Tải bản đầy đủ (.doc) (32 trang)

TAI LIEU ON TAP NGU VAN 11 HKII

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (317.54 KB, 32 trang )

Tài liệu ôn tập Ngữ văn 11

LƯU BIỆT KHI XUẤT DƯƠNG
(Xuất dương lưu biệt)
_Phan Bội Châu_
I – Tiểu dẫn:
1 – Phan Bội Châu
- Phan Bội Châu (1867 – 1940) tên thuở nhỏ là Phan Văn San, biệt hiệu chính là Sào Nam, quê ở
huyện Nam Đàn, tỉnh Nghệ An.
- Vào những năm cuối thế kỉ XIX, ông là một trong những nhà nho đầu tiên nuôi ý tưởng đi tìm một
con đường cứu nước mới. Sau khi đỗ Giải nguyên (1900), ông lập ra Duy tân hội. Theo chủ trương
của hội, ông lãnh đạo phong trào Đông du và xuất dương sang Nhật Bản (1905).
- Năm 1925, thực dân Pháp bắt cóc ông ở Thượng Hải (Trung Quốc), đưa về nước, định bí mật thủ
tiêu. Nhân dân đấu tranh sôi sục, nhà cầm quyền buộc phải đưa ông ra xử công khai tại Hà Nội. Phan
Bội Châu được trắng án, nhưng bị giam lỏng ở Huế cho đến lúc qua đời.
- Không những là nhà yêu nước và cách mạng, Phan Bội Châu còn là nhà văn lớn. Tác phẩm chính
của ông : Việt Nam vong quốc sử (1905), Hải ngoại huyết thư (1906), Ngục trung thư (1914)…
- Thơ của Phan Bội Châu thể hiện khả năng tư duy nhạy bén và không ngừng đổi mới, tài năng sáng
tạo đa dạng, phong phú bằng những vần thơ sục sôi nhiệt huyết của mình.
2 – Bài thơ “Lưu biệt khi xuất dương”
Vào những năm đầu thế kỉ XX, đối với các nhà yêu nước Việt Nam, hướng về Nhật Bản cũng
có nghĩa là hướng về một chân trời mới đầy hi vọng và ước mơ. Năm 1905, trước lúc lên đường sang
Nhật Bản, ông làm bài thơ Lưu biệt khi xuất dương để từ giã bạn bè, đồng chí.
II – Văn bản:
A. LỜI GIỚI THIỆU
Có thể nói Phan Bội Châu là linh hồn của các phong trào vận động cách mạng chống thực dân
Pháp. Cuộc đời Phan Bội Châu hoàn toàn hi sinh cho công cuộc đấu tranh giải phóng dân tộc và
những thập niên đầu thế kỉ XX. Thơ văn ông là vũ khí tuyên truyền, vận động cách mạng sắc bén, là
những lời tâm huyết chứa chan lòng yêu nước.
Có thể thấy những điều nói trên qua bài thơ Lưu biệt khi xuất dương của ông (dẫn lại bài thơ và
nêu hoàn cảnh ra đời của bài thơ).


B. NỘI DUNG CHÍNH
Mở đầu bài thơ, nhân vật trữ tình trực tiếp thể hiện một lí tưởng sống, một khát vọng mang
tầm vóc lớn lao :
Làm trai phải lạ ở trên đời
Há để càn khôn tự chuyển dời.
Theo đó, là đấng nam nhi sinh ra ở đời thì phải làm được những việc “lạ”, tức là những việc lớn lao,
phi thường. Cụ thể, làm trai phải chủ động xoay chuyển trời đất, không để trời đất tự chuyển vần.
Thực ra, từ xa xưa, chí làm trai đã thường được nói đến trong văn học :
- Công danh nam tử còn vương nợ
Luống thẹn tai nghe chuyện Vũ hầu
(Tỏ lòng – Phạm Ngũ Lão)
- Đã mang tiếng ở trong trời đất
Phải có danh gì với núi sông.
(Đi thi tự vịnh – Nguyễn Công Trứ).
Tuy nhiên, quan niệm về chí làm trai của Phan Bội Châu vẫn có được những nét mới mẻ riêng. Đặt
trong hoàn cảnh ra đời của bài thơ, chí làm trai đó chính là chủ động tiến hành sự nghiệp cứu nước.
Đến hai câu thực, ý tưởng của nhân vật trữ tình được triển khai rõ hơn. Đó là ý thức trách
nhiệm cá nhân trước thời cuộc :
Trong khoảng trăm năm cần có tớ
Sau này muôn thuở, há không ai ?
Hai câu thơ bộc lộ ý thức sâu sắc về “cái tôi” cá nhân tích cực : Giữa khoảng trăm năm này cần phải
có ta chứ (cần có tớ), chẳng nhẽ ngàn năm sau (sau này) lại không có ai (để lại tên tuổi) ư ? Cái tôi này

Trang 1


Tài liệu ôn tập Ngữ văn 11
chẳng những khẳng định trách nhiệm đối với hiện tại, tức là đối với vận mệnh hôm nay của đất nước, mà còn
khẳng định nghĩa vụ đối với lịch sử muôn đời. Thật là tư thế của con người có chí khí lớn !
Tư thế ấy càng được khẳng định hiên ngang hơn nữa ở hai câu luận. Đó là thái độ quyết liệt

của “cái tôi” cá nhân trước tình đất nước và những tín điều xưa cũ :
Non sông đã chết, sống thêm nhục
Hiền thánh còn đâu, học cũng hoài.
Ở con người này, số phận gắn làm một với số phận đất nước, sống chết cùng non sông, vinh nhục
cùng Tổ quốc.
Ở đây, nhân vật trữ tình tuy nói về mình nhưng cũng là nói cho cả thế hệ, cả một dân tộc đang
chuyển mình theo một lí tưởng cứu nước mới, phù hợp với thời đại mới. Hiền thánh đã chết, kinh sử mất
thiêng, nhà thơ dứt khoát hướng thẳng về tương lai, đầy lạc quan tin tưởng.
Bài thơ kết thúc bằng hai câu tuyệt đẹp, đầy cảm hứng lãng mạn. Đó là khát vọng hành động
và tư thế buổi lên đường của kẻ “làm trai” :
Muốn vượt bể Đông theo cánh gió
Muôn trùng sóng bạc tiễn ra khơi.
Đúng là con đại bang cất cánh bay ra biển khơi, bay vào thời đại. Hình ảnh thơ, nếu hiểu đúng như
nguyên tác, còn lãng mạn và hào hùng hơn nữa : “Thiên trùng bạch lãng nhất tề phi”. Con người ở đây như
được chắp thêm đôi cánh thiên thần bay lên cùng gió mây. Với các hình ảnh : trường phong, Đông hải khứ,
Thiên trùng bạch lãng – nhất tề phi…càng làm nổi rõ khát vọng mãnh liệt và tư thế hiên ngang buổi lên
đường “xuất dương”.
C. KẾT LUẬN
Bằng giọng thơ tâm huyết có sức lay động mạnh mẽ, “Lưu biệt khi xuất dương” đã khắc hoạ vẻ đẹp
lãng mạn hào hùng của nhà chí sĩ cách mạng những năm đầu thế kỉ XX, với tư tưởng mới mẻ, táo bạo, bầu
nhiệt huyết sôi trào và khát vọng cháy bỏng trong buổi ra đi tìm đường cứu nước.

HẦU TRỜI
_Tản Đà_
I. Kiến thức cơ bản
1. Tác giả - tác phẩm
- Tản Đà: (1889-1939), tên thật Nguyễn Khắc Hiếu
- Quê hương: Tỉnh Sơn Tây (Nay thuộc tỉnh Hà Tây)
- Con người:
+ Sinh ra và Lớn lên trong buổi giao thời.

+ Là “người của hai thế kỷ” (Hoài Thanh)
+ Học chữ hán từ nhỏ nhưng về sau chuyển sang sáng tác văn chương bằng chữ quốc ngữ…
- Phong cách thơ:
+ Lãng mạn, bay bổng, vừa phóng khoáng, ngông nghênh, vừa cảm thương ưu ái.
+ Có thể xem thơ văn ông như một gạch nối giữa hai thời văn học của dân tộc: trung đại và hiện đại.
Các tác phẩm
- Thơ: Khối tình con người I, II (1916, 1918)
- Truyện: Giấc mộng con người I, II (1916, 1932)
- Tự truyện: Giấc mộng lớn (1928)
- Thơ và văn xuôi: Còn chơi (1921).
2. Văn bản “Hầu trời”
a) Xuất xứ
- Trong tập “Còn chơi” (1921)
- Bài thơ ra đời vào thời điểm khuynh hướng lãng mạn đã khá đậm nét trong văn chương thời đại. Xã
hội thực dân nửa phong kiến tù hãm, u uất, đầy rẫy những cảnh ngang trái, xót đau…
b) Bố cục: 3 phần:
- Phần 1: Giới thiệu về câu truyện, từ “đêm qua … lạ lùng”
- Phần 2: “chủ tiên … chợ trời” Thi nhân đọc thơ cho Trời và chư tiên nghe.
- Phần 3: “Trời lại phê cho… sương tuyết” thi nhân trò chuyện với trời.

Trang 2


Tài liệu ôn tập Ngữ văn 11
II. Nội dung cơ bản
1. Giới thiệu câu chuyện
Gợi khoảnh khắc yên tĩnh, vắng lặng."- Câu chuyện xảy ra vào “đêm qua” (câu 1)
- Câu chuyện kể về một giấc mơ được lên cõi tiên (câu 4).
- Nhân vật trữ tình là tác giả, đang mang tâm trạng “chẳng phải hoảng hốt, không mơ màng”
- Biện pháp nghệ thuật: nhấn mạnh tâm trạng cảm xúc của thi nhân.

+ Điệp từ ‘thật” Bộc lộ cảm xúc bàng hoàng.
+ Câu cảm thán dường như lật lại vấn đề: mơ và tỉnh, hư mà như thực.
+ Câu khẳng định
- Cách giới thiệu trên đã gợi cho người đọc về tứ thơ lãng mạn nhưng cảm xúc là có thực. Tác giả
muốn người đọc cảm nhận được cái “hồn cốt” trong cõi mộng, mộng mà như tỉnh, hư mà như thực.
=> Cảm nhận được “cái tôi” cá nhân đầy chất lãng mạn, bay bổng pha lẫn nét “ngông” trong thơ thi
nhân. Với cách vào chuyện độc đáo có duyên đã làm cho câu chuyện mà tác giả sắp kể trở nên hấp dẫn
lôi cuốn.
2. Thi nhân đọc thơ cho trời và chư tiên nghe
a) Thái độ của thi nhân khi đọc thơ và việc thi nhân nói về tác phẩm của mình:
- Thi nhân đọc rất cao hứng, sảng khoái và có phần tự đắc:
“ Đọc hết văn vần sang văn xuôi
Hết văn thuyết lý lại văn chơi”
- Thi nhân kể tường tận, chi tiết về các tác phẩm của mình:
“Hai quyển khối tình văn lý thuyết
Hai khối tình còn là văn chơi
Thần tiên, giấc mộng văn tiểu thuyết….”
- Giọng đọc: đa dạng, hóm hỉnh, ngông nghênh có phần tự đắc.
=> Đoạn thơ cho thấy thi nhân rất ý thức về tài năng văn thơ của mình và cũng là người táo bạo, dám
đường hoàng bộc lộ “cái tôi” cá thể. Ông cũng rất “ngông” khi tìm đến trời để khẳng định tài năng.
Đây là niềm khát khao chân thành trong tâm hồn thi sĩ.
b) Thái độ của người nghe: Rất ngưỡng mộ tài năng thơ văn của tác giả
- Thái độ của trời: khen rất nhiệt thành: văn thật tuyệt, văn trần được thế chắc có ít, văn chuốt như sao
băng…
- Thái độ của chư tiên: xúc động, hâm mộ và tán thưởng…Tâm nở dạ, cơ lè lưỡi…
=> Cả đoạn thơ mang đậm chất lãng mạn và thể hiện tư tưởng thoát li trước cuộc đời.
3. Thi nhân trò chuyện với trời
a) Thi nhân kể về hoàn cảnh của mình
- Thi nhân kể họ tên, quê quán:
“ Con tên Khắc Hiếu họ Nguyễn

Quê ở Á châu về địa cầu
Sông Đà núi Tản nước Việt Nam”
- Trong văn chương việc thể hiện họ tên trong tác phẩm chính là một cách để khẳng định cái tôi cá
nhân của mình.
- Thi nhân kể về cuộc sống: Đó là một cuộc sống nghèo khó, túng thiếu, thân phận nhà văn bị rẻ rúng,
coi thường. Ở trần gian ông không tìm được tri âm, nên phải lên tận cỏi trời để thỏa nguyện nỗi lòng.
“Bẩm trời hoàn cảnh con thực nghèo khó”
“Trần gian thước đất cũng không có”
“Văn chương hạ giới rẻ như bèo”
“Làm mãi quanh năm chẳng đủ tiêu”
Đó cũng chính là hiện thực cuộc sống của người nghệ sĩ trong xã hội lúc bấy giờ, một cuộc sống cơ
cực không tấc đất cắm dùi, thân phận bị rẻ rúng, làm chẳng đủ ăn.
=> Qua đoạn thơ tác giả đã cho người đọc thấy một bức tranh chân thực và cảm động về chính cuộc
đời mình và cuộc đời nhiều nhà văn nhà thơ khác.
=> Cảm hứng hiện thực bao trùm cả đoạn thơ này.
b) Trách nhiệm và khát vọng của thi nhân

Trang 3


Tài liệu ôn tập Ngữ văn 11
- Nhiệm vụ trời giao: Truyền bá thiên lương. Nhiệm vụ trên chứng tỏ Tản Đà lãng mạn chứ không
hoàn toàn thoát ly cuộc sống. Ông vẫn ý thức về nghĩa vụ, trách nhiệm đối với đời để đem lại cuộc
sống ấm no hạnh phúc hơn. Đó cũng là một cách tự khẳng định mình trước thời cuộc.
- Thi nhân khát khao được gánh vác việc đời
=> Như vậy có thể nói trong thơ Tản đà cảm hứng lãng mạn và cảm hứng hiện thực đan xen khăng
khít.
III. Tổng kết
1. Nội dung
- Bài thơ thể hiện cái tôi cá nhân ngông nghênh, kiêu bạc, hào hoa và cái tôi cô đơn, bế tắc trước thời

cuộc.
- Có thể thấy nhà thơ đã tìm được hướng đi đúng đắn để khẳng định mình.
2. Nghệ thuật
- Cách kể chuyện hóm hỉnh, có duyên, lôi cuốn người đọc.
- Ngôn ngữ thơ chọn lọc, tinh tế, gợi cảm, không cách điệu, ước lệ.
- Tác giả vừa là người kể chuyện vừa là nhân vật chính.
- Cảm xúc bộc lộ thoải mái, tự nhiên, phóng túng.
- Thể thơ thất ngôn trường thiên khá tự do…

