Tải bản đầy đủ (.docx) (112 trang)

LUẬN VĂN THẠC SĨ LUẬT: Pháp Luật Đầu Tư Nước Ngoài Tại Việt Nam Qua Thực Tiễn Tỉnh Thái Nguyên

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (781.07 KB, 112 trang )

Luận Văn Tốt Nghiệp
Đề Tài: Pháp Luật Đầu Tư Nước Ngoài Tại Việt Nam Qua Thực Tiễn Tỉnh Thái Nguyên

MỤC LỤC

……………………………………… ………………..110

Lời Cảm Ơn
Sau hơn ba tháng nỗ lực thực hiện luận văn “Đầu tư nước ngoài tại Việt Nam
qua thực tiễn tại tỉnh Thái Nguyên” đã hoàn thành ngoài sự cố gắng hết mình của
bản thân, tôi còn nhận được sự động viên, giúp đỡ từ phái nhà trường, thầy cô, gia
đình, bạn bè, các cơ quan chức năng có liên quan của tỉnh Thái Nguyên.
Trước hết tôi xin gửi lời cảm ơn tới bố mẹ, gia đình đã tạo điều kiện thuận
lợi,động viên để tôi hoàn thành luận văn này.
Tôi xin gửi lời cảm ơn tới các thầy cô khoa Luật trường Đại Học Quốc Gia Hà
Nội đã truyền đạt những kiến thức quý báu cho tôi trong suốt quá trình học tập.Tôi
xin gửi lời cảm ơn tới ban lãnh đạo khoa Luật – chuyên ngày quốc tế, đã tạo điều
kiện để tối được làm và trình bầy bài luận văn này. Đặc biệt tôi xin gửi lời cảm ơn
chân thành sâu sắc tới TS. Nguyễn Lan Nguyên người đã tận tình hưỡng dẫn tôi
trong suốt quá trình làm luận văn.
Tôi xin gửi lời cảm ơn tới các ban, ngành, sở kế hoạch đầu tư, UBND, HĐND…
tỉnh Thái Nguyên, cơ quan đã giúp đỡ và cung cấp để tôi có được những số liệu cập
nhật và xắc thức nhất để bài luận văn của tôi được hoàn thành.

Cao Thị Thanh Huyền – K53 chuyên ngành quốc tế
1


Luận Văn Tốt Nghiệp
Đề Tài: Pháp Luật Đầu Tư Nước Ngoài Tại Việt Nam Qua Thực Tiễn Tỉnh Thái Nguyên


Xin cảm ơn bạn bè đã động viên và giúp đỡ tôi hoàn thành luận văn này.

Thái Nguyên, ngày

tháng 05 năm 2012
Sinh viên

Cao Thị Thanh Huyền.

Lời Nói Đầu
Trong nền kinh tế của mỗi quốc gia, vấn đề phát triển kinh tế luôn là vấn đề
trọng tâm, nhận được nhiều nhất sự chú ý của các cơ quan chức năng. Hoạt động
kinh doanh ở mỗi doanh nghiệp nào đều gắn liền với hoạt động tài chính và hoạt
động tài chính không thể tách khỏi quan hệ trao đổi tồn tại giữa các đơn vị kinh tế.
Trong khuôn khổ của nền kinh tế mở cửa ngày nay, cơ hội đầu tư và tiềm kiếm đầu
tư là một lĩnh vực thu hút của mọi doanh nghiệp. Nắm bắt thời cơ, vận dụng linh
hoạt các chính sách sẽ tạo ra môi trường đầu tư đầy thuận lợi cho mỗi địa phương,
doanh nghiệp và cho cả thì trường Việt Nam tiềm năng động.
Trong khuông khổ “kinh tế thị trường” toàn cầu hóa nền kinh tế Việt Nam đã có
những thay đổi đáng kể khung pháp lý, nhằm thu hút đầu tư tạo điều kiện thuận lợi
cho các doanh nghiệp trong xu thế mới. Song mọi vấn đề luôn tồn tại hai mặt, để
nhìn nhận vấn đề được tổng quan hơn, tôi đã mạnh dạn nghiên cứu đề tai “Đầu tư
nước ngoài tại Việt Nam qua thực tiễn tại tỉnh Thái Nguyên”. Tôi hy vọng thông
qua luận văn này nhằm cố gắng sáng tỏ những chính sách mơi, tính hiệu quả của
pháp luật đầu tư nước ngoài hiện hành của Việt Nam, không chỉ trên lý thuyết mà
được minh chứng qua chính tực tiễn tại tỉnh Thái Nguyên.

Cao Thị Thanh Huyền – K53 chuyên ngành quốc tế
2



Luận Văn Tốt Nghiệp
Đề Tài: Pháp Luật Đầu Tư Nước Ngoài Tại Việt Nam Qua Thực Tiễn Tỉnh Thái Nguyên

Xuất phát từ nhận thức rõ vài trò quan trọng của pháp luật trong đầu tư nước
ngoài nói riêng, và trong đời sống kinh tế - xã hội nói chung, tôi đã nghiên cứu đề
tài của mình trong tổng quan các chính sách chung, kết hợp với những chính sách
linh hoạt, chủ động của tỉnh Thái Nguyên, nhằm đưa pháp luật trở nên phù hợp
hơn với tỉnh nhà. Từ đó đưa ra những số liệu, bình luận về tình hình của tỉnh Thái
Nguyên trong những năm gần đây, để thấy được sự đúng đắn trong đổi mới pháp
luật Việt Nam. Tôi còn có những đề xuất nhằm hoàn thiện hơn nữa khung pháp lý
hiện hành. Tuy nhiên, trong thời gian có hạn và nhận thức của một sinh viên năm
cuối tôi không thể không có những yếu kém trong nhận thức, trình bầy luận văn.
Tôi rất mong nhận được sự góp ý, nhận xét của quý thầy, cô và các bạn để bài làm
của mình được hoàn thiện hơn.

Bảng từ viết tắt trong bài luận văn.

Chủ nghĩa xã hội
Hội đồng nhân dân
Ủy ban nhân dân
Giấy chứng nhận đầu tư
Khu công nghiệp
Giải phóng mặt bằng

CNXH
HĐND
UBND
GCNĐT
KCN

GPMB

Đầu tư nước ngoài

ĐTNN

Cao Thị Thanh Huyền – K53 chuyên ngành quốc tế
3


Luận Văn Tốt Nghiệp
Đề Tài: Pháp Luật Đầu Tư Nước Ngoài Tại Việt Nam Qua Thực Tiễn Tỉnh Thái Nguyên

Phần Mở Đầu
1. Tính cấp thiết của đề tài.
Trong quan hệ quốc tế hiện nay, cùng với sự phát triển của
khoa học kỹ thuật, kinh tế thị trường có vai trò ngày càng nổi bật
trong quá trình phát triển của lực lượng sản xuất. Nền kinh tế của
đất nước đang ngày càng pháp triển và có nhiều đổi thay đáng ghi
nhận. Trong cơ chế thị trường định hướng xã hội chủ nghĩa Việt
Nam đã và đang thể hiện rõ hơn vai trò của mình trên trường quốc
tế. Trong bức tranh kinh tế thời kì mở cửa này, vấn đề đầu tư là
một trong những lĩnh vực quan trọng và là tâm điểm của hàng loạt
chính sách, chiến lược, những cải cách mang tính chiến lược quốc
gia vùng hay địa phương.
Toàn cầu hoá kinh tế là một xu hướng khách quan, lôi cuốn
ngày càng nhiều các nước tham gia. vừa có ảnh hường tiêu cực,
vừa tích cực; là một quá trình vừa có hợp tác, vừa có đấu tranh.
Cao Thị Thanh Huyền – K53 chuyên ngành quốc tế
4



Luận Văn Tốt Nghiệp
Đề Tài: Pháp Luật Đầu Tư Nước Ngoài Tại Việt Nam Qua Thực Tiễn Tỉnh Thái Nguyên

Thế giới đang đứng trước nhiều vấn đề toàn cầu mà không một
quốc gia riêng lẻ nào có thể tự giải quyết được nếu không có sự
hợp tác đa phương. Những nét mới ấy trong tình hình thế giới và
khu vực tác động mạnh mẽ đến tình hình phát triển kinh tế và xã
hội ở nước ta.
Thực hiện quan điểm đổi mới của Đại hội Đáng lần thứ
Vl(1986), nền kinh tế Việt Nam đã có những bước chuyển rõ rệt,
chúng tạ đang từng bước hội nhập vào nền kinh tê khu vực và thế
giới. Tham gia tổ chức Hiệp hội các quốc gia Đông nam Á
(ASEAN) năm 1995, với các chương trình hợp tác cụ thể như:
Khu vực mậu dịch tự do ASEAN(AFTA); tham gia Hiệp định
khung về khu vực đầu tư ASEAN(AIA)-một trong những bước đi
quan trọng nhất để hội nhập kinh tế vào ASEAN, Việt Nam đã và
đang thu được những thành tựu về kinh tế. Cùng với việc tham
gia Diễn đàn hợp tác Châu Á - Thái Bình Dương (APEC) năm
1998; đã trở thành thành viên Tổ chức thương mại thế giới WTO,
Việt nam có những cơ hội lớn và cũng đầy thách thức lớn trước
mắt. Tận dụng những cơ hội, vượt qua những thách thức sẽ giúp
Việt Nam hòi nhập sâu hơn vào nền kinh tế khu vực và quốc tế,
rút ngắn khoáng cách về kinh tế giữa Việt Nam và các nước trong
khu vực cũng như trên thế giới.
Để làm được điều đó, trước hết Việt Nam phái tạo được một
môi trường đầu tư thuận lợi, hấp dẫn nhằm thu hút đầu tư nước
ngoài, trong đó môi trường pháp lý là quan trọng. Thông qua đầu
tư nước ngoài, chúng ta học hỏi được kinh nghiệm quản lý, tiếp

thu được công nghệ tiên tiến, nâng cao năng lực cạnh tranh của
các doanh nghiệp...Qua đó sẽ có kinh nghiệm tốt hơn cho quá
trình hội nhập kinh tế của Việt Nam.
Thực hiện các cam kết quốc tế. Việt Nam ngày càng nhận rõ
nghĩa vụ tuân thủ nguyên tắc đối xử quốc gia và quy chế tối huệ
quốc. Những điều đó tác động đến chính sách thu hút vốn đẩu tư
nước ngoài, các chính sách đối với lĩnh vực kinh tế này trong
quan hệ với các khu vực kinh tế khác.
Vì vậy, nghiên cứu đề tài “Pháp luật đẩu tư nước ngoài tại
Việt Nam trong điểu kiện hội nhập kinh tế khu vực ” là một yêu
cầu có tính cấp thiết.
2. Tình hình nghiên cứu đề tài.
Nghiên cứu về pháp luật đầu tư nước ngoài không còn phải quá
mới mẻ với Việt Nam hay các nước trên thế giới, xu thế toàn cầu
hóa đã đầy các nền kinh tế lại gần nhau hơn. Và các công trình
nghiên cứu, các bài viết, luận văn từ trình độ cử nhân, thác sĩ…
đều có những công trình nghiên cứu về đề tài này. Song để có thể
Cao Thị Thanh Huyền – K53 chuyên ngành quốc tế
5


