Tải bản đầy đủ (.doc) (25 trang)

TIỂU LUẬN: Sử dụng phương pháp dạy học bằng tình huống nhằm Giáo dục pháp luật cho học sinh phổ thông trong dạy học môn Giáo dục công dân ở trường THPT.

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (213.84 KB, 25 trang )

TRƯỜNG ĐẠI HỌC SƯ PHẠM HÀ NỘI
KHOA LÝ LUẬN CHÍNH TRỊ - GIÁO DỤC CÔNG DÂN

TIỂU LUẬN
Đề tài: Sử dụng phương pháp dạy học bằng tình huống

nhằm Giáo dục pháp luật cho học sinh phổ thông trong
dạy học môn Giáo dục công dân ở trường THPT.

Người hướng dẫn: TS. Phạm Việt Thắng
Học viên: Trần Thị Thúy Hạnh
Lớp: Bồi dưỡng kiến thức pháp luật K2A
Hà Tĩnh, năm 2015

1


A. PHẦN MỞ ĐẦU
1. Lý do chọn đề tài
Môn GDCD là một bộ môn thuộc khoa học xã hội. Nó phản ánh nhiều lĩnh vực
khác nhau của đời sống xã hội. Các tri thức khoa học trong môn GDCD là tri trức về triết
học, CNXH khoa học, Kinh tế chính trị học, Đạo đức học, Pháp luật học, đường lối chính
sách của Đảng cộng sản Việt Nam. Các kiến thức đó được sắp xếp, bố trí hợp lí, cấu kết
chặt chẽ, lô gíc phù hợp với học sinh THPT. Môn GDCD vừa có vị trí thông thường của
một môn học vừa có vị trí đặc biệt của nó. Nó có nhiệm vụ như những môn học khác: trang
bị tri thức, giáo dục tư tưởng tình cảm, rèn luyện kỹ năng , kỹ xảo, phát triển trí tuệ học
sinh.
Học sinh cấp THCS cũng như cấp THPT đã được làm quen với với nhiều kiến thức của
bộ môn GDCD. Mỗi nội dung của bộ môn GDCD đều góp một phần không nhỏ trong việc
hoàn thiện nhân cách của học sinh. Trong các kiến thức được trang bị cho học sinh có nội
dung về pháp luật. Đây là những kiến thức cơ bản nhằm giúp học sinh có những hiểu biết


nhất định trong việc định hướng cho học sinh về mặt nhận thức cũng như hành động, biết
sống tuân thủ pháp luật, biết phát huy quyền công dân, biết phê phán và đấu tranh với lối
sống xem thường pháp luật nhằm góp phần vào sự nghiệp xây dựng đất nước. Học sinh từ
cấp THCS lên cấp THPT bắt đầu được tiếp cận và đi sâu hơn về các kiến thức pháp luật.
Các em không chỉ nắm được nội dung cơ bản một số luật mà còn cao hơn nữa là các em
biết phát huy các quyền của mình cũng như ý thức trách nhiệm trước pháp luật.
Trước yêu cầu đổi mới về chất lượng của giáo dục đào tạo nói chung, chất lượng
giáo dục đối với học sinh THPT nói riêng trong giai đoạn hiện nay thì môn GDCD
càng có vị trí rất quan trọng trong đó bao gồm cả giáo dục ý thức pháp luật cho các em
học sinh nhằm đáp ứng yêu cầu của sự nghiệp CNH,HĐH đất nước..
Xuất phát từ thực trạng dạy và học bộ môn Giáo dục công dân trong nhà trường
phổ thông hiện nay còn nhiều hạn chế về tất cả các mặt từ nội dung, đến phương pháp
cũng như hình thức tổ chức. Giảng dạy môn Giáo dục công dân trong nhà trường phổ
thông những năm gần đây gặt hái được nhiều thành công. Tuy nhiên, phương pháp dạy
học ở nhiều nơi vẫn chủ yếu vẫn được diễn ra theo lối truyền thống, dạy chay học
chay, truyền thụ thụ động, một chiều, thầy giảng trò ghi chép.
Phương pháp nghiên cứu tình huống (PPNCTH) là một phương pháp dạy học tích
cực với có nhiều ưu điểm nổi trội, nó giúp việc dạy học mang lại hiệu quả cao, làm
tăng tính thực tiễn của môn học, giúp học sinh dần hình thành năng lực giải quyết các
vấn đề thực tiễn, làm tăng hứng thú học tập của học sinh,… Giáo dục công dân là môn
2


học có ý nghĩa cao trong việc hình thành và hoàn thiện nhân cách học sinh. Việc áp
dụng phương pháp dạy học tình huống vào giảng dạy môn GDCD là cấp thiết. Xuất
phát từ những lý do nêu trên, chúng tôi chọn: “Sử dụng phương pháp dạy học bằng
tình huống nhằm Giáo dục pháp luật cho học sinh phổ trong dạy học môn Giáo
dục công dân” làm tiểu luận khoa học.
2. Mục đích nghiên cứu
Nghiên cứu thực trạng của việc dạy và học pháp luật trong nhà trường đối với học sinh

cấp THPT từ đó đề xuất việc ứng dụng phương pháp dạy học tích cực ( phương pháp
dạy học tình huống).
3. Đối tượng nghiên cứu
Vận dụng phương pháp dạy học tình huống vào giảng dạy pháp luật ở trường THPT.
4. Giả thuyết khoa học
Việc dạy kiến thức pháp luật ở trường THPT hiện nay còn gặp nhiều khó khăn, nếu
giáo viên biết vận dụng một cách linh hoạt và sáng tạo các phương pháp thích hợp và
đặc biệt là biết vận dụng phương pháp tình huống khi dạy về nội dung pháp luật thì
hiệu quả chắc chắn sẽ được nâng cao.
5. Nhiệm vụ và phạm vi nghiên cứu
5.1. Nhiệm vụ nghiên cứu
- Nghiên cứu cơ sở lý luận của phương pháp dạy học tình huống trong giảng dạy bộ
môn GDCD, đặc biệt là kiến thức về Pháp luật ở nhà trường THPT.
- Đánh giá thực trạng giảng dạy kiến thức pháp luật ở trường THPT hiện nay.
- Đề xuất phương pháp dạy học bằng tình huống đối với các kiến thức pháp luật ở
chương trình GDCD lớp 12
5.2. Phạm vi nghiên cứu
Một số bài dạy về pháp luật ở chươg trình lớp 12 bộ môn GDCD.
6. Phương pháp nghiên cứu
Để thực hiện mục đích và nhiệm vụ của việc nghiên cứu tôi đã sử dụng các
phương pháp sau:
Nhóm phương pháp nghiên cứu lý thuyết.
Nhóm phương pháp nghiên cứu thực tiễn.
7. Đóng góp của đề tài
Giúp cho giáo viên biết xây dựng các tình huống vào giảng dạy kiến thức pháp luật ở
trường THPT.
8. Cấu trúc của đề tài
Đề tài gồm: Phần mở đầu, phần nội dung, phần kết luận
Phần nội dung gồm 2 chương
Chương 1: Cơ sở lý luận và thực tiễn giảng dạy pháp luật ở trường THPT.

3


Chương II: Vận dụng các tình huống phục vụ giáo dục pháp luật cho học sinh.
B. NỘI DUNG
CHƯƠNG 1
CƠ SỞ LÝ LUẬN VÀ THỰC TIỄN CỦA VIỆC VẬN DỤNG PHƯƠNG PHÁP
DẠY HỌC BẰNG TÌNH HUỐNG NHẰM GIÁO DỤC PHÁP LUẬT CHO HỌC
SINH TRONG DẠY HỌC MÔN GDCD
1.1 Cơ sở lý luận của việc sử dụng phương pháp dạy học bằng tình huống trong
dạy học môn GDCD ở trường Trung học
1.1.1. Quan niệm về phương pháp dạy học bằng tình huống
1.1.1.1. Quan niệm về phương pháp dạy học
Trong các tác phẩm về lý luận dạy học, ta có thể tìm thấy nhiều định nghĩa về
phương pháp dạy học như:
Phương pháp dạy học là cách thức làm việc của thầy và trò trong sự phối hợp
thống nhất và dưới sự chỉ đạo của thầy, nhằm làm cho trò tự giác, tích cực, tự lực đạt
tới mục đích dạy học .
Bất cứ phương pháp nào cũng là hệ thống những hành động có mục đích của
giáo viên, là hoạt động nhận thức và thực hành có tổ chức của học sinh nhằm đảm bảo
cho trò lĩnh hội được nội dung tri dục.
Phương pháp dạy học đòi hỏi có sự tương tác tất yếu của thầy và trò, trong quá
trình đó thầy tổ chức sự tác động của trò đến đối tượng nghiên cứu, mà kết quả là trò lĩnh
hội được nội dung trí dục.
Những định nghĩa này đã nêu lên được một cách khái quát về phương pháp dạy
học. Qua quá trình nghiên cứu về phương pháp dạy học ta thấy rằng giữa dạy và học
có mối liên hệ mật thiết với nhau.
Phương pháp dạy học bao gồm phương pháp dạy và phương pháp học, chúng là
hai hoạt động khác nhau về đối tượng, nhưng thống nhất với nhau về
mục đích, tác động qua lại với nhau và là hai mặt của một quá trình dạy học. Trong sự

