Tải bản đầy đủ (.pdf) (11 trang)

sáng kiến kinh nghiệm xây DỰNG THÓI QUEN đọc SÁCH tại TRUNG tâm GDTX TỈNH

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (485.68 KB, 11 trang )

BM 01-Bia SKKN

SỞ GIÁO DỤC VÀ ĐÀO TẠO ĐỒNG NAI
TRUNG TÂM GIÁO DỤC THƯỜNG XUYÊN TỈNH
Mã số: ................................

SÁNG KIẾN KINH NGHIỆM
“XÂY DỰNG THÓI QUEN ĐỌC SÁCH TẠI TRUNG TÂM GDTX TỈNH”

Người thực hiện:

NGUYỄN THỊ HOÀI

Lĩnh vực nghiên cứu:
Quản lý giáo dục



Phương pháp dạy học bộ môn: ............................... 
Phương pháp giáo dục



Lĩnh vực khác: ......................................................... 

Có đính kèm:
 Mô hình
 Phần mềm

 Phim ảnh


Năm học: 2012 - 2013.

 Hiện vật khác


BM02-LLKHSKKN

SƠ LƯỢC LÝ LỊCH KHOA HỌC
I. THÔNG TIN CHUNG VỀ CÁ NHÂN
1. Họ và tên:

NGUYỄN THỊ HOÀI

2. Ngày tháng năm sinh:
3. Nam, nữ:

04 – 5 - 1973

Nữ

4. Địa chỉ: 1/1D KP2, Trương Định, P. Tân Mai, TP. Biên Hòa, Đồng Nai
5. Điện thoại: 0613 828813(CQ);
6. Fax:………… /…………;

ĐTDĐ: 0983 876 755
E-mail:

7. Chức vụ: Giáo viên Anh ngữ kiêm phụ trách thư viện
8. Đơn vị công tác: Phòng Quản lý đào tạo, Trung tâm GDTX tỉnh.
II. TRÌNH ĐỘ ĐÀO TẠO

- Học vị (hoặc trình độ chuyên môn, nghiệp vụ) cao nhất: Cử nhân
- Năm nhận bằng: 1994
- Chuyên ngành đào tạo: Đại học Sư phạm Anh ngữ + Nga ngữ
III. KINH NGHIỆM KHOA HỌC
- Lĩnh vực chuyên môn có kinh nghiệm: Giảng dạy tiếng Anh
- Số năm có kinh nghiệm: 18 năm
- Các sáng kiến kinh nghiệm đã có trong 5 năm gần đây:
 Một số cải tiến phương pháp trong giảng dạy tiếng Anh cho đối tượng học
viên vừa học, vừa làm.


BM03-TMSKKN

Tên sáng kiến kinh nghiệm :
“XÂY DỰNG THÓI QUEN ĐỌC SÁCH TẠI TRUNG TÂM GDTX TỈNH”

I. LÝ DO CHỌN ĐỀ TÀI :
Bước vào thế kỷ XXI, nhân loại đã thực sự bước vào kỷ nguyên thông tin,
kỷ nguyên của Internet và World Wide Web với sự phát triển của nền kinh tế tri
thức. Sức phát triển của công nghệ thông tin ngày nay đã tác động đến mọi bình
diện xã hội với sự chuyển biến từ vi mô đến vĩ mô về mọi nhu cầu trong cuộc
sống, và nó đã mở ra cho chúng ta một kỷ nguyên mới với tầm vóc không ngừng
biến đổi trên khắp toàn cầu. Có thể nói, không thể có giai đoạn lịch sử nào trước
đây có thể so sánh được với nền văn hóa-văn minh hiện đại hiện nay của chúng ta.
Hàng ngày, hàng giờ giới truyền thông từ các phương tiện chuyển tải và thu nhận
thông tin như đài phát thanh, báo chí, truyền hình…đã cho chúng ta một lượng
thông tin nhiều vô hạn. Nhưng nổi cộm hơn cả, nóng bỏng hơn cả, xa rộng hơn cả
và cực kỳ nhanh, nhạy hơn cả chính là báo điện tử, và biết bao nội dung được truy
cập từ mạng Internet để khai thác, tìm hiểu và nghiên cứu các mảng thông tin trong
kho tàng não bộ khổng lồ của địa cầu. Sự phát triển bền lâu này, đòi hỏi con người

