

12
7

6
0

0
<500000

500000-1000000

Điều này được giải thích là nhiều tổ
chức có ngân sách lớn xác định đối
tác là chính quyền địa phương vì cho
rằng chính quyền địa phương có năng
lực tốt hơn, tạo được cơ hội tiếp cận
địa bàn tốt hơn, và có nhiều cơ hội
gây ảnh hưởng và thay đổi cách làm
và chính sách của Việt Nam tốt hơn.
Bên cạnh đó, cũng có người cho rằng
đây là một sản phẩm của lịch sử.
Trước đây, INGOs mới vào Việt Nam
chưa có nhiều tổ chức phi chính phủ
địa phương nên họ buộc phải làm với
các cơ quan chính phủ và việc này
vẫn kéo dài đến bây giờ.


>1000000

Một số người cho rằng các tổ chức
phi chính phủ Việt Nam dù đã phát
triển về số lượng nhưng còn yếu về
năng lực, thiếu về kỹ năng nên chưa triển khai được các dự án lớn. Bên cạnh đó, đa số các tổ chức phi
chính phủ Việt Nam có văn phịng ở Hà Nội, nhân viên là người Hà Nội nên các tổ chức INGOs cảm
thấy nếu triển khai các dự án ở các tỉnh thì việc đối tác với chính quyền địa phương có nhiều thuận lợi
hơn. Trong khi đó, số lượng các tổ chức phi chính phủ có văn phịng và hoạt động ở các tỉnh chưa
nhiều.
Đối tác chính phủ

Đối tác phi chính phủ

Khác

Các INGOs thường chọn đối tác có chức năng nhiệm vụ phù hợp với nội dung dự án. WWF thường
làm việc với cơ quan kiểm lâm hoặc ban quản lý rừng quốc gia, MCNV làm việc với các cơ quan y tế,
WPF làm với trường đại học trong các chương trình giáo dục tính dục hoặc PyD làm với Hội phụ nữ
về bình đẳng giới và chống bạo lực gia đình và FHI làm với các cơ quan phòng chống HIV. Một trong
những nguyên tắc quan trọng của INGOs là hỗ trợ đối tác địa phương thực hiện tôt chức năng nhiệm
vụ và mục đích cơng việc của họ, và có tới 77% tổ chức được hỏi đồng ý với quan điểm này.
b. Quan hệ đối tác
Cũng giống như bất cứ cơ quan nào, các tổ chức INGOs rất coi trọng quan hệ với chính quyền địa
phương. Với họ, quan hệ tốt với chính quyền địa phương chỉ để có giấy phép hoạt động mà cịn có
được sự hỗ trợ trong khó khăn. Mối quan hệ này được xây dựng dựa vào nhiều yếu tố khác nhau.
Nhìn chung quan hệ đối tác giữa các tổ chức INGOs và chính quyền được dựa trên mục đích chung đó
là giúp cho người dân địa phương xóa đói giảm nghèo, phát triển xã hội và văn hóa. Trong các cuộc
họp ở Thanh Hóa và Yên Bái chính quyền địa phương rất ủng hộ hoạt động của INGOs vì hoạt động
của INGOs phù hợp với chiến lược phát triển kinh tế xã hội của địa phương. Các đối tác địa phương

cũng đánh giá cao việc INGOs tôn trọng pháp luật của nhà nước và quy định của địa phương, và tham
vấn ý kiến chính quyền địa phương về hoạt động của họ.
Một trong những nền tảng của quan hệ đối tác là thực hiện các cam kết của mình. Chính quyền địa
phương đánh giá rất cao việc các INGOs thực hiện các cam kết về tài chính, hỗ trợ kỹ thuật cũng như
chất lượng dự án. Các đối tác địa phươn cho rằng phương thức quản lý tài chính của INGOs rất linh
hoạt và rõ ràng. Sau khi dự án được phê duyệt, INGO sẽ cấp vốn và giám sát nhằm đảm bảo nguồn
vốn được sử dụng tốt nhất. Sự ghi nhận này cũng khá trùng với đánh giá của INGOs khi 86,7% tổ
15


chức INGOs cho rằng mình ln ln thực hiện cam kết với đối tác. Về phía chính quyền địa phương,
việc tạo thuận lợi cho INGOs trong triển khai dự án, giải quyết các mâu thuẫn hoặc khác biệt trên tinh
thần tôn trọng lẫn nhau cũng được thực hiện. Nhiều INGOs cho rằng, nếu khơng có sự hợp tác của
chính quyền địa phương thì họ khơng thể thực thi được dự án.
Sự tham gia của đối tác địa phương vào các giai đoạn trong chu trình dự án rất khác nhau ở các tổ
chức INGO khác nhau. Có những đối tác địa phương tham gia ngay vào giai đoạn thiết kế dự án
nhưng đa số chỉ cung cấp thông tin để INGOs thiết kế dự án và xin tài trợ. Khi dự án được phê duyệt,
các đối tác địa phương sẽ tham gia vào việc lập kế hoạch và triển khai hoạt động. Các tổ chức INGOs
làm cùng hoặc làm qua đối tác địa phương thường có sự tham gia cao hơn. Ví dụ như các đối tác của
AAV tham gia vào khâu thiết kế, xây dựng đề xuất, lập kế hoạch từ dưới lên và triển khai, giám sát
đánh giá. Hơn nữa, khi AAV thực hiện các hoạt động vận động chính sách có dùng bằng chứng từ
vùng dự án, AAV luôn trao đổi với đối tác địa phương trước khi đưa lên cấp trên để đảm bảo sự đồng
thuận. Cụ thể được thể hiện trong biểu đồ 13.
Biểu 13: Sự tham gia của đối tác địa phương

