MỞ ĐẦU
1. Đặt vấn đề.
Thể dục thể thao (TDTT) là một bộ phận của nền văn hóa xã hội, là
một hoạt động không thể thiếu được trong đời sống xã hội. Luyện tập TDTT
không những tăng cường sức khỏe, phát triển cân đối về trí tuệ, nhân cách mà
còn đáp ứng nhu cầu về thẩm mỹ của con người. TDTT là một loại hình hoạt
động mà phương tiện chủ yếu là các bài tập thể chất nhằm phát triển, nâng
cao trình độ thể lực, kỹ năng vận động, góp phần làm phong phú đời sống văn
hóa, phát triển con người.
Không những thế, TDTT còn là phương tiện cùng xã hội xây dựng một
cuộc sống tốt, lành mạnh, vui chơi giải trí có ích cho cá nhân, cho tập thể,
đồng thời góp phần đẩy lùi các tệ nạn xã hội đang xâm nhập vào nước ta. Vì
thế mỗi quốc gia đều chú trọng đến công tác TDTT và cố gắng đưa nền TDTT
của nước mình đến đỉnh cao, cũng như giữ vững và phát triển những môn thể
thao mang đậm đà bản sắc dân tộc. Trong công tác ngoại giao TDTT còn là
nhịp cầu giao lưu thắt chặt tình hữu nghị, đoàn kết giữa các dân tộc trên thế
giới. Việt Nam đang bước sang 1 thời kì mới, đó thời kỳ công nghiệp hóa và
hiện đại hóa. Để đảm bảo thành công của sự nghiệp phát triển đất nước trong
thời kỳ mới, cho nên việc phát triển con người toàn diện là 1 yếu tố rất quan
trọng mà TDTT là 1 trong những phương tiện phát triển con người.
Trong các hoạt động TDTT, bóng chuyền là môn thể thao ra đời rất
sớm, có bề dày kinh nghiệm và thành tích nhưng bóng chuyền là 1 môn thể
thao luôn thay đổi về chất và mang tính sáng tạo. Cho nên quá trình đào tạo
và huấn luyện vận động viên bóng chuyền cũng là một vấn đề luôn mới mẻ
đối với giới chuyên môn.
Bóng chuyền ra đời năm 1895 tại Mỹ và được du nhập vào Việt Nam
từ năm 1992 theo đường quân đội Pháp và phát triển thăng trầm qua các giai
1
đoạn của lịch sử nước nhà. Hiện nay bóng chuyền được đông đảo quần chúng
nhân dân tham gia tập luyện và thi đấu nhất là trong giới học sinh- sinh viên
nhằm góp phần rèn luyện và nâng cao thể chất. Từ khi ra đời đến nay bóng
chuyền ngày càng hoàn thiện và phát triển cả về kỹ thuật - chiến thuật nên đã
tạo ra sự ham mê, hứng thú cho người tham gia tập luyện.
Cùng với phong trào phát triển lớn mạnh của nền bóng chuyền thế giới,
bóng chuyền Việt Nam cũng không ngừng phát triển, được coi là môn thể
thao mũi nhọn và được quan tâm đầu tư phát triển nâng cao thành tích thi đấu.
Trong những năm qua, đội bóng chuyền của nước ta đã tham gia các giải
bóng chuyền lớn trong khu vực và trên thế giới và đã đạt được một số thành
tích đáng khích lệ. Đặc biệt là tấm huy chương đồng đầu tiên của đội bóng
chuyền nữ nước tại Đại hội TDTT Đông Nam Á (Seagames) 19 tổ chức tại
Inđônêxia và thành tích của đội bóng chuyền nam mới đây đã giành được tấm
huy chương bạc tại Seagames 23 được tổ chức tại Philippin. Đó là những tấm
huy chương đánh dấu bước phát triển trưởng thành của đội tuyển bóng
chuyền nước ta. Những thành tích đó đã góp phần vào tiếng nói chung bóng
chuyền Việt Nam trên đấu trường khu vực và thế giới.