thống nhất này phương pháp dạy giữ vai trò chỉ đạo, còn phương pháp học có tính độc
lập tương đối, chịu sự chi phối của phương pháp dạy, nhưng phương pháp học có ảnh
hưởng trở lại đối với phương pháp dạy.
Phương pháp dạy có hai chức năng là truyền đạt và chỉ đạo. Phương pháp học
cũng có hai chức năng là tiếp thu và tự chỉ đạo.
Thầy truyền đạt cho trò một nội dung nào đó, theo một lôgic hợp lý, và bằng
lôgic của nội dung đó mà chỉ đạo, ( định hướng, tổ chức, hướng dẫn và kiểm tra, đánh
giá) sự học tập của trò. Trong bản thân phương pháp dạy, hai chức năng này gắn bó
4


hữu cơ với nhau, chúng không thể thiếu nhau được. Trong thực tiễn, nhiều giáo viên
chỉ chăm lo việc truyền đạt mà coi nhẹ việc chỉ đạo. Người giáo viên phải kết hợp hai
chức năng trên đây bằng chính lôgic của bài giảng, với lôgic hợp lý của bài giảng, thầy
vừa giảng vừa truyền đạt ), vừa đồng thời điều khiển việc tiếp thu ban đầu và cả việc
tự học của trò. Vì vậy phương pháp dạy chính là mẫu, là mô hình cơ bản cho phương
pháp học trong tất cả các giai đoạn của sự học tập.
Còn về phía học sinh, khi học tập vừa phải tiếp thu bài thầy giảng, lại vừa phải
tự điều khiển quá trình học tập của bản thân. Nói cách khác, học sinh phải tiếp thu nội
dung do thầy truyền đạt, đồng thời dựa trên toàn bộ lôgic bài giảng của thầy mà tự lực
chỉ đạo sự học tập của bản thân ( tự định hướng, tự tổ chức, tự thực hiện, tự kiểm tra đánh giá ). Người học sinh giỏi thường là người biết nắm bắt được lôgic cơ bản của
bài giảng của thầy, rồi tự sáng tạo lại nội dung đó theo lôgic của bản thân. Vậy, trong
phương pháp học, hai chức năng tiếp thu và tự chỉ đạo gắn bó chặt chẽ với nhau, thâm
nhập vào nhau, bổ sung cho nhau, như hai mặt của cùng một hoạt động.
Dạy tốt, học tốt, xét về mặt phương pháp phải là sự thống nhất của dạy với học,
và đồng thời cũng là sự thống nhất của hai chức năng riêng của mỗi hoạt động truyền
đạt và chỉ đạo trong dạy; tiếp thu và tự chỉ đạo trong học. Nói cách khác, dạy học tối
ưu phải là sự dạy học mà trong đó, về mặt phương pháp, bảo đảm được cùng một lúc
ba phép biện chứng:
Giữa dạy và học.

Giữa truyền đạt và chỉ đạo trong dạy.
Giữa tiếp thu và tự chỉ đạo trong học.
Phương pháp dạy học bao gồm phương pháp dạy và tổ hợp ba phương pháp học
ứng với ba giai đoạn học tập.
Giai đoạn 1: Tiếp thu ban đầu các thông tin.
Trong giai đoạn này thầy giảng bài mới. Trò nghe, nhìn, hiểu, ghi chép và sơ bộ
nhớ những điều thầy giảng.
Giai đoạn 2: Xử lý thông tin khi tự học.
Nhiệm vụ chủ yếu của giai đoạn này là sự tự học để xử lý thông tin, biến nó
thành học vấn riêng. Ở đây trò phải sử dụng toàn bộ các thao tác tư duy.
Giai đoạn 3: Vận dụng thông tin để giải bài tập.
Đây là bước kết thúc của quá trình lĩnh hội một vấn đề. Nhiệm vụ của nó là vận
dụng kiến thức, kỹ năng và kỹ xảo việc giải quyết các bài tập nhận thức.
Trong quá trình dạy và quá trình học thì quá trình dạy có vai trò chỉ đạo trong
cả ba giai đoạn của quá trình học, quá trình dạy hợp lý thì quá trình học sẽ đạt kết quả
5


cao.
1.1.1.2. Quan niệm về tình huống và phương pháp dạy học bằng tình huống
* Quan niệm tình huống:
“Tình huống là một hoàn cảnh thực tế, trong đó chứa đựng những mâu thuẫn
xung đột. Người ta phải đưa ra một quyết định trên cơ sở cân nhắc các phương án giải
quyết khác nhau. Tình huống cũng có thể là một hoàn cảnh gắn với câu chuyện có cốt
truyện, nhân vật, có chứa đựng xung đột, có tính phức hợp được viết ra để minh chứng
một vấn đề hay một số vấn đề của cuộc sống thực tế. Tình huống dạy học là những
tình huống thực hoặc mô phỏng theo tình huồng thực, được cấu trúc hóa nhằm mục
đích dạy học”.
Tình huống bao giờ cũng là tình huống có vấn đề.
“Tình huống có vấn đề là tình huống mà khi đó mâu thuẫn khách quan của bài

toán nhận thức được chấp nhận như một vấn đề học tập mà họ cần và có thể giải quyết
được, kết quả là họ nắm được tri thức mới. Trong đó, vấn đề học tập là những tình
huống về lý thuyết hay thực tiễn có chứa đựng mâu thuẫn biện chứng giữa cái (kiến
thức, kỹ năng, kỹ xảo) đã biết với cái phải tìm và mâu thuẫn này đòi hỏi phải được giải
quyết”.
“Tình huống có vấn đề, đó là trở ngại trí tuệ của con người, xuất hiện khi anh ta
chưa biết cách giải thích hiện tượng sự kiện, quá trình của thực tế, khi chưa thể đạt tới
mục đích bằng cách thức hành động quen thuộc. Tình huống này kích thích con người
tìm tòi cách giải thích hay hành động mới. Tình huống có vấn đề là quy luật của hoạt
động nhận thức sáng tạo, có hiệu quả. Nó quy định sự khởi đầu của tư duy, hành động
tư duy tích cực sẽ diễn ra trong quá trình nêu ra và giải quyết vấn đề”.
Xét về khía cạnh tâm lý thì: “Tình huống là trạng thái tâm lý độc đáo của con
người gặp chướng ngạy nhận thức, xuất hiện mâu thuẫn nội tâm, có nhu cầu
giải quyết mâu thuẫn đó, không phải bằng tái hiện hay bắt chước, mà bằng tìm tòi sáng
tạo tích cực đầy hứng thú, và khi tới đích thì lĩnh hội được kiến thức, phương pháp
giành kiến thức và cả niềm vui sướng của người phát hiện kiến thức”.
Qua một số định nghĩa ta có thể hiểu tình huống có vấn đề trong dạy học là:
tình huống học tập mà khi học sinh tham gia thì gặp một số khó khăn, học sinh ý thức
được vấn đề, mong muốn giải quyết vấn đề đó và cảm thấy với khả năng của mình thì
hy vọng có thể giải quyết được, do đó bắt tay vào việc giải quyết vấn đề đó. Nghĩa là
tình huống đó kích thích hoạt động nhận thức tích cực của học sinh, đề xuất vấn đề và
giải quyết vấn đề đã đề xuất.
Tình huống có vấn đề luôn chứa đựng một nội dung cần xác định, một nhiệm
6


vụ cần giải quyết, một vướng mắt cần tháo gỡ. Và do vậy, kết quả của việc nghiên cứu
và giải quyết tình huống sẽ là những tri thức mới , nhận thức mới hoặc phương thức
hành động mới đối với chủ thể.
Có ba yếu tố tạo thành tình huống có vấn đề:

