Tải bản đầy đủ (.doc) (25 trang)

Tiểu luận nâng cao tỷ trọng thời gian làm việc ở nông thôn VN hiện nay

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (190.42 KB, 25 trang )

MỤC LỤC

1


LỜI NÓI ĐẦU
Lao động - việc làm là một trong những vấn đề kinh tế - xã hội quan
trọng góp phần to lớn vào sự nghiệp phát triển có hiệu quả của mỗi quốc gia
trên thế giới. Đối với Việt Nam, trong quá trình hội nhập và phát triển thì vấn
đề việc làm càng trở nên cấp thiết hơn bao giờ hết. Giải quyết việc làm là một
trong những mục tiêu cơ bản trong đường lối phát triển kinh tế - xã hội của
đất nước.
Thực tế, ở khu vực nông thôn hiện nay: sản xuất nông nghiệp là chủ
yếu, mật độ dân số cao, bình quân diện đất canh tác ít, năng suất lao động
(NSLĐ) thấp, máy móc thiết bị cũ kỹ lạc hậu, dân số tăng nhanh, lao động dôi
dư nhiều, người dân nông thôn có việc nhưng thời gian làm việc của họ lại
không đủ số giờ làm việc theo quy định của Nhà nước (8 giờ /ngày) hay chính
là hiện tượng thiếu việc làm đang diễn ra hiện nay. Trong khi sản xuất nông
nghiệp chưa thực sự chuyển sang sản xuất hàng hóa, công nghiệp chưa phát
triển mạnh và chủ yếu là công nghiệp nhẹ như sản xuất các mặt hàng truyền
thống như đồ gốm, mây tre đan, nghề thêu, khảm trai… chưa thực sự thu hút
được nhiều lao động. Bên cạnh đó, cùng với quá trình CNH - HĐH, quá trình
đô thị hóa nông thôn đang diễn ra nhanh chóng và kéo theo diện tích đất nông
nghiệp bị giảm dần, dẫn tới lực lượng lao động (LLLĐ) nông nghiệp thiếu
việc làm ngày càng đông điều đó khiến cho người nông dân trở nên hoang
mang khi thời gian nông nhàn của họ ngày một tăng lên trong khi đó ngoài
nghề thuần nông họ không biết làm nghề gì khác để kiếm sống. Chỉ vì “miếng
cơm manh áo” nhằm duy trì cuộc sống hiện tại họ sẵn sàng làm những công
việc mà chính họ không hiểu được sự nguy hiểm của nó, một số lại sa ngã vào
các tệ nạn như: buôn lậu, cờ bạc, ma túy, mại dâm… Điều này đã đem lại sự
bất ổn cho xã hội và tạo gánh nặng cho quốc gia. Vì vậy: Nâng cao tỷ trọng


thời gian làm việc ở nông thôn Việt Nam hiện nay là một vấn đề cấp thiết.

2


MỤC ĐÍCH NGHIÊN CỨU
- Đánh giá, phân tích về tình hình sử dụng thời gian làm việc ở nông
thôn nước ta trong giai đoạn hiện nay.
- Đề xuất một số giải pháp nhằm nâng cao tỷ trọng sử dụng thời gian
lao động cho người dân nông thôn.
ĐỐI TƯỢNG, PHẠM VI NGHIÊN CỨU.
- Về không gian: Đề tài tiến hành nghiên cứu, khảo sát tỷ trọng thời
gian làm việc của người dân nông thôn nước ta.
- Về thời gian: Đề tài tập trung phân tích thực trạng thời gian làm việc
của người dân lao động trong lĩnh vực nông nghiệp ở nông thôn Việt Nam
trong những năm gần đây.
- Về nội dung: Tập trung nghiên cứu tỷ trọng thời gian làm việc của
người lao động nông thôn từ đó đưa ra các giải pháp cụ thể nhằm làm tăng tỷ
trọng thời gian làm việc của người lao động nông thôn.
PHƯƠNG PHÁP NGHIÊN CỨU.
- Sử dụng phương pháp duy vật biện chứng, điều tra chọn mẫu, các
phương pháp thống kê toán học thường sử dụng để xử lý phân tích thông tin.
- Các hình thức thu thập thông tin qua sách, báo, phương tiện thông tin
đại chúng, số liệu thống kê của Bộ Lao động Thương binh - Xã hội,…..
KẾT CẤU ĐỀ TÀI.
- Mục lục.
- Lời mở đầu.
- Nội dung bao gồm các phần
I. Sự cần thiết phải nâng cao tỉ trọng thời gian làm việc ở nông thôn.
II. Thực trạng về tỷ trọng thời gian làm việc ở nông thôn Việt Nam.

III. Một số giải pháp khắc phục nhằm nâng cao tỷ trọng thời gian làm
việc ở nông thôn Việt Nam
IV. Kết luận.
- Danh mục tài liệu tham khảo
3


I. SỰ CẦN THIẾT PHẢI NÂNG CAO TỶ TRỌNG THỜI GIAN
LAO ĐỘNG Ở NÔNG THÔN VIỆT NAM
1. Các khái niệm, các chỉ tiêu đánh giá tỷ trọng sử dụng thời gian
làm việc ở nông thôn
1.1. C ác khái niệm.
1.1.1. Khái niệm nông thôn
Nông thôn là khu vực dân cư tập trung chủ yếu làm nghề nông. Có
nhiều ý kiến đề cập đến các nội dung định nghĩa nông thôn bao gồm nhiều
mặt: địa lý tự nhiên, kinh tế, xã hội, văn hoá khoa học, giao thông liên lạc…
- Về mặt tự nhiên: nông thôn là một địa bàn rộng lớn trải ra thành các
vành đai bao quanh các thành thị.
- Về kinh tế: nông thôn là địa bàn hoạt động chủ yếu của các ngành sản
xuất vật chất nông, lâm, ngư nghiệp và các ngành nghề sản xuất và kinh
doanh, dịch vụ ngoài nông nghiệp (khác với hoạt động kinh tế của đô thị tập
trung hoàn toàn vào hoàn toàn vào công nghiệp và dịch vụ).
- Về tính chất xã hội: cơ cấu dân cư ở nông thôn chủ yếu là nông dân và
gia đình họ, ngoài ra cũng có một số người làm việc ở nông thôn, nhưng sống
ở đô thị và một số người làm việc ở đô thị nhưng sống ở nông thôn. Mật độ
dân cư nông thôn thường thấp hơn ở đô thị.
- Về mặt văn hoá: nông thôn thường là nơi còn bảo tồn và lưu giữ được
nhiều di sản văn hoá của mỗi quốc gia
- Về trình độ văn hoá: khoa học và công nghiệp, nói chung ở nông thôn
thấp kém.

- Về cơ sở hạ tầng: ở nông thôn như điện nước, giao thông vận tải,
thông tin liên lạc thường kém hơn đô thị.