Để triển khai dự án, đa số
các INGOs giới thiệu mơ

hình Ban quản lý dự án
(BQLDA) ở các cấp tỉnh,

Giám sát và đánh giá dự án
60.9
huyện hoặc xã. Thành phần
của BQLDA thường là đại
Triển khai dự án
63.0
diện của UBND và các cơ
quan chuyên môn phù hợp
Lập kế hoạch dự án
55.4
với nội dung dự án. BQLDA
thường đóng vai trị điều
Xin tài trợ
19.6
phối, lập kế hoạch, triển
khai, giám sát và báo cáo
Xây dựng dự án
48.9
tiến độ dự án. Khi dự án
được triển khai xuống cộng
đồng, chính quyền địa
Xây dựng chiến lược hợp tác
33.7
phương (thơn hoặc xã) đứng
.0
10.0 20.0 30.0 40.0 50.0 60.0 70.0
ra tổ chức các hoạt động còn
các cơ quan chức năng sẽ
phụ trách về chuyên môn kỹ thuật, tập huấn hoặc xây dựng mơ hình. INGOs thường đóng góp tài
chính, hỗ trợ kỹ thuật và giám sát chất lượng, đặc biệt những vấn đề liên quan đến sự tham của người

dân, bình đẳng giới và sự hưởng lợi của các đối tượng như người nghèo, người dân tộc thiểu số hoặc
hộ phụ nữ đơn thân.
Quan hệ đối tác được củng cố vì hầu hết các tổ chức INGOs đều rất tôn trọng đối tác địa phương.
Theo kết quả nghiên cứu, khi có những khác biệt trong triển khai dự án 93,3% INGOs sẽ thảo luận và
tham vấn đối tác để cùng giải quyết. Khi khơng thể thống nhất, chỉ có 42,4% tổ chức cho rằng họ sẽ
giữ quyền quyết định cuối cùng. Tương tự như vậy, có 76,6% đối tác địa phương ln hỏi ý kiến của
INGOs trước khi có những thay đổi ngân sách hoặc hoạt động dự án cho phù hợp với điều kiện mới.
Nhờ có sự chia sẻ này mà đa số các INGOs (78,3%) cảm thấy mình được lắng nghe và tơn trọng bởi
đối tác và từ đó có những thơng cảm và thấu hiểu khó khăn của nhau. Chính vì vậy mà có tới 91,6%
tổ chức INGOs thơng cảm và thấu hiểu những khó khăn về hành chính của cơ quan đối tác để có
nhiều điều chỉnh phù hợp với địa phương.

16


c. Các thách thức trong quan hệ đối tác
Tuy nhiên, mối quan hệ đối tác giữa INGOs không phải luôn ln thuận lợi mà khơng có vướng mắc.
Vướng mắc chủ yếu liên quan đến việc triển khai dự án đúng tiến độ và đạt chất lượng. Theo kết quả
điều tra đánh giá của các tổ chức INGO thì chỉ có 28,8% đồng ý là đối tác luôn luôn triển khai dự án
đúng kế hoạch và 44,1% không đồng ý cũng không phản đối. Nhiều đối tác địa phương chỉ làm kiêm
nhiệm nên khơng có nhiều thời gian cho dự án. Bên cạnh đó, do dự án tăng thêm khối lượng cơng
việc lớn nhưng khơng có thù lao hoặc tăng lương nên cán bộ khơng thực thi nhiệm vụ của mình. Có
43,8% tổ chức INGOs cho rằng thù lao ảnh hưởng đến nhiệt tình của đối tác cho dù đối tác không
thường xuyên phàn nàn về vấn đề này.
Theo kết quả điều tra ở biểu đồ 14 thì có khá nhiều INGOs băn khoăn về khả năng quản lý của đối tác
địa phương (cả chính quyền địa phương và các tổ chức phi chính phủ địa phương) chính vì vậy nhiều
tổ chức INGOs vẫn trực tiếp tham gia vào quản lý và giám sát rất chặt các hoạt động. Có những khác
biệt trong việc ưu tiên sự tham gia của người dân trong việc lập kế hoạch hoặc giám sát đánh giá. Một
số đối tác cho rằng sự tham gia nhiều
Biểu 14: đánh giác của INGOs về năng lực của

khi tốn kém, mất thời gian và không
đối tác Việt Nam
60.0
51.1
50.0
40.0
30.0
20.0

15.2
9.8

10.0

hiệu quả. Trong khi đó, nhiều INGOs
coi trọng ý kiến của người dân hơn là ý
kiến của đối tác đến mức một cán bộ ở
tỉnh Yên Bái đã nói “một số INGOs
chưa lắng nghe ý kiến của đối tác,
không thấu hiểu và có định kiến sẵn.
Nhiều INGOs chỉ nghe người dân nói,
cịn đối tác chính quyền địa phương
nói thì “khơng tin lắm”.

Bên cạnh đó, các đối tác địa phương
thường được cho là yếu ở các kỹ năng
hoặc cách tiếp cận mới như bình đẳng
giới, trao quyền cho người dân hoặc có
định kiến và kỳ thị với người dân, đặc
biệt là người nghèo và người yếu thế. Nhiều INGOs cho rằng đối tác chưa thực sự nghiêm túc trong

việc giải quyết vấn đề bất bình đẳng giới chính vì vậy mà dẫn đến những căng thẳng trong quan hệ
đối tác.
.0

Năng lực quản lý
Năng lực quản lý Cần phải xây dựng
của đối tác địa
của đối tác VNGOs năng lực cho đối tác
phương thường yếu cịn yếu và thiếu
để làm tốt hơn
và thiếu

Tuy khơng nhiều, nhưng một số tổ chức INGOs cũng có gặp phải những khó khăn trong việc kiểm
sốt tài chính và chất lượng cơng trình. Nhiều khi, những vấn đề này có thể gây ra những trục trặc với
cán bộ địa phương, nhưng về mặt lâu dài nó tạo điều kiện cho INGOs hoạt động tốt hơn vì chính liêm
chính của mình và được cơ quan đối tác ủng hộ.

17


BOX 2: Childfund đã khơng nghiệm thu cơng trình kém chất lượng và không trả tiền cho nhà thầu
xây dựng ở Na Rì do nhà thầu sử dụng xi măng mác 100 thay vì mác 130 như thiết kế. Cho dù biết
có cán bộ địa phương “đi đêm” với nhà thầu nhưng Childfund vẫn đấu tranh và luôn hợp tác với
chính quyền trong các cuộc họp bàn phương án giải quyết. Childfund sử dụng các chính sách và
pháp luật của Việt Nam và dựa vào các bằng chứng để thuyết phục. Khi bên nhà thầu dọa nếu
khơng trả tiền thì đến phá bỏ cơng trình thì Childfund họp với cộng đồng và chính quyền để đi
đến thống nhất: nếu họ đến phá mà khơng có ý kiến đồng ý thì chính quyền giữ họ. Nếu nhà thấu
phá thì họ phải: 1) Trả lại tịan bộ những gì dân đóng góp; 2) Hồn trả lại mặt bằng như cũ.
Chính những ngun tắc rõ ràng và quyết tâm thực hiện nguyên tắc của mình làm cho cơng việc
của INGOs thường có chất lượng cao và được sự tin tưởng của người dân và tơn trọng của chính