Luận Văn Tốt Nghiệp
Đề Tài: Pháp Luật Đầu Tư Nước Ngoài Tại Việt Nam Qua Thực Tiễn Tỉnh Thái Nguyên

nhình nhận lĩnh vực đầu tư mà đặc biệt là đầu tư nước ngoài
không chỉ từ chính sách, hay những phân tích pháp luật mà đi vào
thực tiến, đánh giá cụ thể của địa phương để đưa ra cái nhìn tổng
quan hơn các chiến lược kinh tế vùng, kinh tế địa phương, đất
nước thì không phải là có nhiều bài viết.
Việc phân tích pháp luật nói chung có ý nghĩa dẫn chiếu tới

các hoạt động đầu tư cụ thể tại địa phương. Nhìn nhận từ góc độ
này, có thể thấy các vấn đề pháp lý trình bầy trong luận văn được
xem là những tiền đề cho hoạt động đầu tư của địa phương. Từ
đánh giá thực tiễn nhằm làm sang tỏ những vấn đề:
Thứ nhất: Minh chứng, so sánh, phân tích để làm rõ các yếu tố
chính trị-kinh tế, pháp lý mang tính tiền đề cho sự ra đời tồn tại,
phát triển các chế định cơ bản của pháp luật đầu tư. Thực trạng
pháp triển kinh tế của tỉnh Thái Nguyên một tỉnh kinh tế trọng
điểm của vùng Đông Bắc. Cả hai vấn đề này được đánh giá và
phân tích trong tương quan song hành và tương trợ lẫn nhau.
Thứ hai: Từ những kiến thức và thông tin có được về tình hình
phát triển kinh tế đất nước và kinh tế tỉnh Thái Nguyên để đi tới
nhứng phân tích, đánh giá về các chính sách, chiến lược việc áp
dụng pháp luật đầu tư trong cả nước nói chung và trong thực tiễn
của tỉnh Thái Nguyên nói riêng.
Thứ Ba: Trong phạm vi kiến thức của bản thân và những gì đã
được trang bị tại trường đại học, mong muốn có thể có những
phân tích, đánh giá, đề xuất, kiến nghị… Nhằm góp hoàn thiện
khung pháp luật đầu tư nói riêng, hệ thống pháp luật Việt Nam
nói chung.
Là một sinh viên sắp ra trường tôi mong muốn công trình
nghiên cứu này của mình sẽ có nhiều đóng góp cho quá trình hoàn
thiện pháp luật trên cơ sở phân tích được tính thực tiễn ĐTNN tại
tỉnh Thái Nguyên.
Mục đích nhiệm vụ nghiên cứu.
Nghiên cứu, đánh giá thực trạng pháp luật đầu tư nước ngoài
tại Việt Nam trong điều kiện hội nhập qua thực tiến tại tỉnh Thái
Nguyên nhằm làm sáng tỏ về mặt lý luận và thực tiến về vấn đề
đầu tư nói chung và đầu tư tại tỉnh Thái Nguyên nói riêng dựa
trên các nền tảng chính sách và pháp luật đã ban hành.

Để hoàn thành nhiệm vụ trên bài luận văn có những mục tiên cơ
bản sau:
Thứ nhất: Làm rõ các nền tảng về mặt lý luận trong pháp luật
đầu tư (cụ thể với luật đầu tư nước ngoài tại Việt Nam). Trên cơ
sở những học thuyết, lý luận có được đi vào đánh giá, phân tích
các hoạt động thực tế tại tỉnh Thái Nguyên. Đặt các phân tích này
trong tương quan tương đương, bổ sung cho nhau, để có cái nhìn
khách quan cho pháp luật đầu tư từ thực tiễn.
Cao Thị Thanh Huyền – K53 chuyên ngành quốc tế
6


Luận Văn Tốt Nghiệp
Đề Tài: Pháp Luật Đầu Tư Nước Ngoài Tại Việt Nam Qua Thực Tiễn Tỉnh Thái Nguyên

Thứ hai: Phân tích đánh giá pháp luật đầu tư mà cụ thể là luật
đầu tư 2005, các chính sách khuyến khích kinh tế, chiến lược linh
tế của quốc gia… trong bối cảnh hội nhập. Nhấn mạnh các điểm
đã làm được và chưa làm được trong quá trình đưa pháp luật vào
đời sống qua thực tiễn đầu tư tại tỉnh Thái Nguyên.
Thứ ba: Đưa ra môt số đánh giá, kiến nghị, đề xuất nhằm hoàn
thiện hơn khung pháp luật hiện hành.
Phạm vi nghiên cứu phương pháp nghiên cứu.
Đề tài nghiên cứu các nội dung liên quan đến các vấn đề pháp
lý cơ bản về đầu tư tại tỉnh Thái Nguyên trên cơ sở phân tích, dẫn
chiếu quá trình hình thành pháp luật đầu tư tại Việt Nam, các vấn
đề pháp lý cơ bản của pháp luật đầu tư hiện hành (chủ yếu là đầu
tư nước ngoài vào Việt Nam) trên cơ sở đó đưa ra các đề xuất,
kiến nghị của mình để hoàn thiện khung pháp luật hiện hành.
Phương pháp luận và phương pháp nghiên cứu

Luận văn được trình bày trên cơ sở nguyên tác và phương pháp
luân của Chủ nghĩa Mác - Lênin, sử dụng phượng pháp duy vật
biện chứng, duy vật lịch sử để giải quyết các vấn đề luận văn đặt
ra.
Luận văn còn sử dụng các phương pháp cụ thế sau: Phương
pháp hệ thống, phương pháp lịch sử, phương pháp so sánh và
phân tích, sơ đồ hoá.
Cơ cấu của đề tài.
Ngoài phẩn mở đầu, kết luận, phụ lục và tài liệu tham kháo,
luận văn gồm có ba chương sau:
Chương 1 Pháp luật đầu tư nước ngoài tại Việt Nam và tầm ảnh
hưởng thời kỳ hội nhập kinh tế.
Chương 2 Thực trạng đầu tư nước ngoài vào Việt Nam trong
thời kì kinh tế mở cửa qua thực tiễn tại tỉnh Thái Nguyên.
Chương 3 Đánh giá và đề xuất nhằm hoàn thiện khung pháp
luật đầu tư nước ngoài vào Việt Nam và cụ thể tại tỉnh Thái
Nguyên.

Cao Thị Thanh Huyền – K53 chuyên ngành quốc tế
7


Luận Văn Tốt Nghiệp
Đề Tài: Pháp Luật Đầu Tư Nước Ngoài Tại Việt Nam Qua Thực Tiễn Tỉnh Thái Nguyên

CHƯƠNG 1
PHÁP LUẬT ĐẦU TƯ NƯỚC NGOÀI TẠI VIỆT NAM
TRONG BỐI CẢNH HỘI NHẬP KINH TẾ QUỐC TẾ.
I.


Vài Nét Về Hội Nhập Kinh Tế Và Khái Niệm Đầu Tư Nước Ngoài.

Pháp luật đầu tư vốn được thừa nhận là lĩnh vực mới mẻ trong
nền kinh tế. Để tìm hiểu vấn đề này trước hết ta cần tìm hiểu một
số những khái niệm cơ bản của kinh tế đầu tư, mà qua thông qua
những khái niệm này ta đi tới những nhận định, đánh giá và tiếp
cận vấn đề đầu tư dưới góc độ pháp lý.
1. Khái niệm đầu tư.
Đầu tư là khái niệm đươc hiểu và nhắc tới rất nhiều trong đời
Cao Thị Thanh Huyền – K53 chuyên ngành quốc tế
8