4


1.1.2. Khái niệm về thời gian làm việc
Thời gian làm việc là độ dài thời gian do Nhà nước quy định, trong đó
người lao động phải có mặt tại địa điểm sản xuất, công tác và thực hiện những
nhiệm vụ được giao phù hợp với nội quy của nơi làm việc. Thời gian làm việc
được thực hiện ở số giờ làm việc trong một ngày hoặc một tuần và số ngày
làm việc trong một tuần, một tháng hoặc một năm.
Thời gian làm việc được quy định phù hợp với điều kiện kinh tế của đất
nước với lợi ích của xã hội và lợi ích của người lao động. Việc quy định thời
gian làm việc nhằm đảm bảo cho người lao động thực hiện đầy đủ quyền và
nghĩa vụ lao động, phát huy được tính sáng tạo của mình trong trong sản xuất
công tác, trên cơ sở đó. Việc rút ngắn thời gian làm việc đã trở thành mục tiêu
phấn đấu là thước đo của trình độ phát triển của NSLĐ, sự cải thiện điều kiện
sinh hoạt của người lao động, nhất là ở các nước XHCN. Ở Việt Nam hiện
nay, phải đảm bảo làm việc đủ 8 giờ/ ngày hoặc 40 giờ / tuần. Việc rút ngắn
hay kéo dài thời gian làm việc chỉ xảy ra khi cần thiết. Sự kéo dài thời gian
làm việc thường xảy ra trong khu vực nông thôn khi mùa vụ đến.
1.1.3. Khái niệm tỷ trọng thời gian làm việc
Tỷ trọng thời gian làm việc là thời gian làm việc thực tế so với thời gian
làm việc theo quy định của Nhà nước.
1.2. Một số yếu tố ảnh hưởng đến sử dụng thời gian làm việc của
người lao động nông thôn.
Dân số và lao động nông nghiệp còn chiếm tỉ trọng lớn, nhưng phân bố
không đều giữa các vùng, thường tập chung ở vùng đồng bằng và ven biển.
Năm 2005, theo kết quả điều tra lao động làm việc tháng 7/ 2005, LLLĐ cả

nước 44.385 ngàn người, tăng 2.64% so với năm 2004 với quy mô tăng thêm
là: 44.385 ngàn người lao động thì LLLĐ trong độ tuổi có 44.185 ngàn người
tăng 2.5% so với thời điểm tháng 7/2004. Tổng số lao động nông thôn năm

5


2005 có 38.314 ngàn người, chiếm 75.06% LLLĐ xã hội so với năm 2004
giảm đi 0.52%. Tốc độ gia tăng dân số ở nông thôn nhanh là mộu trong
những yếu tố tác động mạnh làm giảm tỷ trọng thời gian sử dụng của người
lao động nông thôn. Bên cạnh nhân tố tăng dân số lao động nông thôn làm
giảm tỷ trọng sử dụng thời gian lao động nông thôn thì công nghiệp hoá cũng
là góp phần giảm thời gian lao động ở nông thôn. Công nghiệp hoá là xu
hướng tất yếu ở nước ta để đi tới mục tiêu dân giàu nước mạnh. CNH – HĐH
không chỉ đơn giản là công cuộc xây dựng kinh tế mà là quá trình biến đổi
sâu sắc con người trong mọi lĩnh vực của đời sống xã hội nhằm làm cho xã
hội phát triển lên trạng thái mới về chất. Nhưng chính công nghiệp hoá nông
thôn, đưa máy móc thiết bị vào sản xuất nông nghiệp đã làm giảm thời gian
lao động trong ngày của lao động nông thôn. Như trước kia, việc làm trong
nông nghiệp như cuốc cày, gặt hái …. đều phải làm bằng thủ công dựa vào
sức người là chính nhưng từ khi có máy móc thiết bị đưa vào sản xuất thì
những công việc đó do máy móc đảm nhiệm nên thời gian lao động của
người lao động nông thôn giảm đi phần thời gian đó….Ngoài ra, sự di
chuyển lao động vùng cũng góp phần ảnh hưởng đến thời gian lao động ở
nông thôn.
Chúng ta cần quan tâm đến những yếu tố ảnh hưởng đến thời gian lao
động của người lao động nông thôn để có những biện pháp khắc phục để tăng
thời gian làm việc của người lao động nông thôn.
1.3. Chỉ tiêu đánh giá tỷ trọng sử dụng thời gian lao động ở khu vực
nông thôn Việt Nam.

1.3.1. Chỉ tiêu đánh giá thời gian lao động ở nông thôn theo số ngày
công trong năm.
1.3.1.1. Các chỉ tiêu quỹ thời gian lao động và tổng thời gian làm việc
thực tế trong năm.
Các chỉ tiêu biểu hiện thời gian lao động và tổng thời gian làm việc

6


thực tế theo đơn vị ngày/ năm.
- Quỹ thời gian lao động theo lịch( T dl) là chỉ tiêu phản ánh tổng số
ngày theo lịch trong năm ( 365 ngày )
- Quỹ thời gian lao động theo chế độ( T cđ): là chỉ tiêu phản ánh tổng số
ngày mà người lao động phải làm việc theo quy định của chế độ lao động do
Nhà nước ban hành. Chỉ tiêu này được xác định bằng cách: Lấy hiệu giữa thời
gian lao động theo lịch và tổng số ngày người lao động được nghỉ và chủ nhật
theo chế độ quy định.
Tcđ =Tdl -số ngày được nghỉ -số ngày nghỉ thứ 7,chủ nhật

- Quỹ thời gian lao động có thể sử dụng lớn nhất (N ln): là chỉ tiêu phản
ánh số ngày người lao động có thể sử dụng phù hợp với luật lao động. Chỉ
tiêu này được xác định bằng cách lấy hiệu giữa thời gian lao động theo chế độ
và tổng số ngày nghỉ phép năm theo chế độ quy định.
-Số ngày người lao động vắng mặt là tổng số ngày mà người lao động
không làm việc. Việc vắng mặt với nhiều lý do khác nhau, có cả vắng mặt với
lí do chính đáng và không chính đáng. Số ngày người lao động vắng mặt cần
được hiểu chỉ gồm những ngày người lao động vắng mặt cả ngày.
- Số ngày có mặt là tổng số ngày mà người lao động có đến nơi làm
việc và sẵn sàng làm việc.
-Số ngày làm việc thực tế: là tổng số ngày người mà người lao động

thực tế có mặt và thực tế làm việc, không kể thời gian làm việc trong ngày
của họ là bao nhiêu.
-Số ngày làm việc thực tế trong chế độ là tổng số ngày mà người lao
động thực tế có mặt và thực tế có làm việc phù hợp với quy định của luật lao
động.
-Tổng số ngày làm việc thực tế nói chung ( Ttt )là tổng số ngày mà
người lao động có mặt tại nơi làm việc bao gồm cả làm trong chế độ và làm
7


thêm giờ.
1.3.1.2. Tỷ trọng thời gian làm việc thực tế của lao động trong năm
ở khu vực nông thôn
Tỷ trọng thời gian làm việc thực tế của lao động trong năm ở khu vực
nông thôn được xác định bằng thương số của số ngày làm việc thực tế trong
năm so với số ngày công theo chế độ quy đổi về %

H= (Ttt : Tcđ )*100%

Trong đó: H : tỷ trọng số ngày làm việc theo chế độ.
Ttt : số ngày làm việc thực tế trong năm.
Tcđ: số ngày theo chế độ trong năm
1.3.2. Chỉ tiêu đánh giá thời gian lao động ở nông thôn theo số giờ
công trong tuần.
1.3.2.1.