Nhu cầu nhận thức hoặc hành động của người học.
Sự tìm kiếm những tri thức và phương thức hành động chưa biết.
Khả năng trí tuệ của chủ thể, thể hiện ở kinh nghiệm và năng lực.
Đặc trưng cơ bản của tình huống có vấn đề trong dạy học là những lúng túng về
cách giả quyết vấn đề, tức là vào thời điểm đó, tình huống đó thì những tri thức và kỹ
năng vốn có chưa đủ để tìm ra ngay lời giải. Tất nhiên việc giải quyết vấn đề không
đòi hỏi quá cao đối với trình độ hiện có của học sinh.
* Quan niệm về phương pháp dạy học bằng tình huống
Phương pháp dạy học bằng tình huống là phương pháp dạy học mà trong
đó giáo viên đặt học sinh vào một trạng thái tâm lý đặc biệt khi họ gặp mâu thuẫn
khách quan của bài toán nhận thức giữa cái đã biết và cái phải tìm, tự họ chấp nhận và
có nhu cầu, có khả năng giải quyết mâu thuẫn đó là bằng tìm tòi, tích cực, sáng tạo, kết
quả là họ giành được kiến thức và cả phương pháp giành kiến thức .
Với phương pháp này giáo viên đặt trước học sinh một vấn đề sau đó cho các
em thấy rõ lợi ích về mặt nhận thức hay mặt thực tế của việc giải quyết nó nhưng đồng
thời cảm thấy có một số khó khăn về mặt trí tuệ do thiếu kiến thức cần thiết nhưng
thiếu sót này có thể khắc phục nhờ một số nỗ lực của nhận thức.
Dạy học bằng tình huống có những đặc điểm sau:
Giáo viên phải tạo ra được mâu thuẫn nhận thức, có điều học sinh chưa biết cần
tìm hiểu, việc đi tìm lời giải đáp chính là đi tìm kiến thức, kỹ năng, phương pháp mới.
Giáo viên gây được sự chú ý ban đầu, từ đó kích thích sự hứng thú tạo nên nhu
cầu nhận thức, khởi động tiến trình nhận thức của học sinh. Học sinh chấp nhận mâu
thuẫn khách quan thành mâu thuẫn chủ quan.
Tình huống và vấn đề nêu ra phải rõ ràng, phù hợp với khả năng của học sinh.
Từ những điều quen thuộc, bình thường đã biết phải đi đến cái mới (mục đích cần đạt
được) học sinh cảm thấy có khả năng giải quyết được vấn đề.
Dạy học bằng tình huống là một trong những yêu cầu quan trọng của đổi mới
nội dung, phương pháp dạy học, dạy học bằng tình huống là một trong những phương
pháp dạy học hiện đại, hay phương pháp dạy học tích cực.
Giảng dạy theo phương pháp này đòi hỏi giáo viên phải có kiến thức rộng cả về

lý luận và thực tiễn. Nếu chỉ có kiến thức lý luận lý thuyết thì giáo viên không đưa ra
7


được những tình huống, hoặc có đưa ra thì cũng không đúng với nội dung hoặc không
sát thực tế. Từ đó làm cho người học không định hướng được cách giải quyết tình
huống, hoặc giải quyết sai.
1.1.2. Ưu điểm và hạn chế của phương pháp dạy học bằng tình huống
1.1.2.1. Ưu điểm của phương pháp dạy học bằng tình huống
Với tư cách là một phương pháp giảng dạy tích cực, lấy người học làm trung
tâm, dạy học bằng tình huống có những ưu điểm sau đây:
Thứ nhất: “Phương pháp dạy học bằng tình huống giúp người học dễ hiểu và dễ
nhớ các vấn đề phức tạp’’. Thông qua các tình huống được phân tích, thảo luận, người
học có thể tự rút ra những kiến thức lý luận bổ ích và ghi nhớ những kiến thức này một
cách dễ dàng trong thời gian dài. Nếu học lý thuyết, người học có thể rơi vào tình
trạng “học vẹt”, học thuộc lý thuyết mà không hiểu nên rất mau quên thì phương pháp
giảng dạy tình huống giúp người học hiểu được vấn đề một cách sâu sắc gắn liền với
quá trình giải quyết tình huống đó.
Thứ hai: “Phương pháp dạy học bằng tình huống giúp người học nâng cao khả
năng tư duy độc lập, sáng tạo”. Nếu trong phương pháp dạy học truyền thống, quá
trình tiếp nhận thông tin diễn ra gần như một chiều giữa giáo viên và học sinh, trong
đó giáo viên là người truyền đạt tri thức và học sinh là người tiếp nhận tri thức đó thì
phương pháp dạy học bằng tình huống tạo ra một môi trường học tích cực có sự tương
tác giữa học sinh và giáo viên, giữa các học sinh với nhau. Trong đó, học sinh được
đặt vào trong một hoàn cảnh buộc họ phải ra quyết định để giải quyết tình huống và họ
phải dùng hết khả năng tư duy, kiến thức vốn có của mình để lập luận bảo vệ quan
điểm đó. Họ không bị phụ thuộc vào ý kiến và quyết định của giáo viên khi giải quyết
một tình huống cụ thể mà có thể đưa ra các phương án giải quyết sáng tạo. Bên cạnh
đó, dạy học bằng tình huống còn giúp người học có thể chia sẻ tri thức, kinh nghiệm
cho nhau; học được những ý kiến, quan điểm, thông tin từ những bạn học khác làm

phong phú hơn vốn tri thức của họ.
Thứ ba: “Dạy và học bằng tình huống giúp người học có cơ hội để liên kết, vận
dụng các kiến thức đã học được”. Để giải quyết một tình huống, học viên có thể phải
vận dụng đến nhiều kiến thức lý thuyết khác nhau trong cùng một môn học hoặc của
nhiều môn học khác nhau.
Thứ tư: “Dạy học bằng tình huống thông qua việc giải quyết tình huống giúp
người học có thể phát hiện ra những vấn đề cuộc sống đặt ra nhưng bản thân chưa đủ
kiến thức giải quyết”. Cuộc sống vốn đa dạng và phong phú nên không loại trừ khả
năng phát sinh những tình huống mà người học và thậm chí cả người dạy chưa gặp bao
8


giờ. Trong tình huống này, người dạy phải định hướng và khơi gợi khả năng tư duy
độc lập, sáng tạo của người học được vận dụng, phát huy tối đa và không loại trừ khả
năng người học sẽ tìm ra được những các lý giải mới làm bổ sung thêm kiến thức cho
cả người học lẫn người dạy.
Thứ năm: “Phương pháp dạy học bằng tình huống giúp cho người học có thể
rèn luyện một số kỹ năng cơ bản như kỹ năng làm việc nhóm, tranh luận và thuyết
trình”. Đây là những kỹ năng quan trọng giúp cho người học có thể thành công trong
tương lai. Học bằng tình huống giúp người học dễ dàng nhận ra những ưu điểm và hạn
chế của bản thân khi họ luôn có môi trường thuận lợi để so sánh với các học viên khác
trong quá trình giải quyết tình huống. Từ đó họ sẽ có cơ hội học hỏi kỹ năng làm việc
nhóm, tranh luận và thuyết trình từ những học viên khác. Phương pháp học bằng tình
huống cũng giúp người học phát triển các kỹ năng phát biểu trước đám đông một cách
khúc chiết, mạch lạc, dễ hiểu; phân tích vấn đề một cách lôgic; hiểu biết thực tế sâu
rộng, biết vận dụng linh hoạt lý thuyết để giải quyết các tình huống thực tế; biết phản
biện, bảo vệ quan điểm cá nhân, đồng thời có khả năng thương lượng và dễ dàng chấp
nhận các ý kiến khác biệt, biết lắng nghe và tôn trọng ý kiến của người khác để làm
phong phú hơn vốn kiến thức của mình.
Nếu mục tiêu của giáo dục đào tạo trong giai đoạn hiện nay là dạy kiến thức, kỹ

năng và thái độ thì phương pháp dạy học bằng tình huống nếu được áp dụng tốt có thể
đạt được cả ba mục tiêu này.
Thứ sáu: “Phương pháp dạy học bằng tình huống giúp cho học sinh có khả năng
nghiên cứu và học tập suốt đời, tăng cường khả năng tự định hướng trong học tập của
học sinh, phù hợp với nhu cầu và sở thích của cá nhân người học”. Thông qua việc
phân tích và thảo luận vấn đề, học sinh học được cách tiếp cận và giải quyết các vấn
đề khác nảy sinh trong tương lai, biết cách tìm kiếm thông tin và trở thành người có
thể tự định hướng học tập và nghiên cứu sau khi đã tốt nghiệp.
Thứ bảy: “Phương pháp dạy học bằng tình huống làm tăng sự hứng thú của
phần lớn học sinh đối với môn học”. Trong phương pháp học bằng tình huống, học
sinh là người chủ động tìm kiếm tri thức và quyết định kiến thức nào cần được nghiên
cứu và học hỏi. Việc thảo luận cũng làm tăng hứng thú của học sinh đối với việc học
vì nó kích thích người học tham gia tích cực vào việc tìm hiểu vấn đề cần nghiên cứu,
tìm ra giải pháp, tranh luận và lý giải vấn đề khoa học để bảo vệ quan điểm của mình.
Sau khi thảo luận, học sinh vẫn có nhu cầu tiếp tục tìm hiểu, nghiên cứu vấn đề để trả
lời những câu hỏi được đặt ra trong buổi thảo luận.
Cuối cùng: Giáo viên với vai trò là “điều phối viên” trong một lớp học bằng
9