Luận Văn Tốt Nghiệp
Đề Tài: Pháp Luật Đầu Tư Nước Ngoài Tại Việt Nam Qua Thực Tiễn Tỉnh Thái Nguyên

sống, kinh tế và cả trong pháp luật. Hoạt động đầu tư vào nền
kinh tế là hoạt động mang tính thường xuyên, liên tục có ý nghĩa
nền tảng cho xã hội. Hầu hết các tư tường, mô hình và lý thuyết
về kinh tế, tăng trường kinh tế đề trực tiếp hoặc gián tiếp thừa
nhận đầu tư và việc tích lũy vốn cho nền kinh tế và là một nhân
tố quan trọng trong việc gia tăng năng lực sản xuất, cung ứng
dịch vụ; làm tiền đề, động lực cho sự phát triển nền kinh tế. Có
nhiều cách định nghĩa về đầu tư xuất phát từ việc xem xét hoạt
động này từ nhiều phương diện khác nhau.
Theo Từ điển kinh tế học hiện đại: “Đầu tư là thuật ngữ được
dừng phổ biến nhất để mô tả các khoản chi tiêu (trong một thời
kỳ nhất định) để làm tăng hay duy trì tài sản thực”. Trên thực tế,
một định nghĩa chính xác hơn bao hàm được yếu tố trên là: đầu tư
là những khoản chi tiêu dành cho các dự án sản xuất hàng hóa,

những khoản chi tiêu này không dự định dùng cho tiêu dùng trung
gian. Các dự án đầu tư có thể có dạng bổ xung vào tài sản vật
chất và vốn nhân lực (tài sản con người) cũng như hàng hóa tồn
kho. [39,1] 1
Từ khái niệm đầu tư nêu trên cho thấy nội hàm của khải niệm
rất rộng, bao gồm cả đầu tư vào tài sản vật chất và nhân lực.
Từ phương diện kinh tế học vĩ mô, đầu tư chỉ việc gia tăng tư
bản nhằm tăng cường năng lực sản xuất tương lai.
Theo quan điểm cùa PGS.TS. Nguyễn Bạch Nguyệt thì “ Đầu tư
là quả trình sứ dụng cảc nguồn lực ở hiện tại để tìển hành các
hoạt động nhằm thu được các kết quả, thực hiện được các mục
tiêu nhất định trong tương lai. [38,2] 2 Các nguồn lực được sử
dụng có thề là tiền, là tài nguyên thiên nhiên, là sức lao động và
trí tuệ. Những kết quả đạt được có thể là sự gia tăng tài sản vật
chất, tài sàn tài chính hoặc tài sản trí tuệ và nguồn nhân lực có
đủ điều làm việc vởi năng suất cao hơn cho nền kỉnh tế và cho
toàn bộ xã hội”.
Dưới góc độ tài chính thì đầu tư là một chuỗi hoạt động chi
tiêu để chủ đầu tư nhận về một chuỗi các dòng thu.
Dưới góc độ tiêu dùng thì đầu tư là sự hy sinh tiêu dùng hiện
tại để thu được mức tiêu dùng nhiều hơn trong tương lai.
Về phương diện pháp lý , nhà lập pháp coi các lợi ỉch kinh tế
mà hoạt động đầu tư hướng đến là đương nhiên, không cần phải
nhắc đến. Tuy nhiên việc đạt được các lợi ích đó không thể bằng
mọi cách mà phải được kiểm soát và thực hiện theo một trình tự
pháp lý nhất định. Khoản 1 - Điều 3 - Luật Đầu tư 2005 nhìn nhận
1 David W. Pearce (2001), Từ điển kinh tế học hiện đại, NXB Chính trị quốc gia “các khái niệm cơ bản”
2 PGS.TS. Nguyễn Bạch Nguyệt (2008), Giáo trình Lập dự án đầu tư, NXB Đại học Kinh tế quốc dân, Hà Nội

Cao Thị Thanh Huyền – K53 chuyên ngành quốc tế

9


Luận Văn Tốt Nghiệp
Đề Tài: Pháp Luật Đầu Tư Nước Ngoài Tại Việt Nam Qua Thực Tiễn Tỉnh Thái Nguyên

về đầu tư: “Đầu tư là việc nhà đầu tư bỏ vốn bằng các loại tài
sản hữu hình hoặc vô hình để hình thành tài sản tiến hành các
hoạt động đầu tư theo quy định của Luật này và các quy định
khác của pháp luật có liên quan ”.
Như vậy có thể nhìn nhận về khái niệm đầu tư một cách chung
nhất là:

1



Sự hình thành các nguồn lực ở hiện tại để tiến hành các
hoạt động nào đó nhằm tích lũy về các kết quả trong
tương lai lớn hơn các ngụồn lực đã bỏ ra để đạt được các
kết quả đó hoặc đạt được các kỳ vọng ban đầu đã đặt ra
theo một trình tự pháp lý nhất định đã được định trước
nhằm hướng các hoạt động đầu tư vảo một khuôn khổ
pháp lý sao cho các hoạt động đó diễn ra một cách lành
mạnh và phù hợp với hệ thống kinh tế - chính trị - pháp
lý của mỗi quốc gia.



Đầu tư là hoạt động của mỗi quốc gia nhằm phát triển

kinh tế và đẩy mạnh đời sống xã hội. Song hoạt động đầu
tư cũng vô cùng phức tạp, cần tới những mô hình lập
pháp tiến bộ để điều phối và đưa họat động đầu tư vào
đúng quỹ đạo phát triển của nó.

Khái niệm pháp luật đầu tư.
Pháp luật đầu tư là một bộ phận quan trọng, không thể tách rời
của pháp luật kinh tế. Nó được hiểu là tổng hợp các quy phạm
pháp luật điều chỉnh các hoạt động đầu tư nhà đầu tư tại Việt
Nam và từ Việt Nam ra nước ngoài (Trong luận văn chỉ đề cập
đến hoạt động đầu tư tại Việt Nam).
Pháp luật về đầu tư không điều chỉnh các vấn đề thuộc phạm vi
điều chỉnh của mình thông qua một đạo luật duy nhất mà nó nằm
rải rác ở nhiều đạo luật khác nhau, tạo nên một cơ chế điều chỉnh
toàn diện. Các điều chỉnh pháp lý về đầu tư được thể hiện trong
một số văn bản quan trọng như: Hiến pháp 1992, Luật đầu tư
2005 và các văn bản hướng dẫn thi hành, các luật chuyên ngành
(Luật chứng khoán sửa đổi 2010, Luật xây dựng 2003, Luật đất
đai 2001, Luật tài nguyên môi trường 2005, Luật đấu thầu

Cao Thị Thanh Huyền – K53 chuyên ngành quốc tế
10


Luận Văn Tốt Nghiệp
Đề Tài: Pháp Luật Đầu Tư Nước Ngoài Tại Việt Nam Qua Thực Tiễn Tỉnh Thái Nguyên

2005...) [28.29.30.31.32,3] 3 . Việc điều chỉnh các hoạt động, hành
vi đầu tư về cơ bản được Luật đầu tư và các văn bản hướng dẫn
thi hành đảm nhận. Tuy nhiên khi các hoạt động đó có liên quan

đến một lĩnh vực chuyên ngành nào đó thì ngoài các quy phạm
của Luật đầu tư, người ta còn phản dẫn chiếu các luật chuyên
ngành để xem xét, giài quyết. dù về đối tượng và nội dung điều
chinh, chủ động về mặt xây đựng quy phạm để điều chỉnh kịp thời
các quan hệ xã hội phát sinh trong lĩnh vực đầu tư.
Luật đầu tư hiện nay bên cạnh những thành tựu đạt được nhằm
đẩy mạnh đầu tư, tạo một hành lang thông thoáng cho các hoạt
động đầu tư của nước ngoài vào Việt Nam. Luật đầu tư còn tồn tại
rất nhiều những nhược điểm cần khắc phục trong thời gian tới đó
là: Như việc có rất nhiều luật cùng tham gia điều phối một lĩnh
vực cũng làm tản mạn và khiến việc áp dụng gặp nhiều khó khăn,
hệ thống văn bản hướng dẫn còn nằm rải rác không tập trung…
đây sẽ là trở ngại lớn trong quá trình thực tiễn áp dụng luật.
2

Khái niệm hội nhập kinh tế.
Hội nhập kinh tế là sự gắn kết nến kinh tế của một nước vào
các tổ chức hợp tác kinh tế khu vực và toàn cầu, trong đó các
thành viên quan hệ với nhau theo những quy định chung. Sau
chiến tranh thế giới lần thứ hai đã xuất hiện các tổ chức như liên
minh Châu Âu, Hội đồng tương trợ kinh tế (COMECOM). Hiệp
định chung về thuế quan và thương mại (GATT). Từ những năm
80 trở lại đây, tiến trình này phát triển mạnh cùng với xu hướng
toàn cầu hóa đời sống kinh tế, thể hiện ở sự xuất hiện nhiều tổ
chức liên kêt kinh tế khu vực và toàn cẩu như AFTA, NAFTA,
EU. APEC. WTO...
Trước kia khái niệm hội nhập kinh tế chỉ được hiếu đơn thuần
là những hoạt động giảm thuế, mở cửa thị trường. Hội nhập kinh
tế ngày nay được hiểu là việc một quốc gia thực hiện chính sách
kinh tế mở, tham gia các định chế kinh tế - tài chính quốc tế, thực

hiện tự do hóa và thuận lợi hóa thương mai. đầu tư.
Trên thế giới có rất nhiều tài liệu viết về khái niệm hội nhập
kinh tế quốc tế. Nhiểu người cho rằng Hội nhập kinh tế quốc tế là
quá trình tự do hóa thương mại và đầu tư.
Như vậy, có thể hiểu hội nhập kinh tế quốc tê là việc các nước
(có thể là một khu vực ví dụ: ASEAN, có thể là hai nước, có thế
là một nước với một nhóm các nước, ví dụ: Việt Nam – EU, hoặc
toàn thế giới) đi tìm kiếm một số điều kiện nào đó mà họ có thể
3 Các Luật liên quan tới vấn đề đầu tư: Luật chứng khoán sửa đổi 2010, Luật xây dựng 2003, Luật đất đai 2001, Luật tài
nguyên môi trường 2005, Luật đấu thầu 2005

Cao Thị Thanh Huyền – K53 chuyên ngành quốc tế
11


Luận Văn Tốt Nghiệp
Đề Tài: Pháp Luật Đầu Tư Nước Ngoài Tại Việt Nam Qua Thực Tiễn Tỉnh Thái Nguyên

thống nhất được với nhau kể cả dành cho nhau những ưu đãi, tạo
ra những điều kiện công bằng, có đi có lại trong quan hệ hợp tác
với nhau nhằm khai thác trên cơ sở đổi bên cùng có lợi.
Hội nhập kinh tế quốc tế, tạo nên sự liên kết giữa các nền kinh
tế quốc tế, đẩy tới mức độ chuyên sâu của phân công lao động
quốc tế: từ phân công theo sản phẩm chuyển dần sang phân công
theo chi tiết của sản phẩm. Quá trình hội nhập kinh tế quốc tế làm
xuất hiện quá trình tự do di trú, tự do di chuyển sức lao động giữa
các quốc gia trong quan hệ kinh tế quốc tế và đặc biệt là tự do
lưu chuyển tư bản.
Hội nhập kinh tế quốc tế có thể diễn ra dưới những hình thức
như: các Hiệp định kinh tế, thương mại song phương (Hiệp định