quyền địa phương.
Bên cạnh đó, có đối tác địa phương cũng phàn nàn về sự công khai và minh bạch về ngân sách của dự
án do INGOs tài trợ. Nhiều khi chính quyền địa phương chỉ nắm được phần ngân sách dự án chuyển
cho địa phương chứ không biết chi tiết các khoản mục khác của dự án. Chính vì vậy, có nhiều câu hỏi
mà chính quyền địa phương đặt ra về tổng ngân sách mà các tổ chức INGOs mang vào Việt Nam và
tỉ lệ ngân sách thực sự dành cho người dân và đối tượng đích. Điều này thường được đề cập nhiều hơn
cho các dự án nâng cao năng lực, hỗ trợ kỹ thuật hoặc thúc đẩy tiếng nói của người dân. Đối với chính
quyền, nhiều người quan tâm hơn đến cơ sở hạ tầng hoặc hỗ trợ vật chất và kinh tế trực tiếp.
Tuy có một số thách thức nhưng nhìn chung quan hệ đối tác giữa các tổ chức phi chính phủ quốc tế và
đối tác Việt Nam khá tốt. Kết quả đánh giá được trình bày ở biều đồ 15 dưới đây
Biểu 15: Quan hệ đối tác của INGOs
Đối tác nhà nước

VNGOs

54.3
41.3
35.9
27.2
12.012.0
6.5

9.8
1.1

Rất tốt

Tốt

Trung bình


Kém

Rất kém Khơng trả
lời

4. Kết quả hoạt động
Chính quyền địa phương đánh giá cao vai trị và đóng góp của INGOs trong việc phát triển kinh tế địa
phương, đặc biệt những tổ chức có cam kết lâu dài. Ví dụ, Yên Bái đánh giá rất cao vào việc các tổ
chức như Bánh Mỳ Thế Giới, Tầm Nhìn đã góp phần phát triển kinh tế xã hội ở địa phương (10%
ngân sách). Các hỗ trợ trực tiếp cho người dân tạo ra hiệu quả trực tiếp và có được sự ủng hộ và đồng
tình của người dân. Bên cạnh các cơ sở vật chất mà INGOs để lại cho địa phương, các kiến thức kỹ
thuật như kỹ thuật canh tác, phương pháp quản lý và triển khai dự án cho cộng đồng và đối tác địa
phương.
18


a. Phát triển kinh tế xóa đói giảm nghèo
Trong tất cả các cuộc phỏng vấn với chính quyền và người dân địa phương, có một sự đồng thuận về
các hoạt động của INGOs ở Việt Nam đã tạo ra những thay đổi trong cuộc sống của người dân, đặc
biệt là những đối tượng thiệt thịi. Chính quyền địa phương và người dân ghi nhận và đánh giá rất cao
hiệu quả của các dự án do INGOs tạo ra.
Các dự án của INGOs đã tạo ra thu nhập và góp phần vào việc xóa đói giảm nghèo của nhiều cộng
đồng địa phương. Các hoạt động này được thực hiện qua nhiều hình thức như tín dụng, kỹ thuật sản
xuất, cơ sở hạ tầng, quản lý tài nguyên, xây dựng năng lực hoặc tiếp cận thị trường. Các hỗ trợ này
thường rất cụ thể, thiết thực và xuất phát từ nhu cầu của người dân. Chính vì dựa vào người dân mà
“80% số người dân đã từng tham gia các lớp tập huấn đào tạo áp dụng vào sản xuất được” như ý kiến
của ông Cường chủ tịch UBND xã Xuân Ái. Vị chủ tịch này đánh giá rất cao đóng góp của World
Vision trong việc hỗ trợ phát triển bộ mặt nông thôn ở địa phương. Riêng xã Xuân Ái đã có 19 cái
ngầm được xây với cấp thơn bản là chủ đầu tư. Bên cạnh đó, dự án cũng huy động sự tham gia đóng

góp của người dân. Ví dụ như trong việc làm ngầm, người dân đóng 10% bằng công lao động hoặc cát
sỏi khai thác được ở địa phương. Việc này đã góp phần cho việc giao thơng thuận tiện cho người dân,
học sinh cũng như giao lưu hàng hóa dễ dàng hơn.
Lãnh đạo và người dân xã Ngư Lộc tỉnh Thanh Hóa cũng đánh giá cao vai trò của CARE trong việc
hỗ trợ địa phương. Dự án triển khai đã góp phần giúp giảm tỉ lệ hộ nghèo giảm từ 61% xuống 24%.
So với năm 2006, đời sống nhân dân tại xã đã được cải thiện nhiều, con em các gia đình khó khăn
được đi đào tạo nghề, khai thác cá biển được dự án hỗ trợ về mặt kỹ thuật và phương tiện nên kéo dài
thời gian đánh bắt hơn, giúp tăng sản lượng và thu nhập.
BOX 3: Ở xã Hải Lộc CARE đã hỗ trợ mơ hình sản xuất thí điểm 2 ha lúa cho 20 hộ gia đình bằng
việc cung cấp quy trình kỹ thuật, giống, thuốc trừ sâu, phân bón. Với tổng diện tích sản xuất là 42
ha nhưng do điều kiện thời tiết, hết lụt úng lại khơ hạn nên rất khó khăn trong trồng trọt. Cán bộ
dự án đã đi khảo sát và đưa ra mơ hình thí điểm N49, có sự hợp tác của kĩ sư Phịng nơng nghiệp.
Người dân được hướng dẫn cụ thể về cách cấy, bón, tưới và phải tuân thủ chặt chẽ. Kết quả là
trước đây sản lượng chỉ được 1,7 đến 1,8 tạ trên 1 sào thì nay đạt 3 tạ/sào. Trong thời gian thí
điểm, bên cạnh những hộ được chọn, các hộ lân cận cũng bắt chước làm theo và cũng đạt sản
lượng tương tự.