tình huống vừa có thể hướng dẫn, chia sẻ tri trức, kinh nghiệm cho học sinh, đồng thời
họ cũng có thể học hỏi được những kinh nghiệm, thông tin, giải pháp mới từ học viên
để làm giàu vốn tri thức và phong phú hơn bài giảng của mình, nhất là từ những học
sinh có tư duy nhanh nhẹn sáng tạo. Qua quá trình hướng dẫn học sinh nghiên cứu tình
huống, giáo viên cũng có thể phát hiện ra những điểm bất hợp lý hoặc sai sót của tình
huống và có những điều chỉnh nội dung tình huống sao cho phù hợp.
1.1.2.2. Hạn chế của phương pháp dạy học bằng tình huống
Bên cạnh những ưu điểm nêu trên, phương pháp dạy và học bằng tình huống
còn có một số điểm hạn chế nhất định.
Thứ nhất: “Đối với các môn học là ngành khoa học xã hội, khi giảng dạy bằng

tình huống, các vấn đề xã hội thường được giải thích theo nhiều quan điểm khác nhau
tùy thuộc vào quan điểm, quan niệm sống, vào vốn kiến thức xã hội và kinh nghiệm
của người học. Vì vậy, đôi khi cuộc thảo luận về tình huống sẽ không hướng theo con
đường và dẫn đến một kết cục như người soạn thảo tình huống mong muốn, nhất là
trong những lớp học mà học viên đa dạng về trình độ và đến từ những vùng miền khác
nhau, và giáo viên không có kinh nghiệp trong việc điều phối, dẫn dắt cuộc thảo luận”.
Thứ hai: “Phương pháp dạy học bằng tình huống đòi hỏi tinh thần tự học, thái
độ làm việc nghiêm túc và khả năng tư duy độc lập, sáng tạo, năng động. Tuy nhiên,
hiện nay có khá nhiều học sinh không quen với phương pháp học bằng tình huống, họ
không có kỹ năng làm việc nhóm, thụ động, ỷ lại, không hợp tác từ đó làm giảm hiệu
quả của phương pháp dạy học bằng tình huống”.
Thứ ba: “Phương pháp dạy học bằng tình huống tốn nhiều thời gian của người
học”. Trong phương pháp học truyền thống, trong một khoảng thời gian nhất định,
giáo viên có thể cung cấp một lượng kiến thức tương đối hoàn chỉnh, hệ thống, logic
cho học sinh. Cùng lượng kiến thức đó, trong phương pháp học bằng tình huống, học
sinh phải tự mình tìm kiếm và đọc tài liệu, xử lý thông tin nên sẽ tốn thời gian hơn gấp
nhiều lần so với phương pháp học truyền thống. Phương pháp dạy học bằng tình
huống đòi hỏi giảng viên phải là người tích cực, luôn đổi mới, cập nhật thông tin, kiến
thức và kỹ năng mới. Trong xã hội hiện đại, các điều kiện về kinh tế, chính trị, xã hội
và pháp luật thay đổi một cách nhanh chóng nên “tuổi thọ” của một tình huống rất
ngắn. Có khi giảng viên mới xây dựng xong một tình huống, giảng dạy được một lần
đã phải thay đổi cho phù hợp.
Có ý kiến cho rằng dạy học bằng tình huống là cách để thầy “nghỉ ngơi” vì
trong khi người học phải làm việc, người dạy không có việc gì để làm. Đây là một ý
kiến sai lầm vì phương pháp dạy học bằng tình huống đòi hỏi những kỹ năng phức tạp
10


hơn trong giảng dạy, như cách tổ chức lớp học, bố trí thời lượng, đặt câu hỏi, tổ chức
và khuyến khích người học thảo luận, dẫn dắt mạch thảo luận, nhận xét, phản biện…

Đây thật sự là những thách thức lớn đối với giáo viên trong quá trình ứng dụng
phương pháp này.
1.1.3. Các loại tình huống và cách thức xây dựng một tình huống
1.1.3.1. Các loại tình huống dạy học
Áp dụng phương pháp dạy học bằng tình huống cho phép giáo viên sử dụng
tình huống một cách rất linh hoạt. Tình huống có thể được dùng trong quá trình thuyết
giảng hay để phục vụ giờ thảo luận như là trọng tâm của bài học. Tùy thuộc vào từng
bối cảnh sử dụng, có thể chia tình huống theo mức độ phức tạp của nó thành những
loại như sau:
Loại 1 – Tình huống đơn giản: “Loại này bao gồm các tình huống dưới dạng
các ví dụ minh họa với tình tiết đơn giản. Độ dài của các tình huống này thường chỉ
khoảng 4 - 5 câu. Các tình huống đơn giản có thể dùng ngay trong bài thuyết giảng của
giáo viên nhằm hai mục đích: (1) minh họa cho kiến thức mà giáo viên vừa giảng và
(2) kích thích học sinh tư duy tại chỗ và dẫn dắt sang nội dung kiến thức tiếp theo”.
Loại 2 – Tình huống phức tạp: “Loại này bao gồm các tình huống phức tạp hơn
loại 1 sử dụng với mục đích buộc học sinh chuẩn bị bài trước khi lên lớp giờ thuyết
giảng. Các tình huống phức tạp cần đủ dài vài bao gồm một hoặc một số vấn đề nhằm
gợi mở kiến thức bắt đầu giờ thuyết giảng của một bài học mới. Các tình huống này
cần được giao trước cho học sinh cùng với tài liệu hướng dẫn để học sinh đọc. Các
tình huống không cần quá khó mà chỉ cần đủ để định hướng cho học sinh nghiên cứu
và ghi nhớ những khái niệm khởi đầu của bài học”.
Loại 3 – Tình huống đầy đủ: “Loại này bao gồm các tình huống phức tạp nhất
và được chuẩn bị kỹ lưỡng nhất. Mục đích của loại tình huống này là để học sinh áp
dụng các kiến thức đã học qua giờ thuyết giảng vào giải quyết các vụ việc trong thực
tiễn và qua đó học thêm kiến thức mới. Loại tình huống này yêu cầu học sinh không
những phải nghiên cứu tài liệu được giao mà còn phải thực hiện các bước chuẩn bị
theo yêu cầu của giáo viên. Phương pháp nêu vấn đề sẽ hỗ trợ để giải quyết tình
huống, trong đó học sinh là người làm việc chính và giáo viên là người hướng dẫn cho
học sinh. Về nội dung, tình huống này có độ phức tạp cao nhất. Nó thường bao gồm ít
nhất ba vấn đề xuyên suốt trong một hay nhiều bài học và do đó yêu cầu về sự chuẩn

bị của cả học sinh và giáo viên cũng ở mức độ cao nhất”.
Ngoài ba loại tình huống này ta cũng có thể phân chia các tình huống theo độ
mở của vấn đề trong tình huống. Theo cách phân loại này, giáo viên có thể xây dựng
11


các tình huống mở và các tình huống đóng. Tình huống mở là các vụ việc mà trong đó
lời giải để ngỏ hoặc có nhiều cách giải khác nhau. Loại tình huống này rất tốt trong
việc kích thích khả năng tư duy và rèn luyện kỹ năng cho học sinh. Khi học sinh xử lý
các tình huống thuộc loại này, vấn đề mấu chốt không phải là bản thân kết luận mà là
cách thức để đi đến kết luận đó. Ngược lại, tình huống đóng là các tình huống dẫn tới
một kết quả cố định. Học sinh vẫn có thể chủ động xử lý tình huống xong giáo viên sẽ
định hướng cho học sinh tới kiến thức chính thống. Loại tình huống này rất tốt để giáo
viên bổ sung thêm cho học sinh kiến thức nội dung.
1.1.3.2. Cách thức xây dựng một tình huống dạy học
Đối với giáo viên tình huống được xây dựng nên là đề giải quyết một vấn đề
nào đó và qua quá trình đó giúp học sinh tiếp thu kiến thức. Vì vậy, quy trình xây
dựng bài tập tình huống của giáo viên thường đi theo chiều ngược lại với quy trình giải
quyết bài tập tình huống của học sinh. Quy trình này có thể được mô tả bằng các bước
sau:
Bước 1 - Xác định kiến thức cần truyền đạt.
Bước 2 - Hình thành vấn đề.
Bước 3 – Hình thành tiểu vấn đề.
Bước 4 – Xây dựng tình tiết sự kiện của tình huống.
“Việc xây dựng tình huống luôn bắt đầu từ nội dung kiến thức cần truyền đạt
tới học sinh. Nội dung kiến thức này có thể là một khái niệm nào đó giáo viên muốn
học sinh nắm bắt được và phân biệt được với những khái niệm khác hay cũng có thể là
một nguyên tắc ứng xử nào đó mà giáo viên muốn học sinh hiểu và áp dụng được vào
thực tiễn. Dựa trên những kiến thức này, giáo viên xây dựng nên những vấn đề mà
thông thường chính là những câu hỏi xuất phát từ bản thân kiến thức cần học sinh tiếp