Thương mại Việt Nam – Hoa kỳ; các khối kinh tế khu vực như:
EU, NAFTA, AFTA, APEC… và các tổ chức kinh tế toàn cầu như
WTO, IMF, WB…)
Có thể hiểu Hội nhập kinh tế là quá trình tự giác tham gia các
quan hệ kinh tế toàn cầu, tuân thủ các luật chơi chung và sự phân
công lao động quốc tế.
Những khái niệm trên đã giúp cho chúng ta có cái nhìn tổng
quan hơn về đầu tư nói chung và bước đầu có những nhận thức về
đầu tư nước ngoài, hội nhập kinh tế, một lĩnh vực đang nhận được
rất nhiều sự quan tâm của xã hội. Từ đó, những kiến thức cơ bản
này sẽ là nền tảng để chúng ta đi vào tìm hiểu và nghiên cứu các
vấn đề liên quan tới đầu từ nước ngoài tại Việt Nam, mà đặc biết
hơn là những chính sách liên quan tới đầu từ nước ngoài tại Việt
Nam trong thời kỳ kinh tế hội nhập ngày nay. Tôi hy vọng đây sẽ
là những kiến thức cơ bản và tổng quan nhất, để mọi người có thể
tiếp cận về vấn đề nhậy cảm này một cách tích cực, chủ động.
II.
1.

Đầu Tư Nước Ngoài Tại Việt Nam Và Những Vấn Đề Pháp Lý Liên Quan.

Cơ sở kinh tế của pháp luật đầu tư Việt Nam.

Luật đầu tư là một bộ phận quan trọng không thể tách rời của
hệ thống pháp luật Việt Nam. Hệ thống pháp luật đó được quy
định một cách rõ ràng và chặt chẽ bởi hạ tầng kinh tế của một
nước đang có nền kinh tế chuyển đổi theo hướng xây đựng nền
kinh tế thị trưởng định hướng CNXH. Pháp luật đầu tư là hình
ảnh phản chiếu các quan hệ kinh tế - xã hội trong lĩnh vực đầu tư
của nền kinh tế. Có thể khẳng định một điều rằng: Quy trình lập

pháp nói chung và xây dựng pháp luật về đầu tư nói riêng chịu
ảnh hưởng sâu sắc của các quan hệ kinh tế trong bối cảnh xây
dựng nền kinh tế thị trường. Các quan hệ thị trường được thể hiện

Cao Thị Thanh Huyền – K53 chuyên ngành quốc tế
12


Luận Văn Tốt Nghiệp
Đề Tài: Pháp Luật Đầu Tư Nước Ngoài Tại Việt Nam Qua Thực Tiễn Tỉnh Thái Nguyên

một cách gián tiếp qua các nội dung điều chỉnh của pháp luật về
đầu tư manh nha là từ Điều lệ đầu tư nước ngoài ban hành kèm
theo Nghị định 115/CP ngày 18/4/1977, sau đó là Luật Đầu tư
nước ngoài 1988 (được sửa đổi, bổ sung và các năm 1990, 1993,
1996 và 2000) tiếp đến là Luật khuyến khích đầu tư trong nước
1994 (được sửa đổi vào năm 1998), và hiện này là Luật đầu tư
2005. Bên cạnh đó là hàng loạt các Luật chuyên ngành điều chỉnh
các nội dung liên qua đến đầu tư như đã trình bày ở phần trên.
Điều này cho thấy một cục diện của Việt Nam ngày nay, với
những ảnh hưởng sâu sắc về kinh tế trong thời kỳ hội nhập. Nhằm
bắt kịp với thời đại và đẩy mạnh kinh tế quốc gia, nước ta đã ban
hành hàng loạt các văn bản Luật, dưới Luật… vào điều tiết kinh
tế, tạo khung pháp lý vững chắc và thông thoáng cho hoạt động
đầu tư nói riêng và pháp triển kinh tế nói chung. Điều dễ nhận
thấy trong các quy phạm pháp luật này là đều đang tập trung
chứng minh rằng: Nền kinh tế của chúng ta đang rất mong đợi sự
chảy vào của các nguồn FDI, những bàn tay dựng xây của bà con
Việt kiều, đang ngóng trông sự trỗi dậy và phát triển của các
doanh nghiệp dân doanh thông qua việc đầu tư nhiều hơn, tập

trung hơn, hiệu quả hơn vào nền kinh tế nước nhà; Những quy
phạm đó cũng mong muốn tạo ra một sân chơi thực sự bình đẳng
nơi các nhà đầu tư đặt vào đó sự tin tưởng và kỳ vọng phát triển
của nền kinh tế, sự gia tăng chất xám và tiền của để làm giàu cho
bản thân và xã hội; Mong muốn hội nhập sâu sắc và toàn diện hơn
vào đời sống kinh tế quốc tế cũng là điều mà pháp luật đầu tư
đang phản ánh trong nội hàm của mình.
Trong thời kỳ kinh tế mở cửa, đã khép lại thời kỳ “ bế quan tỏa
cảng”, hay chỉ bắt tay làm bạn với các quốc gia trong cùng khối
CNXH… Giờ đây Việt Nam đang hướng tới một sân chơi mới
rộng lớn hơn “thế giới”, đang thay đổi từng ngày nhằm tạo ra môi
trường đầu tư thông thoáng, bình đẳng, chuyên nghiệp và hiệu
quả. Để pháp huy hiểu quả đó, pháp luật là lĩnh vực tiên phong đi
đầu trong đổi mới, nhằm đưa ra khung pháp lý tối ưu, tạo niềm tin
với các bạn hàng và nhà đầu tư.
Niềm tin vào thể chế, vào bộ máy công quyền vì thế cũng dần
được cải thiện. Tất cả đều dường như đều muốn minh chứng một
điều rằng những khát khao được pháp luật bênh vực, trấn an, che
chở từ phía nền kinh tế đã dần được thỏa mãn và ngày càng được
đáp ứng tốt hơn bởi pháp luật và bộ máy công quyền nói chung,
pháp luật đầu tư và hệ thống cơ quan quản lý nhà nước về đầu tư
nói riêng. Pháp luật đầu tư của nước ta là câu chuyện cũ nhưng
vẫn còn được nhắc tới và hoàn thiện từng ngày từng giờ, kinh tế
Việt Nam đang dần chuyển mình để hội nhập, song vẫn còn đâu
đó những tàn tích của thời kỳ trước. Không phải không có những

Cao Thị Thanh Huyền – K53 chuyên ngành quốc tế
13



Luận Văn Tốt Nghiệp
Đề Tài: Pháp Luật Đầu Tư Nước Ngoài Tại Việt Nam Qua Thực Tiễn Tỉnh Thái Nguyên

bất cập trong khâu lập pháp, điều đáng nhìn nhận ở đây là những
thay đổi vượt bậc để đưa nền kinh tế thuần nông trước đây thành
nền kinh tế thị trường định hướng XHCN. Song có lẽ kinh tế Việt
Nam sẽ cần hơn nữa sự bồi đắp hoàn thiện những khiếm khuyết,
hoàn thiện và tối ưu hóa, chuyên nghiệp hóa bộ máy công quyền
về quản lý đầu tư thông qua việc tập hợp, rà soát và phát điển hóa
các quy phạm pháp luật về đầu tư.
2.

Cơ sở chính trị - pháp lý của pháp luật đầu tư Việt Nam.

Pháp luật là sự phản ánh các quy luật kinh tế và thực trạng
kinh tế xã hội của chúng ta trong giai đoạn hiện nay với những
đặc điểm dễ có thể nhận ra. Tuy nhiên, nếu chỉ nói đến sự ảnh
hưởng đó không thôi thì thực sự là một thiếu sót vì ngoài việc bị
quy định bời các yếu tố kinh tế, pháp luật nói chung và pháp luật
đầu tư nói riêng còn mang trong mình những đặc trưng, những
khởi nguồn chính trị - pháp lý. Ảnh hưởng của yếu tố chính tri,
pháp lý được đề cập ở đây là sự ảnh hưởng của các văn kiện, chủ
trương, đường lối, chính sách mang tính “ tiên phong” của Đảng
làm tiền đề vật chất cho sự ra đời và đâm chồi vào đời sống kinh
tế - xã hội của các đạo luật, các học thuyết pháp lý, các tư tưởng
lập pháp, các đạo luật được du nhập. Việc xây dựng ban hành các
văn bản quy phạm pháp luật có thể chịu ảnh hưởng ở những mức
độ khác nhau tùy vào bối cảnh “ khai sinh” của nó. Tuy nhiên, sự
ảnh hưởng đó là một thực tế rất khách quan, không thể phủ nhận.
Trước hết, chúng ta cần xem xét đến hệ thống các văn kiện của

Đảng trong giai đoạn đổi mới có những ảnh hường quan trọng như
thế nào đối với sự hình thành và ra đời của hệ thống pháp lý về
đầu tư tại Việt Nam. Như các phần trên đã trình bày, pháp luật về
đầu tư được manh nha từ những năm cuối thập kỷ 70 với sự ra đời
của Điều lệ đầu tư nước ngoài ban hành kèm theo Nghị định
115/CP ngày 18/4/1977. Theo đó, Chính phủ Việt Nam chấp thuận
đầu tư trực tiêp nước ngoài tại Việt Nam trên nguyên tắc tôn
trọng độc lập chủ quyền và toàn vẹn lãnh thổ cùa Việt Nam và
các bên cùng có lợi mà không phân biệt chế độ kinh tế chính trị
của quốc gia, của nhà đầu tư.
Mục đích khuyến khích đầu tư nước ngoài đã được thể hiện một
cách rõ ràng. Trong bối cảnh của nền kinh tế kế hoạch tập trung,
nhưng Điều lệ đầu tư năm 1977 đã tạo ra một môi trường pháp lý
đặc thù của một nền kinh tế tự do đối với hoạt động đầu tư nước
ngoài tại Việt Nam.
Thực ra, xu hướng thu hút đầu tư nước ngoài cũng đã được gợi
mở ngay tại bản “Phương hưởng, nhiệm vụ và mục tiêu chủ yếu
của kế hoach 5 năm 1976 - 1980 ”. Tại văn kiện này, chúng ta đã
Cao Thị Thanh Huyền – K53 chuyên ngành quốc tế
14