VỘI VÀNG
_Xuân Diệu_
I – Tiểu dẫn:
1 – Nhà thơ Xuân Diệu
- Xuân Diệu (1916 – 1985), tên khai sinh là Ngô Xuân Diệu, quê nội ở Hà Tĩnh, lớn lên ở quê mẹ (Bình
Định – Quy Nhơn). Sau Cách mạng Tháng Tám, ông hăng hái tham gia các hoạt động xã hội với tư cách một
nhà viết văn chuyên nghiệp : đại biểu Quốc hội khoá I, Uỷ viên Ban chấp hành Hội Nhà văn Việt Nam các
khoá I, II, III ; Viện sĩ thông tấn Viện hàn lâm nghệ thuật Cộng hoà dân chủ Đức.
- Năm 1996, Xuân Diệu được tặng Giải thưởng Hồ Chí Minh về văn học nghệ thuật.
- Các sáng tác tiêu biểu :
+ Các tập thơ như : Thơ thơ, Gửi hương cho gió… ;
+ Các tập văn xuôi : Phấn thông vàng, Trường ca … ;
+ Các tập tiểu luận phê bình : Các nhà thơ cổ điển Việt Nam, Công việc làm thơ…
- Về phong cách :
+ Xuân Diệu là nhà thơ “mới nhất trong các nhà thơ mới” (Hoài Thanh) đã đem đến cho thơ ca đương thời
một sức sống mới, một nguồn cảm xúc mới, thể hiện một quan niệm sống mới mẻ cùng với những cách tân
nghệ thuật đầy sáng tạo.
+ Ông là nhà thơ của tình yêu, của mùa xuân và tuổi trẻ với một giọng thơ sôi nổi, đắm say, yêu đời thắm
thiết.
+ Từ sau Cách mạng, thơ Xuân Diệu hướng mạnh vào thực tế đời sống và rất giàu tính thời sự.
2 – Bài thơ Vội vàng :Vội vàng được in trong tập Thơ thơ (1938), là một trong những bài thơ tiêu biểu nhất

của Xuân Diệu trước Cách mạng tháng Tám.
II – Văn bản:
A. LỜI GIỚI THIỆU
Xuân Diệu nổi tiếng trong làng Thơ mới thời kì 1930 – 1945. Thi sĩ đã đem đến cho thơ ca Việt Nam
một hơi thở mới, luôn trẻ trung, nồng nàn, rạo rực của một trái tim sôi nổi, đa tình. Trong cuốn Thi nhân Việt
Nam, Hoài Thanh đã viết : “Thơ Xuân Diệu… là một nguồn sống rào rạt chưa từng thấy ở chốn non nước
lặng lẽ này. Xuân Diệu say đắm tình yêu, say đắm cảnh trời, sống vội vàng cuống quýt, muốn tận hưởng
cuộc đời ngắn ngủi của mình. Khi vui cũng như khi buồn, người đều nồng nàn, tha thiết”.
Bài thơ Vội vàng được rút trong tập Thơ thơ (1938), đây là một trong những bài thơ thể hiện rõ nhất
phong cách nồng nàn, tha thiết của Xuân Diệu.
Một trong những nét tiêu biểu đó có thể kể đến là …
B. NỘI DUNG CHÍNH

Trang 4


Tài liệu ôn tập Ngữ văn 11
1 – Đoạn thơ 1 (13 dòng đầu) – Tình yêu thiết tha của thi sĩ với thiên đường nơi trần thế
Mở đầu bài thơ (đoạn thơ), Xuân Diệu đã thể hiện khát vọng muốn giữ lại mãi cái thế giới tươi
đẹp muôn màu :
Tôi muốn tắt nắng đi
Cho màu đừng nhạt mất
Tôi muốn buộc gió lại
Cho hương đừng bay đi.
Đó là một khát vọng muốn “vĩnh cửu hoá” cái đẹp, để cho thi sĩ tôn thờ, thưởng thức. Ước muốn ấy
táo bạo, muốn đoạt quyền của tạo hoá, muốn ngự trị cả thiên nhiên. Tất cả đều xuất phát từ tình yêu cuộc
sống say mê của hồn thơ nồng nàn, tha thiết.
Bằng lối điệp ngữ, điệp cấu trúc câu “Tôi muốn … cho …”, nhà thơ đã diễn tả ý tưởng mạnh mẽ đó
một cách đầy chất thơ.
Sở dĩ có khát vọng ngược với quy luật tự nhiên đó, bởi lẽ, dưới con mắt “xanh non biếc rờn”

của thi sĩ, mùa xuân đầy sức hấp dẫn, đầy sức quyến rũ :
Của ong bướm này đây tuần tháng mật
……
Của yến anh này đây khúc tình si…
Bức tranh cuộc sống hiện ra có đủ cả hương vị, màu sắc và cả âm thanh, rất sinh động. Đó là những
hình ảnh hết sức “cám dỗ”, tạo vật như căng đầy nhựa sống và hiện ra trong thế có đôi có cặp rất hữu tình :
tuần tháng mật của các loài ong bướm, “hoa của đồng nội xanh rì”, “lá của cành tơ”, khúc nhạc tình si mê
của các đôi oanh yến.
Điệp ngữ “này đây” được lặp lại bốn lần kết hợp với thủ pháp liệt kê tăng tiến, nhịp thơ gấp gáp…
cho thấy cảnh đẹp như bày sẵn ra trước mắt, rất cụ thể, rõ ràng đồng thời bộc lộ niềm sung sướng đến ngất
ngây của thi sĩ trước cảnh sắc ấy.
Cũng như trong nhiều bài thơ khác, cảnh vật trong Vội vàng được phát hiện với tất cả niềm háo
hức mê say, tất cả sự ngỡ ngàng. Vì tất cả đều trở nên mới lạ trong đôi mắt của thi sĩ đa tình, ham
sống :
Và này đây ánh sáng chớp hàng mi
Mỗi buổi sớm thần Vui hằng gõ cửa
Tháng giêng ngon ngư một cặp môi gần.
Với thi sĩ đa tài, đa tình này thì nguồn ánh sáng của mỗi buổi bình minh như phát ra từ đôi mắt xinh
đẹp của người thiếu nữ, mỗi lần nàng chớp hàng mi.
Tuy vậy, trong bài thơ Vội vàng, gây ấn tượng mới mẻ nhất chính là câu :
Tháng giêng ngon như một cặp môi gần
Nhà thơ đã so sánh khái niệm thời gian “tháng giêng”, một hình ảnh vô hình với một hình ảnh cụ thể
“cặp môi” và truyền cho người đọc một cảm giác thật cụ thể “ngon”, “gần”. Cách so sánh rất lạ ! Rất độc
đáo ! Rất Xuân Diệu !
Sau cái phút giây ngất ngây, sung sướng cùng cảnh sắc thiên nhiên ấy, nhà thơ chợt tỉnh lại
được và tự ý thức được về thời gian :
Tôi sung sướng. Nhưng vội vàng một nửa
Tôi không chờ nắng hạ mới hoài xuân.
Mùa xuân đẹp làm cho thi sĩ “sung sướng” nhưng rồi ý thức được thời gian (qua đi nhanh) khiến thi sĩ
phải “vội vàng”, phải hưởng thụ mùa xuân ngay lúc mùa xuân vừa đến, còn tươi non để sau này khi mùa

xuân đã qua, mùa hạ đến không phải nuối tiếc, ân hận.
Tóm lại, đoạn thơ trên đã thể hiện một tình yêu thiết tha của thi sĩ Xuân Diệu với “thiên đường nơi
trần thế”, đồng thời đã bộc lộ một phong cách thơ rất mới mẻ và táo bạo.
2 – Đoạn thơ 2 (dòng 14 đến 29) – Cảm nhận mới mẻ của Xuân Diệu về thời gian
Đúng như ở đoạn trước thi nhân đã tâm sự : “Tôi sung sướng. Nhưng vội vàng một nửa”. Dấu chấm
khéo đặt giữa câu thơ này khiến ta hình dung bước chân của chàng trai tơ Xuân Diệu như bất chợt khựng lại
giữa khu vườn ngập tràn xuân sắc. Đó là vì, thi sĩ đã nhận ra quy luật : cuộc đời thì ngắn ngủi, trong khi
đó thời gian thì cứ qua đi không trở lại :
Xuân đương tới nghĩa là xuân đương qua
……
Nên bâng khuâng tôi tiếc cả đất trời.

Trang 5


Tài liệu ôn tập Ngữ văn 11
Thật vậy, trong con mắt của Xuân Diệu, chỉ có thời gian tuyến tính, một kiểu thời gian “một đi không
trở lại”. Xuân : tới – qua, non – già, hết. Còn Tôi (đời người) : cũng mất, tuổi trẻ chẳng hai lần thắm lại,
chẳng còn tôi mãi. Bởi vậy, giữa cái non tơ mơn mởn, ông lại thấy được sự hấp hối, lụi tàn… cho nên ông
đột nhiên thốt lên : “Nên bâng khuâng tôi tiếc cả đất trời”.
Điểm mới mẻ trong cách thể hiện là nhà thơ đã tạo ra giọng “tranh luận” và nêu lên những “luận lí
của trái tim” bằng một loạt các phụ từ quan hệ “nghĩa là – nếu – nên để bảo vệ quan điểm của mình. Hơn
nữa, điệp ngữ “nghĩa là…” không chỉ bộc lộ ý nghĩa giải thích, định nghĩa cho sự thật hiển nhiên không thể
phủ nhận mà còn thể hiện nỗi lo lắng hốt hoảng của thi nhân. Những từ ngữ, cách diễn đạt đối lập mạnh mẽ :
non >< già, rộng >< chật, còn >< chẳng còn… đã cho thấy cái hữu hạn của đời người và liền đó là nỗi day
dứt, nuối tiếc của thi nhân.
Từ sự nhận thức thời gian trôi chảy và lấy tuổi trẻ, khoảng ngắn ngủi nhất của cuộc đời, để đo
đếm thời gian đã dẫn đến những cảm nhận tinh tế về thời gian của nhà thơ :
Mùi tháng năm đều rớm vị chia phôi
……

Chẳng bao giờ, ôi ! Chẳng bao giờ nữa.
Như Triết gia nói “Không ai tắm hai lần trên một dòng sông”, thi sĩ cảm thấy thời gian như ngọn gió,
bay nhanh, lướt qua tất cả. Lúc tạo vật ở độ căng mọng, sung mãn cũng là lúc nó đối diện với sự ám ảnh của
sự tàn phai, huỷ diệt của ngọn ngọn gió thời gian ấy. Cho nên, trong cảm nhận của nhà thơ, thời gian có
“mùi”, có “vị chia phôi”. Tất cả đều bất ngờ, hẫng hụt, tiếc nuối, thảng thốt đến độ nhà thơ đã cất lên :
Chẳng bao giờ, ôi ! Chẳng bao giờ nữa.
Tóm lại, đoạn thơ trên đã thể hiện những cảm nhận mới mẻ và tinh tế của Xuân Diệu về bước đi
của thời gian, của tuổi xuân. Tiếc xuân, tiếc thời xuân cũng là tiếc sự sống, tiếc cuộc sống của mình. Đây
cũng là một biểu hiện của lòng ham sống, lòng yêu đời của nhà thơ.
3 – Đoạn thơ 3 (còn lại) – Lời giục giã sống vội vàng, cuống quýt của thi sĩ
Đoạn thơ cuối này chính là lời giải đáp cho những băn khoăn, những thắc mắc, và trả lời cho câu hỏi :
Sống vội vàng là như thế nào ? Phong cách sống “vội vàng” ở đây cũng chính là “hệ quả” của những cảm
thức về thời gian từ những đoạn thơ trước của nhà thơ.
Không thể “buộc gió”, không thể “tắt nắng”, cũng không thể cầm giữ được thời gian nên với nhà thơ,
cách “chiến thắng” bước đi của thời gian là bằng cường độ sống, khát vọng sống mãnh liệt, là phải
chạy đua với thời gian :
Mau đi thôi ! Mùa chưa ngả chiều hôm…
Với Xuân Diệu, chạy đua với thời gian là để tận hưởng. Vì thế ông mới vội vàng giục giã mọi người
hãy tận hưởng hết tất cả những vẻ đẹp của thiên nhiên, trời đất, cỏ cây, hoa lá và nhất là của con người.
Và đây, lòng ham sống và phong thái vội vàng ấy của thi nhân đã dâng trào lên thành khát
vọng :
Ta muốn ôm
……
- Hỡi xuân hồng, ta muốn cắn vào ngươi !
Đó là khát vọng tận hiến và tận hưởng cuộc sống bằng tất cả các hành động, bằng tất cả các giác quan,
sống mãnh liệt như ngọn lửa thổi bùng bùng. Nhà thơ muốn ôm, muốn riết, muốn thâu cả đất trời, cỏ cây,
hoa lá vào trong tay bé nhỏ của mình. Hơn thế nữa, còn “muốn cắn” vào sự sống mơn mởn xanh tươi của
xuân hồng đầy sức sống. Qua đó, ta còn thấy nỗi sung sướng và choáng ngợp của thi nhân trước mùa xuân
“mơn mởn” trước “thanh sắc của thời tươi”.
Ở đây, từ lối vắt câu (Ta muốn ôm) đến nghệ thuật dùng điệp ngữ (Ta muốn… ; Cho…), từ việc sử

dụng nhiều hình ảnh táo bạo… đều đã góp phần thể hiện đậm nét niềm ham sống đến cuồng nhiệt mê say
của tác giả. Đặc biệt, hàng loạt các động từ có ý nghĩa “mạnh” đã có sức lôi kéo độc giả rất mãnh liệt :
“muốn ôm”, “muốn riết”, “muốn thâu”… Rồi hàng loạt các tính từ mạnh : “chếnh choáng, đã đầy, no
nê…” và cuối cùng là động từ “cắn”… đều đã bộc lộ rõ nhất cái khao khát mãnh liệt của nhà thơ muốn được
sống hết mình, yêu hết mình, hưởng thụ hết mình cái ý nghĩa đẹp đẽ của cuộc sống.
Có lẽ, trong đoạn thơ này hình ảnh độc đáo nhất là cách nói : “Hỡi xuân hồng, ta muốn cắn vào
ngươi” ! Chưa bao giờ ta thấy “lạ” và Tây đến thế. Đây là hình ảnh không những đã tạo nên sự tương xứng
liên kết trong toàn bài thơ mà còn góp phần tạo nên bất ngờ, lột tả hết trạng thái “vội vàng” đến cuống quýt,
vồ vập và cuồng nhiệt.

Trang 6


Tài liệu ôn tập Ngữ văn 11
Tóm lại, đoạn thơ trên đã thể hiện Xuân Diệu không chỉ sống hay ham sống, mà ông còn say mê,
cuồng nhiệt, giục giã, vội vàng, gấp gáp để sống.
C. KẾT LUẬN
Vội vàng là lời giục giã hãy sống mãnh liệt, sống hết mình, hãy quý trọng từng giây, từng phút của
cuộc đời mình, nhất là những tháng năm tuổi trẻ của một hồn thơ yêu đời, ham sống đến cuồng nhiệt. Tư
tưởng đó được thể hiện qua một hình thức nghệ thuật điêu luyện : sự kết hợp nhuần nhị giữa mạch cảm xúc
và mạch luận lí, giọng điệu say mê, sôi nổi, những sáng tạo độc đáo về ngôn từ và hình ảnh thơ.