Sự phát triển của phong trào bóng chuyền của nước ta đã có những ảnh
hưởng tích cực tới phong trào quần chúng, trong đó có 1 bộ phận không nhỏ
là lứa tuổi học sinh, sinh viên.
Những năm gần đây, sự phát triển phong trào bóng chuyền lứa tuổi sinh
viên được quan tâm và phát triển cả về quy mô và chất lượng. Các giải thi đấu
bóng chuyền lứa tuổi sinh viên được tổ chức thường xuyên. Cụ thể như giải
bóng chuyền sinh viên toàn quốc Toyota, giải Nghiệp vụ Sư phạm toàn quốc,
giải sinh viên Hà Nội.Thông qua các giải thi đấu này, phong trào tập luyện thể
dục thể thao trong lứa tuổi sinh viên nói chung và phong trào tập luyện môn
bóng chuyền nói riêng phát triển rộng khắp. Hoạt động tập luyện, thi đấu
2
bóng chuyền không chỉ giúp sinh viên rèn luyện thân thể để học tập mà còn
giúp các em tăng cường tình đoàn kết, giao lưu học hỏi, phát triển toàn diện
con người xã hội chủ nghĩa.
Bóng chuyền là một môn thể thao mang tính tập thể cao, thành tích thi
đấu tạo nên bằng sự cố gắng của tất cả các thành viên trong đội và phải phù
hợp với mục đích, nhiệm vụ chung của toàn đội. Do vậy VĐV bóng chuyền
phải biết tận dụng mọi ưu thế và kĩ chiến thuật đánh bóng khác nhau. Có như
vậy mới hoàn thành được nhiệm vụ ở bất cứ vị trí nào trên sân trong trận đấu.
Trong thực tế thi đấu bóng chuyền, kỹ thuật tốt chưa chắc đã mang lại
hiệu quả cao vì đối phương có thể có trình độ kỹ thuật, tổ chức tốt hơn. Vì
vậy vấn đề đặt ra là cần được trang bị 1 nền tảng thể lực chuyên môn vững
chắc. Nhất là ngày nay, lượng thi đấu của mỗi trận đấu kéo dài tới 5 hiệp thì
vấn đề thể lực chuyên môn càng thể hiện rõ tầm quan trọng của nó.
Qua thực tế quan sát đội bóng chuyền Nam của trường ĐHSP Hà Nội
tại giải bóng chuyền Nghiệp vụ Sư phạm toàn quốc 2013 nói chung và các
buổi học, tập luyện của nam sinh viên chuyên sâu bóng chuyền khoá 61 khoa
GDTC trường ĐHSP Hà Nội nói riêng, đề tài thấy rằng trong quá trình tập
luyện và thi đấu trình độ thể lực chuyên môn của sinh viên còn hạn chế, nhiều
yếu điểm, chưa đáp ứng được yêu cầu thi đấu, chúng ta hay để thua đối thủ
vào những hiệp cuối trận.
Xuất phát từ thực tiễn trên, tôi mạnh dạn tiến hành nghiên cứu đề tài:
“ Lựa chọn bài tập phát triển thể lực chuyên môn cho nam sinh viên
chuyên sâu bóng chuyền khóa 61 khoa GDTC trường ĐHSP Hà Nội ”.
2.Mục tiêu nghiên cứu:
Tìm hiểu thực trạng thể lực chuyên môn của nam sinh viên chuyên sâu
bóng chuyền khóa 61 khoa GDTC trường ĐHSP Hà Nội. Từ thực trạng thể
lực chuyên môn đề tài nghiên cứu, lựa chọn bài tập nhằm phát triển thể lực
chuyên môn. Từ đó góp phần nâng cao kết quả học tập cho nam sinh viên
3
chuyên sâu bóng chuyền khóa 61 và các khóa tiếp theo khoa GDTC trường
ĐHSP Hà Nội.
3. Đối tượng nghiên cứu, khách thể nghiên cứu
3.1. Đối tượng nghiên cứu
Bài tập phát triển thể lực chuyên môn của nam sinh viên chuyên sâu
bóng chuyền khoa GDTC trường ĐHSP Hà Nội.