phải có sự hiểu biết và trách nhiệm cao trong việc bảo vệ, cải thiện đời sống, hay
nói cách khác là phải có văn hóa và độ hiểu biết để chuyên cần nghiên cứu mọi vấn
đề thuộc tri thức sống cần thiết. Đó chính là văn hóa đọc. Mà việc đọc thì đang
đứng trước một cơ hội và một nguy cơ. Cơ hội bởi mỗi người đều được tiếp cận
với một khối lượng tri thức khổng lồ, được quyền lựa chọn. Nhưng nó lại tiềm ẩn
một nguy cơ làm mai một thói quen đọc truyền thống vốn có bởi sự lấn át của các
phương tiện nghe nhìn quá nhiều, quá hấp dẫn. Vậy sẽ có tương lai nào cho văn
hóa đọc trong thời đại thông tin?
Cái gì cũng có thể thành thói quen. Và để thành thói quen thì cần phải xây
dựng, phải có sự động viên, khích lệ của xã hội. Muốn mời gọi bạn đọc trở lại thì
phải có sách hay, phải có những hoạt động khuyến khích văn hóa đọc.


Với cương vị là một giáo viên kiêm nhiệm công tác thư viện của Trung tâm
và cũng là một độc giả trung thành của thư viện Trung tâm, tôi chọn đề tài : “ Xây
dựng thói quen đọc sách tại Trung tâm GDTX Tỉnh” với mong muốn đóng góp
một phần nhỏ bé nhằm khơi dậy và hình thành thói quen đọc sách cho các cán bộ,
giáo viên, nhân viên và học viên của Trung tâm GDTX Tỉnh nói riêng và cộng
đồng nói chung.
II. TỔ CHỨC THỰC HIỆN CỦA ĐỀ TÀI
1. Cơ sở lý luận:
Văn hóa đọc sách là một trong những con đường hình thành nhân cách mỗi
người, tuy nhiên, thói quen đọc sách ở Việt Nam đang bị sự phát triển của các
loại hình văn hóa giải trí, nghe nhìn, cùng áp lực từ cuộc sống hiện đại lấn át.
Tại Hội thảo văn hóa đọc và ngày đọc sách Việt
Nam diễn ra tại Thư viện Quốc gia Việt Nam, chiều
8/10, do Ban Tuyên giáo Trung ương, Bộ Thông tin
và Truyền thông và Hội Xuất bản Việt Nam phối
hợp tổ chức, nhiều nhà khoa học, các nhà quản lý,
các chuyên gia trong hoạt động xuất bản, in, phát

hành và thư viện đã bàn về thực trạng văn hóa đọc
hiện nay, vai trò phát triển văn hóa đọc trong sự phát
triển của nền văn hóa Việt Nam và các giải pháp để
duy trì văn hóa đọc trong thời kỳ mới.
Ngại đọc và ít đọc
Theo kết quả điều tra xã hội học do một số nhà nghiên cứu của Viện Văn học tiến
hành năm 2010 ở Hà Nội và TP Hồ Chí Minh với đối tượng là thanh niên có độ
tuổi từ 15-30, cứ 100 thanh niên có gần 30 người thường xuyên đọc (sách văn
học); 56 người thỉnh thoảng đọc; 10 người hiếm khi đọc và 10 người không bao
giờ đọc. Như vậy, có thể thấy ở khu vực khác như địa bàn nông thôn và miền núi
thì tỷ lệ người thỉnh thoảng đọc, hiếm khi đọc và không bao giờ đọc sẽ ở mức cao
hơn.
Thông kê tại Thư viện Quốc gia, có khoảng 30.000 bạn đọc thường xuyên, số bạn
đọc ở các thư viện cấp tỉnh, huyện có khoảng 1.000 – 2.000 người, ở thư viện hoặc
phòng đọc cấp xã là 100 -200 người nghĩa là số người đọc thường xuyên ở các thư
viện chỉ chiếm vào khoảng 8 - 10 % dân số… Theo bà Nguyễn Thị Thanh Mai, Vụ
trưởng Vụ Thư viện, Bộ VH-TT-DL, một thực trạng đáng nói nữa là xu hướng đọc
hiện nay ít nhiều có biểu hiện lệch lạc khi thanh, thiếu niên có xu hướng đọc những
truyện tranh với những nỗi dung đơn giản vô bổ, thậm chí thiếu lành mạnh, ngại
đọc các loại sách kinh điển, lý luận, đặc biệt các sách dày, nhiều tập. Thời gian
rảnh rỗi phần lớn dành cho văn hóa nghe nhìn.