Chỉ tiêu thời gian lao động theo giờ trong tuần

-Số giờ làm việc thực tế trong ngày: là tổng số giờ mà người lao động
thực tế có mặt và thực tế làm việc, không kể thời gian làm việc trong ngày

của họ là bao nhiêu.
-Số giờ làm việc trong chế độ trong ngày là tổng số ngày mà người lao
động thực tế có mặt và thực tế có làm việc phù hợp với quy định của luật lao
động( 8 giờ/ ngày )
1.3.2.2. Tỷ trọng thời gian làm việc thực tế của lao động trong ngày
ở khu vực nông thôn.
Tỷ trọng thời gian làm việc thực tế của lao động trong ng ày ở khu vực
nông thôn được xác định bằng thương số của số giờ làm việc thực tế trong
ngày so với số giờ thực tế theo chế độ quy đổi về %

8


Hg = ( Gtt : Gcđ ) *100%
Trong đó: Gtt : số giờ làm việc thực tế trong ngày
Gcđ : số giờ làm việc theo chế độ trong ngày(8 giờ).
II. THỰC TRẠNG VỀ TỶ TRỌNG THỜI GIAN LÀM VIỆC Ở
NÔNG THÔN
2.1. Khái quát chung về tình trạng tình hình sử dụng thời gian lao
động ở nông thôn
Hiện nay, nước ta là nước đang phát triển có nền nông nghiệp lạc hậu,
đang từ sản xuất nhỏ tiến lên con đường công nghiệp hoá dẫn đến tình trạng
thất nghiệp ở thành thị và thiếu việc làm ở nông thôn. Với thu nhập thấp
nhiều người nông dân khu vực nông thôn phải vật lộn, chiến đấu chống lại
nạn suy dinh dưỡng, bệnh tật và sức khỏe. Số người việc làm ở khu vục nông
thôn tuy có giảm nhưng vẫn chiếm 3/4 tổng số việc làm của cả 2 khu vực.
Năm 1996 tỷ lệ này là 80.79% đến năm 2005 là 75.63%. Điều đó có nghĩa là
tạo ra nhiều cơ hội việc làm để thu hút nhiều lao động ở khu vực nông thôn
đang là vấn đề bức xúc trong xã hội.
Theo Bộ lao động thương binh và xã hội, trong giai đoạn 2001-2004, cả

nước tạo việc làm cho 5.9 triệu lao động, đạt 78.6% kế hoạch giai đoạn 20012005. Cơ cấu lao động tiếp tục chuyển dịch theo hướng tích cực: Tăng lao
động ở khu vực công nghiệp - xây dựng (17.4%) và khu vực thương mại dịch
vụ (24.7%), giảm lao động khu vực nông nghiệp (57.9%). Tỷ lệ thất nghiệp
thành thị giảm xuống còn 5.6% (giảm 0.2% ) so với năm 2003, tỷ lệ thời gian
lao động ở nông thôn là 79% ( tăng 1% so với năm 2003). Trong tổng số 42
triệu lao động có việc làm của cả nước, có 57.9% người làm việc ở khu vực 1
(nông - lâm - thủy sản), 17.4% làm việc ở khu vực 2 (công nghiệp và xây
dựng) và 24.7% làm việc chính ở khu vực 3 (dịch vụ).
Theo báo cáo kết quả điều tra, trong LLLĐ từ 15 tuổi trở lên: khu vực

9


thành thị 94.6% có việc làm và thất nghiệp 5.4%, khu vực nông thôn có
98.9% có việc làm và thất nghiệp 1.1%, thời gian làm việc ở khu vực nông
thôn cũng được tăng lên. Điều đáng lo ngại nhất hiện nay ở nông thôn là tỷ lệ
thất nghiệp và thiếu việc làm trong nhóm lao động trẻ cao gấp 3 lần tỷ lệ thất
nghiệp chung. Do tỷ lệ sinh cao trong thập niên 80 nên hiện nay số người
bước vào độ tuổi lao động khá lớn, khoảng 1.2 - 1.3 triệu người. Bên cạnh đó,
số lao động thất nghiệp dồn lại hàng năm cộng với số lao động mất việc làm
do sắp xếp lại biên chế, tổ chức của các cơ quan, doanh nghiệp, bộ đội phục
viên… đã làm tăng thêm số lao động không có việc làm và cũng làm cho bình
quân diện tích đất nông nghiệp tính trên đầu người giảm xuống. Công việc
nhà nông đã không có nhiều, đã không sử dụng hết thời gian lao động (8 giờ/
ngày) mà lại còn bị chia nhỏ cho nhiều người nữa thì thời gian thực sự giành
cho công việc thực chất là rất ít, có nơi chỉ làm việc hết 1/2 số giờ quy định
một ngày. Cái mà chúng ta quan tâm ở đây là việc sử dụng như thế nào thật
hiệu quả 8 giờ lao động. Những người làm việc ít hơn giờ so với thời gian mà
họ muốn làm, sử dụng kỹ năng của mình ít hơn và làm việc với NSLĐ thấp
hơn so với khả năng của mình. Số liệu về thiếu việc làm hay chính là việc sử

dụng không hết thời gian lao động giúp ta hiểu đúng hơn về thực trạng sử
dụng thời gian làm việc của đất nước giúp trả lời câu hỏi: vì sao tỷ lệ thất
nghiệp nước của cả nước không phản ánh đầy đủ việc sử dụng lao động ở
Việt Nam.
Số ngày làm việc trung bình/năm của một lao động có việc làm thường
xuyên và số giờ làm việc trung bình/tuần của một lao động có việc làm hiện
tại từ năm 1996- 2004. Số ngày làm việc trung bình/ năm cũng như số giờ làm
việc trung bình/tuần có xu hướng giảm theo thời gian. Số ngày làm việc giảm
từ 261 ngày/năm (năm 1996) xuống còn 239 ngày/năm (năm 2004), số giờ
làm việc giảm từ 52 giờ/tuần xuống còn 43 giờ/tuần (năm 2004). Lý do giảm
số ngày và số giờ làm việc như đã trình bày ở trên là do quy định thực hiện
tuần làm việc 5 ngày từ năm 1997. Điều đó có ảnh hưởng tích cực đến việc
10


làm ở khu vực chính thức hơn so với việc làm ở các khu vực khác.
Số người thiếu việc làm còn lớn ở mức 4.9 triệu người làm việc dưới 40
giờ/tuần (năm 2003) và 3.5 triệu người làm việc dưới 35 giờ/tuần trong năm
2005.
2.2.