3.2. Khách thể nghiên cứu
Khách thể nghiên cứu của đề tài gồm nam sinh viên chuyên sâu bóng
chuyền khóa 61 khoa GDTC trường ĐHSP Hà Nội.
4. Giả thuyết khoa học
Kết quả học tập của nam sinh viên chuyên sâu bóng chuyền khóa 61
trường ĐHSP Hà Nội chưa cao.Một trong những nguyên nhân cơ bản của tình
trạng đó là do nền thể lực chuyên môn còn hạn chế. Nếu lựa chọn các bài tập thể
lực chuyên môn thì kết quả học tập của nam sinh viên chuyên sâu bóng chuyền
khóa 61 khoa GDTC trường ĐHSP Hà Nội sẽ đạt được thành tích cao hơn.
5. Nhiệm vụ nghiên cứu
- Nhiệm vụ 1: Thực trạng học tập và tập luyện của nam sinh viên
chuyên sâu bóng chuyền khoa GDTC trường ĐHSP Hà Nội.
- Nhiệm vụ 2: Lựa chọn bài tập nhằm phát triển thể lực chuyên môn
cho nam sinh viên chuyên sâu bóng chuyền khóa 61 khoa GDTC trường
ĐHSP Hà Nội.
6. Phạm vi nghiên cứu
- Tổng quan các vấn đề nghiên cứu
- Đánh giá thực trạng thể lực chuyên môn của 20 nam sinh viên chuyên
sâu bóng chuyền khóa 61 khoa GDTC trường ĐHSP Hà Nội.
- Lựa chọn bài tập phát triển thể lực chuyên môn chon 20 nam sinh
viên chuyên sâu bóng chuyền khóa 61 khoa GDTC trường ĐHSP Hà Nội.
4
7. Phương pháp nghiên cứu
Để giải quyết được nhiệm vụ nghiên cứu của đề tài, đề tài sử dụng các
phương pháp nghiên cứu sau đây:
7.1. Phương pháp đọc, phân tích tổng hợp tài liệu
- Phương pháp này sử dụng trong suốt quá trình nghiên cứu, sưu tầm tài
liệu khoa học để xác định luận cứ của đề tài.
- Sử dụng phương pháp này nhằm tìm hiểu các cơ sở lý luận về thể lực
chuyên môn của sinh viên. Qua phương pháp này đi sâu vào nghiên cứ chỉ thị,
nghị quyết, các văn bản của nhà nước.
7.2. Phương pháp phỏng vấn tọa đàm
Phương pháp này đề tài sử dụng trong quá trình nghiên cứu nhằm
phỏng vấn các chuyên gia các giáo viên, các HLV và các VĐV nhằm lựa
chọn và ứng dụng các bài tập phát triển thể lực chuyên môn cho nam sinh
viên chuyên sâu bóng chuyền khoá 61 trường ĐHSP Hà Nội.
7.3. Phương pháp quan sát sư phạm
Sử dụng phương pháp này quan sát giờ học bóng chuyền của nam sinh
viên chuyên sâu bóng chuyền khóa 61 khoa GDTC trường ĐHSP Hà Nội. Từ
đó tìm ra những yếu tố ảnh hưởng đến tới kết quả học tập của sinh viên, qua
đó tìm ra 1 số giải pháp góp phần nâng cao thể lực chuyên môn của sinh viên.
7.4. Phương pháp kiểm tra sư phạm
Trong quá trình nghiên cứu để đánh giá hiệu quả các bài tập đã lựa
chọn đề tài sử dụng các phương pháp kiểm tra sư phạm nhằm kiểm tra thể lực
chuyên môn trước và sau thực nghiệm theo nội dung cụ thể. Từ đó làm cơ sở
phân tích, so sánh và rút ra kết quả của quá trình nghiên cứu.
7.5. Phương pháp thực nghiệm sư phạm
Sau khi lựa chọn được hệ thống bài tập, đề tài tiến hành thực nghiệm để
đánh giá tính hiệu quả của bài tập ứng dụng đề tài. Nhóm thực hiện gồm 20
nam sinh viên chuyên sâu bóng chuyền khóa 61 khoa GDTC trường ĐHSP
Hà Nội.