Lãnh đạo tỉnh Thanh Hóa đánh giá hiệu quả hoạt động của INGOs rất cao đặc biệt do dự án triển khai
nhanh, thủ tục đơn giản và gọn nhẹ hơn so với các chương trình của Nhà nước. INGOs cũng cung cấp
chương trình hỗ trợ năng lực tốt hơn, trực tiếp đi vào đời sống người dân do đó mang lại hiệu quả cao
hơn. Ví dụ chương trình ADB sau 7 năm mới triển khai xây dựng tuyến đường (thường vận động dự
án phải hết một nhiệm kì) trong khi đó dự án nước sạch của INGOs đã hồn thành chỉ sau 1 năm.
INGOs tính tốn rất cụ thể q trình triển khai và thực hiện kịp thời, như thời điểm miền Trung gặp
thiên tai, chỉ vài ngày sau đã nhận được trợ cấp từ phía INGOs trong khi cứu trợ của tỉnh đến chậm
hơn.
Bên cạnh đó, lãnh đạo ở cả Yên Bái và Thanh Hóa đều ghi nhận hoạt động của INGOs có tác động
lớn đến việc thay đổi nhận thức của người dân, chứ không chỉ là hỗ trợ cơ sở vật chất. Thơng qua các
chương trình của INGOs, người dân được tiếp cận với các phương thức sản xuất mới tiến bộ hơn, còn
các cán bộ ban ngành được học tập cách thức quản lý, triển khai dự án và kinh nghiệm làm việc.
Chính các hoạt động cụ thể, có kế hoạch xây dựng từ thơn bản lên, triển khai và giám sát đánh giá


19


thường xuyên nên mang lại hiệu quả cao. Các dự án INGOs ở địa phương có tài chính cơng khai,
minh bạch niêm yết ngân sách cho bà con nhân dân biết nên tạo được niềm tin..
Như vậy, các dự án phát triển kinh tế xã hội do các tổ chức INGOs thực hiện ở nhiều nơi trên Việt
Nam, từ thành thị đến nông thôn, từ đồng bằng đến miền núi và cho các đối tượng khác nhau. Các dự
án này thường mai lại hiệu quả tốt vì nó phù hợp với nhu cầu người dân, áp dụng các phương thức
mới. Theo kết quả điều tra có 70,8% INGOs được hỏi hài lòng và rất hài lòng với kết quả tăng thu
nhập và giảm nghèo của các hỗ trợ của mình.
b. Xây dựng năng lực, trao quyền và tăng cường sự tham gia của người dân
Một trong những điều mà INGOs ln tự hào là cách làm của mình khơng những tạo ra thu nhập mà
còn bền vững bằng cách xây dựng năng lực nội tại, sự tự tin và sự tham gia của người dân vào trong
dự án cũng như cơng việc cộng đồng. Theo kết quả điều tra, có đến 86,7% các tổ chức hài lòng với
việc tăng cường sự tự tin và độc lập của cộng đồng và 66,7% hài lòng với việc thúc đẩy người dân
tham gia và góp ý kiến của mình. Để đạt được điều này, các tổ chức INGOs áp dụng nhiều phương
thức khác nhau từ việc xây dựng các tổ nhóm nơng dân, tạo mạng lưới, trao quyền để thúc đẩy sự
tham gia của người dân.
Các tổ chức INGOs hoạt động ở cộng đồng rất quan tâm đến các mơ hình tổ chức của cộng đồng như
tổ nhóm nơng dân cùng sở thích, ban quản lý thơn bản, tổ hợp tác hoặc nhóm tự quản. Bản chất của
các hình thức này nhằm huy động sức mạnh tập thể, sự chia sẻ kinh nghiệm và nguồn lực cũng như
phát huy sự tham gia và tự quyết của người dân. Rất nhiều tổ chức áp dụng hình thức này nhý OHK
tập trung vào các tổ nhóm chãn ni bị; CARE vào các câu lạc bộ pháp lý hoặc Oxfam Anh vào các
nhóm cùng sở thích. Cũng giống như nhiều tổ chức, Tầm nhìn thế giới đã thể chế hóa quyền ra quyết
định của người dân. Từ đó, người dân có cơ sở để thực thi quyền hạn của mình, phục vụ cho lợi ích
của mình. Ví dụ như ở xã Yên Hưng tỉnh Yên Bái để quyết định các hoạt động được triển khai người
dân có quyền đưa ra tiêu chí để lựa chọn như (i) sự cần thiết của hoạt động; (ii) khả năng về kinh phí
hoặc sự đóng góp của người dân; (iii) khu vực đồng bào dân tộc thiểu số; (iv) đi lại nhiều cho học
sinh; (v) người nghèo và hộ cận nghèo. Khi tiêu chí đưa ra, người dân và cán bộ sẽ ưu tiên hoạt động

để thực hiện. “Khi mọi thứ đều minh bạch rõ ràng và do người dân tham gia quyết định thì tạo được
niềm tin và động lực tham gia của người dân. Chính nhờ có phương pháp tiếp cận này mà chọn được
những nội dung đầu tư phù hợp để cùng thực hiện,” như một cán bộ ở Yên Bái chia sẻ.
Nhiều tổ chức hoạt động trong lĩnh vực phòng chống HIV như FHI cũng thành lập các câu lạc bộ của
người có HIV hoặc các câu lạc bộ của nam quan hệ tình dục đồng giới (MSM). Các tổ chức này đã
tạo ra những cơ chế để người dân có thể tham gia trực tiếp vào việc soạn thảo luật và chính sách liên
quan đến họ. Ví dụ như người có HIV đã tham gia tích cực vào việc góp ý cho bộ luật phịng chống
HIV/AIDS hoặc phụ nữ bị bạo hành tham gia góp ý cho luật phịng chống bạo lực gia đình. Trên thực
tế, hai bộ luật này được các tổ chức quốc tế đánh giá rất cao vì sự tiến bộ của nó vì đã phản ánh được
nhu cầu của xã hội cũng như người trong cuộc.
Bên cạnh đó, nhiều INGOs hỗ trợ chính quyền địa phương nâng cao năng lực trong việc huy động sự
tham gia của người dân. OHK và AAV nâng cao năng lực cho cán bộ trong việc phân cấp quản lý và
xây dưng các chiến lược phát triển kinh tế địa phương có sự tham gia của người dân. WWF, khi thực
hiện các dự án bảo tồn cũng luôn trú trọng đến sự tham gia của người dân. Với họ, việc bảo vệ tài
nguyên không thể chỉ là công việc của nhà nước, của kiểm lâm hay Ban quản lý mà là của người dân.
Như vậy, ngoài việc nâng cao năng lực cho người dân, các tổ chức này cũng trú trọng đến việc nâng
cao năng lực của cán bộ nhà nước nhằm đảm bảo cả người dân và cán bộ đều hiểu và tạo ra cơ chế
tham gia nhịp nhàng và hiệu quả.
20