thu. Việc giải quyết vấn đề này có thể đòi hỏi trước tiên phải giải quyết một số vấn đề
nhỏ khác và nếu vậy những vấn đề nhỏ cũng phải được xác định. Trên cơ sở các vấn
đề và tiểu vấn đề, giáo viên sẽ xây dựng các tình tiết sự kiện để hình thành một tình
huống hoàn chỉnh. Ở bước cuối cùng này, giáo viên có thể có hai cách để xây dựng
tình tiết sự kiện. Thứ nhất, giáo viên có thể dựa trên những vụ việc đã xảy ra và đã
được giải quyết một cách sáng tạo. Nếu có những vụ việc liên quan tới những nội dung
kiến thức mà giáo viên đang muốn học sinh tìm hiểu thì giáo viên có thể lấy tình tiết
của vụ việc đó rồi điều chỉnh tình tiết sự kiện cho phù hợp với yêu cầu của mình. Thứ
hai, nếu không tìm được vụ việc thực tế thì giáo viên có thể tự xây dựng nên một tình
huống giả định. Trong trường hợp này các tiêu chuẩn của một tình huống tốt như phân
tích trên đây phải được tuân thủ”.
12


Việc xây dựng được tình huống tốt là một công đoạn quan trọng trong quá trình
dạy học bằng tình huống .
1.2 Thực trạng của việc giáo dục pháp luật cho học sinh trong dạy học môn
GDCD ở trường Trung học.
1.2.1 Đặc điểm của địa bàn khảo sát
Bản thân tôi là giáo viên giảng dạy bộ môn GDCD tại trường THPT Nguyễn
Đổng Chi- Lộc Hà- Hà Tĩnh đến nay đã được 10 năm. Trường thành lập từ năm 2001,
cho đến nay trường đã có 25 lớp. Trong quá trình giảng dạy nhà trường không chỉ chú
trọng đến dạy học kiến thức mà trường luôn luôn quán triệt nhiệm vụ: Giáo dục toàn
diện cho học sinh ( Đức, Trí, Thể, Mỹ). Trong tương lai trường tiếp tục phát huy
truyền thống, thi đua dạy tốt và học tốt, nhanh chóng đưa nhà trường ngày càng vững
mạnh. Mặc dù được giảng dạy ở một trường như vậy nhưng cá nhân tôi khi dạy
GDCD nói chung và dạy pháp luật nói riêng có những thuận lợi nhưng đồng thời cũng
có không ít những khó khăn.
+ Thuận lợi:
- Cán bộ nhà trường tạo điều kiện để giáo viên có thể giảng dạy tốt nhất( tài liệu,

các thiết bị dạy học, tổ chức các hoạt động ngoại khóa…)
- Chương trình sách giáo khoa có nhiều đổi mới nên tạo được sự hứng thú cho
học sinh.
- Tài liệu hỗ trợ công tác giảng dạy khá phong phú( thư viện nhà trường đã
trang bị khá đầy đủ các tài liệu về Luật cho giáo viên)
- Việc trang bị trang thiết bị dạy học đã hỗ trợ khá tốt cho công tác giảng dạy.
- Đội ngũ giáo viên được đạo tạo bài bản, có phương pháp tốt.
- Học sinh trường chúng tôi được tuyển lựa trong cả tỉnh thông qua kỳ thi
tuyển hàng năm do đó chất lượng học sinh đầu vào rất cao. Hầu hết các em đều có
ý thức học tập tốt, có ham muốn lĩnh hội tri thức, cần cù học tập( đây cũng là
truyền thống hiếu học của người dân Hà Tĩnh nói chung).
Nguyên nhân: Có được những thuận lợi trên là nhờ sự quan tâm của ngành, nhà
trường, đội ngũ giáo viên trong công tác giáo dục toàn diện cho học sinh.
+ Khó khăn:
- Một bộ phận nhỏ giáo viên ngại tự học, tự bồi dưỡng.
- Việc ứng dụng thiết bị hiện đại vào hoạt động dạy và học còn hạn chế.
- Việc vận dụng phương pháp dạy học bằng tình huống chưa được làm một
cách thường xuyên.
- Sách giáo khoa mặc dù đã có nhiều đổi mới nhưng nội dung một số bài còn
13


quá dàn trải, chưa đi sâu vào nội dung của một ngành luật cụ thể nên học sinh cũng
cảm thấy khó tìm hiểu.
- Ở cấp THPT học sinh khi lên lớp 12 mới được tìm hiểu cặn kẽ về pháp luật,
tuy nhiên đây là thời gian các em đang rất lo lắng cho kỳ thi tốt nghiệp THPT và
đại học nên thời gian nghiên cứu pháp luật của các em cũng bị ảnh hưởng. Các giờ
học về pháp luật bị chi phối ít nhiều.
- Một khó khăn nữa cũng làm ảnh hưởng đến chất lượng của bộ môn đó là cách
nhìn nhận chưa thấu đáo từ phía gia đình cũng như xã hội đối với bộ môn.

- Nhiều học sinh đã nhận thức được ý nghĩa to lớn của bộ môn nên đã tiếp thu
bài học tốt. Tuy nhiên bên cạnh đó vẫn có một số em xem việc học chỉ là sự đối phó.
Vì vậy đây cũng chính là trở ngại cho giáo viên khi giảng dạy bộ môn này.
Nguyên nhân của những khó khăn trên:
- Lâu nay bộ môn GDCD không tham gia vào các kỳ thi mang tầm quốc gia do
đó học sinh chưa thực sự mặn mà với môn học.
- Sự phân biệt đối với các môn học của học sinh và một bộ phận người dân.
- Kiến thức SGK chưa đủ sức hấp dẫn đối với người học
- Một số giáo viên chưa mặn mà với bộ môn cũng như chịu khó đổi mới
phương pháp.
1.2.2 Thực trạng của việc sử dụng các PPDH nhằm giáo dục pháp luật cho học
sinh trong dạy học môn GDCD ở trường Trung học
Nội dung pháp luật ở chương trình lớp 12 bộ môn GDCD liên quan đến khá nhiều
luật (Luật Hiến pháp, Luật Khiếu nại và Tố cáo, Luật Hôn nhân và Gia đình, Luật Dân
sự, Luật Hình sự, Luật Giao thông đường bộ...). Để học sinh hiểu được kiến thức pháp
luật một cách cặn kẽ không phải là chuyện dễ. Bởi kiến thức pháp luật vốn dĩ đã khó
lại khô khan cho nên khó hấp dẫn đối với các em. Để khắc phục được điều này đòi hỏi
mỗi giao viên phải thực sự nổ lực trong việc nghiên cứu tìm tòi và vận dụng các
phương pháp, biết chắt lọc các thông tin mang tính thời sự để xây dựng các tình huống
có tính thuyết phục với các em. Lâu nay một số giáo viên đã làm được điều này. Tuy
nhiên bên cạnh đó vẫn còn một số giáo viên ngại tìm tòi đổi mới phương pháp, vẫn sử
dụng phương pháp dạy học cũ là thuyết trình do đó không phát huy được tính tự học
của các em và làm cho việc dạy và học diễn ra một cách thụ động theo kiểu: Thầy
giảng - trò nghe, thầy hỏi- trò trả lời, thầy đọc - trò ghi chép và học thuộc.
Dạy bộ môn GDCD nói chung và kiến thức pháp luật nói riêng phải theo hướng phát
huy tính tich cực, tự giác, chủ động, sáng tạo của học sinh; bồi dưỡng cho học sinh
năng lực tự học, khả năng thực hành, lòng say mê học tập và ý chí vươn lên. Quá trình
14