5
7.6. Phương pháp toán học thống kê
Đề tài sử dụng các thuật toán thống kê để xử lý các số liệu thu được để
thực nghiệm giúp cho việc rút ra kết luận có độ tin cậy và có sức thuyết phục
cao hơn.
a. Công thức tính giá trị trung bình:
X=
Σxi
n
Trong đó:
X : Giá trị trung bình của mẫu nghiên cứu.
∑: Giá trị tổng hợp.
x i: Kết quả thực hiện của cá thể.
n: Số cá thể.
b. Phương sai:
δ =
2
∑(X A − X A ) 2 + ( X B − X B ) 2
n A + nB − 2
(Khi n < 30)
c. So sánh 2 số trung bình mẫu bé: (n < 30).
t=
XA − XB
δ 2 A δ 2B
+
nA
nB
d. Tính độ lệch chuẩn: Nói lên mức độ phân tán của các trị số x i
quanh giá trị trung bình, được tính theo công thức:
δx =
∑( xi − X ) 2
( Khi n < 30)
n −1
8. Kế hoạch và tổ chức nghiên cứu
Đề tài được tiến hành nghiên cứu từ tháng 11 năm 2013 đến tháng 5
năm 2014, đề tài được chia làm 3 giai đoạn:
* Giai đoạn 1: Từ tháng 11/2013 đến tháng 12/2013 bao gồm:
6
- Đọc tài liệu và tham khảo tài liệu.
- Xác định hướng nghiên cứu và mục tiếu, nhiệm vụ của đề tài.
- Lựa chọn tên đề tài.
- Xây dựng và bảo vệ đề cương.
* Giai đoạn 2: Từ tháng 12/2013 đến tháng 4/2014 bao gồm:
- Từ tháng 12/2013 đến tháng 1/2014: Tổng hợp tài liệu có liên quan.
- Từ tháng 1/2014 đến tháng 2/2014:
+ Xây dựng Test
+ Đánh giá thực trạng thể lực chuyên môn
+ Xác định các yếu tố ảnh hưởng.
- Từ tháng 2/2014 đến tháng 3/2014: Xây dựng và lựa chọn các bài tập.
- Từ tháng 3/2014 đến 4/2014:
+ Tiến hành thực nghiệm sư phạm.
+ Đánh giá kết quả sau thực nghiệm.
* Giai đoạn 3: Từ tháng 4/2014 đến tháng 5/2014 bao gồm:
- Hoàn thành đề tài.
- Bảo vệ khóa luận trước hội đồng khoa học.
9. Những đóng góp của đề tài
Đánh giá được mức độ sử dụng các bài tập chuyên môn trong quá trình
giảng dạy. Qua đó xác định những bài tập phát triển thể lực chuyên môn cho
nam sinh viên chuyên sâu bóng chuyền khóa 61 khoa GDTC trường ĐHSP
Hà Nội.
7
PHẦN NỘI DUNG
CHƯƠNG 1
TỔNG QUAN CÁC VẤN ĐỀ NGHIÊN CỨU
1.1.
Phong trào bóng chuyền trong những năm gần đây ở Việt
Nam. Sự phát triển phong trào bóng chuyền ở Việt Nam.
1.1.1. Sự phát triển phong trào bóng chuyền ở Việt Nam
Bóng chuyền xuất hiện ở Việt Nam năm 1922. Tuy gặp nhiều khó khăn
và trải qua thăng trầm của lịch sử đất nước, môn bóng chuyền vẫn không
ngừng được duy trì, củng cố và phát triển, trải qua các giai đoạn sau:
a. Thời kì trước cách mạng tháng 8 – 1945
Kích thước sân như bóng chuyền hiện đại, chiều dài sân 18m, chiều
rộng 9m.
Khu phát bóng là 1m2 lưới nam cao 240cm, lưới nữ cao 220cm, mỗi
hiệp thi đấu 21 điểm.
Năm 1927 trận đấu bóng chuyền được tổ chức trong cộng đồng người
Hoa tại Hải Phòng và Hà Nội.