TRÀNG GIANG

_Huy Cận_
I – TIỂU DẪN
1 – Nhà thơ Huy Cận
- Huy Cận (1919 – 2005) tên khai sinh là Cù Huy Cận, quê ở huyện Hương Sơn, Hà Tĩnh. Thuở nhỏ ông
học ở quê, sau đó vào Huế học hết trung học. Năm 1939, ông ra Hà Nội học Trường Cao đẳng Canh nông.
- Từ năm 1942, ông tích cực tham gia hoạt động trong Mặt trận Việt Minh, rồi tham gia Quốc dân đại hội

Tân trào. Sau Cách mạng tháng Tám, ông tham gia hoạt động chính quyền cách mạng, giữ nhiều trọng trách
khác nhau : Thứ trưởng Bộ Văn hoá, Bộ trưởng đặc trách công tác Văn hoá – Nghệ thuật tại Văn phòng Hội
đồng Bộ trưởng,…
- Ông là một trong những tác giả xuất sắc của phong trào Thơ mới. Năm 1996, ông được Nhà nước tặng
Giải thưởng Hồ Chí Minh về văn học nghệ thuật.
- Các tác phẩm chính :
+ Trước Cách mạng : Lửa thiêng (tập thơ, 1937 – 1940), Kinh cầu tự (văn xuôi, 1942)…
+ Sau Cách mạng : các tập thơ Trời mỗi ngày lại sáng (1958), Đất nở hoa (1960)…
- Thơ Huy Cận hàm súc, giàu chất suy tưởng, triết lí.
2 – Bài thơ Tràng giang: Tràng giang là một trong những bài thơ hay nhất, tiêu biểu nhất của Huy Cận.
Theo tác giả, bài thơ này được viết vào mùa thu năm 1939 (in trong tập Lửa thiêng) và cảm xúc được khơi
gợi chủ yếu từ cảnh sông Hồng mênh mang sông nước.
3 – Nhan đề và lời đề từ
a). Nhan đề
- Tràng (trường) : dài ; giang : sông. Tràng giang (trường giang) : sông dài.
- Tràng giang còn gợi hình ảnh con sông rộng (do âm vang của việc láy vần “ang”). Trường giang chỉ là
“sông dài”.
- Tràng giang là cách diễn đạt mới trong khi Trường giang dễ bị nhầm lẫn với tên một con sông ở Trung
Quốc và trong thơ Đường.
b). Lời đề từ “Bâng khuâng trời rộng nhớ sông dài”
- “Trời rộng”, “sông dài” mang nghĩa khái quát về không gian nghệ thuật của bài thơ. Đó là một khung cảnh
sông nước mênh mông, vô biên.
- “Bâng khuâng”, “nhớ” khái quát lên tâm trạng buồn, cô đơn bởi sự xa cách, chia li giữa “trời” và “sông”.
 Câu đề từ đã khái quát được nội dung tư tưởng của cả bài thơ, vừa thâu tóm cảm xúc chủ đạo vừa gợi ra
nét nhạc chủ âm cho cả bài thơ.
II – VĂN BẢN
A. LỜI GIỚI THIỆU
Bài thơ Tràng giang (in trong tập thơ Lửa thiêng) là một tuyệt tác của nhà thơ Huy Cận nói riêng và
của phong trào Thơ mới (1932 – 1945) nói chung. Đây là một bài thơ với xúc cảm vũ trụ không những chan
chứa một nỗi buồn mênh mông xa vắng mà còn thấm đượm một tình yêu quê hương đất nước lắng sâu. Nói

theo Xuân Diệu “Tràng giang là một bài thơ ca hát non sông đất nước do đó dọn đường cho lòng yêu giang
sơn Tổ quốc”.
Có thể thấy rõ những điều nói trên qua (khổ thơ thứ … của Tràng giang) …
B. NỘI DUNG CHÍNH
Tràng giang là bài thơ được sông Hồng gợi tứ. Trước Cách mạng, nhà thơ thường có thú vui vào
chiều chủ nhật hàng tuần đi lên vùng Chèm, Vẽ để ngoạn cảnh Hồ Tây và sông Hồng. Phong cảnh sông
nước đẹp gợi cho nhà thơ nhiều cảm xúc. Tuy nhiên bài thơ không chỉ do sông Hồng gợi cảm mà còn mang

Trang 7


Tài liệu ôn tập Ngữ văn 11
cảm xúc chung về những dòng sông khác của quê hương. Tràng giang là một bài thơ tình và tình gặp cảnh,
một bài thơ về tâm hồn…
1 – Khổ thơ một
Nhìn dòng sông lớn gợn những lớp sóng, nhà thơ cảm thấy nỗi buồn của mình cũng đang trải ra
như những lớp sóng :
Sóng gợn tràng giang buồn điệp điệp
Con thuyền xuôi mái nước song song
Thuyền và nước vốn là hai khái niệm gần gũi nhưng rồi không phải bao giờ cũng gắn bó. Thuyền gợi
lên một cái gì nổi nênh như kiếp người trong cuộc đời cũ. Nhất là ở đây, con thuyền lênh đênh thả mái xuôi
dòng và như có một nỗi buồn chia li, xa cách đang đón đợi. Từng đợt sóng “gợn” nhẹ cứ kéo dài vô tận làm
nỗi buồn của con người càng thấm sâu, da diết khó tả. “Buồn điệp điệp” đã diễn tả nỗi buồn lớp lớp, buồn
tầng tầng, buồn không nguôi của nhà thơ.
Hai dòng thơ có ý nghĩa sâu xa về bóng dáng con người trong dòng đời. Bởi sông là đời, thuyền là
người, sóng “điệp điệp” là nỗi buồn đeo mang của thân phận kiếp người.
Trên dòng sông ấy, bao nhiêu ngả nước là bấy nhiêu ngả sầu và cảnh tượng “một cành khô” lạc
mấy dòng càng nhấn mạnh nỗi lạc loài của kiếp người trong xã hội cũ :
Thuyền về nước lại sầu trăm ngả ;
Củi một cành khô lạc mấy dòng.

Như trên đã phân tích, thuyền và nước ở đây không hề gặp nhau, gần nhau mà giữa “trăm ngả” cuộc
đời thuyền về một nơi, nước lại đi một ngả. Sự lạc lối không cùng hướng này đã gợi lên trong thi nhân một
nỗi “sầu” bơ vơ, cô đơn ngay giữa cuộc đời.
Hình ảnh một cành củi khô đơn lẻ trôi bồng bềnh, trên dòng sông mênh mông sóng nước gợi lên nỗi
buồn về kiếp người nhỏ bé, vô định. Nó là biểu tượng cho tâm trạng của con người, nhất là của giới thanh
niên tiểu tư sản thời ấy.
Ở khổ thơ đầu, nghệ thuật đối của thơ Đường đã được vận dụng hết sức linh hoạt đã khiến cho
bài thơ một mặt vẫn phát huy được thế mạnh của loại thơ cổ, mặt khác nó làm cho giọng điệu của bài thơ
uyển chuyển, linh hoạt, tránh được sự khuôn sáo, cứng nhắc dễ thấy đối với một số bài thơ Đường luật hồi
đầu thế kỉ XX. Bên cạnh đó, cách dùng từ láy như “điệp điệp”, “song song” cũng gợi âm hưởng cổ kính,
trang trọng. Tuy nhiên, Tràng giang vẫn là một bài thơ hiện đại, ở đoạn thơ này có thể thấy ở hình ảnh,
thi liệu và cảm xúc :
Thuyền về nước lại sầu trăm ngả ;
Củi một cành khô lạc mấy dòng.
Thơ xưa thường nói đến những hình ảnh cao sang mà giới “tao nhân, mặc khách” thường ưa thích như
trăng hoa, tuyết nguyệt… Đến thời kì thơ mới, những hình ảnh “bình dân” như “củi một cành khô”, “con
nai vàng ngơ ngác”, con hổ “gậm một mối căm hờn trong cũi sắt”… như là chỉ dấu về một “cuộc cách
mạng trong thơ” (Hoài Thanh).
Tóm lại, khổ thơ đầu là nỗi buồn mênh mang trong lòng thi nhân được gợi lên từ không gian “tràng
giang”. Cái hay ở khổ thơ là nghệ thuật thường thấy của Đường thi, nhưng cũng rất mới mẻ của phong trào
Thơ mới.
2 – Khổ thơ hai
Từ dòng sông, sóng gợn, con thuyền xuôi mái và cành củi khô bập bềnh trôi dạt trên sóng… ở khổ thơ
một, Huy Cận nói đến cảnh tràng giang một buổi chiều mênh mông, vắng vẻ. Và, nỗi buồn càng như
thấm sâu vào cảnh vật.
Trước hết, có thể thấy cảnh tràng giang mênh mông, vắng vẻ ở hai câu thơ đầu :
Lơ thơ cồn nhỏ gió đìu hiu,
Đâu tiếng làng xa vãn chợ chiều.
Hai câu thơ chứa đựng những nét chấm phá về các bãi cồn trên dòng sông. Không gian hầu như vắng
lặng, cảnh vật nhuốm vẻ đìu hiu, tàn tạ… Thật không gì vui bằng lúc chợ đông và buồn bằng khi chợ chiều

tan tác, không có tiếng người thì cảnh vật hoang vắng và xa lạ. Cảnh vật vắng vẻ đã khiến cho thi nhân càng
buồn sầu, cô đơn, khát khao được nghe những tiếng vọng thân thiết của cuộc đời.
Các từ láy “lơ thơ” và “đìu hiu” được dùng rất đắt, vừa có giá trị tạo hình, vừa giàu khả năng biểu đạt
tâm trạng. Theo Huy Cận, từ “đìu hiu” ông học được trong bản dịch Chinh phụ ngâm :
Non kì quạnh quẽ trăng treo
Bến Phì gió thổi đìu hiu mấy gò.

Trang 8


Tài liệu ôn tập Ngữ văn 11
Trong câu thơ thứ hai, sự xuất hiện của “tiếng làng xa vãn chợ chiều” chỉ làm cảnh buồn hơn, bởi đây
là “âm thanh” vọng lên từ tâm tưởng, từ niềm khao khát của nhà thơ.
Tiếp theo là cảnh tràng giang mênh mông, vắng vẻ ở hai câu thơ sau :
Nắng xuống, trời lên sâu chót vót ;
Sông dài, trời rộng, bến cô liêu.
Hai câu thơ mở rộng không gian miêu tả ra nhiều chiều với hình ảnh của trời lên – cao, sông dài – dài,
trời rộng – rộng... Theo hướng mở rộng đó của không gian, nỗi sầu của thi nhân như cũng được toả lan ra
đến vô cùng.
Hình thức đối của cổ thi được sử dụng khá linh hoạt trong hai câu thơ, tạo nên sự hài hoà về hình ảnh
và nhịp điệu. Cùng với việc vẽ ra những chuyển động ngược hướng (nắng xuống, trời lên) ở câu ba, tác giả
đã dùng dấu phẩy ngắt câu thơ thứ tư thành ba phần, biểu thị ba hình ảnh độc lập : sông dài, trời rộng, bến
cô liêu. Nhờ lối diễn tả này, tính chất phân li của cuộc đời được tô đậm thêm.
Đặc biệt, cách kết hợp từ trong câu ba cũng thật độc đáo. Khi viết “sâu chót vót”, tác giả không chỉ
muốn diễn tả độ cao của bầu trời mà còn muốn biểu hiện cảm giác chới với, rợn ngợp của con người khi đối
diện với cái hun hút, thăm thẳm của vũ trụ.
Tóm lại, không âm thanh của cuộc sống, không sự vật của con người, không biểu tượng của gia đình,
quê hương… không có gì cả ! Một thi nhân mất nước chưa tìm được hướng đi cho mình, lại mẫn cảm trước
thiên nhiên và cuộc đời, làm sao không có nỗi buồn như thế được ?
3 – Khổ thơ ba

Đỉnh điểm của sự cô đơn của thi nhân trong Tràng giang tập trung vào khổ thơ thứ ba này. Với
hàng loạt từ phủ định, làm mất hoàn toàn những tín hiệu cuộc sống, con người vì thế trở nên bơ vơ
đến đáng thương :
Bèo dạt về đâu hàng nối hàng
……
Lặng lẽ bờ xanh tiếp bãi vàng.
Trong không gian buồn, xa vắng, ai cũng muốn tìm đến những dấu vết gần gũi của sự sống, của cuộc
đời. Nhưng cuộc sống ở đây như đứt đoạn chia lìa, dòng sông mênh mông kia không có dù là một chuyến
đò, không có lấy một chiếc cầu để nối kết con người với con người :
Mênh mông không một chuyến đò ngang
Không cầu gợi chút niềm thân mật.
Cuộc sống hiện lên với những hình ảnh trơ trọi, quạnh hiu của bờ bãi, của cánh bèo dạt trôi. Bóng
dáng con người dường như biến mất trong cái không gian của ngút ngàn hoang vắng : “Bèo dạt về đâu hàng
nối hàng … Lặng lẽ bờ xanh tiếp bãi vàng”.
Những câu thơ làm ta nhớ đến tiếng gọi đò da diết trong “Bến Mi Lăng” của một nhà thơ cùng thời :
Tiếng gọi đò, gọi đò như oán trách
Gọi đò thôi run rẩy cả ngành trăng
(Yến Lan)
Tóm lại, cả bốn câu thơ đều buồn, mỗi câu mang một nỗi buồn riêng. Cảnh vật có đổi thay (so với
những khổ thơ trên) nhưng cùng một dáng vẻ, tất cả đều trôi nổi, mông lung, vô định. Không có những dấu
vết của con người. Vì vậy, thi nhân vẫn buồn !
4 – Khổ thơ bốn
Khổ thơ tuy chỉ có bốn dòng nhưng đã khái quát tấm lòng, tình cảm, tư tưởng của nhà thơ cũng như
bút pháp nghệ thuật của ông.
Hai câu thơ đầu trong khổ thơ cuối khắc hoạ lại cảnh tượng rực rỡ, kì vĩ khi mặt trời xuống
thấp, hắt ánh sáng lên các lớp mây cao cuồn cuộn đùn ra như những núi bạc:
Lớp lớp mây cao đùn núi bạc
Chim nghiêng cánh nhỏ : bóng chiều sa
Tác giả rất thích chữ “đùn”, tả mây như có sức đẩy ở bên trong, cứ trồi ra hết lớp này đến lớp khác.
Theo tác giả, câu thơ đầu ông học được chữ “đùn” trong bài dịch thơ Đỗ Phủ :

Lưng trời sóng gợn lòng sông thẳm
Mặt đất mây đùn cửa ải xa.
(Thu hứng)
Còn ở câu thơ thứ hai, ba chữ “bóng chiều sa” in lên núi bạc đùn lên, còn dáng chim nghiêng cánh
nhỏ tương phản với “lớp lớp”, “núi bạc”, càng trở nên nhỏ nhoi, cô độc.

Trang 9


Tài liệu ôn tập Ngữ văn 11
Hai câu thơ sau của khổ thơ cuối là nỗi khát khao của con người tìm về quê nhà :
Lòng quê dợn dợn vời con nước
Không khói hoàng hôn cũng nhớ nhà
Lòng quê, có người hiểu là lòng riêng, tấm lòng mộc mạc, nhưng cũng nhiều người hiểu là lòng nhớ
quê hương. Thực vậy, “dợn” là hình ảnh mặt nước chuyển động nhỏ, lên xuống rất nhẹ khi bị xao động. Ở
câu thơ này, lòng nhớ quê hương bỗng “dợn” lên như sóng tâm hồn, khi phóng tầm mắt nhìn xa con nước
mênh mông, nhưng không phải chỉ “dợn” lên một lần rồi thôi, mà là “dợn dợn” nghĩa là xao động liên tục.
Lòng nhớ quê hương cứ xao động trong tâm hồn trước cảnh sông nước hoang vắng đìu hiu, trống trải
khiến nhà thơ phải bộc bạch : Không khói hoàng hôn cũng nhớ nhà.
Âm hưởng thơ Đường triền miên trong khổ thơ cuối, như niềm lưu luyến nhớ quê của Thôi Hiệu
trong bài Hoàng Hạc lâu :
Quê hương khuất bóng hoàng hôn
Trên sông khói sóng cho buồn lòng ai.
(Tản Đà dịch).
Nhà thơ đời Đường có “khói sóng” trên sông mới gợi niềm thương nhớ quê nhà, còn Huy Cận thì
chẳng cần ngoại cảnh mà vẫn đủ khơi dòng nhớ mong. Lúc này, cái buồn đã tương đối thành hình, không chỉ
còn là cảm giác sầu mênh mông vời vợi do xúc cảnh sinh tình khi ngắm nước trường giang. Vì lúc bấy giờ,
nhà thơ buồn hơn Thôi Hiệu.
Tóm lại, khổ thơ cuối đã mở ra những tình cảm đẹp của nhà thơ và gây ấn tượng sâu sắc cho người
đọc. Lời thơ mãi mãi thức tỉnh lòng hướng về quê hương và tình người ấm áp của mỗi chúng ta.

C. KẾT LUẬN
Tràng giang là một thi phẩm độc đáo của Huy Cận, vừa mang vẻ đẹp cổ điển vừa mang vẻ đẹp của
thơ mới. Qua bài thơ, Huy Cận đã bộc lộ nỗi sầu của một cái tôi cô đơn trước thiên nhiên rộng lớn, trong đó
thấm đượm tình người, tình đời, lòng yêu nước thầm kín mà thiết tha.