dạy học là quá trình học sinh được cuốn hút vào các hoạt động học tập do giáo viên
thiết kế, tổ chức và hướng dẫn qua đó các em có thể tự khám phá và chiếm lĩnh nội
dung bài học. Học sinh sẽ hứng thú, thông hiểu và ghi nhớ những gì các em nắm được
qua hoạt động chủ động tích cực của chính mình.
1.2.3 Những thành công và hạn chế
1.2.3.1 Những thành công:
Những năm gần đây cùng với việc dạy học tiếp cận với các phương pháp mới
( phương pháp thảo luận nhóm, phương pháp đóng vai, phương pháp dự án, phương
pháp điều tra khảo sát, phương pháp tình huống...) đã đem lại hiệu quả cao cho việc
giảng dạy. Học sinh không còn thụ động trong việc lĩnh hội tri thức. Các em đã biết tự
nghiên cứu học hỏi, giáo viên với tư cách chỉ là người hướng dẫn. Nhiều giáo viên đã
mạnh dạn đổi mới phương pháp, mạnh dạn tiếp cận công nghệ thông tin nên đã thu hút
được các em đối với bộ môn, phát huy được tính tích cực, tự giác chủ động, sáng tạo,
rèn luyện thói quen và khả năng tự học, tinh thần hợp tác, kỹ năng vận dụng kiến thức
vào các tình huống khác nhau trong học tập và trong thực tiễn.
Tuy nhiên bên cạnh những thuận lợi trên việc vận dụng các phượng pháp dạy học
hiện nay vào quá trình giảng dạy đặc biệt là giảng dạy pháp luật cũng gặp không ít khó
khăn.
1.2.3.2 Những hạn chế
Trong việc vận dụng phương pháp vào dạy học có thể nói đang gặp sự bất cập đó là
không phải giáo viên nào cũng mặn mà với việc này, bởi nó chiếm khá nhiều thời gian
cũng như công sức của người giáo viên. Bên cạnh đó điều kiện để hỗ trợ cho việc vận
dụng các phương pháp cũng có nhiếu khó khăn (kinh phí cho làm các dự án, viết kịch
bản cho đóng vai, thời gian để xây dựng các tình huống...). Một khó khăn nữa là sự
hợp tác của học sinh, một số em theo nếp học cũ thụ động nghe thầy cô giảng, lười suy
nghĩ, ỷ lại bạn bè do đó cũng gây khó khăn cho việc đổi mới phương pháp.
1.2.3.3 Nguyên nhân: Có một số nguyên nhân cơ bản sau:
- Giáo viên:
+ Không chịu học hỏi, lười suy nghĩ
+ Ngại tiếp cận với công nghệ thông tin.

+ Chưa tự tin trong việc đổi mới các phương pháp dạy học.
+ Việc xây dựng các tình huống còn gặp nhiều lúng túng.
-

Học sinh:

+ Vẫn quan niệm phân biệt đối với các môn học do đó việc còn học mang tính đối
phó.
15


+ Thái độ ỷ lại thầy cô và bạn bè, không chịu hợp tác với thầy cô và các bạn trong
việc tự lĩnh hội tri thức. Đây cũng chính là lý do làm cho một số giáo viên cảm
thấy không mặn mà khi bỏ công sức và thời gian để vận dụng các phương pháp khi
dạy về kiến thức pháp luật.
Qua việc nghiên cứu cơ sở lý luận về phương pháp dạy học tình huống chúng ta có
thể thấy được đây là phương pháp dạy học rất phù hợp đối với nội dung pháp luật
không chỉ đối với học sinh cấp THPT mà bao gồm cả học sinh THCS.
Trong thực tiễn giảng dạy nhiều giáo viên đã mạnh dạn lựa chọn phương pháp này.
Tuy nhiên vẫn có giáo viên còn ngại ngần vì lý do này hay lý do khác. Trên cơ sở lý
luận và thực tiễn của việc sử dụng các phương pháp dạy học đặc biệt là dạy pháp luật
ở trường phổ thông tôi nhận thấy việc vận dụng phương pháp dạy học bằng tình huống
là điều thực sự cần thiết. Tuy nhiên để góp phần thành công trong việc giảng dạy đòi
hỏi giáo viên phải biết vận dụng phối hợp cùng với các phương pháp khác một cách
linh hoạt chứ không phải nhất nhất giờ học chỉ vận dụng một phương pháp này. Nếu
làm được điều đó chắc chắn bộ môn GDCD nói chung đặc biệt là kiến thức pháp luật
sẽ không còn là sự nhàm chán với các em.

CHƯƠNG 2
XÂY DỰNG TÌNH HUỐNG TRONG DẠY HỌC MÔN GDCD NHẰM GIÁO

DỤC PHÁP LUẬT CHO HỌC SINH THPT.
2.1. Căn cứ vào mức độ phức tạp để xây dựng một số tình huống khi giáo dục pháp
luật cho học sinh THPT.
Loại 1: Tình huống giản đơn
Ví dụ: Chị Hà và anh Nghĩa yêu nhau đã được 5 năm. Hai người quyết định sẽ tiến đến
hôn nhân. Khi biết quyết định của con bà Hồng mẹ của chị Hà đã phản đối kịch liệt vi
lý do anh Nghĩa nhà rất nghèo, lấy anh Nghĩa chị Hà sẽ khổ. Chị Hà giải thích thế nào
mẹ chị vẫn cứ khăng khăng không chịu. Chị Hà hoang mang không biết xử sự thế nào
cho đúng.
Hỏi: Theo em anh Nghĩa và chị Hà có quyền quyết định việc hôn nhân của mình
không? Tại sao?
Tình huống này có thể vận dụng vào Bài 2: Thực hiện pháp luật (cụ thể là vận dụng
16


vào nội dung “ Sử dụng pháp luật”).
Qua tình huống trên học sinh có thể biết được ngay đây là quyền của công dân trong
lĩnh vực hôn nhân và gia đình, trên cơ sở đó học sinh có thể kể thêm được rất nhiểu
quyền mà công dân, tổ chức cần phải phát huy. Với tình huống giản đơn giáo viên
không cần mất quá nhiều thời gian để xây dựng tình huống cũng như giải thích cho các
em. Tự bản thân các em có thể giải quyết được tình huống.
Loại 2: Tình huống phức tạp
Ví dụ: Chị Hương về quê với một số vốn lớn sau nhiều năm lao động vất vả ở nước
ngoài. Chị dự địnhthành lạp doanh nghiệp và kinh doanh trong lĩnh vực xây dựng. Có
người khuyên chị không nên đầu tư vào lĩnh vực trên vì ở đó có nhiều doanh nghiệp
Nhà nước đang hoạt động, những người lãnh đạo các doanh nghiệp này đều là nam
giới, chị là phái nữ chắc chắn sẽ bị các doanh nghiệp trên gây khó khăn trong kinh
doanh. Vì thế chị nên tìm một lĩnh vực kinh doanh phù hợp với mình hơn.
Câu hỏi:
Câu 1: Em có nhận xét gì về lời khuyên trên?

Câu 2: Nếu là cán bộ lãnh đạo của địa phương, em sẽ làm gì trước sự việc trên?
Tình huống này sẽ áp dụng vào bài 4: Quyền bình đẳng của công dân trong một số lĩnh
vực của đời sống xã hôi (nội dung “ bình đẳng trong lao động”).
Để trả lời được câu hỏi trong bài tập tình huống này đòi hỏi học sinh phải biết được
quy định cụ thể trong điều Luật của Bộ Luật lao động.
Điều 109 Bộ luật Lao động quy định: “Nhà nước đảm bảo các quyền làm việc của
phụ nữ bình đẳng về mọi mặt đối với nam giới, có chính sách khuyến khích người sử
dụng lao động tạo điều kiện dể lao động nữ có việc làm thường xuyên, áp dụng rộng
rãi chế độ làm việc có thời gian biểu linh hoạt...”
Điều13 Luật đầu tư quy định: các nhà đầu tư có quyền tự đầu tư, kinh doanh chủ
động trong việc “ lựa chọn lĩnh vực đầu tư, hình thức đầu tư, phương thức huy động
vốn, địa bàn, quy mô đầu tư, đối tác đầu tư và thời hạn hoạt động của dự án”, chủ động
đăng kí kinh doanh một hoặc nhiều ngành nghề; thành lập doanh nghiệp theo quy định
của pháp luật; tự quyết định về hoạt động đầu tư kinh doanh đã đăng kí”.
Căn cứ vào nội dung mà giáo viên muốn chuyển tải đến học sinh để xây dựng tình
huống phù hợp. Ngoài việc đưa ra tình huống giáo viên phải chuẩn bị các điều Luật để
các em hiểu thêm về các kiến thức pháp luật thông qua các nghành luật cụ thể. Tình
huống này liên qua đến ngành Luật Lao động, qua đó trang bị một số hiểu biết cho các
em và hình thành ở các em thái độ biết tôn trọng người lao động trong đó bao gồm cả
lao động nữ.
17