Luận Văn Tốt Nghiệp
Đề Tài: Pháp Luật Đầu Tư Nước Ngoài Tại Việt Nam Qua Thực Tiễn Tỉnh Thái Nguyên

nhấn mạnh rất rõ: Trong kể hoạch 5 năm này phải cải tiến chính
sách giá cả, chính sách tiền lương và thu nhập, giải quyết đúng
đắn mối quan hệ giữa giá cả, tiền lương và sức mua của đồng
tiên, cài tiến chính sách đầu tư, cải tiến các chính sách khuyến
khích sản xuất nông nghiệp, lâm nghiệp, ngư nghiệp, cải tiến tổ

chức và phương thức hoạt động của thương nghiệp, tài chính,
ngân hàng...
Tẩt cả những việc cải tiến này phải được tiến hành đồng bộ và
phải nhằm phục vụ sản xuất. Tiếp đó, văn kiện này cũng nhấn
mạnh: “Trong khi dựa vào sức mình là chính để phát huy tới mức
cao nhất năng lực sản xuất hiện có, chúng ta ra sức tăng cường
quan hệ kinh tế với các nước Xã hội chủ nghĩa anh em và với các
nước khác”. Như vậy có thể nhận thấy rằng mặc dù còn chưa thực
sự mạnh dạn trong việc khẳng định phải thúc đẩy đầu tư nước
ngoài tại Việt Nam trong giai đoạn này như một sự cần thiết
khách quan của một nền kinh tế lạc hậu thuần nông muốn vươn
lên, như một “cú hích” từ ngoại lực bên ngoài để vực dậy nền
kinh tế vốn đã bị chiến tranh giày xéo làm cho ốm yếu, nhưng
tinh thần của bản “ Phương hướng, nhiệm vụ và mục tiêu chủ yếu
của kế hoach 5 năm 1976 - 1980 ” đã thể hiện sự cần thiết phải có
sự đổi thay từ bên trong thiết chế thông qua việc “ cải tiến chính
sách đầu tư” và tăng cường hơn nữa các quan hệ kinh tế với nước
ngoài để tăng cường đầu tư cho sản xuất hàng hóa, cung ứng các
dịch vụ công.
Mặc dù bản Điều lệ nói trên không phát huy được đáng kể giá
trị điều chỉnh của nó trong thực tế đời sổng kinh tế tại thời điểm
đó, tuy nhiên sự ra đời của nó là một bước ngoặt quan trọng làm
tiền đề cho sự pháp điển hóa hàng loạt các văn bản pháp luật về
đầu tư sau này.
Tiếp theo tinh thần của các văn kiện Đại hội đại biểu toàn quốc
lần thứ IV, Đại hội Đảng V tiếp tục khẳng định sự cần thiết phải
tạo ra một khung pháp lý về đầu tư, cụ thể là tại “ Phương hướng,
nhiệm vụ và những mục tiêu chủ yếu về kinh tế và xã hội trong 5
năm (1981 - 1985) và những năm 80 ”.
Báo cáo của Ban Chấp hành Trung ương Đảng tại Đại hội đại

biểu toàn quốc lần thứ V đã khẳng định: “ Sớm ban hành các
chính sách về đầu tư, về tín dụng, về cung ứng nguyên liệu, phế
liệu, về tiêu thụ sản phẩm, về giá cả. Tăng cường trang bị kỹ
thuật, bảo đảm cung ứng vật tư, tạo thêm nguồn nguyên liệu
trong nước, mở rộng kinh doanh xuất, nhập khẩu và hợp tác sản
xuất với nước ngoài; phân công và hiệp tác sản xuất hợp lý trong
từng ngành, từng địa phương và trong cả nước, vận dụng các đòn
bẩy kinh tế để khuyến khích đẩy mạnh sản xuất hàng tiêu dùng,
đặc biệt là phát triển rộng rãi tiểu công nghiệp, thủ công nghiệp,

Cao Thị Thanh Huyền – K53 chuyên ngành quốc tế
15


Luận Văn Tốt Nghiệp
Đề Tài: Pháp Luật Đầu Tư Nước Ngoài Tại Việt Nam Qua Thực Tiễn Tỉnh Thái Nguyên

từ những ngành, nghề cổ truyền đến những ngành, nghề mới ”.
Tinh thần này được tiếp tục củng cố và khẳng định tại Đại hội
đại biểu toàn quốc lần thứ VI của Đảng năm 1986. Tại bản
“Phương hướng, mục tiêu chủ yếu phát triển kinh tế, xã hội trong
5 năm 1986-1990” Báo cáo của Ban Chấp hành Trung ương Đảng
Cộng sản Việt Nam tại Đại hội đại biểu toàn quốc lần thứ VI của
Đảng đã khẳng định: “ Nhất thiết phải sắp xếp lại các cơ sở sản
xuất hiện có, điều chỉnh lớn cơ cấu đầu tư, bổ trí hợp lý quan hệ
giữa tích luỹ và tiêu dùng, đẩy mạnh cải tạo xã hội chù nghĩa, sử
dụng đúng đắn các thành phần kinh tế, trong đó kinh tế quốc
doanh giữ vai trò chủ đạo, nhằm khai thác mọi khả năng phát
triển sản xuất, nhất là sản xuất nông, lâm, ngư nghiệp, tiểu, thủ
công nghiệp và mở mang dịch vụ ”.

Bước vào thập kỷ 1980, nước ta lâm vào tình trạng khủng
hoảng kinh tế trầm trọng, cơ chế quản lý tập trung, quan liêu, bao
cấp đã cản trờ sự phát triển của nền kinh tế. Rất nhiều các đơn vị
kinh tế sản xuất cầm chừng, thậm chí đóng cửa hoặc giải thể, đổ
vỡ tín dụng liên tiếp xảy ra ở nhiều nơi gây ảnh hưởng rất xấu tới
tình hình kinh tế xã hội. Trong khi đó, hàng loạt các ngành có ưu
thế như: công nghiệp chế biến, công nghiệp tiêu dùng, gia công
lắp ráp... lại không được Nhà nước quan tâm đúng mức, cơ sở kỹ
thuật lạc hậu và tất cả đều ở trong tình trạng thiểu vốn trầm
trọng. Năm 1986 lạm phát lên tới trên 700%.
Đứng trước bối cảnh đất nước như vậy, Đại hội Đảng toàn quốc
lần thứ VI đã đề ra những chính sách hết sức đúng đắn, đánh dấu
bước chuyển biến quan trọng, đưa nền kinh tế nước ta thoát khỏi
khủng hoảng, mở ra công cuộc " đổi mới" toàn diện trên mọi mặt
của đời sống kinh tế - xã hội, đặc biệt là trên lĩnh vực kinh tế. Cụ
thể hoá đường lối chỉ đạo của Đảng là mở rộng giao lưu quốc tế
để thu hút vốn đầu tư nước ngoài nhằm phát triển kinh tế đất
nước. Do vậy, thực hiện Nghị quyết số 19 của Bộ Chính ữị ngày
17/7/1984 và Nghị quyết Hội Nghị Ban Chấp hành Trung ương
lần thứ 7 (khoá V) ngày 20/12/1984 về việc bổ sung và hoàn thiện
Điều lệ đầu tư đã ban hành năm 1977, tiến tới xây dựng một bộ
Luật Đầu tư hoàn chỉnh, tại kỳ họp thứ 2 Quốc hội khoá 8 đã
thông qua Luật Đầu tư nước ngoài tại Việt Nam (Sau đây gọi là
Luật Đầu tư nước ngoài năm 1988). Có thể nói sự ra đời của Luật
Đầu tư nước ngoài tại Việt Nam năm 1988 xuất phát từ những yêu
cầu khách quan của sự vận động xã hội, nó đã tạo ra được một
môi trường pháp lý cao hơn để thu hút vốn đầu tư nước ngoài vào
Việt Nam.
Luật Đầu tư nước ngoài năm 1988 được soạn thảo dựa trên nội
dung cơ bản của Điều lệ đầu tư năm 1977, xuất phát từ thực tiễn

Việt Nam và tham khảo kinh nghiệm của các nước khác trên thế

Cao Thị Thanh Huyền – K53 chuyên ngành quốc tế
16


Luận Văn Tốt Nghiệp
Đề Tài: Pháp Luật Đầu Tư Nước Ngoài Tại Việt Nam Qua Thực Tiễn Tỉnh Thái Nguyên

giới. Luật Đầu tư nước ngoài tại Việt Nam năm 1988 đã đáp ứng
được mong mỏi của các nhà đầu tư nước ngoài. Để điều chỉnh hợp
lý hơn các quan hệ đầu tư nước ngoài tại Việt Nam, luật này đã
được sửa đổi bổ sung vào các năm 1990, 1993,1996 và 2000.
Ngoài việc huy động các nguồn lực từ bên ngoài nhằm tạo ra
một ngoại lực nhằm xoay chuyển thực tế khủng hoàn g của nền
kinh tể. Tuy nhiên không thể dựa hoàn toàn vào các nguồn lực ấy
để mưu cầu một sự phát triển và thịnh vượng bền lâu đổi vởi nền
kinh tế. Vì lẽ đó trong cơ cấu đầu tư của chúng ta cũng cần tập
trung hơn vào việc phát huy nội lực nhằm tạo ra một cơ cấu cân
bằng hơn, hợp lý hơn đổi với nền kinh tế.
Trong bản Phương hướng, nhiệm vụ và những mục tiêu chủ
yếu về kinh tế và xã hội trong 5 năm (1981 - 1985) và những năm
80 đã khẳng định: “ Một mặt, phải tranh thủ các nguồn vốn bên
ngoài với mức cao nhất; mặt khác, ở trong nước, bằng những chủ
trương và chính sách mới, chúng ta phát huy hơn nữa mọi khả
năng về nguồn vốn của tất cả các ngành, các địa phương và cơ
sở, của các thành phần kinh tế. Nguồn vốn ấy phải được khai
thác từ những thế mạnh hiện có của nền kinh tế ”.
Xuất phát từ nhu cầu mang tính khách quan đó, đến năm 1994,
chúng ta đã cho ra đời Luật khuyến khích đầu tư trong nước