ĐÂY THÔN VĨ DẠ
_Hàn Mặc Tử_
I – TIỂU DẪN
1 – Nhà thơ Hàn Mặc Tử
- Hàn Mặc Tử (1912 – 1940) tên khai sinh là Nguyễn Trọng Trí, sinh ở làng Lê Mĩ, tổng Võ Xá, huyện
Phong Lộc, tỉnh Đồng Hới (nay là tỉnh Quảng Bình) trong một gia đình viên chức nghèo theo đạo Thiên
chúa.
- Cha mất sớm, ông sống cùng mẹ ở Quy Nhơn và có hai năm học trung học tại Huế. Sau đó ông làm công
chức ở Bình Định rồi vào Sài Gòn làm báo. Năm 1936, Hàn Mặc Tử mắc bệnh phong và về Quy Nhơn chữa
bệnh. Ông mất tại trại phong Quy Hoà.
- Hàn Mặc Tử làm thơ từ năm 14, 15 tuổi với các bút danh : Phong Trần, Lệ Thanh…; bắt đầu bằng thơ cổ
điển Đường luật, sau chuyển sang thơ mới lãng mạn. Thơ Hàn Mặc Tử thể hiện một tình yêu đến đau đớn
hướng về cuộc đời trần thế.
- Tác phẩm tiêu biểu : Gái quê (1936), Thơ Điên (1938), Xuân như ý…
2 – Bài thơ Đây thôn Vĩ Dạ
- Đây thôn Vĩ Dạ (lúc đầu có tên Ở đây thôn Vĩ Dạ) sáng tác năm 1938, in trong tập Thơ Điên (về sau đổi
thành Đau thương).
- Theo một số tài liệu, bài thơ được gợi cảm hứng từ mối tình của Hàn Mặc Tử với một cô gái vốn quê ở Vĩ
Dạ, một thôn nhỏ bên dòng sông Hương nơi xứ Huế thơ mộng và trữ tình.
II – VĂN BẢN
A. LỜI GIỚI THIỆU
Làm thơ từ tuổi mười bốn, mười lăm và chỉ có mười mấy năm “kết duyên” với Thơ mới, Hàn Mặc Tử
đã để lại dấu ấn sâu sắc trong lòng người yêu thơ Việt Nam. Hồn thơ Hàn Mặc Tử đa dạng phong phú vừa
mang nỗi quặn đau với những hình ảnh thường “vẩn đục”, vừa mang đến những hình ảnh trong trẻo hiền hoà
đến lạ thường.


Trang 10


Tài liệu ôn tập Ngữ văn 11
Ta gặp ở “Đây thôn Vĩ Dạ” một tình cảm yêu thương đằm thắm, bâng khuâng và nỗi khao khát hướng
đến hơi ấm tình người, hướng đến “ngôi vườn” cuộc đời qua bức tranh thiên nhiên xứ Huế bình yên, thơ
mộng.
Một trong những nét độc đáo ấy của Đây thôn Vĩ Dạ có thể là (khổ thơ thứ …) …
B. NỘI DUNG CHÍNH
1 – Khổ thơ đầu
Mở đầu đoạn thơ (cũng là mở đầu bài thơ) là một câu hỏi :
Sao anh không về chơi thôn Vĩ ?
Câu hỏi vừa như lời trách móc nhẹ nhàng của người con gái thôn Vĩ (mà tác giả tưởng tượng ra) vừa
là lời tự vấn sao không về Vĩ Dạ của nhà thơ. Câu thơ mang giọng điệu của một lời mời gọi tha thiết về thôn
Vĩ, vừa nhẹ nhàng vừa dễ thương như một duyên cớ gợi nhớ những hình ảnh của thôn Vĩ ngày nào trong kí
ức nhà thơ – một thời từng là cậu học trò trường Pe-lơ-ranh xứ Huế với trái tim đa cảm.
Hãy về thôn Vĩ, bởi thôn Vĩ là bức tranh thiên nhiên tràn ngập sức sống :
Nhìn nắng hàng cau nắng mới lên
Vườn ai mướt quá xanh như ngọc
Cảnh thôn Vĩ đẹp nhất là vào những buổi bình minh với những ánh nắng hồng đầu tiên trong ngày.
“Nắng mới lên” là nắng đầu tiên của một ngày mới mẻ, ấm áp. Không phải là “nắng ban mai”, hay “nắng
mai”,… như cách nói thông thường. Chữ “mới” tô đậm cái trong trẻo, tinh khiết của những tia nắng đầu tiên
trong ngày. Thi nhân như đã theo “nắng mới lên” mà về với Vĩ Dạ.
Đặc trưng của thôn Vĩ Dạ là những hàng cau thẳng tắp. Cau là cây cao nhất trong vườn nên sớm đón
được những tia nắng đầu tiên của một ngày. Vì thế, “nắng hàng cau” là nắng thanh tân, tinh khôi, là nắng
thiếu nữ.
Câu thơ “Vườn ai mướt quá xanh như ngọc” cất lên như một tiếng reo vui, một lời suýt xoa của thi
nhân trước vẻ đẹp vô ngần của thôn Vĩ. Từ “mướt” như ánh lên vẻ mượt mà, óng ả, đầy xuân sắc, một màu
xanh mỡ màng, tràn trề nhựa sống của Vĩ Dạ. “Xanh như ngọc” là màu xanh lung linh, ngời sáng, long lanh.

Ở hai câu thơ này, cả vườn Vĩ được tắm gội bởi sương đêm, đang chìm trong giấc ngủ thì được đánh
thức và bừng lên trong ánh nắng hồng ban mai. Nắng mai rót vào vườn cứ đầy dần lên, đến khi ngập tràn thì
nó biến cả khu vườn thành một đảo ngọc giữa chốn “nước non thanh tú” của quê hương xứ sở.
Đến câu thơ cuối, cảnh thôn Vĩ càng đẹp hơn khi có sự xuất hiện của con người :
Lá trúc che ngang mặt chữ điền.
Lâu nay, “mặt chữ điền” vẫn được hiểu là khuôn mặt đàn ông. Tuy nhiên, trong ca dao miền Trung,
“mặt chữ điền” cũng để chỉ khuôn mặt đẹp phúc hậu, khả ái của người phụ nữ : “Mặt má bầu ngó lâu muốn
chửi - Mặt chữ điền tiền rưỡi cũng mua”. Gương mặt chữ điền vuông vắn ấy xuất hiện đằng sau vẻ mảnh
mai, thanh tú của “lá trúc”. Hình ảnh “Lá trúc che ngang mặt chữ điền” vì thế càng làm tăng thêm vẻ sinh
động của bức tranh thôn Vĩ, bởi ở đây thiên nhiên và con người hài hoà với nhau trong một vẻ đẹp kín đáo,
dịu dàng và thơ mộng.
Trong thơ, ngoại cảnh cũng là nội tâm. Đặt bức tranh thôn Vĩ đẹp trong nỗi niềm của thi nhân hướng
về người con gái Vĩ Dạ mà tác giả đang thầm thương trộm nhớ, ta hình dung được tâm trạng của nhà thơ.
Đó là niềm vui khi nhận được tín hiệu tình cảm của người trong mộng (tất nhiên đây chỉ là cảm nhận
của Hàn Mặc Tử), là niềm hi vọng loé sáng về tình yêu, hạnh phúc.
Tóm lại, đọc khổ thơ đầu ta cảm nhận được bức tranh thôn Vĩ đẹp, tươi sáng, trong trẻo, gợi cảm và
đầy sức sống. Đồng thời, đó cũng là niềm hi vọng hạnh phúc của thi nhân.
2 – Khổ thơ thứ hai
Trong khổ thơ thứ hai, nhà thơ đặc tả cảnh sông nước mây trời xứ Huế, đồng thời bộc lộ một niềm
hoài vọng bâng khuâng.
Ở hai câu thơ đầu, bức tranh hiện ra là khung cảnh thiên nhiên ban ngày xứ Huế:
Gió theo lối gió, mây đường mây
Dòng nước buồn thiu, hoa bắp lay.
Cảnh ở đây vừa có nét đẹp hoang sơ, dân dã, vừa có nét “ cung đình”. Gió, mây và dòng nước đều
được nhân hoá để trở nên có hồn, sinh động. “Gió theo lối gió, mây đường mây” ngắt nhịp 4/3 với hai vế tiểu
đối gợi tả một không gian gió, mây chia lìa, đôi đường, đôi ngả như một nghịch cảnh đầy ám ảnh. Lẽ thường
thì “gió thổi mây bay”, phải chăng mặc cảm chia lìa đã chia xa cả những thứ vốn không thể chia tách ?
Nhà thơ còn nhân hoá con sông thành một sinh thể có tâm trạng để giãi bày tâm tư của chính mình.
Hương Giang không thể tự buồn mà bởi thi nhân đã “bỏ buồn vào lòng sông”. Động thái “lay” tự nó không


Trang 11


Tài liệu ôn tập Ngữ văn 11
vui không buồn, nhưng trong hoàn cảnh này, nó lại gợi lên sự hiu hắt, thưa vắng. Nhịp điệu câu thơ chậm rãi
như điệu “slow tình cảm dành riêng cho huế” (Hoàng Phủ Ngọc Tường) càng làm cho nỗi niềm thêm da
diết. Hoá ra không phải “dòng nước buồn thiu” mà chính “thi nhân buồn thiu”.
Ở hai câu thơ sau, dòng Hương Giang về đêm hiện lên ngập tràn ánh trăng :
Thuyền ai đậu bến sông trăng đó
Có chở trăng về kịp tối nay ?
Đây là hai câu thơ tuyệt bút của Tử, kết tinh rực rỡ bút pháp tài hoa, lãng mạn. Cả dòng sông như
được dát bạc, ánh lên, lộng lẫy và cũng huyền ảo lung linh. Nếu “Thuyền ai” gợi lên bao ngỡ ngàng, bâng
khuâng, vừa quen vừa lạ, man mác như điệu hò xứ Huế thì hình tượng “sông trăng” lại như một nét vẽ thơ
mộng, chất chứa cái thần thái, “linh hồn” của cảnh sắc thiên nhiên xứ sở. Sự kết hợp giữa “thuyền ai” và
“sông trăng” đã tạo nên một hình tượng đẹp thi vị, gợi tả vẻ đẹp lãng mạn, thơ mộng, thân thương của Huế.
“Thuyền”, “bến”, “trăng” là những biểu tượng về người con trai, con gái và hạnh phúc lứa đôi.
Trăng là nhân chứng cho đôi lứa nguyện thề. Khi xưa, trong vườn Thuý ngập đầy ánh trăng, Kim – Kiều đã
giao ước, thề nguyền. Trong ca dao, tình duyên của nam nữ cũng được giãi bày, ướm hỏi dưới trăng : “Đêm
trăng thanh anh mới hỏi nàng – Tre non đủ lá đan sàng nên chăng ?”… Thuyền chở trăng là chở tình yêu.
Bến trăng là bến bờ hạnh phúc. Liệu con thuyền tình yêu có vượt thời gian để kịp cập bến bờ hạnh phúc hay
không ? Câu hỏi chất chứa bao niềm khắc khoải, sự chờ đợi mỏi mòn tình yêu, hạnh phúc của thi nhân. Ẩn
trong đó có sự mông lung, hồ nghi, thất vọng.
Tóm lại, khổ thơ thứ hai vẽ nên bức tranh xứ Huế ảm đạm, nhuốm màu chia lìa, sự sống mệt mỏi,
yếu ớt nhưng cũng huyền ảo, thơ mộng, đồng thời toát lên những dự cảm hạnh phúc chia xa của nhà thơ.
3 – Khổ thơ cuối
Hồn thơ say dần, từ chỗ có nhiều hình ảnh thực (khổ 1), đến chỗ mơ hồ (khổ 2), bài thơ kết thúc ở
khổ thứ ba với những hình ảnh, cảm xúc thật sự huyền bí.
Trước hết là ở câu thơ đầu :
Mơ khách đường xa, khách đường xa
“Khách đường xa” là ai ? Sao câu thơ lại lặp lại hình ảnh ấy hai lần ? Và hơn nữa, hình ảnh đầy ấn

tượng nhưng vô cùng mơ hồ ấy lại đứng cạnh một từ càng mơ hồ, bí ẩn hơn chính nó – từ “ Mơ” : “Mơ
khách đường xa, khách đường xa”.
Có thể “khách đường xa” là người đang sống ở Vĩ Dạ cũng có thể là chính nhà thơ ? Không ai có thể
giải thích nổi, và cuối cùng cũng không cần giải thích. Chỉ biết rằng, “khách đường xa” được điệp lại gợi lên
khoảng cách xa xôi, sự cách trở. Hình ảnh thơ rất ám ảnh người đọc, và nó cũng như ma lực khiến ta cảm
thấy câu thơ ấy là hay nhất, không thể thay thế.
Những câu thơ sau cũng có vẻ đẹp mơ hồ, huyền ảo nhưng dù sao cũng “hợp lí” hơn :
Áo em trắng quá nhìn không ra
Ở đây sương khói mờ nhân ảnh
“Áo em” có phải là áo của người con gái xứ Huế, có lẽ là của người ở thôn Vĩ ? “Trắng quá nhìn
không ra” như đưa thi nhân vào sống trong ảo giác, không phải nhìn bằng mắt thường. Đến cụm từ “Sương
khói mờ nhân ảnh”, câu thơ càng cho thấy rõ hơn rằng cảnh vật và con người chìm dần vào mờ ảo.
Điều bí ẩn nữa lại nằm ở câu thơ cuối :
Ai biết tình ai có đậm đà ?
Đó lại là một câu hỏi tu từ, và dẫu không thể trả lời, ta vẫn thấy câu hỏi ấy thống nhất với mạch cảm
xúc chung của cả bài thơ : mở đầu và kết thúc đều là câu hỏi. Cả bài thơ là một câu hỏi lớn không cần ai giải
đáp. Có điều, ở câu hỏi cuối này nó biểu hiện chút hoài nghi với tình yêu của ai kia (người xứ Huế), hoài
nghi nên mới hỏi. Câu thơ còn cho thấy nỗi niềm thiết tha với tình yêu, với cuộc đời của nhà thơ.
Tóm lại, ở khổ thơ cuối hiện thực được cảm nhận, miêu tả trong cái hư ảo, mờ nhoè, càng lúc càng
chìm dần vào cõi mộng. Thi nhân cảm nhận càng rõ nét khoảng cách xa xôi, cái hư ảo của tình yêu, hạnh
phúc.
C. KẾT LUẬN
Với những hình ảnh biểu hiện nội tâm, bút pháp gợi tả, ngôn ngữ tinh tế, giàu liên tưởng, bài thơ Đây
thôn Vĩ Dạ là bức tranh đẹp về một miền quê đất nước, là tiếng lòng của một con người tha thiết yêu đời, yêu
người.

CHIỀU TỐI
(Mộ)
Trang 12



Tài liệu ôn tập Ngữ văn 11

_Hồ Chí Minh_
I – TIỂU DẪN
Tháng 8 – 1942, với danh nghĩa là đại biểu của Việt Nam độc lập đồng minh hội và Phân bộ quốc tế
phản xâm lược của Việt Nam, Hồ Chí Minh sang Trung Quốc để tranh thủ sự viện trợ của thế giới. Vừa đến
Túc Vinh, tỉnh Quảng Tây, Người bị chính quyền Tưởng Giới Thạch bắt giam vô cớ.
Trong suốt 13 tháng tù bị đày ải, Hồ Chí Minh đã sáng tác 134 bài thơ bằng chữ Hán, ghi trong cuốn
sổ tay, đặt tên là Ngục trung nhật kí (Nhật kí trong tù). Tập thơ được dịch ra tiếng Việt và in lần đầu vào
1960.
Chiều tối (Mộ) là bài thứ 31 của tập thơ. Cảm hứng của bài thơ được gợi lên trên đường chuyển lao
của Hồ Chí Minh từ Tĩnh Tây đến Thiên Bảo vào cuối thu năm 1942.
II – VĂN BẢN
A. LỜI GIỚI THIỆU
Hồ Chí Minh là nhà cách mạng vĩ đại của dân tộc ta, đồng thời là một tác gia lớn. Sự nghiệp sáng tác
của Bác đa dạng, nhưng nổi bật nhất là tập thơ trữ tình “Nhật kí trong tù” (Có thể trình bày thêm đôi nét về
tập Nhật kí trong tù).
“Mộ” (Chiều tối) là bài thơ rất có giá trị của tập Nhật kí trong tù. Nó vừa gợi cảnh gian truân trong
những ngày bị giam cầm vừa toát lên vẻ đẹp tâm hồn của Bác.
(Dẫn bài thơ)
B. NỘI DUNG CHÍNH
Bài thơ lấy cảm hứng trên đường chuyển lao. Đó là lúc trời sắp tối, người tù bị giải đi giữa miền
núi. Tấm lòng yêu người, yêu cuộc sống luôn luôn vượt qua những bước gian truân của tác giả toát lên từ
bức tranh Chiều tối này.
Bài thơ mở ra ở hai câu đầu bằng hình ảnh của bức tranh thiên nhiên nơi núi rừng mang đầy
tâm trạng. Trước tiên là hình ảnh một ngày sắp hết :
Chim mỏi về rừng tìm chốn ngủ.
Sau một ngày kiếm ăn, chim chiều mỏi mệt, tìm khu rừng cây quen thuộc để ngủ qua đêm. Chim mỏi
về rừng báo hiệu ngày tàn, nhường chỗ cho bóng đêm. Nhưng người đi đường đang mỏi mệt, vẫn chưa được