Năm 1928 giải bóng chuyền đầu tiên được tổ chức tại Bắc Kỳ gồm 2
đội Việt Nam và Pháp.
b. Thời kì từ năm 1945 đến năm 1964
Trong giai đoạn kháng chiến chống Pháp bóng chuyền được phổ biến
và phát triển ở khu giải phóng. Nó được nhân dân và lực lượng quân đội coi
như phương tiện rèn luyện để củng cố và nâng cao sức khoẻ. Hoà bình lập lại,
miền Bắc được giải phóng, phong trào TDTT nói chung và phong trào bóng
chuyền nói riêng có điều kiện phát triển mạnh mẽ.
Tháng 3 năm 1957, Hội bóng chuyền Việt Nam ra đời; tháng 10 năm
1957 đội tuyển bóng chuyền nước ta được thành lập để tham dự giải 4 nước:
Trung Quốc, Triều Tiên, Mông Cổ, Việt Nam
8
Năm 1959, Hội bóng chuyền Việt Nam mời các hội nam, nữ Xoophia
(Bungari), Mông Cổ sang thi đấu giao hữu nghị với các đội của nước ta.
Năm 1961, Liên đoàn Bóng chuyền Việt Nam gia nhập Liên đoàn bóng
chuyền thế giới.
Năm 1963, đội tuyển bóng chuyền Việt Nam tham gia đại hội Ga – Nê
– Pho lần thứ nhất tại Indonexia.
Năm 1964, Việt Nam bắt đầu phong cấp 1 và kiện tướng cho VĐV
bóng chuyền.
c. Từ năm 1964 đến năm 1975
Do ảnh hưởng của chiến tranh, phong trào TDTT nói chung và bóng
chuyền nói riêng tạm thời bị thu hẹp. Tuy vậy một số trận thi đấu đỉnh cao
vẫn được tiến hành.
d. Từ năm 1975 đến năm 1987
Từ năm 1975 đến năm 1979 các đội bóng chuyền nam, nữ phát triển
mạnh mẽ. Năm 1979, lần đầu tiên tổ chức giải vô địch bóng chuyền toàn quốc
Bộ tư lệnh Biên phòng giành chức vô địch.
Năm 1987, giải vô địch bóng chuyền được tổ chức tại Cửu Long và
thành phố Hồ Chí Minh.
e. Từ năm 1988 đến nay
Năm 1988, các đội nam và nữ của nước ta đã tham gia thi đấu ở Châu
Á và khu vực Đông Nam Á.
Từ năm 1990 đến nay phong trào bóng chuyền nước ta phát triển mạnh
mẽ cả về chất và lượng trên phạm vi toàn quốc.
Liên đoàn bóng chuyền Việt Nam đã kết hợp với liên đoàn bóng
chuyền thế giới mở các lớp đào tạo HLV bậc cao, trọng tài quốc gia và quốc
tế. Đây là lực lượng quan trọng góp phần thúc đẩy và nâng cao môn bóng
chuyền ở nước ta.
9
1.1.2. Phong trào bóng chuyền trong những năm gần đây ở Việt Nam
Cùng với phong trào phát triển lớn mạnh của nền bóng chuyền thế giới,
bóng chuyền Việt Nam cũng không ngừng phát triển và dần củng cố. Vài năm
gần đây bóng chuyền nước ta đang được chú trọng và phát triển mạnh mẽ.
Thông qua giải vô địch quốc gia hàng năm, giải vô địch Đông Nam Á, Khu
vực… Các đội bóng chuyền Việt Nam đã dần được khẳng định trong làng thể
thao quốc tế. Hàng năm có rất nhiều giải thi đấu được tổ chức, thông qua các
giải thi đấu tạo điều kiện cho các VĐV có nhiều cơ hội cọ sát, nâng cao trình
độ chuyên môn. Đồng thời là động lực thúc đẩy phong trào tập luyện bóng
chuyền phát triển, là cơ hội phát hiện các nhân tài bóng chuyền cho đất nước.