c. Cải thiện khả năng tiếp cận và chất lượng giáo dục
Các dự án hỗ trợ của INGOs trong lĩnh vực giáo dục rất đa dạng, từ việc xây dựng cơ sở vật chất,
trang bị dụng cụ học tập đến việc nâng cao năng lực cho giáo viên, đổi mới phương pháp dậy học
cũng như huy động sự tham gia của cha mẹ, xã hội vào việc nâng cao chất lượng và tỉ lệ học sinh đến
trường. Bên cạnh đó, nhiều tổ chức cịn có những hoạt động sinh kế nhằm xóa bỏ rào cản kinh tế hạn
chế trẻ em nghèo, đặc biệt là trẻ em gái đến trường. Các hoạt động hỗ trợ của INGOs ở Việt Nam rất
phù hợp với ưu tiên của địa phương trong việc nâng cao chất lượng giáo dục và tăng tỉ lệ trẻ em đến
trường ở các cấp mẫu giáo, tiểu học và trung học cơ sở.
Các hỗ trợ của Tầm nhìn ở Yên Bái được chính quyền địa phương, người dân và giáo viên ghi nhận

và đánh giá đã làm thay đổi bộ mặt trường lớp, giúp cho học sinh có mơi trường học tập tốt hơn. Cụ
thể nhờ Tầm nhìn thế giới mà 7 xã của huyện Văn Yên tỉnh Yên Bái đã có cơ sở vật chất học bán trú
tại trường cho trẻ em. Theo cô Bùi Thị Kim Loan hiệu trưởng trường mầm non thì ở xã Xuân Ái, nhờ
sự tài trợ của World Vision mà từ việc cả xã chỉ có 2 phịng học và 15 bộ bàn ghế vào năm 2003, đến
giờ xã đã có 5 lớp học với 100% học sinh độ tuổi mẫu giáo được đến lớp. Còn ở xã Ngư Lộc huyện
Hậu Lộc tỉnh Thanh Hóa CRS đã hỗ trợ thơn Thắng Lộc xây dựng được tồ nhà 2 tầng 8 phịng thay
cho trường học trong nhà kho cũ. Các trường được mua trang thiết bị cần thiết cho cơng việc như máy
tính, phương tiện đi lại hoặc cơ sở vật chất phục vụ chuyên môn. Điều đặc biệt là nhiều trường học
xây mới nhấn mạnh đến những cơng trình phụ trợ như bể nước sạch, nhà vệ sinh, sân chơi, vườn thực
nghiệm để đảm bảo một môi trường học tập tốt cho học sinh..
Bên cạnh đó, các kiến thức chun mơn kỹ thuật mới cũng được chuyển giao cho đối tác địa phương
như phương pháp giáo dục tích cực, cách làm đồ dùng và thiết kế nội dung khóa học cho mầm non và
mẫu giáo, các hoạt động ngoại khóa và phương pháp chăm sóc dinh dưỡng cho trẻ em. Nhờ những hỗ
trợ này mà giảm được tỉ lệ học sinh suy dinh dưỡng, nâng cao chất lượng dậy và học và bố mẹ học
sinh có thể đi làm cả ngày khơng phải trơng con như một lãnh đạo phịng giáo dục có ghi nhận “sự hỗ
trợ của World Vision làm thay đổi toàn bộ bộ mặt và chất lượng đào tạo và chăm sóc trẻ của huyện
nhà.”
Một số tổ chức INGOs như Quỹ cứu trợ nhi đồng, E&D, Plan và Oxfam rất quan tâm đến tăng tỉ lệ
đến trường của học sinh, đặc biệt là học sinh dân tộc thiểu số. Các hoạt động sinh kế phụ trợ nhằm
đảm bảo tỉ lệ học sinh đến trường đã được lồng ghép vào các chương trình can thiệp. Ví dụ như
CEPHAT đã bắt đầu hoạt động từ 2006 ở Thanh Hóa bằng cách giúp hơn 300 trẻ em lang thang, do
điều kiện kinh tế khó khăn, khơng được đi học mà phải bỏ đi làm xa. Dự án đã hỗ trợ các gia đình từ
2 đến 3 triệu/hộ làm kinh tế, tạo cơ hội cho đối tượng trẻ em lang thang được đi học nghề. Cán bộ đã
đến tận nhà vận động trực tiếp để các gia đình đưa con em tới trường, cung cấp cho cha mẹ các kiến
thức nuôi và bảo vệ con, giảm tỉ lệ lang thang, đồng thời tập huấn nâng cao năng lực cho đội ngũ tình
nguyện viên để hỗ trợ thường xuyên.