PGS, TS Phan Trọng Thưởng, Phó Chủ tịch Hội đồng lý luận phê bình Văn học
Nghệ thuật Trung ương cho rằng, với lợi thế nhanh hơn, trực tiếp hơn, tiện lợi hơn,
đa dạng hơn, thoải mái hơn…văn hóa nghe – nhìn lên ngôi đang lấn át văn hóa
đọc.
Trong xã hội hiện đại, con người chịu quá nhiều áp lực từ công việc, từ môi
trường, từ các nhu cầu vật chất và tinh thần khác… do vậy, thời gian nghỉ ngơi họ
dành cho việc giải trí, dẫn đến tâm lý lười đọc, ngại đọc.

Ngay cả những người có thói quen còn chung thủy với sách văn học thì do nhiều
yếu tố tác động thị hiếu của họ cũng đã thay đổi nhiều so với trước đây. Ngày nay,
trẻ em chỉ thích đọc truyện tranh với những phụ đề ít chất văn chương, nặng tính
hành động; người lớn thích đọc các truyện giải trí đơn thuần, thích các ấn phẩm
thông tin. Do vậy, bộ sách văn học lớn, nhiều tập, nhiều trang trở nên kém hấp dẫn
và không còn hứng thú đọc.
“Tuy nhiên, nếu bảo người Việt không đọc sách, hoặc rất ít người đọc sách thì tôi
lại nghi ngờ. Hình như cũng không phải thế. Nếu chẳng còn ai đọc sách nữa thì
người ta in sách ra để làm gì? Hãy vào bất kỳ một nhà sách nào cũng thấy rõ. Phải
nói là “trên trời, dưới sách”. Không thiếu bất kỳ một chủng loại nào”, Nhà thơ
Trần Đăng Khoa nhận định. Theo ông, trong xã hội, có hai đối tượng cần phải
được đọc nhiều thì họ lại đang mất dần thói quen đọc. Đó là các quan chức và học
sinh, sinh viên.
“Tôi quan tâm đến các quan chức, bởi họ là những người điều hành cơ quan, điều
hành xã hội. Sự tác động của họ vào xã hội rất lớn, bởi thế cần phải có một tầm
nhìn cao rộng. Với những nhà lãnh đạo, đọc sách là vi hành để hiểu được lòng
dân”.
Còn học sinh, sinh viên là đối tượng lẽ ra cần đọc nhiều nhất thì lại rất thờ ơ với
sách. Nhà thơ cho rằng muốn tạo được “văn hóa đọc” phải bắt đầu từ nền giáo dục.
“Thường đến 20 tuổi rồi mà không hề biết đến ham thích và không có cái thú đọc
sách thì cả đời sẽ khó lòng trở thành người ham đọc và biết đọc sách”, Nhà thơ
Trần Đăng Khoa nói.
Thói quen “máu thịt”
Theo Nhà thơ Trần Đăng Khoa, ngành giáo dục phải có những chiến lược thiết
thực để dạy cho trẻ biết yêu sách từ nhỏ, ham đọc sách từ nhỏ. Nhà trường cần có
quy định lớp nào thì phải đọc hết những cuốn sách nào, hướng dẫn cách đọc.
“Nên dành thì giờ cho các em đọc sách. Hãy làm cho nhà trường trở thành nơi đầu
tiên, cùng với gia đình, tạo cho con người ý niệm về sự cao quý của chữ nghĩa,
sách vở, tập thói quen, nhu cầu và niềm say mê đọc”.