Số liệu tỷ lệ thời gian được sử dụng ở lao động trong độ tuổi

khu vực nông thôn .
Tỷ lệ sử dụng thời gian lao động ở khu vực nông thôn của cả nước có
tăng từ năm 2000 - 2006. Tỷ lệ sử dụng thời gian làm việc năm 2000 chỉ đạt
74.16% , đây cũng là tỷ lệ thấp nhất trong những năm gần đây, tỷ lệ này năm
2002 là 75.42% tăng 1.26% so với năm 2000, tỷ lệ cao nhất rơi vào năm 2006
là 81.79%; tỷ lệ sử dụng thời gian lao động tăng đều đều qua các năm, và
lượng tăng của năm trước so với năm sau có xu hướng tăng, năm 2003 so với

năm 2002 tăng 2.23% là lượng tăng cao nhất, năm 2004 so với năm 2003 tăng
1.7% và thấp nhất là năm 2006 so với năm 2005 là 1.14
Biểu 1: Tỷ trọng thời gian làm việc được sử dụng ở lao động trong
độ tuổi ở khu vực nông thôn phân theo vùng.( Đơn vị %).
Năm

2000

2002

2003

2004

2005

2006

Cả nước

74.16 75.42

77.65

79.40 80.65

81.79

Đồng bằng Sông hồng


75.53 76.08

78.25

80.21 78.75

80.65

Đông Bắc

73.01 75.32

77.09

78.68 80.31

81.76

Tây Bắc

73.44 71.08

74.25

77.42 78.44

78.78

Bắc Trung Bộ


72.12 74.50

75.60

76.13 76.45

77.91

Duyên hải miền trung

73.92 74.85

77.31

79.11 77.81

79.81

Tây Nguyên

77.04 77.99

80.43

80.60 81.61

82.70

Đông Nam Bộ


76.58 75.43

78.45

81.34 82.90

83.46

Cửu 73.18 76.53

78.27

78.37 80.0

81.70

Đồng
Long

bằng

sông

11


Nguồn: Kết quả điều tra LĐ - VL các năm của Bộ LĐ, TB và XH.
Nhìn vào bảng số liệu trên ta thấy các vùng sử dụng thời gian lao động
có xu hướng tăng dần qua các năm. Trong những năm gần đây thì tỷ lệ sử
dụng thời gian làm việc càng tăng lên. Vùng có tỷ lệ sử dụng thời gian lao

động cao nhất là ở Đông Nam Bộ (83.46%), sau đó đến Tây Nguyên (82.7%),
vùng sử dụng thời gian lao động thấp nhất là Bắc Trung Bộ(77.91%), thấp thứ
hai là Tây Bắc là 78.78%. Trong khi đó việc làm ở nông thôn có xu hướng lúc
tăng lúc giảm từ năm 1996 - 2005. Số người thiếu việc làm năm 1996 thấp
vào khoảng 2.97 triệu người tương ứng tỷ lệ 10.4%, số người thiếu việc làm
năm 1997 tăng lên 5.48 triệu người, tỷ lệ là 19.5%. Sau đó, số người thiếu
việc làm thấp nhất vào năm 2000 với số lượng là 2.74 triệu người, tỷ lệ là
9.1%, năm 2005 là 3.06 triệu người chiếm tỷ lệ 9.3%. Thiếu việc làm có sự
khác biệt rất lớn giữa các vùng lãnh thổ. Sự khác biệt này do ảnh hưởng của
rất nhiều các yếu tố như: điều kiện tự nhiên, diện tích đất trồng, máy móc
thiết bị phục vụ nông nghiệp, các nhà máy chế biến nông sản… Tình trạng
thiếu việc làm trong 8 vùng lãnh thổ thì các vùng Duyên Hải Nam Trung Bộ,
vùng đồng bằng Sông Cửu Long, vùng miền núi Tây Nguyên tỷ lệ thiếu việc
làm rất cao (11.8% - 13.26 %), cao nhất là vùng Duyên Hải Nam Trung Bộ là
13.26%, sau đó đến vùng Tây Nguyên là 12.53%. Vùng đồng bằng Sông Cửu
Long là vùng có diện tích đất nông nghiệp bình quân hộ lớn nhất( hơn 10.000
m2/ hộ). Điều đó cho thấy tiềm năng canh tác của vùng này rất lớn. Sự phát
triển các hoạt động phi nông nghiệp các vùng này chưa mạnh mẽ để thu hút
lao động từ nông nghiệp, tạo điều kiện chuyển dịch cơ cấu lao động nông
thôn. Trong đó các vùng Tây Bắc có tỷ lệ thiếu việc làm thấp nhất (3.29% )
sau đó đến đồng bằng Sông Hồng (4.55%). Điều đó cho thấy sự phát triển của
các hoạt động phi nông nghiệp ở các vùng này là cao hơn mức trung bình của
nông thôn trên toàn quốc. Nguyên nhân ở đây là do các vùng này vừa sản
xuất nông nghiệp vừa kiêm làm nghề, thường là các nghề truyền thống.

12


Số liệu điều tra cho thấy cơ hội việc làm tăng trung bình 805000
người /năm. Cơ cấu lao động trong ngành nông - lâm - ngư giảm từ 70% năm

1996 xuống còn 56.7% năm 2005. Cơ cấu lao động trong công nghiệp và dịch
vụ có xu hướng tăng. Tuy nhiên lao động việc làm trong ngành nông - lâm ngư nghiệp vẫn chiếm tỷ lệ 57% trong tổng số việc làm.
Theo điều tra khảo sát của trung tâm nghiên cứu dân số và nguồn lao
động năm 2006, tình hình sử dụng thời gian lao động của các hộ nông dân
còn khá thấp. Phần lớn lao động nông thôn mới chỉ sử dụng hết 75-82% thời
gian lao động trong năm. Tính trung bình một lao động nông nghiệp ở vùng
đồng bằng sông Hồng chỉ sử dụng hết 26 ngày công để thực hiện toàn bộ
công việc trên diên tích một sào đất nông nghiệp được giao trong một vụ. Ở
một số vùng tỷ lệ sử dụng thời gian lao động khá cao như Tây
nguyên( 82.70% năm 2006 ), ven biển Nam Trung Bộ.
Tỷ trọng sử dụng thời gian lao động ở nông thôn còn thấp nó còn được
thể hiện cả ở số giờ làm việc trong tuần của người lao động nông thôn
Việc phân nhóm lao động có việc làm theo số giờ làm việc trung bình
sẽ giúp những lao động có số giờ làm việc ngắn, số thời gian làm việc quá giờ
và số giờ làm việc trung bình năm được phân định rõ rang. Số giờ làm việc
trung bình một lao động trong tuần có xu hướng giảm xuống từ 52 giờ/ tuần
(1996) xóng còn 43 giờ / tuần năm 2005. Điều này phù hợp với thực tế là
chính phủ Việt Nam quy định tuần được nghỉ 2 ngày thứ 7 và chủ nhật . Số
giờ làm việc giảm từ 52 giờ năm 1996 xuống còn 45 giờ / tuần năm 1997 sau
đó lại tăng lên 47 giờ /tuần năm 2000. Cho đến năm 2001, số giờ làm việc
trung bình của một lao động giảm còn 44 giờ / tuần( năm 2004-2005 ). Lao
động nam có số giờ làm việc trong tuần là 44 giờ, cao hơn lao động nữ 1 giờ
kể từ khi chế độ tuần làm việc 5 ngày được áp dụng. Nhưng trên thực tế việc
áp dụng chế độ tuần làm việc 5 ngày ít có ý nghĩa ở khu vực nông thôn . Lao
động khu vực nông thôn chỉ làm việc trung bình khoảng 42 giờ / tuần, thấp

13


hơn 1 giờ so với mức trung bình cả nước.