(được sửa đổi, bổ sung vào các năm 1988 và 2000). Kể từ thời
điểm này các hoạt động đầu tư trong nước được khoác lên mình
một chiếc áo pháp lý mới để có thể đứng cạnh các hoạt động đầu
tư nước ngoài vốn đã nhận được nhiều ưu ái về điều chỉnh pháp
lý. Cho đến thời điểm này, pháp luật đầu tư điều chỉnh hai lĩnh
vực song song là đầu tư nước ngoài và đầu tư trong nước. Trong
“Chiến lược phát triển kinh tế xã hội 2001 - 2010 ”, Đảng ta cũng
đã thừa nhận yêu kém đó là: môi trường đầu tư, kinh doanh còn
nhiều vướng mắc, chưa tạo điều kiện và hỗ trợ tốt cho các thành
phần kinh tế phát triển sản xuất, kinh doanh.
Đảng và nhà nước ta đã nhận thức rõ về nhu cầu khách quan
hiện nay là việc cần hình thành một cơ chế đầu tư mới bình đẳng
và công bằng hơn khuyến khích đầu tư, nhằm phát triển kinh tế
trong nước vốn đang rất cần vốn. Đây chính là yếu tố chính trị
quan trọng khiến Đảng ta đi tới việc hợp nhất luật đầu tư nước
ngoài và luật khuyến khích đầu tư trong nước thành một bộ luật
thống nhất Luật đầu tư 2005. Kể từ thời gian này các vấn đề về
đầu tư mới được điều chỉnh bằng một bộ luật chung và thống
nhất. Bằng bước phát triển này, thì môi trường đầu tư cũng được
mở rộng hơn, các vấn đề về đầu tư được cụ thể hóa, bình đẳng
trong mặt chính sách, tạo cơ hội cho nhà đầu tư nước ngoài vào
Việt Nam.
Cơ sở kinh tế hay cơ sở pháp lý trên đây đều cho thấy sự ảnh
Cao Thị Thanh Huyền – K53 chuyên ngành quốc tế
17


Luận Văn Tốt Nghiệp
Đề Tài: Pháp Luật Đầu Tư Nước Ngoài Tại Việt Nam Qua Thực Tiễn Tỉnh Thái Nguyên


hưởng của thể chế, chính sách tới vấn đề phát triển đầu tư và
ngược lại những nhu cầu cấp thiết của xã hội, “ sức nóng” về môi
trường đầu tư, xu thế hội nhập tất yếu cũng là bước đệm để hình
thành pháp luật đầu tư. Mối quan hệ , ảnh hưởng của hai lĩnh vực
này là song hành và tương tác với nhau. Việc hoàn thiện khung
pháp lý là cơ sở hạ tầng cho một xã hội Việt Nam mới, đang
chuyển mình để đón gió đầu từ đầy mạnh bạo, tích cực. Khung
pháp lý thông thoáng cùng chính sách điều phối hoàn thiện, bộ
máy công quyền phục vụ chuyên nghiệp luôn là vấn đề mà các
nhà đầu tư mong mỏi.
Từ những nhận thức đúng đắn, Đảng và chính phủ ta đã có
những bước đi táo bạo mà chính xác. Với khẩu hiệu “ Việt Nam
muốn làm bạn với các nước trên thế giới ” sự ra đời của luật đầu
tư 2005 đã đẩy mạnh kinh tế nói chungvà kinh tế đầu tư nói riêng.
Điều này, cũng cho thấy những thay đổi đúng với thời cuộc, tằng
nguồn vốn cho hoạt động đầu tư sản xuất, tận dụng vốn đầu tư
không chỉ trong mà còn ngoài nước, yếu tố cần thiết cho nền kinh
tế đang phát triển của nước ta.
3.

Sự ra đời và phát triển của luật đầu tư tại Việt Nam.



Sự ra đời của bản Điều lệ về đâu tư trực tiếp nước
ngoài tại Việt Nam năm 1977.

Đầu tư nước ngoài nói chung và đầu tư trực tiếp nước ngoài nói
riêng là vấn đề được Đảng và Nhà nước ta quan tâm. Trong những
điểu kiên, hoàn cảnh kinh tế xã hội, chính trị, tư tướng hết sức

khác biệt so với hiện nay. Văn bản có tính pháp quy đầu tiên về
đầu tư trực tiếp nước ngoài cũng đã được ban hành. Đó là " Điều
lệ đầu tư nước ngoài ở nước CHXHCNVN " được ban hành kèm
theo Nghị định số I 15/HĐCP ngày 18/04/1977 của Hội đổng
chính phủ. Mặc dù được ban hành nhưng thực tế trong khoáng
thời gian gần 10 năm, bán Điều lệ này đã bị " lãng quên" do tính
bất câp cá về mặt chủ quan và khách quan của nó.
Ở thời điểm đó, nền kinh tế nước ta vần đang áp đụng cơ chế
quản lý ở dạng tập trung, quan liêu, bao cấp và cơ cấu nền kinh tế
chí dựa trên hai hình thức sở hữu chính là sở hữu Nhà nước và sở
hữu tập thể. Do vậy không thể tồn tại một môi trường kinh doanh,
môi trường pháp ]ý, thị trường vốn... cho các hoạt động của nền
kinh tế thị trường. Bên cạnh đó về phương diện chính trị, nước ta
lúc đó đang nằm trong khối xã hội chủ nghĩa bị Mỹ tiến hành bao
vây cấm vận, chúng ta chưa có mối quan hệ tốt đẹp với các nước
ASEAN và các nước ngoài khối XHCN khác.
Cao Thị Thanh Huyền – K53 chuyên ngành quốc tế
18


Luận Văn Tốt Nghiệp
Đề Tài: Pháp Luật Đầu Tư Nước Ngoài Tại Việt Nam Qua Thực Tiễn Tỉnh Thái Nguyên

Thuế, thuế suất lợi tức đối với doanh nghiệp có vốn đầu tư
nước ngoài được quy định từ 30-50%. Nghị định số I 15/CP tuy
chưa phải là văn bản có hiệu lực cao nhất trong hệ thống pháp
luật Việt Nam nhưng nó đã thể hiện phần nào thái độ của Nhà
nước Việt Nam mong muốn có sự đầu tư của các nhà đầu tư nước
ngoài và là một văn bán chứa đựng nhưng quy định mang tính thử
nghiệm táo bạo ở thời điểm đó. Mặc dù Nghị định số 115/CP

không phát huy được hiệu quá của nó nhưng có thể nói đó là bước
đầu tiên của nhận thức và các kỹ thuật lập pháp đối với các vấn
đề đầu tư nước ngoài.



Luật đầu tư nước ngoài năm 1987

Đại hôi Đảng toàn quốc lẩn thứ VI năm 1986 đã mở ra một
đường lối đổi mới đất nước, đặc biệt là đổi mới tư duy về quản lý
kinh tế. Từ cơ chế quản lý tập trung bao cấp chuyển sang phát
triển nền kinh tế thị trường theo định hướng XHCN có sự quản lý
của Nhà nước. Cùng với sự đổi mới trong các chính sách kinh tế,
hê thống pháp luật nước ta cũng từng bước được xây dựng và
hoàn thiện. Chi trong một thời gian ngắn hàng loạt các đạo luật ra
đời như Luật đầu tư nước ngoài 1987, Luật Công ty 1990, Luật,
doanh nghiệp tư nhân 1990, đã nhanh chóng rạo ra một môi
trường thuận lợi cho các loại hình doanh nghiệp được cạnh tranh
một cách bình đẳng khi bước đầu chuyển nền kinh tế sang cơ chế
thị trường.
Luật đầu tư nước ngoài Việt Nam năm 1987 không chi là văn
bản dưới hình thức Luật đầu tiên điều chinh các quan hệ đầu tư
trực tiếp nước ngoài mà nó còn mang ý nghĩa đạo luật của thời
"mở cửa" và "đổi mới" thế hiện mong muốn của Nhà nước Việt
Nam thực sự kêu gọi các nhà đầu tư nước ngoài đầu tư vào Việt
Nam.
Luật đầu tư nước ngoài tại Việt Nam năm 1987 đã có những
qui định về các vấn đề cơ bản sau:
Về lĩnh vực đầu tư: Cho phép các tổ chức, các nhân nước
ngoài đầu tư vốn và kỹ thuật trong các lĩnh vực của nền kinh tế.

Qui định ba hình thức đẩu tư: 1 Hợp đồng hợp tác kinh
doanh.
Lập xí nghiệp Liên doanh , Xí nghiệp 100% vốn nước ngoài.
Nhà nước cam kết báo vệ quyền lợi của các nhà đầu tư
nước ngoài.
Quy định các biện pháp khuyến khích đầu tư như:
+ Áp dụng mức thuế lợi tức ưu đãi với các dự án đầu tư.
+ Miễn, giảm thuế đối với các dự án đặc biệt khuyến khích đầu
Cao Thị Thanh Huyền – K53 chuyên ngành quốc tế
19


Luận Văn Tốt Nghiệp
Đề Tài: Pháp Luật Đầu Tư Nước Ngoài Tại Việt Nam Qua Thực Tiễn Tỉnh Thái Nguyên

tư nước ngoài.
- Hoàn trà thuế lợi tức đối với phần lợi nhuận tái đầu tư.
+ Miễn thuế nhập khẩu đối với máy móc, thiết bị…
+ Miễn thuê nhập khâu đối với băng phát minh, sáng chế. Bí
quyết kỹ thuật, qui trình công nghệ do bên nước ngoài góp vốn.
Luật đầu tư nước ngoài ở nước ngoài Việt Nam năm 1987 đã
thể hiện được tính khách quan của thời kì mới đổi mới, tạo điều
kiện mới cho hoạt động đầu tư. Sau đó luật đầu tư nước ngoài
1987 còn được bổ sung sau hai năm thực hiện thêm nhiều điểm
tích cực mới như:
Cho phép tổ chức kinh tế tư nhân Việt Nam được trực tiếp
hợp tác với nhà đầu tư nước ngoài;
Mở ra hình thức hơp tác kinh doanh nhiều bên và liên
doanh nhiều bên;
Quy định vốn liên doanh mới.