* Từ những thực trạng và giải pháp nêu trên, liên hệ với thực tế hoạt động thư
viện của Trung tâm GDTX Tỉnh trong thời gian qua, tôi xin nêu một số ý kiến
như sau :
a.Thuận lợi:
- Về phát triển vốn tài liệu:
* Tài liệu được cấp phát hàng năm về những lĩnh vực liên quan như chính
trị, pháp luật, văn học, giáo dục, nghiệp vụ chuyên môn…
* Tài liệu chuyên ngành của từng khóa học theo từng loại hình đào tạo của
Trung tâm như các lớp BTVH, các lớp đại học liên kết, các lớp bồi dưỡng ngắn
hạn, các lớp chuyên đề, …
* Tạp chí, sách, báo đa dạng được đặt hàng ngày, hàng tuần như báo địa
phương, trung ương, tạp chí về giáo dục, chính trị, sách khỏe, phụ nữ,…
* Nhà nước tài trợ sách, truyện tham khảo dành cho học sinh do Công ty
phát hành Sách Đồng Nai giao.
* “ Tủ sách cộng đồng” do chính cán bộ, giáo viên, công nhân viên và học
viên của Trung tâm xây dựng và đóng góp.
- Về môi trường đọc: Trung tâm đã quy định không gian và thời gian đọc
cho cán bộ, giáo viên, công nhân viên, đó là sáng thứ hai hàng tuần sau buổi sinh
hoạt chào cờ và mở cửa thư viện thường xuyên để tất cả mọi người đều có thể
đọc khi có thể. Đồng thời, Trung tâm luôn khuyến khích, mời gọi và tạo mọi điều
kiện để tất cả các học viên ít nhất một lần được tiếp cận việc đọc trong khóa học
của mình.
b. Khó khăn:
- Thư viện hiện vẫn còn là kho chứa sách, thiếu đồ dùng vật chất cơ bản
như bàn, ghế, giá sách, phòng đọc, và đặc biệt đầu sách chưa phong phú. Trang
thiết bị xây dựng và trang bị không đúng quy cách hoặc cũng không theo quy
chuẩn chuyên ngành nên rất nhiều bất cập cho khâu phục vụ bạn đọc, lưu trữ và
truyền tải thông tin.
- Sự quan tâm của các cấp đối với thư viện trường học chưa đúng mức, cho

nên chất lượng đội ngũ có nhiều bất cập, tổ chức hoạt động không đủ sức thuyết
phục, hiệu quả thấp. TVTH chưa thực sự thu hút sự tham gia của mọi người.
Chuyên môn, nghiệp vụ và kỹ năng tổ chức hoạt động của cán bộ phụ trách thư
viện còn hạn chế.
c. Nguyên nhân:
- Do nhận thức về vai trò của thư viện trường học chưa đầy đủ, còn phiến
diện dẫn tới sự thiếu quan tâm và đầu tư chưa thích đáng. Nguồn tài liệu không
phong phú, không đáp ứng được thông tin hai chiều cho cán bộ, giáo viên, công
nhân viên và học viên của Trung tâm.


- Do cán bộ phụ trách thư viện chủ yếu là thực hiện nghiệp vụ một cách máy
móc, hoặc giáo viên kiêm nhiệm, chưa qua đào tạo nghiệp vụ chuyên ngành.
- Hoạt động thư viện còn sơ sài, chưa thu hút, hấp dẫn.
2. Một số biện pháp và kinh nghiệm bước đầu xây dựng thói quen đọc sách
tại Trung tâm GDTX Tỉnh :
Để thư viện không chỉ tồn tại dưới hình thức như một "kho chứa sách" cần thay
đổi hình thức hoạt động để thư viện gần gũi và thân thiện hơn. Cụ thể là :
+ Tạo cơ hội cho mọi đối tượng tiếp cận thông tin, xây dựng thói quen đọc sách và
tích cự tham gia các hoạt động thư viện
+ Đến với người sử dụng một cách linh hoạt, hiệu quả.
+ Hỗ trợ cho việc dạy và học tích cực
+ Phát triển mối quan hệ thân ái, cởi mở, tích cực giữa thủ thư và giáo viên, cán
bộ, nhân viên và học viên của Trung tâm.
+ Tăng cường sự tham gia của các cấp lãnh đạo, cán bộ, nhân viên, học viên và
thành viên cộng đồng
+ Cấp thẻ “bạn đọc thân thiết”, “thành viên tích cực” để khuyến khích mọi người
cùng đọc và tham gia xây dựng “tủ sách cộng đồng” của Trung tâm.
+ Tổ chức thảo luận về những đề tài nóng và mới được truyền tải qua việc đọc
sách, báo, tạp chí.