Bóng chuyền nữ Việt Nam hiện nay được đánh giá là một trong những
đội mạnh của khu vực Đông Nam Á. Tuy nhiên so với trình độ của bóng
chuyền Châu lục và thế giới thì còn nhiều hạn chế bởi trình độ chuẩn bị thể
lực, chiều cao… của các VĐV Việt Nam chưa đáp ứng được yêu cầu cảu
bóng chuyền hiện đại.
1.2. Bóng chuyền trong các trường Đại học, cao đẳng và các trường
trung học phổ thông.
Cùng với sự phát triển cả bề rộng và chiều sâu của phong trào thể dục
thể thao quần chúng nói chung, công tác GDTC và thể thao trong trường học
nói riêng đã có nhiều chuyển biến tích cực, thể hiện trên các mặt:
Các hoạt động thi đấu thể thao từ trung ương đến cơ sở ngày càng phát
triển đa dạng, hệ thống thi đấu lớn như Hội khỏe phù đổng các cấp, Đại hội
thể thao sinh viên toàn quốc cùng hàng chục giải thi đấu cấp toàn quốc hang
năm, thu hút hang chục triệu học sinh, sinh viên tham gia.
Đội ngũ giáo viên, giảng viên thể dục thể thao ở các trường học được
đào tạo, nâng cao kiến thức đã từng bước đáp ứng được yêu cầu về chuyên
môn, nghiệp vụ; cơ sở vật chất, sân chơi, bãi tập, công trình thể thao, dụng cụ
10
tập luyện thi đấu thể thao ở trường học các cấp đã bước đầu được quy hoạch
và đầu tư xây dựng.
Công tác chỉ đạo điều hành tiếp tục được tăng cường, sát với thực tế,
thể hiện ở các văn bản quy phạm pháp luật ngày một hoàn thiện đáp ứng yêu
cầu thực tiễn của nhà trường theo từng lĩnh vực trong công tác thể dục thể
thao trường học; về chủ trương đổi mới chương trình, sách giáo khoa và
phương pháp giáo dục theo hướng lấy học sinh làm trung tâm, phát huy tính
tích cực, sang tạo và chủ động của học sinh trong học tập, mặt khác, công tác
nghiên cứu khoa học về GDTC và y tế trường học ngày càng được chú trọng.
Công tác vận động tuyên truyền nâng cao nhận thức được tổ chức dưới
nhiều hình thức phong phú, góp phần vào việc nâng cao hiệu quả công tác
GDTC, xây dựng nếp sống lành mạnh, đẩy lùi tệ nạn, giáo dục nhân cách lối
sống thực hiện mục tiêu giáo dục toàn diện cho học sinh sinh viên.
Hàng năm, các giải thể thao cho học sinh, sinh viên được tổ chức
thường xuyên nhằm đánh giá công tác GDTC và tập luyện của các nhà
trường. Đặc biệt, theo chu kỳ 4 năm/ 1 lần, ngành Giáo dục và Đào tạo phối
hợp với các cơ quan ban, ngành liên quan tổ chức nhiều hoạt động lớn
như: Hội khỏe phù đổng toàn quốc, Đại hội thể thao sinh viên toàn quốc,
Hội thi nghiệp vụ sư phạm văn nghệ thể thao các trường sư phạm toàn
quốc, Hội thi văn hóa thể thao các trường phổ thông dân tộc nội trú toàn
quốc.
Là môn thể thao mang tính tập thể, tính cộng đồng cao, bộ môn bóng
chuyền đang được sinh viên, học sinh các trường ĐH, CĐ, THPH ưa thích,
lựa chọnlà môn thể dục tự chọn theo quy định của Bộ Giaó dục và Đào tạo.
Sự phát triển của bộ môn bóng chuyền là nền tảng để mỗi năm học, các
trường đèu tổ chức các hoạt động giao lưu, thi đấu các giải vào dịp kỉ niệm
11
Ngày thành lập Đoàn TNCS Hồ Chí Minh (26-3), Ngày Nhà giáo Việt Nam
(20-11).