- Thời han hoạt động cùa doanh nghiệp có vốn đầu tư trực tiêp
nước ngoài là 50 năm.
Doanh nghiệp có vốn đầu tư trực tiếp nước ngoài được
phép mở tài khoản vốn vay tại Ngàn hàng nước ngoài:
Luật hóa một sô qui định vé Khu chế xuất;
- Bổ sung qui định về BOT.
- Qui định nguyên tắc không hồi tố.
Qua hai lần sửa đổi, bổ sung, Luật đầu tư nước ngoài đã từng
bước được hoàn thiện, tạo những điều kiện thuận lợi cho hoạt
động đầu tư sản xuất kinh doanh, phần nào đáp ứng được mong
đợi cúa nhà đẩu tư nước ngoài tại thời điếm đó.



Luật đầu tư nước ngoài năm 1996

Từ năm 1992. sau khi ban hành Luật sửa đổi, bổ sung một số
điều của Luật đầu tư nước ngoài tại Việt Nam, cùng với một loạt
các bộ luật, các văn bản dưới luật khác đã tạo ra một môi trường
pháp luật thuận lợi hơn rất nhiều cho các nhà đầu tư trực tiếp
nước ngoài. Tuy nhiên đế đáp ứng hơn nữa yêu cầu ngày càng cao
của việc thu hút và sử dụng vốn đầu tư trực tiếp nước ngoài, Tuy
nhiên để đáp ứng hơn nữa yêu cầu ngày càng cao của việc thu hút
và sử dụng vốn đầu tư trực tiếp nước ngoài, đáp ứng yêu cầu mới
trong thời kỳ mới. Khi Việt Nam là một thành viên của ASEAN
và việc Mỹ xóa bỏ cấm vận đối với Việt Nam thì yêu cầu đặt ra là
phải có một bộ luật điều chỉnh hoạt động đầu tư trực tiếp nước
Cao Thị Thanh Huyền – K53 chuyên ngành quốc tế
20



Luận Văn Tốt Nghiệp
Đề Tài: Pháp Luật Đầu Tư Nước Ngoài Tại Việt Nam Qua Thực Tiễn Tỉnh Thái Nguyên

ngoài tại Việt Nam hoàn chỉnh hơn.
Ngày 12/11/1996 [25,4] 4 Quốc Hội đã thông qua Luật đầu
nước ngoài tại Việt Nam, thay thế cho Luật Đầu tư nước ngoài
Việt Nam năm 1987 và các luật sửa đổi, bổ sung một số điều của
Luật đầu tư ở nước ngoài tại Việt Nam được ban hành vào các
năm 1990, 1992 [25,5] 5 .
Luật đầu tư nước ngoài tại viêt Nam năm 1996 bao gồm 6
chương, 68 điểu, bao gồm nhiều qui định bao trùm liên quan và
chi phối hoạt động đầu tư tiếp nước ngoài tại Viêt Nam, cụ thể:
Những vấn đề định hướng, quan điếm và chính sách thu hút
vốn đầu tư nước ngoài.
Những vấn đề về hình thức đầu tư.
Những vấn đề quyền và nghĩa vụ của doanh nghiệp có vốn đầu
tư trực tiếp nước ngoài, cúa nhà đấu tư nước ngoài.
Những vấn đề về tổ chức, hoạt động của doanh nghiệp có vốn
đâu trực tiếp nước ngoài.
Những vấn đề vể quản lý nhà nước đối với đầu tư trực tiếp
nước ngoài.
So với Luật đầu tư 1987 và các Luật sửa đổi, bổ sung năm
1990. 1992 Luật đầu tư nước ngoài tại Việt Nam năm 1996 trước
hết đã kế thừa, thống nhất toàn bộ ba luật trên, tạo ra một khung
pháp lý hoàn chỉnh hơn theo hướng tăng cường hơn nữa các biện
pháp ưu đãi và khuyến khích đầu tư trực tiếp nước ngoài nhằm
hoàn thiện hành lang pháp lý. Cải thiện môi trường đầu tư để thu
hút vốn đầu tư trực tiếp nước ngoài với số lượng và chất lượng
cao hơn. Luật đầu từ năm 1996 là bước phát triển tiếp theo của

con đường hình thành luật đầu tư tại Việt Nam.
Những sửa đổi bổ sung để hình thành bộ Luật đầu tư 2005
thống nhất và hoàn chỉnh hiện hành.
Ngày 9/6/2000, Quốc hội đã thông qua Luật sửa đổi, bổ sung
một số điều của Luật Đầu tư nước ngoài tại Việt Nam (sau đây
gọi tắt là Luật Đầu tư nước ngoài sửa đổi năm 2000), đã bổ sung
2 điều mới và sửa đổi, bổ sung 20 điều của Luật Đầu tư nước
ngoài năm 1996. Luật Đầu tư nước ngoài sửa đổi năm 2000 đã
đưa ra nhiều quy định mới nhằm tháo gỡ những vướng mắc, khó
khăn, giảm thiểu rủi ro cho các doanh nghiệp có vốn đầu tư nước
ngoài. Có thể nói, các quy định của Luật Đầu tư nước ngoài sửa
đổi năm 2000 đã tạo điều kiện xích gần hơn giữa đầu tư trong
nước và đầu tư nước ngoài, tạo thế chủ động trong tiến trình hội
4 Luật Đầu tư nước ngoài tại Việt Nam ngày 12 tháng 11 năm 1996 của Quốc Hội nước CHXHCN Việt Nam.
5 Như trên.

Cao Thị Thanh Huyền – K53 chuyên ngành quốc tế
21


Luận Văn Tốt Nghiệp
Đề Tài: Pháp Luật Đầu Tư Nước Ngoài Tại Việt Nam Qua Thực Tiễn Tỉnh Thái Nguyên

nhập và đảm bảo các cam kết quốc tế, làm cho môi trường kinh
doanh của Việt Nam hấp dẫn, thông thoáng hơn so với trước đây
và so với một số nước trong khu vực.
Những nội dung của Luật Đầu tư nước ngoài sửa đổi năm 2000
tập trung vào 3 nhóm vấn đề với 14 nội dung chủ yếu sau đây:
Nhóm vấn đề thứ nhất : Tháo gỡ kịp thời những
vướng mắc và giảm thiểu rủi ro trong hoạt động kinh

các doanh nghiệp có vốn đầu tư nước ngoài.
Về cân đối ngoại tệ và mở tài khoản (Điều 33,35)
Về việc thế chấp quyền sử dụng đất và đền bù, giải
bằng (Điều 46)
Về nguyên tắc không hồi tố (Điều 21)
Về cam kết bảo đảm, bảo lãnh của Chính phủ và áp
nước ngoài ( Điều 66)

khó khăn,
doanh của

phóng mặt

dụng Luật

Nhóm vấn đề thứ hai : Mở rộng quyền tự chủ trong tổ chức quản
lý, kinh doanh của doanh nghiệp có vốn đầu tư nước ngoài; xoá
bỏ sự can thiệp không cần thiết của cơ quan Nhà nước vào hoạt
động bình thường của doanh nghiệp.
Nguyên tắc nhất trí (Điều 14)
Về việc chuyển đổi hình thức đầu tư và tổ chức lại doanh
nghiệp (Điều 19a).
cách linh hoạt theo những nguyên tắc của Luật doanh nghiệp
hiện hành và thông lệ quốc tế.
Quyền chuyển nhượng vốn (Điều 34).
Chấm dứt hoạt động của doanh nghiệp có vốn đầu tư nước
ngoài và Hợp đồng hợp tác kinh doanh (Điều 52).
Thanh lý, phá sản doanh nghiệp có vốn đầu tư nước ngoài
(Điều 53).
Quy định về thành lập các quỹ của doanh nghiệp (Điều 41).

Thủ tục đầu tư và quản lý Nhà nước về đầu tư nước ngoài (các
Điều 55, 59, 60, 63 và 64).
Nhóm vần đề thứ ba : Bổ sung một số ưu đãi về thuế đối với dự
án đầu tư nước ngoài nhằm tăng cường tính hấp dẫn và cạnh tranh
của môi trường đầu tư Việt nam; cụ thể là:
Về việc miễn, giảm thuế nhập khẩu (Điều 47).
Thuế chuyển lợi nhuận ra nước ngoài (Điều 43, 44).
Quy định về chuyển lỗ (Điều 40).
Tóm lại :
Cao Thị Thanh Huyền – K53 chuyên ngành quốc tế
22


Luận Văn Tốt Nghiệp
Đề Tài: Pháp Luật Đầu Tư Nước Ngoài Tại Việt Nam Qua Thực Tiễn Tỉnh Thái Nguyên

Luật Đầu tư nước ngoài sửa đổi năm 2000 đã đưa ra nhiều quy
định mới nhằm tháo gỡ những vướng mắc khó khăn, giảm thiểu
rủi ro cho các doanh nghiệp có vốn đầu tư nước ngoài liên quan
đến các cơ chế, chính sách về thuế, ngoại tệ, đất đai, thế chấp, xử
lý tranh chấp, bảo đảm, bảo lãnh đối với các dự án quan trọng....
Nhằm thu hút đầu tư nước ngoài nhiều hơn với chất lượng cao
hơn, Luật Đầu tư nước ngoài sửa đổi năm 2000 cũng đã bổ sung
thêm các biện pháp khuyến khích ưu đãi đầu tư hơn trước trên cơ
sở luật hoá các văn bản dưới luật đã ban hành; làm cho môi
trường kinh doanh của Việt Nam hấp dẫn thông thoáng hơn so với
trước đây và so với một số nước trong khu vực.
Trên cơ sở sửa đổi, bổ sung các quy định liên quan đến tổ chức
hoạt động doanh nghiệp, thu hẹp nguyên tắc nhất trí; cho phép
chuyển đổi, hợp nhất, sáp nhập, chia tách doanh nghiệp; xử lý các

vướng mắc về thuế GTGT; đưa ra các nguyên tắc không hồi tố, áp
dụng pháp luật nước ngoài, bảo đảm, bảo lãnh đầu tư..., Luật Đầu
tư nước ngoài sửa đổi năm 2000 cũng đã tạo điều kiện xích gần
hơn giữa đầu tư trong nước và đầu tư nước ngoài và tạo thế chủ
động trong tiến trình hội nhập và đảm bảo các cam kết quốc tế.