dừng bước, không rõ đi đến đâu, cũng không biết bao giờ có được chốn ngủ như những cánh chim kia.
Đặt bài thơ trong hoàn cảnh cụ thể của tác giả, ta có thể cảm nhận một nỗi u hoài man mác dâng lên
trong lòng người đi. Đó là tình cảnh mất tự do giữa đất khách quê người, cảnh vật gợi vẻ ảm đạm của một
buổi chiều tàn.
Tiếp theo đó, bầu trời buổi chiều tối còn vương lại một chút ánh sáng nhạt mờ, vừa đủ cho nhà thơ
nhận ra một chòm mây lẻ loi đang lững lờ trôi :
Chòm mây trôi nhẹ giữa tầng không.
Cảnh đẹp như một bức tranh thuỷ mặc nhưng cũng thật buồn, càng khêu gợi nỗi cô đơn của người đi
trên đường. Hơn nữa, đây còn là một người tù phải cất bước, dù đã mỏi mệt đi suốt một ngày dài.
Hai câu thơ tả cảnh nhưng thật gợi tình, như kín đáo giãi bày một tâm trạng, một nỗi niềm. Đó là tâm
trạng mệt mỏi, nỗi niềm mất tự do của Người. Tuy nhiên, dù hoàn cảnh tù đày, nhưng Người vẫn mở hồn ra,
hoà hợp và tương giao với thiên nhiên.
Bài thơ kết lại bằng hai câu thơ tả bức tranh cuộc sống miền sơn cước mang hơi ấm cuộc
sống :
Cô em xóm núi xay ngô tối,
Xay hết, lò than đã rực hồng.
Giữa cảnh núi rừng mênh mông trùng điệp đang chìm dần vào bóng tối, nổi bật một đốm lửa hồng
soi hình bóng của một cô gái đang lao động. Cảnh thật bình thường, nhưng ngay lúc đó, người tù chợt nhìn
thấy một hình ảnh gây xúc động : cô gái nhỏ xay ngô và ánh lửa hồng của lò than. Đó là hình ảnh bình dị về
cuộc sống thường ngày của người lao động nhưng cũng thật đẹp, đáng yêu và ấm lòng.
Nhận ra những chi tiết của bức tranh đó, nhà thơ thực sự cảm động và cảm thông với cuộc sống của
người lao động nghèo, vất vả, nhưng ấm cúng và lạc quan. Đóng lại bài thơ bằng một từ “ hồng” đầy sức
nặng, nhà thơ như muốn ấp ủ ngọn lửa hồng ấy trong trái tim mình, vui sướng vì ngọn lửa của cuộc sống
bình dị luôn sáng ấm.
Bài thơ đã kết hợp một cách hài hoà bút pháp cổ điển và bút pháp hiện đại. Một bức tranh thiên
nhiên núi rừng và cuộc sống chỉ được ghi loáng thoáng vài nét đơn sơ như trong một bài thơ cổ : một cánh

Trang 13



Tài liệu ôn tập Ngữ văn 11
chim, một chòm mây, một cô gái bên lò than nơi xóm núi. Tuy chỉ đơn sơ vài nét nhưng ta cảm nhận được
cái hồn của cảnh vật : tuy buồn mà vẫn ấm áp, đặc biệt lại có niềm vui bình dị.
Tóm lại, Trong hoàn cảnh bị đày ải trên đường xa, cô độc, mệt mỏi giữa núi rừng nơi đất khách quê
người vào lúc chiều tối, tác giả nhìn cảnh vật vẫn thấy ấm áp vui tươi, lạc quan qua ánh lửa hồng rực sáng.
Điều đó chứng tỏ mọi vui buồn của Bác đều gắn với vui buồn của con người, hầu như không phụ thuộc vào
cảnh ngộ riêng mình.
C. KẾT LUẬN
Bài Chiều tối cho thấy tình yêu thiên nhiên, yêu cuộc sống, ý chí vượt lên hoàn cảnh khắc nghiệt của
nhà thơ chiến sĩ Hồ Chí Minh. Bài thơ đậm sắc thái nghệ thuật cổ điển mà hiện đại.

TỪ ẤY
_Tố Hữu_
I – TIỂU DẪN
- Tố Hữu (1920 – 2002) tên khai sinh là Nguyễn Kim Thành, quê ở làng Phù Lai, xã Quảng Thọ, huyện
Quảng Điền, tỉnh Thừa Thiên – Huế. Thuở nhỏ, ông học Trường Quốc học Huế. Năm 1938, Tố Hữu được
kết nạp vào Đảng Cộng sản. Từ đó, sự nghiệp thơ ca của ông gắn liền với sự nghiệp cách mạng, thơ ông luôn
gắn bó và phản ánh chân thật những chặng đường cách mạng đầy gian khổ, hi sinh nhưng cũng nhiều thắng
lợi vẻ vang của dân tộc Việt Nam.
- Ngày được đứng vào hàng ngũ những người cùng phấn đấu vì một lí tưởng cao đẹp là bước ngoặt
quan trọng trong cuộc đời Tố Hữu. Ghi nhận kỉ niệm đáng nhớ ấy với những cảm xúc, suy tư sâu sắc, Tố
Hữu viết Từ ấy. Bài thơ nằm trong phần “Máu lửa” của tập Từ ấy (tập thơ gồm ba phần : “Máu lửa”, “Xiềng
xích”, “Giải phóng”).
II – VĂN BẢN
A. LỜI GIỚI THIỆU
Tố Hữu là nhà thơ lớn trong thời đại chúng ta. Với ông, con đường cách mạng cũng là con đường
thơ. Năm 1938, mới 18 tuổi, nhà thơ được vinh dự trở thành người chiến sĩ cộng sản của Đảng. Bài thơ “Từ
ấy” trong tập thơ cùng tên, vang lên như một tiếng reo vui thể hiện niềm vui sướng tự hào của một thanh niên
học sinh yêu nước bắt gặp ánh sáng chủ nghĩa Mác – Lênin. Sau này, trong bài Câu chuyện về thơ, Tố Hữu
viết : “Từ ấy” là một tâm hồn trong trẻo của tuổi mười tám, đôi mươi, đi theo lí tưởng cao đẹp, dám sống,

dám đấu tranh”.
(Có thể minh chứng những điều nói trên qua khổ thơ sau : …)
B. NỘI DUNG CHÍNH
1 – Khổ thơ một : Diễn tả niềm vui sướng, say mê khi gặp lí tưởng của Đảng
Bài thơ “Từ ấy” gồm ba khổ thơ. Mở đầu là khổ thơ diễn tả niềm vui sướng, say mê khi gặp lí
tưởng của Đảng.
Hai câu đầu viết theo bút pháp tự sự, kể lại một dấu mốc thời gian có ý nghĩa đặc biệt quan
trọng trong đời cách mạng và đời thơ của Tố Hữu :
Từ ấy trong tôi bừng nắng hạ
Mặt trời chân lí chói qua tim
“Từ ấy”, là lúc nhà thơ mới vào tuổi 18 thật trẻ trung, được giác ngộ lí tưởng cộng sản, được kết nạp
vào Đảng. Bằng những hình ảnh ẩn dụ “nắng hạ”, “mặt trời chân lí chói qua tim”, nhà thơ khẳng định lí
tưởng cách mạng như một nguồn sáng mới làm bừng dậy tâm hồn nhà thơ.
Hơn thế, nguồn sáng ấy còn là mặt trời, và là mặt trời khác thường, “mặt trời chân lí” – một sự liên
kết sáng tạo giữa hình ảnh và ngữ nghĩa. Câu thơ ca ngợi ánh sáng diệu kì của cách mạng với thái độ thành
kính, ân tình. Đó là thứ ánh sáng của tư tưởng cộng sáng – ánh sáng của những công bình xã hội, của chân lí
xã hội. Những động từ “bừng” (chỉ ánh sáng phát ra đột ngột), “chói” (ánh sáng có sức xuyên mạnh) càng
nhấn mạnh ánh sáng của lí tưởng đã hoàn toàn xua tan màn sương mù của ý thức tiểu tư sản và mở ra trong
tâm hồn nhà thơ một chân trời mới của nhận thức, tư tưởng và tình cảm.
Hai câu thơ sau của khổ thơ đầu, bằng bút pháp lãng mạn cùng với những hình ảnh so sánh,
đã diễn tả cụ thể niềm vui sướng vô hạn của nhà thơ trong buổi đầu đến với lí tưởng cộng sản :
Hồn tôi là một vườn hoa lá
Rất đậm hương và rộn tiếng chim…

Trang 14


Tài liệu ôn tập Ngữ văn 11
Đó là một thế giới tràn đầy sức sống với hương sắc của các loài hoa, vẻ tươi xanh của cây lá, âm
thanh rộn rã của tiếng chim ca hót. Đối với khu vườn hoa ấy còn gì đáng quý hơn ánh sáng mặt trời ? Đối với

tâm hồn người thanh niên đang băn khoăn đi kiếm lẽ yêu đời, còn gì đáng quý hơn khi có một lí tưởng cao
đẹp soi sáng, dẫn dắt ? Tố Hữu sung sướng đón nhận lí tưởng như cỏ cây hoa lá đón ánh sáng mặt trời. Và
“từ ấy”, lí tưởng cách mạng cũng đã khơi dậy một sức sống mới, đem lại một cảm hứng sáng tạo mới cho
hồn thơ Tố Hữu.
Tóm lại, Qua khổ thơ đầu, nhà thơ đã kể lại một kỉ niệm không quên của đời mình và diễn tả niềm
vui sướng, say mê khi bắt gặp lí tưởng Cộng sản. Sự kết hợp tài tình giữa bút pháp tự sự và trữ tình, cùng
những hình ảnh so sánh, ẩn dụ giàu sắc thái biểu cảm… đã giúp cho những vần thơ của Tố Hữu bay bổng,
lãng mạn.
2 – Khổ thơ hai : Biểu hiện những nhận thức về lẽ sống.
Tiếp theo mạch cảm xúc của bài thơ, khổ thơ thứ hai biểu hiện những nhận thức của nhà thơ về
lẽ sống.
Hai dòng thơ đầu, nhà thơ khẳng định quan niệm mới mẻ về lẽ sống là sự gắn bó hài hoà giữa
“cái tôi” cá nhân với “cái ta” chung của mọi người :
Tôi buộc lòng tôi với mọi người
Để tình trang trải với trăm nơi
Trong quan niệm về lẽ sống, giai cấp tư sản và tiểu tư sản có phần đề cao “cái tôi” cá nhân chủ nghĩa.
Khi được giác ngộ lí tưởng, Tố Hữu quan niệm lẽ sống là sự gắn bó hài hoà giữa “cái tôi” cá nhân với “cái
ta” chung của mọi người. Với động từ “buộc” – cách nói ẩn dụ, câu thơ thể hiện ý thức tự nguyện sâu sắc và
quyết tâm cao độ của Tố Hữu muốn sống chan hoà với mọi người (“trăm nơi” là một hoán dụ chỉ mọi người
sống ở khắp nơi). Từ “trang trải” có thể gợi liên tưởng tâm hồn nhà thơ trải rộng với cuộc đời, tạo khả năng
đồng cảm sâu xa với hoàn cảnh của từng con người cụ thể.
Hai dòng thơ sau của khổ thơ thứ hai bộc lộ tình yêu thương con người bằng tình yêu giai cấp
rõ ràng :
Để hồn tôi với bao hồn khổ
Gần gũi nhau thêm mạnh khối đời.
Hai dòng thơ cho thấy tình yêu thương con người của tác giả không phải là thứ tình thương chung
chung mà là tình cảm hữu ái giai cấp. Trong câu 3, nhà thơ đặc biệt quan tâm đến quần chúng lao khổ : “bao
hồn khổ”. Trong câu 4, “khối đời” là một ẩn dụ chỉ một khối người đông đảo cùng chung cảnh ngộ trong
cuộc đời. Có thể hiểu khi “cái tôi” chan hoà trong “cái ta”, cá nhân hoà mình vào tập thể cùng lí tưởng thì
sức mạnh của mỗi người sẽ được nhân lên gấp bội. Ta cũng bắt gặp cách nói này trong thơ Nguyễn Khoa

Điềm sau này :
Khi chúng ta cầm tay mọi người
Đất Nước vẹn tròn to lớn…
Tóm lại, Tố Hữu đã đặt mình giữa dòng đời và trong môi trường rộng lớn của quần chúng lao khổ. Ở
đấy, nhà thơ tìm thấy niềm vui và sức mạnh mới bằng sự giao cảm của trái tim. Qua đó, nhà thơ cũng khẳng
định mối liên hệ sâu sắc giữa văn học và cuộc sống, mà chủ yếu là cuộc sống của quần chúng nhân dân.
3 – Khổ thơ cuối : Sự chuyển biến sâu sắc trong tâm hồn nhà thơ.
Từ sự nhận thức mới về lẽ sống (khổ thơ 2), đến khổ thứ ba nhà thơ thể hiện những chuyển
biến sâu sắc trong tâm hồn mình.
Trước khi được giác ngộ lí tưởng, Tố Hữu là một thanh niên tiểu tư sản. Lí tưởng cộng sản không chỉ
giúp nhà thơ có được lẽ sống mới mà còn giúp nhà thơ vượt qua tình cảm ích kỉ, hẹp hòi của giai cấp tiểu tư
sản để có được tình hữu ái giai cấp đối với quần chúng lao khổ. Hơn thế, đó còn là tình thân yêu ruột thịt
(của Tố Hữu ) với quần chúng “lao khổ” :
Tôi đã là con của vạn nhà

Không áo cơm, cù bất cù bơ…
Những điệp từ “là” cùng với các từ “con”, “em”, “anh” và số từ ước lệ “vạn” (chỉ số lượng hết sức
đông đảo) khẳng định một tình cảm gia đình thật đầm ấm, thân thiết. Nhà thơ đã cảm nhận sâu sắc bản thân
mình là một thành viên của đại gia đình quần chúng lao khổ.
Tấm lòng đồng cảm, xót thương của nhà thơ còn biểu hiện thật xúc động, chân thành khi nói tới
những “kiếp phôi pha” (những người lao động vất vả, dãi dầu nắng mưa), những em nhỏ “không áo cơm, cù
bất cù bơ” (những em bé lang thang vất vưởng).

Trang 15


Tài liệu ôn tập Ngữ văn 11
Cũng chính vì những người phôi pha, những em nhỏ cù bất cù bơ ấy mà người thanh niên Tố Hữu
hăng say hoạt động cách mạng, và họ cũng chính là đối tượng sáng tác chủ yếu của nhà thơ sau này.
Đến đây có thể thấy, về quan điểm nhận thức và sáng tác, bài thơ là một tuyên ngôn cho tập “Từ ấy”

nói riêng và cho toàn bộ tác phẩm của Tố Hữu nói chung…
C. KẾT LUẬN
Bài thơ Từ ấy là lời tâm nguyện của người thanh niên yêu nước giác ngộ lí tưởng cộng sản. Sự vận
động của tâm trạng nhà thơ được thể hiện sinh động bằng những hình ảnh tươi sáng, các biện pháp tu từ và
ngôn ngữ giàu nhạc điệu.