Biểu 2: Số giờ làm việc trung bình của người lao động trong tuần.
Năm

1996 1997 2000

2001

2002

2003

2004

2005

Chung

52

45

47

44

44

44


43

43

Nam

52

46

47

44

44

45

44

43

Nữ

52

45

47


44

43

44

43

42

Thành thị

52

50

48

47

46

47

46

46

Nông
thôn


52

44

46

43

43

43

42

42

Nguồn: Số liệu thống kê về thời gian LĐ của Bộ LĐ, TB và XH.
Trong thời vụ cao điểm ngoài lĩnh vực trồng cây nông nghiệp và chế biến
nông sản phải huy động thời gian lao động cao hơn 40 giờ trong tuần, còn hầu
hết các lĩnh vực khác đều chưa sử dụng hết quỹ thời gian lao động. Có những
việc nhà nông không đếm bằng thời gian nhưng có thể kiểm soát bằng kế
hoạch.
Mục tiêu của chương trình quốc gia về việc làm giai đoạn 2001-2005:
Mỗi năm giải quyết việc làm cho 1.4 - 1.5 triệu lao động, giảm tỷ lệ thất
nghiệp ở thành thị xuống dưới 5.4% và nâng cao tỷ lệ sử dụng thời gian lao
động ở nông thôn lên 80% vào năm 2005
III. MỘT SỐ GIẢI PHÁP
3.1 Chính sách của Nhà nước .
Giải quyết việc làm cho lao động nông nghiệp, nông thôn nước ta

những năm tới phải dựa chủ yếu vào các biện pháp tạo việc làm ngay trong
lĩnh vực nông nghiệp.
Ở mỗi quốc gia trong quá trình CNH - HĐH, sự phân công lao động xã

14


hội mang tính quy luật: Trước khi tiến hành công nghiệp hóa thì lao động
trong nông nghiệp nông thôn tăng nhanh cả về tuyệt đối lẫn tương đối. Khi
tiến hành công nghiệp hóa, lao động nông nghiệp giảm xuống tương đối
nhưng về tuyệt đối vẫn tăng lên. Chỉ đến giai đoạn công nghiệp “cất cánh”,
tức công nghiệp hóa về cơ bản hoàn thành thì lao động trong nông nghiệp mới
giảm cả về tuyệt đối lẫn tương đối. Tính quy luật trên thể hiện rõ xu hướng
biến động cả về số lượng trang trại và quy mô đất đai bình quân một trang trại
ở các nước, những nước đã hoàn thành công nghiệp hóa do công nghiệp và
dịch vụ phát triển cao thu hút mạnh lao động nông nghiệp dẫn đến lao động
nông nghiệp, nhân khẩu nông nghiệp và hộ nông nghiệp giảm về tuyệt đối. Ở
nước ta hiện nay, giải quyết việc làm cho đông đảo lao động ở khu vực nông
thôn góp phần tăng thu nhập kinh tế hộ gia đình, đồng thời cũng góp vai trò
tích cực trong việc chuyển dịch cơ cấu kinh tế, xóa đói giảm nghèo, tăng thời
gian lao động đối với khu vực nông thôn. Nhà nước có quy hoạch và định
hướng phát triển các cơ sở ngành nghề nông thôn theo cơ chế thị trường, bảo
đảm phát triển bền vững. Thực hiện CNH-HĐH nông nghiệp và nông thôn;
đồng thời có quy hoạch các cơ sở ngành nghề truyền thống phải gắn với phát
triển ngành du lịch văn hóa. Vấn đề việc làm đang được giải quyết theo các
hướng sau:
Thứ nhất: Phân bố lại dân cư và nguồn lao động giữa các vùng, để vừa
tạo thêm việc làm, vừa khai thác tốt hơn tiềm năng mỗi vùng. Tây Ngyên (đặc
biệt là Đắc Lắc) và Đông Nam Bộ (đặc biệt là Đồng Nai) đã tiếp nhận hàng
chục vạn người đến xây dựng vùng kinh tế mới, nhất là từ các tỉnh đồng bằng

sông Hồng và duyên hải miền Trung.
Thứ hai:: Đẩy mạnh kế hoạch hóa gia đình và đa dạng hóa các hoạt
động kinh tế nông thôn. Việc khẳng định vai trò kinh tế hộ gia đình sẽ tạo
điều kiện sử dụng có hiệu quả hơn lao động nông nghiệp. Nền nông nghiệp
đang chuyển từ tự cung tự cấp, tự túc thành nông nghiệp hàng hóa, thâm canh

15


và chuyên canh. Các nghề thủ công truyền thống, các hoạt động dịch vụ ở
nông thôn được khôi phục và phát triển. Lao động thuần nông ngày càng
giảm đi. Nước ta đang đẩy mạnh công nghiệp hóa nông thôn, nhờ vậy vấn đề
việc làm ở nông thôn sẽ được giải quyết vững chắc hơn.
Thứ ba: Phát triển các hoạt động công nghiệp và dịch vụ, trong đó có
các hoạt động công nghiệp quy mô nhỏ, thu hồi vốn nhanh, sử dụng kỹ thuật
tinh xảo và cần nhiều lao động, có khả năng tạo ra nhiều việc làm mới cho
thanh niên ở các vùng nông thôn.
3.2 Chính sách khuyến khích đầu tư
“Mở đường cho nguồn vốn đầu tư vào nông nghiệp, nông thôn”. Đó là
lời nhấn mạnh của Bộ trưởng Cao Đức Phát. Việc tìm mọi cách để thúc đẩy
đầu tư vào nông nghiệp, nông thôn là yêu cầu cần thiết, có tính chiến lược để
đảm bảo tăng trưởng. Trong tổng nhu cầu vốn đầu tư để phát triển thì 70%
phải huy động từ doanh nghiệp trong và ngoài nước. Tuy vậy, theo số liệu của
Bộ Kế hoạch và đầu tư, trong khi tỷ trọng FDI cho khu vực công nghiệp là
34%, dịch vụ 59%, nông thôn chỉ có 7% .
Trong giai đoạn 2001- 2005, tổng vốn đầu tư cho nông nghiệp gần 109
ngàn tỷ đồng, trong đó vốn ngân sách Nhà nước chiếm gần 29 ngàn tỷ, chỉ đạt
15 - 17% tổng vốn đầu tư từ ngân sách hàng năm, trong khi nhu cầu thực tế
cần khoảng 25 - 30%. Nông dân là người chịu nhiều thiệt thòi nhất, gần 70%
dân số sống ở nông thôn. Và trong lúc đóng góp của nông nghiệp nông thôn