* Có nhiều hình thức để tổ chức thư viện mở, ví dụ:
+ Thư viện góc lớp: Đơn giản chỉ là một giá sách, tủ sách nhỏ, thậm chí chỉ là các
thùng đựng sách nhằm đảm bảo tất cả các lớp ở các khối đều có góc thư viện của
lớp mình.
+ Thư viện ngoài trời : Không gian đọc sách là dưới những tán cây xanh, thậm chí
là ở hành lang lớp học, gầm cầu thang (nếu đủ rộng).
+ Thư viện gia đình : Khuyến khích tất cả mọi người nhân rộng thói quen đọc sách
ngay tại gia đình của mình bằng chính nguồn tư liệu tại Trung tâm thông qua việc
mượn hoặc trao đổi sách, báo, tạp chí.
Việc tạo ra không gian đọc mở như vậy, với mong muốn mọi người ý thức được
rằng khi cầm cuốn sách trên tay với mục đích đọc sách rõ rệt trong đầu (phải có lý
do khi đọc từng cuốn), bạn sẽ tập trung trí não và cảm xúc để hấp thu nội dung và
cảm nhận giá trị cuốn sách. Việc tập trung cũng giúp trí não được thư giãn. Khi đó,
bạn sẽ thả hồn vào từng trang sách, đưa trí tưởng tượng vươn đến những miền đất
mà mắt thường không thể nhìn thấy. Chắc chắn, bạn cũng sẽ cảm nhận được nhiều
điều kỳ thú, đôi khi hơn cả một chuyến đi du lịch. Khi trí óc đã gặt hái nhiều điều
mới mẻ, nó sẽ không còn ở tầm vóc bình thường nữa. Vậy bạn còn chờ gì nữa?
Mỗi ngày, chỉ cần dành khoảng 15 phút để đọc sách là có thể hoàn thành 7 trang
sách. Điều này có nghĩa, mỗi tháng bạn xem xong một cuốn sách dày khoảng 200
trang mỗi năm 12 cuốn sách. Và sau 10 năm, bạn xem được 120 cuốn sách. Thử


tưởng tượng, nếu tăng gấp đôi thời gian đọc sách lên 30 phút mỗi ngày, bạn sẽ có
trí tuệ của… 240 cuốn sách, sau 10 năm.
Vậy từ nay, mong rằng sẽ không còn ai nói: “Tôi muốn đọc sách lắm, nhưng
không có thời gian”!
III. KẾT QUẢ
Sau một thời gian áp dụng những biện pháp trên, tôi nhận thấy rằng các
cán bộ, giáo viên, nhân viên và học viên của Trung tâm thích thú hơn với việc đến
thư viện Trung tâm. Số lượt độc giả trong thời gian qua tăng lên đáng kể. Một số

các bạn học viên đã có thói quen thường xuyên đến thư viện và "mê" đọc sách hơn.
IV. ĐỀ XUẤT, KHUYẾN NGHỊ KHẢ NĂNG ÁP DỤNG
Với quy mô và phạm vi nhỏ gói gọn trong Trung tâm GDTX Tỉnh, đồng thời cũng
là một độc giả trung thành của Thư viện Trung tâm, tôi mong muốn rằng văn hóa
đọc sẽ được duy trì và phát triển mạnh hơn nhiều trong thời gian tới. Để chuẩn hóa
và chuyên nghiệp hóa công tác thư viện trường học, tôi mong rằng :
+ Các cấp có thẩm quyền mỗi năm đều mở các lớp nâng cao nghiệp vụ chuyên
ngành dành cho thư viện trường học.
+ Hỗ trợ hơn nữa nguồn sách, báo, tài liệu, thông tin cho thư viện.
+ Cấp máy vi tính nối mạng độc lập cho thư viện để quản lý và tổ chức hoạt
động.
+ Tổ chức hội thảo chuyên đề nhiều hơn để cán bộ - giáo viên phụ trách thư
viện các trường có điều kiện trao đổi kinh nghiệm, học hỏi lẫn nhau để công tác
thư viện ngày càng phong phú và đạt hiệu quả cao hơn.
Trên đây tôi đã khái quát thành những bài học kinh nghiệm về công tác
này. Song, đây cũng chỉ là những kinh nghiệm bước đầu còn ít ỏi, chắc chắn còn
nhiều vấn đề tồn tại. Kính mong quý ban xem xét và có những đóng góp để SKKN
của tôi hoàn thiện hơn.