LAI TÂN
_Hồ Chí Minh_
1. Xuất xứ:
Nằm trong tập Nhật ký trong tù, được sáng tác trong khoảng thời gian 4 tháng đầu lúc HCM bị chính
quyền Tưởng Giới Thạch bắt giam & giải tới giải lui ở nhiều nhà lao thuộc tỉnh Quảng Tây – TQ.
2. Chủ đề:
Châm biếm, đã kích tình trạng thối nát của bọn quan lại ở TQ thời Tưởng Giới Thạch.
3 CÂU ĐẦU: Nêu lên 3 nhân vật có quyền hành và 3 hành động quen thuộc của họ
► CÂU 1: Giam phòng ban trưởng thiên thiên đổ
– Câu thơ cho biết công việc hàng ngày của ban trưởng là đánh bạc. Tác giả biết được điều này vì y
đánh bạc ngay trong tù, đánh bạc với tù nhân một cách công khai.
– Nhà thơ đã sử dụng nghệ thuật đối lập và khai thác mâu thuẫn để trực tiếp đã kích ban trưởng của
nhà lao:
+ Ban trưởng là người đứng đầu nhà giam – một nhân vật cỡ lớn trong nhà tù, có trách nhiệm giám
sát, góp phần cải tạo tù nhân. Trong nhà tù cũng đang giam giữ một số tội nhân can tội đánh bạc.
+ Nhưng ban trưởng nhà lao lại chuyên đánh bạc, đánh bạc một cách công khai mỗi ngày.
→ Qua đây, câu thơ toát ý nghiac châm biếm, mỉa mai, đã cho ta thấy một sự thật trớ trêu, cười ra
nước mắt, không còn gì là công lí. Ban trưởng nhà lao đã biến nhà tù thành xòng bạc, biến nơi thực thi
pháp luật thành nơ thủ tiêu pháp luật.
► CÂU 2: Cảnh trưởng thư, thôn giải phạm tiền
– Câu thơ lại cho thấy một sự thật đắng cay trong nhà tù. Tác giả đã không hề né tránh mà chỉa thẳng
mũi dùi châm biếm đã kích vào đối tượng. Trong nguyên tác, HCM đã nói rõ ràng cụ thể, cảnh trưởng
tham lam lấy tiền của tội nhân lúc dẫn giải.
– Cảnh trưởng là một nhân vật quyền thế giống như Cảnh sát trưởng, là nhân vật chuyên trấn át tội

phạm, góp phần cải tạo con người, nhưng lại đi phạm tội & lộ rõ bản chất tham lam, tham nhũng.
Càng trớ trêu thiny lại đi tham lam nhũng nhiễu phạm nhân & thử hỏi, nếu phạm nhân không có tiền
thì sẽ khốn khổ đến dường nào!
► CÂU 3: Huyện trưởng thiêu đăng biện công sự
– Câu thơ mở ra một ý mới, nói tới một nhân vật có quyền cao hơn ở ngoài phạm vi nhà giam, là
người đứng đầu của huyện Lai Tân.
– Câu thơ không khỏi làm người đọc băn khoăn:
+ Phải chăng đây là một vị quan tốt, một vị quan mẫu cán biết lo cho nước cho dân. Không mắc phải
những tật xấu, không dính đến những tội lỗi nhu bản trưởng, cảnh trưởng.
+ Nhưng đặt câu thơ trong mạch thơ của toàn bài ta phát hiện ý châm biếm mỉa mai hết sức sâu cay.
Nếu đây là một vị quan tốt, biết lo cho nước cho dân, làm việc không quản ngày đêm thì TẠI SAO
dưới quyền ông lại có những thuộc hạ mắc nhiều nhược điểm xấu xa?! Vậy y chông đèn làm công việc
gì? Phải chăng là đê hút thuốc phiện?
► CÂU 4 (câu kết): Lai Tân y cựu thái bình thiên
– Theo logic người đọc chờ đợi ở câu kết một lời mỉa mai châm biếm, tố cáo mạnh mẽ mẽ lên án
quyết liệt tình trạng thối nát của bọn quan lại ở Lai Tân, nhưng HCM lại hạ 1 câu thơ có vẻ hờ hững,
dững dưng vô cảm. Tuy nhiên câu kết là đòn đánh rất hiểm mà trong văn chương xưa gọi là “tiền văn
không đoán được hậu văn”.

Trang 16


Tài liệu ôn tập Ngữ văn 11
Câu thơ tuy nhẹ nhàng nhưng sức đã kích thật quyết liệt, nó cho thấy trình trạng thối nát của bọ quan
lại ở Lai Tân diễn ra hết sức bình thường, không có gì là đặc biệt, là bất ngờ, không phải là chuyện của
thời loạn. Tình hình của bọn quan lại ở Lai Tân xưa nay vẫn thế, cái guồng máy chính vẫn cứ thế mà
vận hành. Ban trưởng cứ ngày ngày đánh bạc, cảnh trưởng cứ ăn tiền của dân lúc dẫn giải, huyện
trưởng cứ đêm đêm hút thuốc phiện.
– Chữ “thái bình” là nhãn tự, là thi nhãn, chữ thái bình hạ xuống một cách tự nhiên, nhẹ nhàng nhưng
có sức mạnh đã kích lớn, nó cho thấy sự thái bình giả dối ở TQ thời Tưởng Giới Thạch. Thực chất là

đại loạn từ bên trong, đây chỉ có thể là thái bình đối với bọn quan lại, chứ không thể thái bình với
người dân.
– Bài thơ được sáng tác năm 1942 – lúc phát xít Nhật đang xâm lược TQ, đặt bài thơ trong hoàn cảnh
ấy ta lại càng thấy rõ hơn thái độ vô tâm vô trách nhiệm của bọn quan lại ở Lai Tân. Đát nước bị
chiếm đóng, đồng bào bị giết hại vậy mà trời đất Lai Tân “vẫn thái bình”.
3. Kết luận:
– Chỉ 4 câu thơ mà bộ mặt xã hội TQ thời Tưởng Giới Thạch đã hiện lên một cách cụ thể sinh động.
– Lai Tân là một tiếng cười đã kích của thơ HCM trong Nhật ký trong tù: Không đao to búa lớn, chỉ
nhẹ nhàng mà thâm trầm sâu cay, có sức mạnh đã kích mãnh liệt nhắm thẳng vào đối tượng.

NHỚ ĐỒNG
_Tố Hữu_
1. Hoàn cảnh sáng tác
– 1939, nguy cơ đại chiến thứ hai bùng nổ . Pháp tập trung đàn áp phong trào cách mạng Đông
Dương.
– 29-4-1939, Tố Hữu bị bắt giam ở nhà lao Thừa Phủ -> sáng tác bài thơ .
Tố Hữu mới được kết nạp vào Đảng 1938, đang say sưa hoạt động phong trào , bị bắt, thế giới nhà tù
cô đơn ngăn cản cuộc sống bên ngoài nhà tù.
– Bài thơ nằm trong phần Xiềng xích của tập thơ Từ ấy , viết chính thức vào tháng 7-1939.
2. Chủ đề
Nỗi nhớ nhung da .diết của người cộng sản trong tù ngục với cuộc sống ngoài nhà tù .
3. Bố cục : ba phần
a.Đoạn 1: Từ đầu đến thiệt thà : Nỗi nhớ da diết cuộc sống bên ngoài nhà tù .
b.Đoạn 2: Tiếp theo đến ngát trời : Nỗi nhớ về chính mình trong những ngày chưa bị giam cầm .
c. Đoạn 3: còn lại : Trở lại thực tại trại giam cầm lòng trĩu nặng với nỗi nhơ triền miên .
4. Tìm hiểu văn bản :
a. Nỗi nhớ của người tù cộng sản với cuộc sống bên ngoài nhà tù:
– Cảm hứng của bài thơ được gợi lên từ tiếng hò.
– Tiếng hò được lặp lại nhiều lần .
+ Tiếng hò lẻ loi đơn độc giữ trời trưa -> nhân vật trữ tình cảm nhận được sự hiu quạnh .

không gian đồng vắng .
thời gian trưa vắng .
+ Hiu quạnh của đời buồn tủi nhọc nhằn .
lòng người đang bị giam cầm trong tù ngục cách biệt với cuộc sống bên ngoài .
– Tiếng hò đã đồng cảm , hoà điệu của nhiều nỗi hiu quạnh
-> Người chiến sĩ cách mạng thấy nhớ nhung da diết đồng quê = cuộc sống bên ngoài nhà tù.
+ Tiếng than khắc khoải , da diết -> diễn tả cõi lòng hoang văng vì bị cách biệt với thế giới bên ngoài
-> nỗi hiu quạnh của người tha thiết yêu đời .
+ Sự lặp lại -> nhấn mạnh liền ý liên kết nhiều nội dung khác nhau , tô đậm cảm xúc , khắc sâu ý
tưởng-> triền miên vì nỗi nhớ da diết.
– Đồng quê thể hiện lên đậm đà nỗi nhớ của tác giả:
+ Cồn thơm , ruồng tre mát , ô mạ xanh mơn mởn,nương khoai ngọt sắn bùi, chiều sương phủ bãi
đồng,xóm làng và con đường thân thuộc, xóm nhà tranh thấp, con đường quen .
-> Tất cả đều đơn sơ gần gũi quen thuộc, thân thương -> bị ngăn cách .
– Con người gần gũi thân thuộc thân thương :

Trang 17


Tài liệu ôn tập Ngữ văn 11
+ Những lưng còng xuống luống cày .
+ Những bàn tay vãi giống .
+ Một giọng hò đưa bố mẹ già xa đơn chiếc -> linh hồn đã khuất.
– Nỗi nhớ chân thật đâm tình thương mến .
– Nhớ đến bản thân mình :
+ Nhớ tới những ngày tháng tự do hoạt động cách mạng .
“ Rồi một …ngát trời”
-> Say mê lý tưởng , khao khát tự do sôi nổi -> càng cảm thấy cô đơn với thực tại cuộc sống bị giam
cầm .
b. Diễn biến tâm trạng của Tố Hữu:

– Nỗi nhớ biểu hiện tâm trạng nhà thơ :
+ Từ tiếng hò-> đồng quê-> cảnh sắc bóng dáng con người-> người mẹ già nua -> nhớ chính mình->
từ hiện tại trở về quá khứ-> hiện tại-> nhớ+ tràn ngập xót thương -> không chỉ buồn mà cháy bỏng
khao khát tự do -> đằng sau là nỗi phẫn uất , bất bình với thực tại .
5. Kết luận:
Bài thơ Nhớ đồng là một bài thơ hay giàu cảm xúc và tâm trạng của một người chiến sĩ cộng sản khao
khát tự do hành động . Nỗi nhớ đồng quê, con người , chính mình biểu hiện tình yêu da diết với cuộc
sống bên ngoài nhà tù -> bao trùm là tình yêu Tổ quốc , khát vọng tự do.

TƯƠNG TƯ
_Nguyễn Bính_
I. Tìm hiểu chung
1. Tác giả
– Nguyễn Bính (1918-1966) tên tự của ông là Nguyễn Trọng Bính. Thơ văn của ông mang đậm phong
cách dân ca giản dị, một hồn thơ tha thiết đậm chất dân tộc, không bị hòa quyện theo Âu hóa như thời
bấy giờ.
– Nguyễn Bính được vinh danh là một nhà thơ của làng quê Việt Nam
– Ông để lại nhiều tác phẩm tiêu biểu như: Những bóng người trên sân ga, Qua nhà, Tương tu, Chân
quê, Tâm hồn tôi,….
2. Tác phẩm
– Bài thơ Tương tư được nằm trong tập thơ Lỡ bước sang ngang, được viết vào năm 1939 ở Hoàng
Mai.
– Chủ đề của bài thơ là viết về tình yêu đôi lứa.
– Bài thơ được viết theo thể thơ lục bát.
– Bố cục: gồm 3 phần
+ Phần 1: Gồm 4 câu thơ đầu: Khởi nguồn tâm trạng tương tư.
+ Phần 2: 12 câu thơ tiếp theo: những nỗi lòng được giải bày
+ Phần 3: còn lại: nói về ước muốn của tình yêu.
II. Phân tích bài thơ
1.Khởi nguồn tâm trạng tương tư.

– Mở đầu bài thơ chúng ta xác định được chủ thể trữ tình ở đây chính là chàng trai – ở thôn Đoài. Bắt
đầu nỗi tương tư này chính là nỗi nhớ nhung của chàng trai đối với cô gái ở thôn Đông.
– “ Thôn Đoài ngồi nhớ…..một người” thôn Đoài- thôn Đông chính là hiện thân của con trai- con gái.
Nguyễn Bính không nói thẳng ra chủ thể mà ví von với địa danh, ông mượn cách nói ý nhị, kín đáo
của ca dao để làm toát lên cái tôi được hòa nhập vào không gian. Với thủ pháp nhân hóa này đã vẽ ra
những nét đầy tinh tế về tâm trạng tương tư của chàng trai. Qua đó chúng ta cũng thấy được phong
cách riêng của Nguyễn Bính
– Chàng trai yêu cô gái, nên mang trong mình một căn bệnh tương tư mà không ai có thể chữa
đượcà đây là một căn bệnh mà bất kỳ những đôi yêu thương nào cũng có những cung bậc cảm xúc
này.
– Nguyễn Bính đã so sánh vô cùng độc đáo giữa hai căn bệnh tương tư của chàng trai với của
trờià điều này chứng tỏ, đây là một căn bệnh tự nhiên, vô thưởng, nó như là một điều tất nhiên.

Trang 18


Tài liệu ôn tập Ngữ văn 11
à Bốn câu thơ là một sự liên tưởng vô cùng độc đáo, giới thiệu được nhân vật trữ tình và cũng giới
thiệu được căn bệnh tương tư. Nó cũng nói lên được ước muốn thầm kín từ tình yêu đơn phương trở
thành tình cảm chung, trở thành lứa đôi.
2. Sự giãi bày nỗi lòng của chàng trai
– Mang trong mình một nỗi buồn thương, không biết giải bày cùng ai, chàng trai càng trở nên băn
khoăn, thắc mắc.
– Tâm trạng chờ đợi mỏi mòn, nổi nhớ như tăng lên gấp bội khi chàng chưa được gặp nàng.
-“ Ngày…ngày…ngày” Câu thơ ngắt nhịp 3/3 cho ta thấy được thời gian trôi qua trong vô vọng và
chán ngán.
– Lá xanh chuyển thành lá vàng, câu thơ vừa diễn tả được thời gian vừa bộc lộ được tâm trạng chờ đợi
trong nhung nhớ mặc kệ thời gian trôi đang trôi qua nhanh. Nổi nhớ như triền miên, không ngừng
nghỉ.
– Từ sự nhớ nhung đó, tâm trạng chàng trai lại chuyển qua sự trách móc rồi bâng khuâng, dày vò

chính mình.–> Khoảng cách thì ngắn chỉ là một đầu đình nhưng sao đối với chàng lại xa xôi đến
vậyà toát lên sự buồn tủi không nguôi.
– Những hình ảnh chân quê rất thực được dùng để diễn tả sự mong đợi được gặp người mình yêu
giống như bến gặp đò, hoa gặp bướm.–> sử dụng lối ước lệ, ẩn dụ trong ca dao nhằm lột tả được
những cảm xúc tự nhiên, thiêng liêng và đẹp đẽ nhất.
3. Ước mơ của hạnh phúc lứa đôi
– Chỉ mong có một dàn giầu, hàng cau, nhà anh, nhà emà chàng trai muốn nói cho nàng biết cả anh và
nàng vẫn đang đơn côi, một mình, thể hiện sự ngại ngùng, khoảng cách xa xôi cách chở của tình cảm.
– Hàng cau- dàn giầu là sự ví von dựa vào sự tích để thể hiện ước muốn của chàng trai, muốn sánh
đôi, bén duyên cùng người mình yêu thương, một tình cảm sắt son bền chặt
III. Tổng kết
– Bài thơ là cả một cảm xúc trong trẻo, gần gũi chân thật của tình cảm, tình yêu lứa đôi. Cách bày tỏ
tình yêu vô cùng kín đáo, ý nhị, chân thành mộc mạc mang đậm hồn quê dân tộc
– Sử dụng nhiều hình ảnh ví von, ẩn dụ, điển tích,…đậm màu sắc dân tộc,với giọng điệu tha thiết,
chân thành.