chiếm tới 20% GDP thì mức đầu tư như những năm qua chưa phù hợp. Ông
Nguyễn Đức Kiên, chủ nhiệm Uỷ ban Kinh tế và Ngân sách Nhà nước của
quốc hội nhận xét “Đầu tư xã hội cho nông nghiệp, nông thôn còn quá thấp.
Cơ cấu đầu tư còn chưa hợp lý, phân bổ vốn trong các chương trình, mục tiêu
còn dàn trải, bình quân. Trong khi đó, ta cũng chưa có nhiều cơ chế, chính
sách hữu hiệu nhằm khuyến khích, thu hút nguồn vốn ngoài ngân sách đầu tư
cho hạ tầng nông nghiệp nông thôn”. Sản xuất nông nghiệp chịu rủi ro từ
16


nhiều phía, nhất là điều kiện tự nhiên, thị trường, lãi suất thấp, thu hồi vốn
chậm vì phải theo chu kỳ cây trồng vật nuôi, cho nên các doanh nghiệp ít
quan tâm đầu tư cho nông nghiệp, nông thôn. Doanh nghiệp đầu tư vào lĩnh
vực này cần sử dụng nhiều đất đai để xây dựng vùng nguyên liệu thì thực tế
tại các địa phương, đất đai được giao hết cho các hộ. Vì vậy vùng nguyên liệu
không ổn định. Theo sự “nhảy múa” của giá cả thị trường, nông dân bơi trong
vòng luẩn quẩn, hết “trồng - chặt” lại “chặt - trồng”, chất lượng thấp, giá
thành lại cao. Nhiều địa phương hô hào chung chung, trong lúc diện tích đất
có hạn. Cơ sở hạ tầng nông thôn như điện, đường, thông tin… lại rất kém, chi
phí dịch vụ cao làm tăng giá thành sản phẩm. Theo số liệu của Ban đổi mới
doanh nghiệp, đa số các doanh nghiệp trong lĩnh vực nông - lâm nghiệp thuộc
loại vừa và nhỏ. Trong lúc bình quân một lao động trong các doanh nghiệp
FDI làm ra 341 triệu đồng/năm, doanh nghiệp Nhà nước làm ra 300 triệu
đồng/năm thì doanh nghiệp nông nghiệp chỉ đạt 52 triệu đồng/năm. Và chỉ có
60% doanh nghiệp nông nghiệp làm ăn có lãi.
Trong giai đoạn (2006 - 2010 ), nhìn vào danh mục 94 dự án trọng điểm
quốc gia mà Bộ Kế Hoạch và Đầu tư mời gọi vốn đầu tư FDI gần 26 tỷ USD,
ngành nông nghiệp, lâm nghiệp và chăn nuôi chỉ có một dự án, ngành thuỷ
sản có khá hơn với 4 dự án mời gọi đầu tư. Lí giải về tình trạng này, Bộ Kế
Hoạch và Đầu tư cho rằng, trong những năm qua, các nhà đầu tư trực tiếp

nước ngoài đến với chúng ta trong thế lựa chọn. Mà khu vực nông nghiệp nông thôn người ta không nhìn thấy lợi nhuận. Còn ông Phạm Mạnh Dũng,
Vụ trưởng Vụ Pháp chế - Bộ kế Hoạch và Đầu tư khẳng định việc thu hút
nguồn vốn đầu tư FDI vào khu vực nông nghiệp, nông thôn gặp phải 3 vấn đề
lớn: Rủi ro, lựa chọn đối tác không kỹ càng, quy hoạch đất đai còn kém.
Hiện có quá ít các quốc gia lớn đầu tư cho phát triển nông nghiệp, nông
thôn Việt Nam. Đối tác của chúng ta trong lĩnh vựa này chủ yếu là các nhà
đầu tư từ Châu Á. Phải chăng vì xúc tiến đầu tư của Việt Nam trong lĩnh vực

17


này còn quá hạn chế nên chưa thu hút được các nhà đầu tư từ một số nước
hay khu vực có tiềm năng và thế mạnh to lớn về nông nghiệp, như Mỹ,
Canada, Australia, và các nước Châu Âu khác?
Bộ Nông nghiệp và Phát triển nông thôn hướng nguồn đầu tư trong
nước và FDI vào các ngành trồng trọt và chế biến nông sản, sản xuất giống
gia súc, gia cầm có chất lượng cao, sản xuất thức ăn chăn nuôi chất lượng
cao; trồng rừng và chế biến gỗ. Bộ đã đưa ra 3 nhóm giải pháp cơ bản nhằm
thúc đẩy mạnh thu hút nguồn vốn FDI. Đó là nâng cao chất lượng và hiệu quả
công tác quy hoạch, kế hoạch phát triển của từng ngành, từng sản phẩm; hoàn
thiện cơ chế, chính sách về khuyến khích FDI (bao gồm các chính sách về ưu
đãi hỗ trợ vốn và tín dụng, đất đai, phát triển thị trường, hạ tầng và nguồn
nhân lực...) tăng cường, nâng cao hiệu quả vận động, xúc tiến FDI.
3.3 Chính sách về phát triển nghề phi nông nghiệp ở nông thôn
Phát triển các ngành nghề phi nông nghiệp nông thôn làm đa dạng hoá
ngành nghề lao động trên cơ sở tạo ra ngành nghề mới là một trong những
hướng chủ yếu để tạo việc làm cho người lao động nông thôn. Các ngành
nghề phi nông nghiệp trong nông thôn rất đa dạng như: ngành công nghiệp,
tiểu thủ công nghiệp, thương mại, dịch vụ kinh tế kỹ thuật vàovới tỷ trọng
ngày càng lớn nhằm chuyển dịch và cải biến nền kinh tế nông- công nghiệp,

dịch vụ. Phát triển nghề phi nông nghiệp ở nông thôn sẽ tận dụng được nguồn
lực còn dư thừa ngay tại chỗ trên địa bàn nông thôn, vừa làm ruộng vừa làm
nghề khác (không rời ruộng cũng không rời làng ) tạo thêm việc làm mới cho
nông thôn, nâng cao thu nhập và mức sống cho cư dân nông thôn. Trên thực
tế, phát triển và chuyển dịch nền kinh tế nông thôn từ kinh tế thuần nông sang
cơ cấu kinh tế nông - công nghiệp và dịch vụ ngay trên địa bàn. Hoạt đông
kinh tế của lao động nông thôn có sự chuyển dịch không phải từ khu vực địa
lí này sang khu vực địa lí khác, mà là chuyển dịch từ khu vực kinh tế nông
nghiệp sang khu vực kinh tế phi nông nghiệp ngay tại nông thôn. Bộ mặt của