21



Bên cạnh hỗ trợ về kinh tế, nhiều tổ chức như E&D cịn xây dựng mơi trường học tập thân thiện, Quỹ
cứu trợ nhi đồng thử nghiệm việc dậy và học song ngữ nhằm giúp cho học sinh dân tộc thiểu số giảm
bỡ ngỡ hơn khi đến trường. Điều này rất quan trọng vì nó giúp cho học sinh người dân tộc thiểu số
không quá xa lạ với môi trường học tập của mình. Nhiều tổ chức cịn tập trung nâng cao sự tham gia
của các bậc cha mẹ vào công việc giáo dục bằng cách thành lập các Hội phụ huynh học sinh. Các
công việc như xây dựng trường, vận động trẻ em đến trường đã được kết hợp chặt chẽ với Hội phụ
huynh học sinh nhằm đảm bảo sự phối kết hợp giữa nhà trường, gia đình và xã hội trong công tác giáo
dục.
BOX 4: Từ năm 2003-2011, tổ chức E&D triển khai các dự án tổng hợp phát triển trẻ em dân tộc
thiểu số tại hai huyện Bắc Hà và huyện Si Ma Cai, tỉnh Lào Cai. Mục đích chính của dự án là cải
thiện mơi trường sống của trẻ em, thông qua xây dựng các mô hình phát triển thân thiện với trẻ em
tại nhà trường và cộng đồng góp phần đáp ứng Quyền trẻ em tại vùng dân tộc thiểu số. Nhiều lĩnh
vực can thiệp lồng ghép đã được triển khai tại nhà trường và cộng đồng để cải thiện môi trường thể
chất, môi trường tâm lý xã hội, môi trường giáo dục và xây dựng năng lực vì trẻ em.
Mơ hình xây dựng trường học thân thiện được đánh giá cao về tính phù hợp, hiệu quả và bền vững tại
29 trường mầm non, tiểu học và THCS tại 8 xã và thị trấn. Tổ chức E&D đã triển khai được các hoạt
động nhằm cải thiện môi trường thể chất (tổ chức, quản lý nội trú thân thiện, công tác y tế học
đường, giáo dục truyền thông, nâng cấp cơ sở vật chất và trang thiết bị…) và nâng cao môi trường
tâm lý xã hội (tăng cường sự tham gia của trẻ, chương trình ngoại khóa, thư viện thân thiện….), nâng
cao chất lượng giảng dạy và quản lý (mơ hình lớp mẫu, thiết lập và đào tạo mạng lưới giảng viên
nguồn địa phương, phương pháp dạy hoc tích cực…), và nâng cao nhận thức và sự tham gia cộng
đồng trong công tác giáo dục (truyền thông, tham gia lập kế hoạch và đánh giá trường học, tập huấn
cho giáo viên và học sinh những kiến thức văn hóa truyền thống, đóng góp cơng sức và nguồn lực
nâng cấp cơ sở vật chất, …). Tổng số 7.137 học sinh ở các cấp mầm non, tiểu học và THCS được
hưởng lợi từ mơ hình này, trong đó 52% là trẻ em gái. Phịng GD-ĐT hai huyện Bắc Hà và Simacai
đánh giá cao thành công của mô hình Trường học Thân thiện và Sở GD-ĐT tỉnh Lào Cai đã quyết
định nhân rộng mơ hình này
Nhìn chung hoạt động của INGOs đã góp phần cải thiện chất lượng giáo dục của nhiều địa phương
trên cả nước. Các mô hình và kinh nghiệm đã được địa phương ghi nhận và áp dụng góp phần vào
cơng cuộc cải cách giáo dục của Việt Nam. Theo kết quả điều tra có đến 71.1% INGOs hoạt động

trong lĩnh vực giáo dục hài lòng với tác động của dự án giáo dục do mình hỗ trợ.
d. Cải thiện khả năng tiếp cận và chất lượng dịch vụ y tế, nước sạch và phòng
chống HIV
Có lẽ, dịch vụ y tế, nước sạch, vệ sinh mơi trường và phịng chống HIV là các vấn đề nóng bỏng mà
Việt Nam dang gặp phải. Trong các mục tiêu thiên niên kỷ, nước sạch và vệ sinh môi trường là chỉ
tiêu mà Việt Nam có thể khó hồn thành nhất. Việc phòng chống HIV đã đạt được nhiều tiến bộ
nhưng tỉ lệ lây nhiễm vẫn còn cao trong một số nhóm nguy cơ như mại dâm, sử dụng ma túy và nam
quan hệ tình dục đồng giới. Các hỗ trợ của INGOs thường tập trung vào việc xây dựng cơ sở hạ tầng
như trạm xá, mua trang thiết bị, nước sạch vệ sinh mơi trường, chăm sóc điều trị và tuyên truyền
phòng chống lây nhiễm HIV.
Các tổ chức INGOs hoạt động ở nhiều cấp độ khac nhau. Ví dụ như tổ chức Tây Ban Nha (kiểm tra
với chị Tâm tên tổ chức???) hoạt động ở Thanh Hoá đã tham gia hỗ trợ hệ thống máy móc cho các
bệnh viện, đào tạo nâng cao năng lực cho đội ngũ cán bộ và cung cấp các chương trình truyền thơng
22


về dinh dưỡng, chăm sóc trẻ. Dự án cấp nước sinh hoạt của Tổ chức Trăng lưỡi liềm đỏ triển khai ở
xã Ngư Lộc với kinh phí 7 tỉ VND, trong đó địa phương đóng góp gần 4 tỉ VNĐ với lượng nước cung
cấp là 1000m3 /ngày cho 3000 hộ. Bên cạnh đó, có nhiều tổ chức hoạt động ở cộng đồng tập trung vào
nước sạch và vệ sinh môi trường. Ví dụ như tổ chức CARE xây dựng hệ thống 200 lu chứa nước 2m3
dành cho đối tượng nghèo ở xã Hải Lộc đã được triển khai với kinh phí 800.000 VND/lu bao gồm cả
tiền cơng và vật tư. Các tổ chức hoạt động ở miền núi như Oxfam thường tập trung vào việc xây dựng
các hệ thống nước sạch tự chảy đảm bảo phù hợp với điều kiện địa phương.
Atlantic Philanthropy hỗ trợ các cơng trình xây dựng bệnh viện và trang thiết bị quy mô lớn với ngân
sách hàng triệu đô la Mỹ ở các tỉnh như bệnh viện trung ương Huế, bệnh viện nhi Trung Ương, xây
dựng trường đại học y tế cộng đồng, v.v. Bên cạnh đó, các chương trình hỗ trợ y tế cơng cộng của
Atlantic Philanthropy cũng góp phần cải thiện hệ thống y tế của Việt Nam và được bộ y tế và chính
phủ đánh giá rất cao.
Các hoạt động về phịng chống HIV và sức khỏe tình dục của các tổ chức INGOs được ghi nhận rất
cao bởi chính phủ Việt Nam cũng như người dân. Một loạt các tổ chức đi đầu như FHI, Clinton