V. TÀI LIỆU THAM KHẢO
1. Langan, John.- Ten steps to building college reading skills: Form A:
Course.-2nd. ed. .- Martol: Townsend press, 1994.
2. McWhorter, Kathleen T.- Efficient and Flexible Reading: Fìth Edition.New York: Logman, 1998.
3. Thư viện Việt Nam số 2/2006.
4. Từ điển thuật ngữ xuất bản, in, phát hành sách, thư viện và bản quyền.- H:
Nhà xuất bản Từ điển Bách khoa, 2002.
5. Văn hóa trong giáo trình Nhân học đại cương của Bộ môn Nhân học, Đại
học KHXH&NV TP.HCM,
6. Cơ sở văn hóa Việt Nam, Trần Quốc Vượng (chủ biên), NXB Giáo dục,

2005, tr.22.

NGƯỜI THỰC HIỆN
(Ký tên và ghi rõ họ tên)

NGUYỄN THỊ HOÀI


BM04-NXĐGSKKN

SỞ GD&ĐT ĐỒNG NAI
Trung tâm GDTX Tỉnh

CỘNG HOÀ XÃ HỘI CHỦ NGHĨA VIỆT NAM
Độc lập - Tự do - Hạnh phúc

Biên Hòa, ngày

tháng 5 năm 2013

PHIẾU NHẬN XÉT, ĐÁNH GIÁ SÁNG KIẾN KINH NGHIỆM
Năm học: .....................................
–––––––––––––––––
Tên sáng kiến kinh nghiệm:
“XÂY DỰNG THÓI QUEN ĐỌC SÁCH TẠI TRUNG TÂM GDTX TỈNH”
Họ và tên tác giả: Nguyễn Thị Hoài

Chức vụ: Giáo viên kiêm công tác thư viện

Đơn vị: Trung tâm Giáo dục Thường xuyên Tỉnh

Lĩnh vực: (Đánh dấu X vào các ô tương ứng, ghi rõ tên bộ môn hoặc lĩnh vực khác)
- Quản lý giáo dục



- Phương pháp dạy học bộ môn: ............................... 

- Phương pháp giáo dục



- Lĩnh vực khác: ........................................................ 

Sáng kiến kinh nghiệm đã được triển khai áp dụng: Tại đơn vị 

Trong Ngành 

1. Tính mới (Đánh dấu X vào 1 trong 2 ô dưới đây)
-

Có giải pháp hoàn toàn mới

-

Có giải pháp cải tiến, đổi mới từ giải pháp đã có




2. Hiệu quả (Đánh dấu X vào 1 trong 4 ô dưới đây)

-

Hoàn toàn mới và đã triển khai áp dụng trong toàn ngành có hiệu quả cao 

- Có tính cải tiến hoặc đổi mới từ những giải pháp đã có và đã triển khai áp dụng
trong toàn ngành có hiệu quả cao 
-

Hoàn toàn mới và đã triển khai áp dụng tại đơn vị có hiệu quả cao 

- Có tính cải tiến hoặc đổi mới từ những giải pháp đã có và đã triển khai áp dụng tại
đơn vị có hiệu quả 
3. Khả năng áp dụng (Đánh dấu X vào 1 trong 3 ô mỗi dòng dưới đây)
- Cung cấp được các luận cứ khoa học cho việc hoạch định đường lối, chính sách:
Tốt 
Khá 
Đạt 
- Đưa ra các giải pháp khuyến nghị có khả năng ứng dụng thực tiễn, dễ thực hiện và
dễ đi vào cuộc sống:
Tốt 
Khá 
Đạt 
- Đã được áp dụng trong thực tế đạt hiệu quả hoặc có khả năng áp dụng đạt hiệu quả
trong phạm vi rộng:
Tốt 
Khá 
Đạt 
Sau khi duyệt xét SKKN, Phiếu này được đánh dấu X đầy đủ các ô tương ứng, có
ký tên xác nhận và chịu trách nhiệm của người có thẩm quyền, đóng dấu của đơn vị và
đóng kèm vào cuối mỗi bản sáng kiến kinh nghiệm.

XÁC NHẬN CỦA TỔ CHUYÊN MÔN
THỦ TRƯỞNG ĐƠN VỊ
(Ký tên và ghi rõ họ tên)
(Ký tên, ghi rõ họ tên và đóng dấu)




×