CHIỀU XUÂN
_Anh Thơ_
I. Tìm hiểu chung
1. Tác giả Anh Thơ
– Anh Thơ tên thật là Vương Kiều Ân sinh năm 1921 mất năm 2005.
– Sinh ra và lớn lên bên bến sông Thương.
– Bà là một nữ sĩ tiêu biểu cho văn học hiện đại Việt Nam.
– Thơ của bà thiên về tả cảnh sắc hương thơm với những nét chân thực, thấm được tình quê pha chút
tâm sự bâng khuâng của cái tôi Thơ Mới.
2. Bài thơ
a. Xuất xứ: được rút từ tập bức tranh quê năm 1941 đây là tập thơ đầu tay của Anh Thơ mang lại giải
khuyến khích từ nhóm tự lực văn đoàn
b. Cảm xúc chủ đạo: bài thơ ghi lại cảm xúc nhẹ nhàng tinh tế của cái tôi trữ tình trước cảnh chiều
xuân mưa phùn nơi đồng quê xứ Bắc

c. Bố cục: 3 phần:
– Phần 1 khổ 1: cảnh xuân trên bến vắng.
– Phần 2: khổ 2: cảnh xuân trên đường đê.
– Phần 3: khổ 3: cảnh xuân trong ruộng lúa
II. Phân tích
a. Nội dung
Chọn khung cảnh chiều mưa bụi tác giả có dịp nói đến cái đặc sắc của tiết trời xứ Bắc. Ba đoạn thơ là
3 khung cảnh

Trang 19


Tài liệu ôn tập Ngữ văn 11
- Cảnh đầu tiên là bến vắng không âm thanh,không sắc màu tươi sáng mưa rơi rất êm, bến rất vắng có
con đò cũng lười biếng bất động,một quán nước không người,chỉ có những cánh hoa xoan rụng tơi bời
vẻ nên không gian vắng lặng của chiều mưa.
- Cảnh thứ hai là đường đê vẫn làn mưa bụi giăng nhưng đã có hoạt động của trâu bò gặm cỏ và những
cánh bướm rập rờn. Đoạn thơ có nét tươi mát, thơ mộng, đầy ảo giác qua sự phát hiện mới mẻ và đầy
kì thú của nhà thơ.
- Cảnh ngoài đồng cào cỏ: bằng cảm hứng qua những chi tiết bình thường, tác giả đã tìm được vẻ đẹp
bình dị của nông thôn. Đoạn này đã có sự xuất hiện của con người làm cho không gian hoạt động hơn,
cảnh bớt vắng vẻ. Bài thơ có được cái ấm áp của đời thường.
=> Nhà thơ không phải chỉ tả thiên nhiên qua lối quan sát nhìn ngắm bình thường mà sống với hồn của
cảnh vật nên thơ của bà tả được cái thần hồn của thiên nhiên qua những gì dụng dị nhất, đời thường
nhất.
b. Nghệ thuật
Sử dụng hình ảnh tiêu biểu cho sắc xuân, lựa chọn từ ngữ gợi hình, gợi âm thanh, miêu tả cái động để
nói cái tĩnh.
c. Ý nghĩa văn bản
Bài thơ ca ngợi vẻ đẹp của quê hương mỗi độ xuân về. Tình yêu quê hương đất nước đã trùm lên bức

tranh quê buổi “Chiều xuân”.

Bài tham khảo: phân tích bài thơ “chiều xuân”
Anh Thơ là một gương mặt nữ của phong trào Thơ mới 1930 – 1945. Với chất nữ tính đậm
đà trong sáng tác, bà đã góp phần làm đa dạng giọng điệu của thơ mới. Tập thơ Bức tranh quê là tập
thơ thành công nhất gắn với tên tuổi của nhà thơ. Và Chiều xuân là bài thơ tiêu biểu cho phong cách
thơ Anh Thơ trước Cách mạng. Bài thơ là một bức tranh quê đẹp và thật đáng yêu. Mỗi khổ thơ là một
bức tranh với những hình ảnh vô cùng quen thuộc và thân thương đối với người Việt Nam.
Anh Thơ xuất thân trong một gia đình viên chức nghèo nguồn gốc Nho học ở một thị trấn
nhỏ. Tuy học ít nhưng bà lại ham đọc sách và yêu văn chương. Đứng trước hiện thực đen tối và cảnh
mất tự do của cả dân tộc, nhiều trí thức tiểu tư sản có tấm lòng với dân tộc đã rơi vào tâm trạng buồn
chán và bế tắc. Họ không thể tìm được cho mình con đường thực hiện lí tưởng. Và họ đành lòng để
mình chìm đắm trong nỗi sầu thảm của văn chương. Họ đến với văn chương như tìm đến cõi mơ, cõi
tự do của riêng mình, để quên sầu và quên đời. Vì vậy mà đến với thơ mới, người ta thấy nỗi buồn
nhiều hơn niềm vui. Mà có vui thì cũng chỉ là vui gượng mà thôi. Vui và sôi nổi như Xuân Diệu cũng
luôn ẩn chứa những hoài nghi, lo lắng và thắc thỏm. Các nhà thơ mới, bằng cách riêng và con đường
riêng của mình đã luôn cố gắng để hoặc là trốn tránh hiện thực hoặc là đối diện với hiện thực để buồn
đau sầu não, hoặc là tự ru mình trong thế giới tưởng tượng của những giấc mơ ngọt ngào để sống. Họ
đã sống hết mình với thơ bằng trái tim tuổi trẻ luôn căng đầy sự sống và tình yêu quê hương đất nước
để mang đến cho đời những thi phẩm hay.
Anh Thơ là nhà thơ nữ, nên niềm vui, nỗi buồn, tình yêu quê hương trong thơ bà cũng nữ tính
hơn. Thơ của Anh Thơ dịu dàng và đằm thắm. Nỗi buồn trong thơ bà cũng nhẹ nhàng và sâu lắng hơn.
Những nét phong cách ấy đã thể hiện rõ trong Chiều xuân.
Bài thơ tả cảnh chiều xuân nơi đồng quê Bắc Bộ. Thời gian và không gian nghệ thuật đều lãng
mạn và nên thơ. Buổi chiều là khoảnh khắc dễ nảy sinh cảm xúc, mà ở đây lại là buổi chiều xuân nơi
thôn quê. Nhà thơ đã quan sát, đã lựa chọn những hình ảnh, những chi tiết rất đặc trưng của cảnh vật
để phác hoạ nên bức tranh mùa xuân.
Bức tranh thứ nhất chọn điểm nhấn là bến đò. Bến đò là hình ảnh vô cùng quen thuộc, có thể nói
là hình ảnh tượng trưng cho những miền quê Bắc Bộ. Nó đã đi vào thơ ca như là biểu tượng của quê
hương. Bức tranh bến vắng được thi sĩ miêu tả bằng bốn câu thơ :

Mưa đổ bụi êm êm trên bến vắng,
Đò biếng lười nằm mặc nước sông trôi ;
Quán tranh đứng im lìm trong vắng lặng
Bên chòm xoan hoa tím rụng tơi bời.
Một khung cảnh vắng lặng và nên thơ. Mỗi câu thơ đặc tả một hình ảnh. Và đó là bốn hình ảnh rất
đặc trưng của nông thôn Việt Nam : một bến đò vắng khách với con đò, quán nhỏ và cây xoan đầy hoa
tím. Cảnh đẹp, bình yên nhưng gợi buồn. Bức tranh quê này có thể làm cho tâm hồn con người yên ổn
nhưng không thể bớt buồn.

Trang 20


Tài liệu ôn tập Ngữ văn 11
Bức tranh thứ hai, nhà thơ chọn điểm nhấn là con đê làng. Vẫn là hình ảnh đặc trưng của những
miền quê Bắc Bộ. Hình ảnh con đê đã từng đi vào thơ ca nhạc hoạ như là biểu tượng của những miền
quê. Chàng trai trong thơ Nguyễn Bính từng “đợi em ở mãi con đê đầu làng” để “van em em hãy giữ
nguyên quê mùa”. Con đê trong buổi chiều xuân qua cảm nhận của nữ thi sĩ không buồn vắng như bến
đò :
Ngoài bờ đê cỏ non tràn biếc cỏ,
Đàn sáo đen sà xuống mổ vu vơ ;
Mấy cánh bướm rập rờn trôi trước gió,
Những trâu bò thong thả cúi ăn mưa.
Cảnh vật thân thương và bình yên quá đỗi. So với cảnh bến vắng, cảnh trên đê vui hơn, sinh động
và nhiều sức sống hơn. Một con đê trải dài màu xanh biếc của cỏ non. Đám cỏ đẫm ướt mưa xuân ấy
đã khiến nhà thơ có một liên tưởng thật độc đáo : đàn trâu bò đang ăn cỏ mà như đang ăn mưa. Thật
độc đáo và nên thơ. Bức tranh gợi cảm giác thanh bình, vắng nhưng chỉ phảng phất buồn, dường như
nỗi cô đơn của bến vắng đã vơi đi phần nào.
Thế nhưng bức tranh quê dù đẹp đến đâu, thanh bình đến đâu cũng sẽ trống trải nếu thiếu hình
ảnh con người. Con người xuất hiện sẽ làm cho bức tranh có sức sống hơn. Khi vẽ bức tranh mùa thu
buồn trong Đây mùa thu tới, Xuân Diệu đã không quên hình ảnh một người thiếu nữ “Tựa cửa nhìn xa

nghĩ ngợi gì”. Dù “buồn không nói” nhưng hình ảnh thiếu nữ đã mang đến hơi thở của sự sống cho
bức tranh thu. Và phải là thiếu nữ thì mới hợp với vẻ buồn nhưng rất đẹp và lãng mạn của mùa thu.
Hàn Mặc Tử khi vẽ một bức tranh thôn Vĩ đẹp và tràn đầy sức sống ở Đây thôn Vĩ Dạ cũng điểm một
“gương mặt chữ điền” thấp thoáng sau vòm lá. Thiên nhiên và con người trong thơ mới luôn có sự
giao hoà bởi các nhà thơ mới tìm đến với thiên nhiên như tìm đến với cõi tâm linh, với thế giới thanh
bình để giải thoát mình khỏi sự phũ phàng của hiện thực.
Và tất nhiên, bức tranh quê của nữ thi sĩ Anh Thơ cũng không có lí do gì lại thiếu vắng con người
Trong đồng lúa xanh rờn và ướt lặng,
Lũ cò con chốc chốc vụt bay ra,
Làm giật mình một cô nàng yếm thắm
Cúi cuốc cào cỏ ruộng sắp ra hoa.
Bức tranh cánh đồng là bức tranh nhiều sắc màu và sinh động nhất. Đặc biệt sự xuất hiện của “cô
nàng yếm thắm” đã làm cho cảnh vật đẹp và nên thơ hơn. Hình ảnh thơ bộc lộ chất lãng mạn trong tâm
hồn nữ thi sĩ hiếm hoi của phong trào Thơ mới này. Nhà thơ đã khéo tạo nên tình huống cho sự xuất
hiện của cô nàng yếm thắm. Cái giật mình của cô gái được tạo nên bởi “Lũ cò con chốc chốc vụt bay
ra” là một điểm nhấn nghệ thuật của bài thơ. Nó diễn tả được vẻ say sưa lao động của cô gái và quan
trọng hơn nó đã làm nổi bật được vẻ tĩnh lặng của chiều xuân. Nhà thơ đã vận dụng thủ pháp lấy động
tả tĩnh để làm nổi bật hơn cái thanh bình đến vắng lặng chốn đồng quê.
Ba bức tranh vẽ ba cảnh khác nhau nơi đồng quê trong một thời điểm và đều ẩn dưới làn mưa
xuân bay nhè nhẹ. Đó là ba bức tranh đẹp, có sức sống và gợi tả thành công sự tĩnh lặng và thanh bình
của chốn thôn quê. Nhưng cũng chính cái vẻ thanh bình ấy khiến cho bài thơ phảng phất nỗi buồn.
Nhiều người vẫn nói đó là nỗi buồn đặc trưng của thơ mới, nỗi sầu nhân thế của một lớp thanh niên trí
thức Việt Nam những năm ba mươi.
Chiều xuân là bức tranh đẹp về làng quê Việt Nam. Nó thể hiện lòng yêu quê hương đất nước của
thi sĩ. Vẻ đẹp của bài thơ có sức lay động tâm hồn con người, khiến mỗi người có cơ hội để hồn mình
lắng xuống sau những sôi động xô bồ của cuộc sống đời thường để “thấy quê mình vẫn đẹp vẫn thân
thương”. Có thể Chiều xuân không được xếp vào hàng những thi phẩm xuất sắc nhất của phong trào
Thơ mới nhưng thi phẩm này sẽ có sức sống trong lòng những bạn đọc yêu thơ vốn yêu cuộc sống
thanh bình và vẻ đẹp truyền thống của những làng quê Việt Nam.


TÔI YÊU EM
_A.X.Pu-skin_
I. Tìm hiểu chung
1. Tác giả

Trang 21


Tài liệu ôn tập Ngữ văn 11
– Puskin là một nhà văn hiện thực xuất sắc của Nga
– Ông xuất thân từ một tầng lớp đại quý tộc nhưng cả đời lại gắn bó với số phận của nhân dân
– Đặc biệt ông là người dũng cảm đứng lên đấu tranh chống lại chế độ chuyên chế độc đoán ở Nga
Hoàng
– Sự nghiệp:
• Ông là người đặt nền móng cho sự phát triển của văn học hiện thực ở Nga thế kỉ XIX
• Về mặt thơ ca ông được mệnh danh là mặt trời của thi ca Nga
• Ngoài thơ ông còn nhiều thể loại khác như: Ép- ghê- nhi ô nhê gin( tiểu thuyết thơ), con đầm bích
(truyện ngắn), Bô rít gô đu nốp (kịch lịch sử)
• Thơ của ông viết từ hiện thực Nga và những con người Nga
• Thơ của ông có nhiều đề tài: khi viết về đề tài tình bạn thì chân thành, viết về thiên nhiên thì đằm
thắm còn viết về tình yêu lại mang một tinh thần nhân văn vô cùng cao cả
2. Tác phẩm
a. Xuất xứ: tác phẩm là một trong những bài thơ tình hay nhất của puskin
b. Hoàn cảnh sáng tác: thời kì sống ở Xanh pê tec bua, ông thường hay lui lại nhà của chủ tịch viện
Hàn Lâm nghệ thuật để gặp gỡ những người nghệ thuật và cũng vì người con gái xinh đẹp có tên Ô lê
nhê a. Ông đã ngỏ lời cầu hôn nhưng nàng không nhận lời. Và năm 1829 bài thơ ra đời như một
chuyện tình đơn phương thu nhỏ
c. Bố cục: 3 phần:
– Phần 1: bốn câu đầu: những tâm trạng dằn xé trong tâm trạng của nhà thơ
– Phần 2: hai câu tiếp: khổ đau và tuyệt vọng của nhân vật trữ tình

– Phần 3: còn lại: sự cao thượng chân thành của nhân vật trữ tình
II. Tìm hiểu chi tiết
1. Những mâu thuẫn giằng xé của nhân vật trữ tình
– Mở đầu bài thơ nhà thơ ngỏ lời “tôi yêu em” tiếng nói ấy được nhà thơ cất giữ bao lâu và đến khi
bày tỏ thì nó đã bị từ chối, nhưng trái tim vốn chẳng nghe lời khi nó luôn có hình bóng ai đó nên bắt
đầu bài thơ nhà thơ không ngần ngại mà nói với lên.
– Tình yêu ấy, tiếng yêu ấy cho đến nay nhà thơ vẫn cất giữ và vẫn yêu thương
– Dù bị từ chối nhưng ngọn lửa tình chưa hẳn đã tàn phai nghĩa là nó vẫn còn trong trái tim nhà thơ
– Tuy nhiên nhà thơ biết rằng người con gái ấy không yêu mình vậy nên nhà thơ thà chịu đau một
mình chứ không để cô gái mình yêu phải gợn bóng u hoài hay khó xử.
-> Có thể nói nhà thơ của chúng ta đã mang đến một quan niệm tình yêu hết sức nhân văn. Yêu một
người không nhất thiết phải có họ bên cạnh mà cơ bản là nhìn thấy họ được hạnh phúc không lo phiền.
Nhà thơ đã chọn cách buông tay cho người con gái mình yêu không phải bận tâm khó xử. Đây quả là
một sự hi sinh thiêng liêng của tình yêu. Mâu thuẫn là yêu nhưng lại không muốn người mình yêu khổ
khó xử.
2. Nỗi đau khổ và tuyệt vọng của nhân vật trữ tình
– Tình yêu của nhà thơ là một tình yêu đơn phương âm thầm lặng lẽ dõi theo người con gái ấy mà
không hề hi vọng.
– Thế nhưng cũng có lúc rụt rè khi lại hậm hực lòng ghen giống như cô gái ấy là người yêu của mình
rồi vậy.
-> Đây là nỗi khổ của người yêu đơn phương, vẫn dõi theo người yêu mến đấy nhưng lại không hi
vọng gì bởi họ đâu có yêu mình.
3. Sự cao thượng chân thành của nhân vật trữ tình:
– Điệp ngữ “tôi yêu em” lại vang lên một lần nữa thể hiện tình yêu chân thành của nhà thơ.
– Tình yêu đó chân thành và đằm thắm.
– Tuy nhiên không được chấp nhận thì nhà thơ cũng cầu chúc cho người con gái của mình gặp được
người yêu giống như mình từng yêu cô ấy. Bởi chỉ có nhà thơ mới hiểu hết được tình cảm của mình
dành cho cô gái.
III. Tổng kết: Bài thơ là tiếng nói thầm kín yêu thương và hết sức chân thành của nhà thơ dành cho
người con gái của mình. Tôi yêu em được nhắc lại ba lần ở đầu dòng của bài thơ thể hiện tình yêu

chân thành đằm thắm của nhà thơ.