Foundation, PACT, etc. đã tham gia vào cơng việc chăm sóc điều trị, nghiên cứu, truyền thông nâng
cao nhận thức, chống kỳ thị phân biệt đối xử với người có HIV. Các tổ chức làm việc về HIV phối kết
hợp chặt chẽ với các cơ quan nhà nước, đặc biệt là Cục phòng chống AIDS và bộ y tế, các cơ quan
của liên hiệp quốc như UNAIDS và các tổ chức phi chính phủ Việt Nam trong việc triển khai các hoạt
động của mình. Có thể nói rằng, hoạt động của các tổ chức INGOs trong mảng phịng chống HIV
đóng vai trị vơ cùng to lớn về cả phương diện tài chính, kỹ thuật cũng như phương pháp tiếp cận vấn
đề.
Một đóng góp rất quan trọng của INGOs hoạt động trong lĩnh vực này là đưa các phương pháp tiếp
cận theo quyền, như quyền được chăm sóc sức khỏe, quyền tình dục vào trong các văn bản pháp luật
cũng như phương thức triển khai dự án của nhà nước. Việc hình thành các mạng lưới của người có
HIV là một ví dụ rất điển hình trong việc xóa bỏ kỳ thị và phân biệt đối xử với người có HIV, đưa họ
từ việc phải lo sợ, che dấu tình trạng của mình đến việc tham gia tích cực vào việc tự chăm sóc, tun
truyền phịng chống HIV cũng như đóng góp cho luật và chương trình của nhà nước.
Mối quan hệ đối tác với ngành Y tế và đặc biệt các cơ quan phòng chống HIV của chính phủ rất chặt
chẽ và hiệu quả. Có 83,7% tổ chức INGOs hoạt động trong lĩnh vực y tế rất hài lịng với kết quả cơng
việc của mình.
e. Bình đẳng giới và quyền phụ nữ và trẻ em
Bình đẳng giới là một ưu tiên hàng đầu không những của các tổ chức hoạt động về quyền của phụ nữ
và bình đẳng giới mà cịn của nhiều tổ chức hoạt động trong các lĩnh vực sinh kế, y tế, giáo dục và
HIV. Có rất nhiều đóng góp của các tổ chức INGO ở tất cả các cấp từ việc góp ý cho soạn thảo luật
đến phương pháp tiếp cận ở cộng đồng nhằm đảm bảo công bằng giới và giảm bạo lực gia đình. Tuy
nhiên, cịn nhiều INGOs chưa cảm thấy hài lòng với những tiến bộ đạt được của mình khi chỉ có
56,4% INGOs hoạt động trong lĩnh vực bình đẳng giới và quyền phụ nữ hài lịng với kết quả công
việc. Điều này chứng tỏ những thay đổi xã hội về niềm tin, văn hóa sẽ khó hơn nhiều so với những
thay đổi về kinh tế hoặc dịch vụ công.
Hiểu điều này, nên các tổ chức INGO bền bỉ hoạt động trên nhiều lĩnh vực khác nhau. Sau khi làm
việc cùng Hội phụ nữ và Bộ lao động thương binh và xã hội ra được hai bộ luật rất tiến bộ về bình
đẳng giới và phịng chống bạo lực gia đình, các tổ chức INGO đang tập trung vào việc triển khai và
đưa luật vào cuộc sống. Ví dụ như Oxfam Anh đang cùng với CSAGA tập trung vào truyền thông
23



nhằm đảm bảo các thông điệp truyền thông không không cịn định kiến giới, góp phần thay đổi xã hội.
Nhiều tổ chức như Pyd, CARE và Oxfam tập trung vào việc hỗ trợ cho Hội phụ nữ xây dựng năng lực
cũng như cơng cụ cho việc thúc đấy bình đẳng giới trong các chương trình của nhà nước, đặc biệt các
chương trình liên quan đến an sinh xã hội như nghị quyết 30a.
Một trong những hoạt động được nhiều tổ chức INGOs thực hiện đó là nâng cao năng lực cho đối tác
về bình đẳng giới cũng như lồng ghép giới vào các chương trình phát triển cụ thể. Bên cạnh những
quy định rõ ràng về tỉ lệ người hưởng lợi phải là phụ nữ các tổ chức INGOs cũng tập trung vào việc
thay đổi cán cân quyền lực hoặc giải quyết các nguyên nhân gốc rễ của bất bình đằng giới và bạo lực
gia đình. Chính vì vậy, ngồi việc nâng cao vị thế của người phụ nữ, các tổ chức INGOs cũng đã bắt
đầu chú trọng đến vai trị của nam giới và lơi kéo nam giới vào việc thúc đẩy bình đẳng giới và phịng
chống bạo lực gia đình. Những nguyên nhân sâu xa như giáo dục, quan điểm nho giáo, ý thức hệ và
môi trường sống ngày càng được quan tâm. Có lẽ, INGOs là những tổ chức đi tiên phong thử nghiệm
và đưa những ý tưởng mới vào Việt Nam.
f. Quản lý tài nguyên và thiên tai
Các hoạt động của INGOs trong lĩnh vực này cũng rất đa dạng, từ việc quản lý vườn quốc gia đến
việc trồng rừng ngập mặn và quản lý rừng dựa vào cộng đồng. Các hoạt động xây dựng năng lực thơn
bản trong việc phịng chống thiên tai và thích nghi với biến đổi khí hậu cũng được các tổ chức INGOs
đầu tư rất nhiều. Có lẽ, hình ảnh của WWF, CARE và Oxfam đã rất quen thuộc với chính quyền cũng
như người dân Việt Nam thông qua những dự án cộng đồng, truyền thơng, chính sách và cứu trợ nhân
đạo.
Có lẽ WWF là một trong những tổ chức INGOs hỗ trợ Việt Nam nhiều nhất trong việc xây dựng và
quản lý các vườn quốc gia ở Việt Nam. WWF đã hỗ trợ tài chính, kỹ thuật, năng lực quản lý cho
chính quyền địa phương và đặc biệt là các ban quản lý rừng và vườn quốc gia Việt Nam. WWF cũng
là một trong những tổ chức INGOs giới thiệu phương pháp quản lý tài nguyên dựa vào cộng đồng
nhằm giải quyết mâu thuẫn giữa việc quản lý tài nguyên, bảo vệ môi trường với nhu cầu phát triển
sinh kế bền vững của người dân.
Các tổ chức như CARE, quỹ cứu trợ nhi đồng, Oxfam thực hiện khá nhiều các dự án quản lý tài
nguyên dựa vào cộng đồng và được đánh giá rất cao bởi chính quyền địa phương. Các dự án này