18


nông thôn trước và sau phát triển có những biến đổi sâu sắc về mặt kinh tế xã hội. Thực tế, các ngành nghề muốn phát triển ổn định phải tìm được thị
trường tiêu thụ và phải có nguồn nguyên liệu thường xuyên. Như vậy, việc
chọn ngành nghề gì không phải là xuất phát từ khả năng có thể làm được cái
gì, mà chủ yếu là phải căn cứ vào nhu cầu thị trường. Để phát triển nghề phi
nông nghiệp cần trang bị công nghệ và vật tư thiết bị tiên tiến cho nông
nghiệp để cải tạo nền nông nghiệp thủ công, lạc hậu, năng suất thấp, sản xuất
tự túc thành nền nông nghiệp cơ khí hiện đại, năng suất cao, sản xuất nông
sản hàng hoá với giá rẻ và có chất lượng tốt dáp ứng được nhu cầu trong nước
và có thể xuất khẩu mang lại doanh thu cao trong sản xuất nông nghiệp.
3.4 Phát triển nghề và làng nghề trong nông thôn
Công nghiệp ở nông thôn hầu hết là thủ công nghiệp và tiểu thủ công
nghiệp mà cũng chỉ tập trung ở một số làng, xã nhất định mà họ quen gọi là
làng nghề. Trải qua bao thăng trầm của thời gian, đến nay nhiều ngành nghề
truyền thống vẫn được duy trì và phát triển mạnh mẽ như nghề dệt lụa. khảm
trai. đồ gỗ, gốm sứ… Bên cạnh đó, một số nghề mới du nhập đang có chiều
hướng phát triển tốt như: Nghề làm lông mi giả, làm hàng mã cho Đài Loan,
đan hạt cườm, đan nilon, đan đệm, ghế cói… Sự phát triển của làng nghề đã

góp phần tích cực cho sự phát triển kinh tế - xã hội.
Nhận thức rõ vị trí, vai trò của việc phát triển nghề, làng nghề trong
quá trình chuyển dịch cơ cấu kinh tế và đẩy mạnh, nhanh sự phát triển của sự
nghiệp CNH- HĐH nông nghiệp, nông thôn. Nhà nước đã xác định phát triển
làng nghề là bước đột phá cho phát triển kinh tế - xã hội. Xuất phát từ những
luận điểm nêu trên nhiều tỉnh thành đã ban hành những chính sách, cơ chế
nhằm khuyến khích phát triển nghề, làng nghề, quy hoạch xây dựng các khu
công nghiệp tập trung của tỉnh, cụm công nghiệp huyện, thành phố, điểm
công nghiệp làng nghề, xây dựng chương trình dài hạn cho việc du nhập làng
nghề, lựa chọn ngành nghề phù hợp với thực trạng từng vùng trong cả nước.

19


Một ví dụ cụ thể về kết quả đạt được ở tỉnh Thái Bình là nơi có nhiều làng
nghề lâu đời được cả nước biết đến. Số lượng làng nghề tăng lên đáng kể,
năm 1998 tỉnh mới chỉ có 82 làng nghề, thì đến cuối năm 2002 số làng nghề
đã tăng lên 132 làng nghề, năm 2004 là 173, năm 2005 số làng nghề dã tăng
lên thêm 15 làng nghề nữa. Về giá trị sản xuất: đã làm tăng tỷ tọng giá trị sản
xuất từ làng nghề trong toàn ngành. Năm 2001, giá trị sản xuất công nghiệp từ
làng nghề chỉ đạt 969 tỷ đồng chiếm 58%, thì đến năm 2005 là 2235 tỉ đồng
chiếm 72% công nghiệp toàn tỉnh. Về lao động: việc phát triển làng nghề đã
giải quyết được một LLLĐ dôi dư rất lớn. Tổng số lao động trong khu vực
nghề, làng nghề trong tỉnh là 78781 người, năm 2003 là 138000 người, đến
năm 2005 là trên 150000 người tăng hơn 70 ngàn người so với năm 2000.
Đồng thời số hộ làm nghề có mức thu nhập cao hơn nhiều so với những người
làm nghề nông thuần tuý.
Việc phát triển nghề, làng nghề đã giải quyết được nhiều việc làm cho
người lao động nói chung và những người lao động chưa sử dụng hết thời
gian lao động nói riêng, giúp họ có thu nhập ổn định, góp phần chuyển dịch

cơ cấu lao động trong nông nghiệp và ổn định chính trị xã hội ở khu vực nông
thôn.
Bên cạnh những mặt đạt được thì việc phát triển làng nghề còn nhiều hạn
chế:
Thứ nhất: Một số Đảng bộ địa phương, xã, phường, thị trấn tuy đã xây dựng
được chương trình hành động cho cấp mình nhưng chưa chỉ đạo chặt chẽ,
chưa rút kinh nghiệm đánh giá những mặt được và chưa được về phát triển
nghề, làng nghề .
Thứ hai: Một số chính sách phát triển làng nghề của tỉnh, thành phố đề ra
nhưng thiếu kinh phí để thực hiện. Chẳng hạn như nguồn vốn khuyến công
còn nhỏ, chưa tập trung vốn tín dụng ưu đãi cho làng nghề, việc bố trí cơ sở
hạ tầng của làng nghề còn hạn chế.
20


Thứ ba: phần lớn quy mô làng nghề còn nhỏ, sản xuất manh mún, tự phát, thị
trường tiêu thụ sản phẩm thấp, giá thành cao, mẫu mã đơn giản, đặc biệt là
hầu hết các sản phẩm làng nghề chưa xây dựng được thương hiệu riêng của
mình nên tính thị trường thấp
Thứ tư: Một số giải pháp về vốn, về mặt bằng triển khai còn chậm do nhiều
nguyên nhân, trong đó có nguyên nhân phối hợp giữa các ngành chưa thật
chặt chẽ, một số thủ tục hành chính còn rườm rà, chưa gọn nhẹ.
Thứ năm: trình độ tay nghề của người lao động còn thấp, việc đào tạo nâng
cao tay nghề cho người lao động còn gặp nhiều khó khăn.. Trình độ chuyên
môn và kiến thức quản lí sản xuất kinh doanh của chủ doanh nghiệp còn yếu
kém, phần lớn chưa được đào tạo trường lớp.
Vì vậy, để phát triển nghề, làng nghề chúng ta cần thực hiện một số
biện pháp sau:
-


Phải tăng cường vai trò lãnh đạo của cấp uỷ chính quyền địa phương

từ tỉnh đến đến xã về công tác phát triển làng nghề và làng nghề.
-

Cần quy hoạch các cụm, điểm công nghiệp tập trung ở các

huyện, thành phố vừa đáp ứng được nhu cầu mặt bằng sản xuất, kinh doanh,
vừa thuận tiện cho việc xử lí môi trường.
-

Có chính sách quan tâm đúng mức đến việc đầu tư hỗ trợ xây

dựng hạ tầng cơ sở cho khu vực làng nghề trọng điểm. Tiếp tục duy trì và tăng
nguồn vốn khuyến công hàng năm, coi đây là một trong những động lực thúc
đẩy sự phát triển nghề và làng nghề.
-