Luật đầu tư năm 2005

Nhằm cải thiện môi trường đầu tư kinh doanh, môi trường pháp
lý, tạo sự thống nhất trong hệ thống pháp luật về đầu tư, tạo " một
sân chơi" bình đẳng, không phân biệt đối xử giữa các nhà đầu tư;
đơn giản hoá thủ tục đầu tư, tạo điều kiện thuận lợi để thu hút và
sử dụng hiệu quả các nguồn vốn đầu tư; đáp ứng yêu cầu hội nhập
kinh tế quốc tế; tăng cường sự quản lý của nhà nước đối với hoạt
động đầu tư. Năm 2005 Quốc hội đã ban hành Luật Đầu tư và có
hiệu lực từ 1/7/2006, Luật Đầu tư 2005 thay thế Luật Đầu tư nước
ngoài và Luật Khuyến khích đầu tư trong nước. Tiếp đó, Chính
phủ đã ban hành NĐ 108/2006/NĐ-CP ngày 22/9/2006 quy định
chi tiết và hướng dẫn một số điều của Luật Đầu tư (Nghị định
108).
Khác cơ bản với Luật Đầu tư nước ngoài trước đây, Luật Đầu
tư năm 2005 được thiết kế theo hướng chỉ quy định các nội dung
liên quan đến hoạt động đầu tư, còn các nội dung liên quan đến
cơ cấu tổ chức và hoạt động của doanh nghiệp thì chuyển sang
Luật Doanh nghiệp điều chỉnh, các mức ưu đãi về thuế chuyển
sang quy định tại các văn bản pháp luật về thuế và các nội dung
mang tính chất đặc thù thì dẫn chiếu sang pháp luật chuyên
nghành điều chỉnh.

Dưới đây xin nêu một số nội dung cơ bản của Luật Đầu tư và

Cao Thị Thanh Huyền – K53 chuyên ngành quốc tế
23


Luận Văn Tốt Nghiệp
Đề Tài: Pháp Luật Đầu Tư Nước Ngoài Tại Việt Nam Qua Thực Tiễn Tỉnh Thái Nguyên

Nghị định 108, cụ thể như sau:
Về những quy định chung:
Về việc áp dụng pháp luật, pháp luật đầu tư 2005 quy định
trường hợp pháp luật Việt Nam được ban hành sau khi Việt Nam
là thành viên của các điều ước quốc tế có quy định thuận lợi hơn
so với điều ước quốc tế thì nhà đầu tư có quyền lựa chọn việc áp
dụng theo điều ước quốc tế hoặc pháp luật Việt Nam.
Về ngôn ngữ sử dụng, pháp luật đầu tư 2005 quy định hồ sơ dự
án đầu tư và các văn bản chính thức gửi các cơ quan nhà nước
Việt Nam làm bằng tiếng việt; đối với hồ sơ dự án có vốn đầu tư
nước ngoài thì hồ sơ và các văn bản trên làm bằng tiếng Việt hoặc
tiếng Việt và tiếng nước ngoài thông dụng. Trong trường hợp có
sự khác nhau giữa văn bản tiếng Việt và tiếng nước ngoài thì bản
tiếng Việt được áp dụng.
Ngoài ra, nhằm bảo đảm khả năng bao quát, không chồng lấn
với các luật chuyên ngành, pháp luật đầu tư 2005 quy định hoạt
động đầu tư đặc thù được quy định trong pháp luật chuyên ngành
thì áp dụng theo quy định của pháp luật chuyên ngành đó. Quy
định như vậy nhằm bảo đảm thực tế có một số luật chuyên ngành
quy định về chứng khoán, bảo hiểm, ngân hàng, tài chính đã và
đang được thực hiện theo pháp luật chuyên ngành.

Về giải thích từ ngữ: Nghị định 108 đã bổ sung các thuật ngữ
“dự án đầu tư mới”, “dự án đầu tư mở rộng ” để nhà đầu tư biết rõ
trong quá trình thực hiện hoạt động đầu tư của mình mà có liên
quan đến ưu đãi đầu tư [11,6] 6 .



Về hình thức đầu tư:
So với Luật Đầu tư nước ngoài và Luật khuyến khích đầu tư
trong nước trước đây thì pháp luật đầu tư 2005 quy định rõ hơn
về những hình thức đầu tư như: Thành lập tổ chức kinh tế 100%
vốn của nhà đầu tư trong nước hoặc 100% vốn của nhà đầu tư
nước ngoài;
Thành lập tổ chức kinh tế liên doanh giữa các nhà đầu tư trong
nước và nhà đầu tư nước ngoài; Đầu tư theo hình thức hợp đồng
BCC, hợp đồng BOT, hợp đồng BTO, hợp đồng BT; Đầu tư phát
triển kinh doanh; Mua cổ phần hoặc góp vốn để tham gia quản lý
hoạt động đầu tư; và Đầu tư thực hiện việc sáp nhập và mua lại
doanh nghiệp. Nhà đầu tư được đầu tư để thành lập tổ chức kinh
tế bằng 100% vốn của mình, doanh nghiệp 100% vốn đầu tư nước
ngoài đã thành lập tại Việt Nam được hợp tác với nhau và/hoặc
6 Nghị định 108/2006/NĐ-CP của Chính phủ “V/v quy định chi tiết và hướng dẫn thi hành một số điều của Luật Đầu tư”

Cao Thị Thanh Huyền – K53 chuyên ngành quốc tế
24


Luận Văn Tốt Nghiệp
Đề Tài: Pháp Luật Đầu Tư Nước Ngoài Tại Việt Nam Qua Thực Tiễn Tỉnh Thái Nguyên


với nhà đầu tư nước ngoài để đầu tư thành lập doanh nghiệp 100%
vốn đầu tư nước ngoài mới theo quy định của pháp luật về doanh
nghiệp. Nhà đầu tư cũng có thể đầu tư thành lập tổ chức kinh tế
liên doanh giữa nhà đầu tư trong nước và nhà đầu tư nước ngoài,
doanh nghiệp liên doanh trên được tiếp tục liên doanh với nhà
đầu trong nước và nhà đầu tư nước ngoài để đầu tư thành lập tổ
chức kinh tế mới theo quy định của Luật Doanh nghiệp và pháp
luật có liên quan.
Đối với hoạt động đầu tư thành lập tổ chức kinh tế để thực
hiện dự án đầu tư, pháp luật đầu tư 2005 quy định nhà đầu tư
trong nước có dự án đầu tư gắn với việc thành lập tổ chức kinh tế
thì thực hiện việc đăng ký kinh doanh theo quy định của Luật
Doanh nghiệp, pháp luật có liên quan và thực hiện thủ tục đầu tư
theo quy định của Luật Đầu tư và Nghị định 108. Quy định như
trên nhằm bảo đảm sự thuận lợi cho hoạt động đầu tư trong nước.
Bên cạnh đó, pháp luật đầu tư 2005 còn có quy định nhà đầu tư
nước ngoài lần đầu đầu tư vào Việt Nam phải có dự án đầu tư và
thực hiện thủ tục đầu tư để được cấp Giấy chứng nhận đầu tư;
Giấy chứng nhận đầu tư đồng thời là Giấy chứng nhận đăng ký
kinh doanh. Một điểm khác so với quy định trước đây, được coi là
một điểm mở rất thoáng và mới đối với hoạt động đầu tư nước
ngoài, đó là đối với nhà đầu tư nước ngoài đã được cấp Giấy
chứng nhận đầu tư tại Việt Nam, nếu nhà đầu tư có dự án đầu tư
mới mà không thành lập pháp nhân mới thì chỉ thực hiện thủ tục
đầu tư để cấp Giấy chứng nhận đầu tư theo quy định của pháp luật
đầu tư 2005; nếu nhà đầu tư có dự án đầu tư mới gắn với việc
thành lập pháp nhân mới thì thực hiện thủ tục thành lập tổ chức
kinh tế và thủ tục đầu tư theo quy định như đối với đầu tư trong
nước.
Ngoài ra, để bảo đảm tính linh hoạt của hoạt động đầu tư của

nhà đầu tư, Nghị định có quy định về chuyển đổi hình thức đầu tư
của doanh nghiệp có vốn đầu tư nước ngoài. Theo đó, nhà đầu tư
nước ngoài trong quá trình hoạt động của mình được tự do chuyển
đổi giữa các hình thức đầu tư để phù hợp với tình hình sản xuất
kinh doanh mà không bị cấm hoặc hạn chế.



Quyền và nghĩa vụ của nhà đầu tư:
Pháp luật đầu tư 2005 đã cụ thể hóa những nội dung về quyền
và nghĩa vụ của nhà đầu tư, theo đó nhà đầu tư có quyền tự chủ
đầu tư kinh doanh, quyền tiếp cận các nguồn lực đầu tư, sử dụng
nguồn vốn tín dụng, đất đai và tài nguyên, quyền sử dụng lao
động, quyền mở tài khoản và mua ngoại tệ, quyền xuất khẩu, nhập
khẩu, quảng cáo, gia công, gia công lại,...

Cao Thị Thanh Huyền – K53 chuyên ngành quốc tế
25


×