Loại 3: Tình huống đầy đủ
Ví dụ: Tại khoa xét nghiệm máu của bệnh viện Đa khoa Hoài Đức ( Hà Nội), Trưởng
khoa cùng các kỹ thuật viên đã thực hiện việc “ Nhân bản kết quả xét nghiệm máu”.
Đây là hành vi vô cùng nghiêm trọng làm ảnh hưởng đến niềm tin của nhân dân. Chị
Hoàng thị Nguyệt cán bộ khoa xét nghiệm đã rất bất bình vì việc này.
Câu hỏi:
Câu 1: Em hãy chỉ ra hành vi vi phạm pháp luật trong tình huống trên? Hành vi đó

thuộc loại vi phạm nào?
Câu 2: Hãy cho biết các trình tự chị Nguyệt tiến hành để ngăn chặn các hành vi vi
phạm pháp luật trên?
Tình huống này được áp dụng vào bài 7: Công dân với các quyền dân chủ (mục 3:
Quyền khiếu nại, tố cáo của công dân)
Đây là một tình huống được xây dựng dựa trên một vi phạm pháp luật đã xẩy ra trong
đời sống xã hội. Có thể sẽ có nhiều học sinh biết được nội dung này. Tuy nhiên để các
em biết một cách cặn kẽ và đầy đủ thì điều đó lại càng có ích cho các em. Những tình
huống được xây dựng dựa trên cơ sở có thực sẽ có tính thuyết phục cao đối với các
học sinh. Tuy nhiên để làm được bài tập tình huống này đòi hỏi học sinh phải sử dụng
các kiến thức của nhiều bài học( kiến thức về vi phạm pháp luật, các loại vi phạm pháp
luật, quyền và nghĩa vụ của công dân...)
Nếu em nào quá trình học nghiêm túc sẽ trả lời được bài tập này.
Những tình huống như thế này có cái khó nhưng cũng có sự hấp dẫn đối với học sinh,
nó sẽ phát triển được trí tuệ của các em, khắc phục được việc học thụ động như lâu
nay.
Trên đây là các tình huống được xây dựng dựa trên cơ sở từ đơn giản đến phức tạp.
Giáo viên tùy vào nội dung bài dạy, tùy vào đối tượng học sinh để vận dụng sao cho
đạt hiệu quả cao nhất - đó là trách nhiệm của mỗi giáo viên.
2.2.Bài dạy thực nghiệm
Bài 4: QUYỀN BÌNH ĐẲNG CỦA CÔNG DÂN
TRONG MỘT SỐ LĨNH VỰC CỦA ĐỜI SỐNG XÃ HỘI (Tiết 2 )
I. MỤC TIÊU BÀI HỌC
Học xong tiết 2 bài 4 học sinh cần nắm được:
1.Về kiến thức:
- Hiểu được khái niệm, nội dung quyền bình đẳng của công dân trong lao động,
- Xác định trách nhiệm của bản thân
18



2.Về kĩ năng:
- Biết thực hiện và nhận xét việc thực hiện quyền BĐ của công dân trong lao
động,
3.Về thái độ:
- Tôn trọng quyền bình đẳng của công dân trong lĩnh vực lao động
- Phê phán những hành vi vi phạm quyền bình đẳng trong lĩnh vực lao động.
II. TÀI LIỆU, PHƯƠNG TIỆN, PHƯƠNG PHÁP VÀ CÁC KĨ NĂNG SỐNG
- Tài liệu:
+ SGK GDCD12, chuẩn kiến thức kĩ năng, bài tập tình huống GDCD12
+ Tài liệu phổ biến GD PL, Bộ luật lao động
- Phương tiện:
+ Sơ đồ thể hiện nguyên tắc giao kết hợp đồng lao động
+ Có thể sử dụng vi tính, máy chiếu
- Phương pháp:
+ Thảo luận lớp, khai thác kiến thức từ hình ảnh, phân tích tình huống
- Các kĩ năng sống:
+ KN tìm kiếm và xử lý thông tin về bình đẳng quyền, nghĩa vụ trong lao
động, KN hợp tác tìm hiểu nội dung…, KN tư duy phê phán trường hợp vi phạm
quyền bình đẳng của công dân trong lao động.
III. TIẾN TRÌNH DẠY HỌC
1. Ổn định tổ chức: Kiểm tra sĩ số lớp học
2. Kiểm tra bài cũ:
H. Trong gia đình em, quyền bình đẳng giữa cha mẹ và con cái được thể hiện ntn ?
Thực hiện quyền bình đẳng đó có ý nghĩa ntn đối với gia đình?
3. Bài mới:
ĐVĐ: Lao động là hoạt động quan trọng nhất của con người , tạo ra giá trị vật chất và
tinh thần cho XH- Đó là động lực chủ yếu quyết định sự phát triển của XH. Ở nước
ta, quyền bình đẳng trong lao động được thể hiện như thế nào?
Hoạt động của giáo viên và học sinh


Nội dung kiến thức cần đạt
2. Bình đẳng trong lao động

Hoạt động 1: Phân tích ví dụ qua hình ảnh để a) Thế nào là bình đẳng trong lao
tìm hiểu khái niệm bình đẳng trong lao động. động?
(GD KN tìm kiếm và xử lý thông tin)
GV: chiếu hình ảnh GV, công nhân, nông dân
gặt lúa...
19


=> Những hình ảnh trên mô tả cuộc sống lđ của
nhân dân trên nhiều lĩnh vực khác nhau.
H. Lđ có vai trò gì đối với con người và XH?
=> Để mqh giữa người với người trong quá
trình lđ trở nên tốt đẹp và có tác động tích cực
vào sự phát triển của XH- nguyên tắc bình
đẳng là quan trọng nhất.
Vd: Giả sử A,B,C đều có quyền tìm việc làm

- Bình đẳng trong lao động được hiểu là

và nhất trí làm cho Ông X. Vậy A,B,C đều có

bình đẳng giữa mọi công dân trong việc

quyền làm việc như nhau, bình đẳng theo hợp

thực hiện quyền lao động thông qua tìm


đồng. Ông X phải đối xử với A,B,C như nhau.

kiếm việc làm; bình đẳng giữa người lao
động và người sử dụng lao động thông

H. Quyền bình đẳng trong lao động được PL

qua hợp đồng lao động; bình đẳng giữa

qui định ntn?

lao động nam và lao động nữ trong từng
cơ quan, doanh nghiệp và trong phạm vi

H. Ý nghĩa của việc PL nước ta thừa nhận

cả nước.

quyền bình đẳng của công dân trong lđộng?

b) Nội dung cơ bản của bình đẳng

- Điều 55 Hiến pháp 1992 khẳng định : “Lao

trong lao động

động là quyền và nghĩa vụ của CD”.

* Công dân bình đẳng trong thực hiện
quyền lao động


Hoạt động2: Thảo luận nhóm để tìm hiểu nội
dung bình đẳng trong lao động(GD KN hợp

- Quyền lđ: Là quyền của mỗi công dân

tác, tư duy phê phán trường hợp vi phạm

được tự do sử dụng slđ của mình theo PL

quyền bình đẳng trong lđ)

nhằm mang lại thu nhập cho bản thân, gia

GV: Chia lớp thành 4 nhóm, yêu cầu các

đình và XH.

nhóm giải quyết các bài tập tình huống sau.

Mọi người đều có quyền làm việc, tự do

Nhóm 1, 2:Thảo luận tình huống để làm rõ nội

lựa chọn việc làm và nghề nghiệp phù

dung công dân bình đẳng trong thực hiện

hợp với khả năng của mình, không bị


quyền lao động.

phân biệt đối xử về giới tính, dân tộc, tín

TH: Anh B đã trúng tuyển vào công ty X và

ngưỡng, tôn giáo, nguồn gốc gia đình,

được mời đến công ty để kí kết HĐLĐ. Theo

thành phần kinh tế.

đó anh sẽ làm việc tại công ty với thời hạn xác
định. Tuy nhiên khi xem bản hợp đồng, anh
không thấy rõ công việc mà anh phải làm, thời
gian và địa điểm làm việc. Anh đem thắc mắc
20


này trao đổi với BGĐ và đề nghị bổ sung

* Công dân bình đẳng trong giao kết

những nội dung trên vào HĐLĐ. Tuy nhiên

hợp đồng lao động

GĐ không đồng ý, ông ta nói với anh “ Chúng
tôi đã thuê anh làm việc với mức lương cao,
anh chỉ cần quan tâm đến điều đó, còn anh làm

gì, ở đâu và khi nào là tùy thuộc vào sự phân
công của chúng tôi.”
Em có nhận xét gì về hành động của ông
GĐCT?
Theo em, anh B có quyền thỏa thuận với GĐ
về những nội dung khác được ghi trong HĐ
không?
Sau khi HS trình bày kết quả thảo luận, GV bổ

- Khái niệm HĐLĐ: Là sự thỏa thuận

sung và phân tích thêm.

giữa người lđ và người sử dụng lđ về việc

GV giới thiệu điều 5, điều 29 luật lao động

làm có trả công, điều kiện lđ, quyền và

H. Hợp đồng lao động là gì?

nghĩa vụ củ mỗi bên trong quan hệ lao

H. Tại sao phải ký kết HĐLĐ? (Hình ảnh)

động.

H. Việc ký kết HĐLĐ phải thực hiện theo

- Nguyên tắc:


những nguyên tắc nào?