ngoài việc quản lý tài nguyên bền vững còn nhắm tới việc hưởng lợi của cộng đồng từ phí quản lý
cũng như các sản phẩm phi gỗ hoặc những sản phẩm phụ đi kèm. Tương tự như vậy, các dự án quản
lý tài nguyên ven biển và rừng ngập mặn cũng được khá nhiều INGOs hỗ trợ. Theo ơng Lê Đình Thọ,
phó chủ tịch UBND tỉnh Thanh Hóa thì dự án “ngăn mặn” nhằm thúc đẩy việc đánh cá, nuôi trồng
thuỷ hải sản và trồng lúa nông nghiệp, INGO tham gia hỗ trợ kĩ thuật và tư vấn triển khai thí điểm tại
một huyện, sau đó mơ hình được nhân rộng ra 6 huyện ven biển khác. Đây chính là một cách mà
INGOs muốn thực hiện, đó là xây dựng mơ hình sau đó cùng địa phương hoặc để địa phương tự nhân
rộng.
Là một nước chịu nhiều thiên tai như lũ, lụt và hạn hán nên các tổ chức INGOs rất quan tâm đến việc
hỗ trợ cộng đồng dễ bị tổn thương ứng phó và giảm nhẹ thiệt hại do thiên tai gây ra. Điều này rất quan
trọng vì một trận thiên tai có thể xóa bỏ tồn bộ nỗ lực phát triển và xóa đói giảm nghèo của cộng
đồng. Đây chính là một phần khơng thể thiếu trong phát triển bền vững. Tại cộng đồng, các tổ chức
như CARE tập trung tài trợ vào truyền thông kiến thức về phịng chống thiên tai (thơng qua các hình
thức sân khấu hố, hái hoa dân chủ, thi giữa các cụm, các xã) xây dựng nhà tránh bão để dân sơ tán,
cung cấp phao cứu sinh, đèn pin, đài radio cho phương tiện khai thác biển, hệ thống cảnh báo sớm, đài
truyền thanh, thành lập Ban chỉ huy phòng chống lụt bão tại thôn nhắm nâng cao nhận thức của người
24


dân. Hơn cả, CARE giúp cộng đồng xây dựng một chiến lược phòng chống và giảm thiểu thiệt hại
như là một phần trong phát triển cộng đồng bền vững.
Chính từ các kinh nghiệm dự án có được và các bài học quốc tế các tổ chức INGOs đã góp phần to
lớn vào việc xây dựng chiến lược quốc gia phòng, chống và giảm nhẹ thiên tai. Các tổ chức INGOs
trong nhóm làm việc về biến đổi khí hậu như CARE, Oxfam, WWF và SNV ln ln được mời tham
gia góp ý cho Chương trình mục tiêu quốc gia về biến đổi khí hậu Bộ tài ngun và mơi trường
(MONRE) hoặc lồng ghép biến đổi khí hậu vào chương trình phát triển kinh tế xã hội của Việt Nam
(SEDP) do Bộ kế hoạch và đầu tư chủ trì. Các đóng góp của INGOs được chính phủ đánh giá cao vì
INGOs có kinh nghiệm thực tế và các thí điểm lồng ghép ở địa phương.
Bên cạnh đó, một trong những đóng góp không thể thiếu của các tổ chức INGOs là cứu trợ khẩn cấp
cho các nạn nhân của lũ lụt thiên tai. Các trận lụt ở Tây Nguyên năm 2009 và Miền Trung năm 2010

đã phần nào được khắc phục nhờ những khoản cứu trợ khẩn cấp của Oxfam, AAV, Plan, etc. theo lời
kêu gọi của PACCOM. Có lẽ, chính những cứu trợ kịp thời, nhanh chóng và có điều phối với chính
quyền đã ghi lại dấu ấn tốt đẹp trong lịng người dân. Bên cạnh đó, các INGOs khơng chỉ dừng lại ở
các khoản cứu trợ mà c ̣ n tập trung vào thời gian khắc phục sau thảm họa nhằm khơi phục sản xuất và
vượt qua khó khăn. Các tổ chức INGOs cũng đã đưa các tiêu chuẩn cứu trợ quốc tế như SPHERE
nhằm nâng cao chất lượng cứu trợ cũng như quyền được đảm bảo an toàn của người dân.
g. Phát triển xã hội dân sự địa phương
Khá ít tổ chức INGOs có dự án nhằm mục đích phát triển xã hội dân sự, cụ thể là VNGOs ở Việt
Nam. Tuy nhiên, chủ đề này là thường là mối quan tâm của hầu hết các tổ chức khi được hỏi. Ngay
khái niệm xã hội dân sự cũng có nhiều cách hiểu khác nhau. Nhìn chung, đa số các tổ chức cho rằng
họ quan tâm đến việc phát triển các tổ nhóm hoặc mạng lưới người hưởng lợi (nơng dân, ngư dân,
người dân tộc thiểu số, phụ nữ, người có HIV, nam quan hệ đồng giới, etc.), các tổ chức phi chính phủ
Việt Nam và các đồn thể như Hội phụ nữ, Đồn thanh niên và Hội nơng dân. Nhìn chung, các tổ
chức INGOs coi xã hội dân sự như là một kênh để đưa tiếng nói của người dân đến các cấp chính
quyền và xã hội nhằm đảm bảo những người bị thiệt thòi nhất cũng được lắng nghe.
Nhiều tổ chức tập trung vào hỗ trợ và tạo ra các tổ chức cộng đồng như Oxfam, CARE, AAV, FHI,
ADI/VOCA, Helvetas, v.v. làm ở các tỉnh vùng dự án của mình. Việc tổ chức các tổ nhóm nơng dân
hoặc người hưởng lợi như là một chiến lược nhắm đến nhiều mục đích khác nhau. Thứ nhất là một cơ
chế nhằm thực hiện các hoạt động dự án tốt hơn, hiệu quả hơn. Ví dụ thay vì hỗ trợ các nông dân
riêng lẻ kỹ thuật trông cacao, ADI/VOCA xây dựng các nhóm nơng dân có 30-40 thành viên để làm
tập huấn, chia sẻ kinh nghiệm và cùng giúp nhau trồng cacao. Thứ hai, việc tham gia nhóm cũng giúp
cho nơng dân đáp ứng tốt hơn các nhu cầu chung của mình về đầu vào sản xuất, đầu ra thị trường
cũng như chứng nhận chất lượng. Ngồi các mục đích trên, nhiều INGOs có tham vọng với việc hình
thành tổ nhóm, nơng dân có thể đưa tiếng nói tập thể của mình tốt hơn đến chính quyền địa phương
nhằm giải quyết các nhu cầu trong cuộc sống của họ.
Tuy khơng có nhiều dự án trực tiếp xây dựng các tổ chức phi chính phủ Việt Nam nhưng rất nhiều tổ
chức INGOs có đối tác là các tổ chức VNGOs. Vai trị của các tổ chức VNGOs như là người đồng
triển khai dự án, nhà thầu phụ hoặc cơ quan nhận viện trợ cho INGOs. Có một quan niệm khá phổ
biến trong các tổ chức INGOs và các nhà tài trợ là VNGOs cịn khá yếu cả về tầm nhìn, chiến lược,
nhân lực và khả năng quản lý. Chính vì vậy, việc tài trợ các hoạt động dự án qua VNGOs kèm theo

các hỗ trợ về năng lực tổ chức là một cách gián tiếp để phát triển các tổ chức này.

25


×