Phải hình thành xây dựng thương hiệu sản phẩm cho làng nghề,

nhất là làng nghề truyền thống; đồng thời gắn phát triển làng nghề với phát
triển du lịch, văn hoá.
-

Mỗi xã, phường, thị trấn nhất thiết phải bố trí một cán bộ phụ

trách theo dõi ngành nghề để nắm bắt cũng như tham mưu cho cấp uỷ chính
21



quyền về tình hình phát triển tiểu thủ công nghiệp và ngành nghề của địa
phương. Các cấp uỷ chính quyền thường xuyên đúc rút kinh nghiệm, lựa chọn
những điển hình tiên tiến, những cách làm hay để phổ biến rộng rãi đẩy mạnh
phong trào, có chính sách ưu đãi phù hợp với các nghệ nhân.
-

Du nhập nghề mới: cùng với việc duy trì, phát triển nghề truyền

thống cần chủ động tích cực tìm kiếm thêm nghề phù hợp với điều kiện sản
xuất tại khu vực nông thôn. Trước mắt củng cố và phát triển một số nghề mới
tạo điều kiện tốt nhất để giữ và phát triển ổn định.
-

Củng cố và phát triển các doanh nghiệp trong làng nghề, phấn

đấu ít nhất mỗi làng nghề có một doanh nghiệp bao tiêu sản phẩm.
Việc phát triển nghề và làng nghề là một trong các giải pháp cơ bản nhằm
nâng cao tỷ trong thời gian lao động khu vực nông thôn nước ta hiện nay.
Trên đây là một số các giải pháp cơ bản để nâng cao tỷ trọng thời gian
lao động khu vực nông thôn Việt Nam. Chúng ta cần phối kết hợp các biện
pháp để kết quả đạt được ở mức cao nhất.

22


KẾT LUẬN
Mục tiêu của chương trình giai đoạn 2006 - 2010: Giải quyết việc làm
cho khoảng 7.5 - 8 triệu lao động trên cơ sở duy trì tỷ lệ tăng GDP hàng năm
trên 7% để tạo 5.5 - 6 triệu việc làm mới. Bình quân mỗi năm thu hút và giải
quyết việc làm cho khoảng 1.5 - 1.6 triệu người, giảm tỷ lệ thất nghiệp khu

vực thành thị xuống còn 5%, tăng tỷ lệ sử dụng thời gian lao động ở khu vực
nông thôn lên 85% vào năm 2001. Chuyển dịch cơ cấu lao động theo hướng
giảm tỷ trọng lao động nông, lâm nghiệp xuống còn 50%, công nghiệp xây
dựng 23%, thương mại dịch vụ 27% vào năm 2010. Để mục tiêu này trở
thành hiện thực cần có sự phối kết hợp của tất cả các cấp các ngành trong cả
nước.Bên cạnh những thành tựu đạt được vẫn còn nhiều bất cập đang diễn ra
trong các khu vực trong cả nước. Khu vực nông thôn cũng là một trong những
khu vực chính cần được quan tâm, chú trọng phát triển. Việt Nam là một
trong những quốc gia có nguồn lực lao động khá dồi dào, một tiềm lực to lớn
cho sự phát triển nền kinh tế của đất nước, tuy nhiên việc giải quyết việc làm
cho người lao động nói chung và việc nang cao tỷ trọng thời gian làm việc
của người lao động nông thôn vẫn còn là một vấn đề nan giải, do một phần
nhận thức của người nông dân còn thấp, do cơ sở hạ tầng của nông thôn còn
quá kém, do máy móc thiết bị còn lạc hậu…
Chính sách giải quyết việc làm cần được đặt thành hệ thống xuyên suốt
từ giaod dục, đào tạo, dạy nghề, chăm sóc sức khoẻ người dân, bố trí lao động
phù hợp với mục tiêu chiến lược phát triển nông nghiệp nông thôn nước ta.
Việc “ Nâng cao tỷ trọng thời gian làm việc khu vực nông thôn ở Việt Nam
cũng là một trong những vấn đề cấp bách cần giải quyết ngay để giảm bớt sự
chênh lệch về mức sống cua người dân khu vực nông thôn và khu vực thành
thị trong cả nước.
Qua quá trình nghiên cứu, và được sự giúp đỡ, chỉ bảo tận tình của
PGS. TS Trần Xuân Cầu: Trưởng khoa Kinh tế và Quản lý Nguồn nhân lực,

23


các thầy cô giáo cùng các bạn sinh viên lớp Kinh tế lao động -46A em đã
hoàn thành đề án môn học. Mặc dù đã có nhiều cố gắng nhưng do quá trình
nghiên cứu với vốn kinh nghiệm còn ít chưa thể nghiên cứu, tìm hiểu vấn đề

một cách sâu sắc, tỷ mỷ nên bài viết của em không tránh khỏi những hạn chế
và thiếu sót em kính mong được sự giúp đỡ, đóng góp ý kiến của thầy cô để
bài viết của em thêm hoàn thiện.
Em xin chân thành cảm ơn!

24


DANH MỤC TÀI LIỆU THAM KHẢO
1.

Nguyễn Văn Bích, Chu Tiến Quang đồng chủ biên : phát triển

nông nghiệp, nông thôn Việt Nam, thực trạng CNH, HĐH ở Việt Nam. Nhà
xuất bản Nông Nghiệp, Hà Nội-1999
2. Nguyễn Điền chủ biên: Công nghiệp hoá nông nghiệp, nông thôn
các nước Châu á và Việt Nam. Nhà xuất bản Học viện Chính trị Quốc gia, Hà
Nội 1997.
3. Thạc sĩ Đinh Đăng Định, một số vấn đề lao động việc làm và đời
sống người lao động ở Việt Nam hiện nay. NXB Lao Động Xã Hội, 2005.
4. Thạc sỹ Vũ Xuân Hùng : một số mô hình dạy nghề gắn với sử dụng
lao động trong những năm qua ở Việt Nam. Lao động và công đoàn số 381 kỳ
I, 2007..
5. Chử Văn Lân, Nguyễn Thái Nguyên: Hợp tác hoá nông nghiệp Việt
Nam – việc làm - vấn đề triển vọng. NXB Sự thật 1992.
6. Nguyễn Ngọc Thanh – Phùng Quang Trung: Thực trạng năng lực
hội nhập kinh tế quốc tế của các doanh nghiệp nông - lâm – ngư nghiệp hiện
nay
7. Đoàn Tất Thắng, Phát triển làng nghề , giải quyết việc làm ở nông
thôn. Báo lao động, 12/10/2005.

8. Kết quả tổng điều tra nông thôn – nông nghiệp và thuỷ sản năm
2001. NXB Thống kê, HN 2003.
9. Số liệu thống kê việc làm và thất nghiệp ở Việt Nam giai đoạn 1996
– 2005.NXB Lao Động Xã Hội 2006
10.

Tạp chí thị trường lao động, số 8 – 2006

25


×