+ Tự do, tự nguyện, bình đẳng; không trái
pháp luật và thoả ước lao động tập thể;
giao kết trực tiếp giữa người lao động với
người sử dụng lao động.
* Bình đẳng giữa lao động nam và lao
động nữ

Nhóm 3, 4: Thảo luận tình huống để làm rõ
nội dung công dân bình đẳng trong thực hiện
quyền lao động.
TH: Chị Thủy, là công nhân ủi của công ty
may (phải đứng), do chị có thai tháng thứ 7
nên GĐ chuyển chị sang bộ phận kiểm tra

- Bình đẳng về cơ hội tiếp cận việc làm

thành phần (có thể ngồi) khác với hợp đồng đã

- Bình đẳng về tiêu chuẩn, độ tuổi khi

kí.

tuyển dụng

H1. Quyết định của GĐ là đúng hay sai? Vì

- Đối xử bình đẳng tại nơi làm việc về


sao?

việc làm, tiền lương, tiền công, BHXH,
điều kiện lao động…
21


H2. Chị Thủy có quyền yêu cầu GĐ công ty
bố trí công việc phù hợp với mình không? Tại
sao?
H3. Giữa lao động nam và lao động nữ có gì
khác nhau?
H. PLVN qui định ntn về quyền bình đẳng
giữa lđ nam và lđ nữ?
GV : Sử dụng Chương X (Qui định đối với

c) Trách nhiệm của Nhà nước trong

lao động nữ)- Luật Lao động sửa đổi, bổ sụng

việc bảo đảm quyền bình đẳng của

5/2014 để phân tích. => Vì vậy, lđ nữ phải

công dân trong lao động

nâng cao trình độ về mọi mặt để khẳng định

(Giảm tải)


được vị trí của mình trong XH.
H. Thế hệ trẻ hiện nay cần phải làm gì để
góp phần thực hiện quyền bình đẳng trong
lao động?
4. Cũng cố, luyện tập:
GV cho HS làm BTTH để củng cố kiến thức bài học:
Anh Toàn và anh Tiến cùng được vào làm việc tại công ty điện tử Z. Do anh Toàn có
bằng tốt nghiệp loại khá nên được GĐ bố trí ở phòng nghiên cứu thị trường. Còn anh
Tiến chỉ có bằng tốt nghiệp loại TB nên GĐ sắp xếp về tổ bán hàng. Thấy vậy anh Tiến
thắc mắc và cho rằng anh không được bình đẳng với anh Toàn trong thực hiện quyền
lao động.
Câu hỏi:
1. Theo em, tại sao GĐ lại sắp xếp công việc của hai người khác nhau?
2. Việc anh Toàn và anh Tiến được phân công làm việc khác nhau có bị coi là bất bình
đẳng trong thực hiện quyền lao động không?
IV. HƯỚNG DẪN HỌC TẬP Ở NHÀ.
- Học bài cũ,
- Làm bài tập 4, 5. SGK .Trang 43
- Xem trước nội dung tiết 3- Bài 4.SGK .
Trên đây là một số tình huống tôi đã xây dựng để áp dụng vào quá trình dạy pháp luật
cho học sinh THPT. Trong thực tiễn giảng dạy bộ môn GDCD ở trường THPT tôi thấy
việc vận dụng linh hoạt các phương pháp dạy học là điều vô cùng cần thiết, nó có tính
chất quyết định đối với sự thành công của tiết dạy. Thành công của tiết dạy đó là giáo
viên có tài năng trong việc tổ chức và lôi cuốn học sinh vào bài dạy, giáo viên không
22


phải làm việc nhiều, điều quan trọng là tạo cho các em sự say mê tìm tòi và nghiên
cứu, chính tự các em sẽ chủ động trong việc lĩnh hội tri thức. Một trong những phương

pháp đem lại hiệu quả cao đối với người học chính là việc sử dụng phương pháp dạy
học tình huống khi dạy bộ môn GDCD và đặc biệt là nó rất phù hợp khi vận dụng vào
dạy pháp luật.
2.3. Kiểm chứng:
Thông qua các giải pháp đã thực hiện trong việc giảng dạy lớp 12 đã đạt được những
kết quả như sau:
-

Đối với lớp chưa áp dụng phương pháp dạy học tình huống:
Lớp

Số học sinh

Số học sinh

Số học sinh

Số học sinh

nhận thức tốt

nhận thức

nhận thức TB

nhận thức

0%

khá

15,6%

75%

Yếu
9,4%

12A
-

Đối với lớp áp dụng phương pháp dạy học tình huống:
Lớp

12B
12C

Số học sinh

Số học sinh

Số học sinh

Số học sinh

nhận thức tốt

nhận thức

nhận thức TB


nhận thức

9.4%
9.4%

khá
46.8%
60,6%

40.6%
26.7%

Yếu
3.2%
3,3%

2.4.Kết quả đạt được:
Dạy học tình huống là một trong những phương pháp giảng dạy hiệu quả nhằm khơi
dậy sự nhiệt tình của HS, khuyến khích HS tham gia bài học một cách sôi nổi, chủ
động. Ngoài ra HS cũng tập phản ứng với những tình huống phức tạp và “có thật” sẽ
gặp trong cuộc sống sau này. Cụ thề là:
- Khả năng hoà nhập, kĩ năng giao tiếp tốt hơn.
- Khả năng vận dụng kiến thức.
- Kết quả và thành tích học tập cao hơn:
+ Kiến thức của HS không bị bó hẹp ở lí luận mà còn mang tính thực tiễn.
+ Kiến thức trở nên sâu sắc, bền vững dễ nhớ và nhớ nhanh hơn do được vận dụng
kiến thức vào thực tế cuộc sống.
2.5.Bài học kinh nghiệm:
Để tổ chức dạy học có hiệu quả, có nhiều phương tiện giúp giáo viên kích thích học
sinh tham gia bài học. Do đó, tuỳ theo nhu cầu và mục tiêu của mình, giáo viên có thể

chọn các phương tiện phù hợp. Sau đây là một số cách giáo viên có thể dung:
- Viết tình huống lên bảng phụ.
23


- Các tài liệu trực quan như hình ảnh.
- Băng ghi âm hoặc hình.
- Các tài liệu thu thập trên mạng internet.
- Có sự tham gia nhiệt tình của học sinh.
Tùy thuộc vào đối tượng học sinh, CSVC của nhà trường,…mà giáo viên có thể
sử dụng để kích thích quá trình hoạt động của học sinh, tạo hứng khởi cho thành viên
trong lớp tham gia tiếp thu kiến thức.
C. KẾT LUẬN
1. Kết luận:
Chúng ta nhận thấy rằng, việc giáo dục cho học sinh không chỉ là giáo dục kiến
thức, mà còn rèn luyện kỹ năng, đặc biệt là giáo dục thái độ, cách ứng xử, cư xử của
các em . Do đó, với vai trò và trách nhiệm đó, giáo viên không chỉ không ngừng đổi
mới phương pháp giảng dạy mà còn trực tiếp trao đổi, chia sẻ ở những vấn đề đời
thường nhất, để các em hiểu rằng, chính các em mới là đối tượng chính trong tiến trình
dạy và học hiện nay.
Bằng cách giảng dạy thông qua các tình huống giúp cho học sinh nắm rõ hơn về nội
dung kiến thức, biết vận dụng kiến thức vào thực tiễn, rèn luyện kĩ năng sống.
Bản thân tôi nhận thấy rằng trong quá trình giảng dạy cũng rút ra được cho mình
nhiều bài học kinh nghiệm bổ ích trong qua trình giảng dạy.
2. Kiến nghị, đề xuất:
Đây là một đề tài có phạm vi thực hiện rộng lớn và đòi hỏi thời gian, tâm trí của
người giáo viên cao. Do vậy trong quá trình thực hiện muốn đạt được thành công
người giáo viên thực sự phải yêu nghề, mến trò phải chịu khó đọc nhiều, tìm hiểu thêm
tư liệu thực tế mới có sức thuyết phục học sinh. Ngoài ra giáo viên phải được sự ủng
hộ, giúp đỡ của nhà trường, đồng nghiệp, phải gắn hoạt động học tập trên lớp với các

hoạt động sinh hoạt văn hóa, giao lưu, trao đổi thì kết quả đề tài sẽ đạt chất lượng tốt
hơn.
Đây là đề tài được tôi đúc kết từ những thực tiễn trải nghiệm của bản thân, do đó sẽ
không thể tránh khỏi sơ suất và sai sót. Mong nhận được những đóng góp quý báu của
các đồng chí để đề tài của tôi được trọn vẹn hơn, hoàn thiện. Tôi xin chân thành cảm
ơn.

TÀI LIỆU THAM KHẢO
1. Sách giáo khoa, sách giáo viên GDCD 12.
24


2. Chuẩn kiến thức kĩ năng GDCD 12.
3. Tài liệu tập huấn chuyên đề đổi mới sách giáo khoa.
4. Tài liệu hướng dẫn thực hiện chương trình, sách giáo khoa 12.
5. Tài liệu bồi dưỡng thường xuyên chu kỳ 2004- 2007
6. Tài liệu bồi dưỡng giáo viên GDCD trường THPT

25


×