BÀI THƠ SỐ 28
Trang 22


Tài liệu ôn tập Ngữ văn 11

(Trong tập Người làm vườn)
_R.Ta-go_
I.GIỚI THIỆU CHUNG
1.Tác giả
– R.Tagore (1861 – 1941): Là một nhà thơ, nhà văn, đồng thời là một nhà văn hóa lớn, có nhiều đóng
góp cho dân tộc Ấn Độ và nhân loại.
– Ông để lại một gia tài khổng lồ các tác phẩm thuộc nhiều lĩnh vực khác nhau mà ở lĩnh vực nào cũng
xuất sắc.
– Năm 1913, Tagore trở thành người châu Á đầu tiên được trao giải Nobel về văn học với tập Thơ
Dâng.
2.Tập thơ Người làm vườn
– Là một trong những tập thơ nổi tiếng của Tagore, gồm 85 bài thơ được viết bằng tiếng Bengal, sau
tự dịch sang tiếng Anh, xuất bản năm 1941.
– Tập thơ tiêu biểu cho phong cách giàu chất trữ tình, chất triết lý của Tagore, được dịch ra nhiều thứ
tiếng.
3.Bài thơ số 28
– Các bài thơ trong tập Người làm vườn không có tên mà chỉ được đánh số.
– Bài thơ số 28 là bài thơ nổi tiếng trong tập thơ Người làm vườn, có mặt trong nhiều tuyển tập thơ
tình thế giới.
II.HƯỚNG DẪN ĐỌC HIỂU VĂN BẢN
1.Đọc , tìm bố cục
a.Đọc

b.Chia bố cục
+Phần 1 (Từ đầu đến…không biết gì tất cả về anh): Khát vọng hòa hợp trong tình yêu.
+Phần 2 (Tiếp đến…em có biết gì về biên giới của nó đâu): Khát vọng dâng hiến trong tình yêu.
+Phần 3(Còn lại đến hết): Sự vô cùng của cuộc đời – trái tim – tình yêu.
Cuối mỗi phần đều có câu chuyển ý Em chẳng thể biết tất cả về anh.)
2.Hướng dẫn tìm hiểu chi tiết văn bản
a.Khát vọng hòa hợp trong tình yêu
– Đôi mắt: Cửa sổ tâm hồn, chứa đựng suy tư của con người. Với Tagore, đôi mắt còn là ngọn nguồn
của tình yêu.
Diễn giải thêm: (Đôi mắt là cửa sổ của tâm hồn, là điều khiến người ta nhớ nhung khi xa cách:
“Những đêm dài hành quân nung nấu/ Bỗng bồn chồn nhớ mắt người yêu”. Với Shakespear: “Ánh mắt
là ngôn ngữ chân thành nhất của tình yêu”. Với tư cách là một triết gia, Tagore luôn tìm hiểu, khám
phá bản chất của tình yêu . Ông luôn băn khoăn, tự hỏi: “Tình yêu bắt đầu từ đâu”. Và trong Bài thơ
số 16, nhà thơ đã khẳng định: Tình yêu bắt đầu từ đôi mắt. “Tay nắm chặt tay, mắt dừng lâu trong
mắt/Câu chuyện của lòng ta bắt đầu như vậy đó/ Ấy là đêm tháng ba trăng tỏ/ Hương Kena dịu dàng
tỏa khắp không trung”. Cũng chính vì có quan niệm tình yêu bắt đầu từ “đôi mắt”, nên nhà thơ đã
dùng “đôi mắt” để phân tích tâm linh, để miêu tả thế giới nội tâm của con người.)
-Đôi mắt: Băn khoăn, buồn, muốn nhìn sâu vào tâm tưởng của anh.
=> Đôi mắt rụt rè, chất chứa suy tư khao khát khám phá thế giới tâm hồn bí ẩn của người yêu.
=>Tâm trạng chung của những người đang yêu.
-Hình ảnh so sánh tượng trưng:
+mắt em – trăng: Thế giới nội tâm phong phú, trong sáng.
+tâm tưởng của anh – biển cả: Thế giới bí ẩn, bao la.
=> Trăng và biển là biểu tượng thiên nhiên sóng đôi, thể hiện khát khao hòa chung tâm tưởng của đôi
tình nhân được đẩy lên đỉnh điểm.
=>Hình ảnh so sánh trong sáng, diễm lệ, tiêu biểu cho quan niệm về con người của Tagore và Ấn
Độ
-Hành động của chàng trai:
+Chàng trai: cuộc đời trần trụi dưới mắt em, không giấu một điều gì, (bare, nothing hidden, nothing
held back)


Trang 23


Tài liệu ôn tập Ngữ văn 11
=>Khẳng định ước muốn tha thiết muốn hòa hợp.
-Nghịch lý: Cô gái lại “không biết gì tất cả về anh”.
=>Cả hai cùng nỗ lực vươn tới nhau nhưng hiểu biết viên mãn về nhau có thể vẫn bất khả.
=>Triết lý tình yêu: Tình yêu luôn là sự khao khát hòa nhập và khám phá tâm hồn nhau bởi tình yêu
luôn là một bí ẩn.
b.Khát vọng dâng hiến trong tình yêu
-Cấu trúc giả định: Nếu A chỉ là B.
-Hai câu thơ đầu khổ 2:
+đời anh chỉ là viên ngọc.
+đời anh chỉ là đóa hoa.
=>Hiện thực hóa cuộc đời (trừu tượng) thành những sự vật cụ thể, tượng trưng cho sự quý giá (ngọc)
và thanh cao (hoa). Cuộc đời của thi nhân ngầm chứa sự quý giá và thanh cao ấy.
-Sự hi sinh của chàng trai:
+Nếu cuộc đời là viên ngọc: nguyện “đập vỡ”, “xâu thành chuỗi quàng vào cổ em”.
+Nếu cuộc đời là đóa hoa: “hái nó đặt lên mái tóc em”.
=> Kết hợp với những động từ mạnh: “đập” (break), “hái” (pluck) nhằm nhấn mạnh khát vọng tận
hiến nồng nhiệt của chàng trai.
-Sự phủ định: Nhưng A (không là B) lại là C (Đời anh không là ngọc, là hoa mà là trái tim không biên
giới)
-Cách ví von tình tứ: Em là nữ hoàng của vương quốc đó =>Tiếng nói của anh chàng si tình, nguyên
dâng hiến trái tim vô biên cho người mình yêu.
=>Nghịch lý: Xuất phát từ mong muốn tìm hiểu cuộc đời người mình yêu của cô gái, chàng trai đã
không ngần ngại phơi bày cho cô thấy; nhưng càng muốn phơi bày bao nhiêu thì cô gái lại càng như
rơi vào mê trận vô biên của trái tim và tình yêu. Càng tìm hiểu, tình yêu càng mông lung, khó nắm bắt.
c. Sự vô cùng của cuộc đời – trái tim – tình yêu

-Lặp lại cấu trúc giả định sóng đôi nhau:
+Trái tim (cụ thể) – phút giây lạc thú (trừu tượng) – nở ra thành nụ cười nhẹ nhõm.
+Trái tim (cụ thể) – khổ đau(trừu tượng) – tan thành lệ trong, phản chiếu nỗi niềm u ẩn.
=>Hai trạng thái tâm lý trái ngược nhau: niềm vui và nỗi buồn, từ đó thể hiện khát khao phơi trải cho
người mình yêu thấu suốt trái tim được dề dàng hơn.
-Cấu trúc phủ định: Nhưng A không là B mà lại là C.
=> Lặp cấu trúc phủ định kết hợp sử dụng tính từ trái nghĩa vui sướng – khổ đau, đòi hỏi (mong muốn)
– giàu sang (sở hữu) cùng với tính từ chỉ sự vô hạn về không gian thời gian (vô biên, trường cửu)
=> Tô đậm đặc điểm của trái tim tình yêu: Trái tim tình yêu không hề đơn giản, nó là sự tổng hòa của
những tâm trạng phức tạp, thậm chí là đối nghịch nhau. Tất cả những điều đó đều tồn tại không phải
chỉ trong phút giây chốc lát mà là mãi mãi.
-Nhà thơ đúc kết triết lý về tình yêu ở hai câu thơ cuối:
+Đoạn 1: Xuất phát từ đôi mắt băn khoăn buồn của cô gái, chàng trai đã phơi bày toàn bộ cuộc đời
mình trước mắt cô => Mối quan hệ: Cô gái – cuộc đời chàng trai là hai khách thể cùng tồn tại.
+Đoạn 2: Cô gái – nữ hoàng của vương quốc trái tim chàng trai => Mối quan hệ: Sở hữu.
+Đoạn 3: Trái tim anh ở gần em như chính đời em vậy => Mối quan hệ: Gần như đồng nhất.
Thế nhưng ở cả ba khổ nhà thơ đều kết luận: Dù thế nào cô gái cũng không hề biết trọn, biết hết về
cuộc đời – trái tim – tình yêu của chàng trai.
=>Đúc kết triết lý mối quan hệ cuộc đời – trái tim – tình yêu
=>Logic lý trí trong thơ: Cuộc đời khai sinh ra tình yêu nhưng chính tình yêu mới làm cuộc đời thăng
hoa, mới biến điều hữu hạn thành vô hạn, biến điều bình dị hóa phi thường.
III.TỔNG KẾT
1.Nội dung
Bài thơ số 28 đòi hỏi con người hướng về một tình yêu hòa hợp về mặt tâm hồn. Tình yêu không bao
giờ có giới hạn. Muốn có hạnh phúc trong tình yêu, muốn có tình yêu trọn vẹn chỉ có một cách là luôn
khám phá cái bí ẩn, cái sâu xa của tình yêu.
2.Nghệ thuật
-Tagore đã vận dụng bút pháp hướng nội, thực hiện lối cấu trúc theo tầng bậc: từ thấp lên cao hoặc
ngược lại từ ngoài vào trong.


Trang 24


Tài liệu ôn tập Ngữ văn 11
– Nghệ thuật miêu tả thế giới nội tâm: Dùng hình ảnh “đôi mắt”
– Thủ pháp so sánh, tượng trưng, ẩn dụ.
– Chất suy tư triết lý: Các từ được lặp đi lặp lại: “if” (nếu), “only”(chỉ), “but”(nhưng) giả định rồi
khẳng định, nhiều câu tưởng như nghịch lý mà lại rất có lý (câu 3,4,5 hoặc 2 câu cuối).
– Giọng điệu vừa bóng bẩy, trữ tình nhưng đồng thời cũng đầy chất triết lý.
III. Tổng kết
- Bài thơ giàu tính triết lý, hướng về cái vô tận, chiêm nghiệm chiều sâu thế giới tâm hồn con người.
- Tình yêu là vô biên, không có giới hạn. Muốn có hạnh phúc phải biết khám phá, hiểu biết, hòa hợp
và tin yêu.

NGƯỜI TRONG BAO
_A.P.Sê-khốp_
1. Hình tượng “Người trong bao” – nhân vật Bê-li-cốp.
- Chân dung Bê-li-cốp: Điển hình cho kiểu người cố thu mình vào trong cái vỏ, một thứ “bao” có thể
ngăn cách, bảo vệ mình khỏi những ảnh hưởng của cuộc sống bên ngoài. Chân dung Bê-li-cốp được vẽ
bằng những nét kì quái nhưng rất cụ thể:
+ Lúc nào cũng đi “giày cao su”, “cầm ô” và “mặc áo bành tô ấm cốt bông” (những thứ có thể giúp
hắn bao học, giấu mình).
+ Mọi vật dụng đều được để trong những chiếc bao: “Ô hắn để trong bao, chiếc đồng hồ quả quýt cũng
để trong bao…và khi rút chiếc dao nhỉ, thì chiếc dao ấy cũng đặt trong bao. Cả bộ mặt… dường như
cũng ở trong bao…”.
+ “Hắn đeo kính râm, mặc áo bông chân, lỗ tai nhét bông và khi ngồi lên xe ngựa thì bao giờ cũng cho
kéo mui lên”. Nghĩa là hắn không muốn nhìn, không muốn nghe, không muốn để thế giới bên ngoài
tiếp xúc vào con người hắn. Quả là một sự thu mình tuyệt đối và đó cũng chính là “khát vọng mãnh
liệt” của hắn.
+ Ngay cả ý nghĩ hắn cũng cố giấu vào bao, không bao giờ hắn có ý kiến riêng trước bất cứ vấn đề

nhỏ, to nào.
- Tính cách Bê-li-cốp:
+ Nhút nhát, ghê sợ hiện tại nhưng tại ngợi ca quá khứ, ngợi ca những gì không bao giờ có thật.
+ Chỉ thích sống với những “cái rõ ràng” như thông tư, chỉ thị (cách sống giáo điều, rập khuôn như cái
máy vô hồn) và cảm thấy rầu rĩ trước những chuyện vi phạm khuôn phép, trái với lẽ thường.
+ Lúc nào cũng lo lắng, sợ hãi (Câu văn lặp đi lặp lại nhiều lần “nhớ lại xảy ra chuyện gì” cho thấy
hắn luôn tự suy diễn, phỏng đoán để tự tạo nên nỗi sợ hãi cho mình. Điều đó càng làm nổi bật tính
cách hèn nhát, quái đản của hắn).
+ Tính cách kì quái của hắn còn thể hiện một cách sinh động trong sinh hoạt và đời sống tình cảm
(buồng ngủ, quan hệ với bạn đồng nghiệp, chuyện tình yêu muộn màng….)
+ Một con người hèn nhát, cô độc, giáo điều, luôn thu mình trong vỏ bọc nhưng lại cảm thấy hài lòng,
thỏa mãn với lối sống cổ lỗ của mình. Anh ta tự nguyện, tự giác tuân thủ lối sống trong bao một cách
nghiêm túc và vì vậy anh ta chẳng cảm nhận được thái độ ghê sợ, khinh ghét của mọi người đối với
mình. Bê-li-cốp không hiểu cuộc sống và con người hiện tại, chỉ đắm chìm trong quá khứ, thu mình
một cách cô độc “trong bao”, tự mình làm khổ mình, làm khổ mọi người.
- Lối sống của Bê-li-cốp ảnh hưởng mạnh mẽ và dai dẳng đến cuộc sống tinh thần và hoạt động của
giáo viên và nhân dân thành phố.
+ Thái độ thận trọng, đa nghi khiến hắn luôn xét nét cuộc sống và hành vi của mọi người. Mọi người
sợ hắn “sợ nói to, sợ gửi thư, sợ làm quen, sợ đọc sách, giúp đỡ người nghèo, dạy học chữ…”. Hắn đã
khống chế cả trường, cả thành phố suốt mười lăm năm dai dẳng.
+ Kô-va-len-cô (em trai Va-ren-ca, người Bê-li-cốp thích nhưng còn đăn đo chưa chịu ngỏ lời cầu hôn
hắn sợ “nhớ lại xảy ra chuyện gì thì sao”) ghét cay ghét đắng Bê-li-cốp. Anh đã bị Bê-li-cốp chỉ trích
là sống “buông thả” không có “thể thống” khi anh mặc áo thêu ra đường, đi ngoài phố còn cầm theo
sách này sách nọ, lại còn cười xe đạp khi chưa có chỉ thị nào cho phép. Lối giáo huấn máy móc của
hắn khiến Kô-va-len-cô khó chịu dẫn đến gây gổ, to tiếng với hắn, đẩy hắn ngã xuống cầu thang.

Trang 25



Tài liệu bạn tìm kiếm đã sẵn sàng tải về

Tải bản đầy đủ ngay
×