Giải bóng chuyền sinh viên toàn quốc Toyota diễn ra thường niên hàng
năm, nhằm đánh giá chất lượng GDTC và khuyến khích động viên phong trào
tập luyện và thi đấu thể thao trong các nhà trường, góp phần giáo dục nhân
cách, phát triển hài hòa sức khỏe, thể chất và xây dựng nếp sống lành mạnh
cho học sinh, sinh viên…Đồng thời, thông qua mỗi giải đấu cũng là dịp để
nhìn nhận, đánh giá công tác GDTC, thể thao trong các trường học.
Tham dự giải bóng chuyền sinh viên toàn quốc Toyota 2012 có trên 300
VĐV của 17 đội bóng thuộc các trường ĐH là: ĐH Sư phạm Hà Nội 1 (nam,nữ),
ĐH Nông nghiệp (nam, nữ), ĐH Giao thông vận tải (nam), ĐH Sư phạm Hà Nội
2 (nữ), ĐH Vinh (nam), ĐH Hải Phòng (nữ), ĐH Sư phạm kỹ thuật Nam Định
(nam), ĐH Y Thái Bình (nữ), ĐH Đà Nẵng (nam), ĐH Quảng Bình (nữ), ĐH
Quốc tế Hồng Bàng (nam,nữ), Đh Sư phạm TP Hồ Chí Minh (nam, nữ), ĐH Bách
khoa TP Hồ Chí Minh (nam, nữ), ĐH Ngân hàng TP Hồ Chí Minh (nam), ĐH Kỹ
thuật công nghệ TP Hồ Chí Minh (nữ), ĐH Cần Thơ (nam, nữ) và ĐH An Giang
(nam, nữ). Đây là những đại diện xuất sắc nhất vượt qua vòng đấu bảng diển ra tại
hai khu vực (Hà Nội và TP Hồ Chí Minh).
Tuy giải lần thứ chính thức được Công ty Toyota Việt Nam tài trợ,
nhưng nó đã thu hút được sự tham gia nhiệt tình, đông đảo của các trường
ĐH, CĐ và các em HSSV cả nước. Thông qua giải là dịp tốt để các em HSSV
được gặp gỡ giao lưu, học hỏi, trao đổi học tập kinh nghiệm, nâng cao chất
lượng GD và tăng cường thể lực, đoàn kết hiểu biết lẫn nhau trở thành một
động lực thúc đẩy nhằm phát triển mạnh mẽ hơn nữa môn bóng chuyền ở tất
cả các trường nhằm từng bước tiến kịp với sự phát triển chung của GD và thể
thao khu vực và thế giới. Đồng thời, qua giải đấu cũng là dịp để các nhà tuyển
trách phát hiện và bổ sung các tài năng trẻ cho Đoàn thể thao SV Việt Nam
12
chuẩn bị tham dự Đại hội thể thao SV Đông Nam Á sẽ diễn ra vào năm tới tại
Viêng Chăn – Lào, và cao hơn nữa là đội tuyển bóng chuyền quốc gia...”
1.3. Sự ảnh hưởng của thể lực đến bóng chuyền ở sinh viên.
Thể lực là cơ sở để thực hiện kỹ - chiến thuật, nếu không có những yếu
tố đó, thì kết quả thực hiện sẽ không cao. Vậy trong quá trình học tập và thi
đấu bóng chuyền, người học, vận động viên không chỉ tiếp thu, nắm vững các
kỹ thuật cơ bản, làm nền tảng vững chắc, để giúp sử dụng hoàn hảo các động
tác kỹ thuật ở mọi tình huống mà còn phải có thể lực dồi dào , bởi vì đặc thù
của môn thi đấu, nên một cầu thủ cần phải chơi được ở mọi vị trí và luôn tập
trung chú ý cao độ, hoạt động thể lực với cường độ lớn .Vì vậy đòi hỏi mỗi
vận động viên phải chuẩn bị thể lực một cách toàn diện, trong đó thể lực
chuyên môn nổi lên như một yếu tố hàng đầu .
Có thể nói, thể lực chuyên môn của vận động viên bóng chuyền, là cơ
sở để thực hiện các miếng, chiến thuật trong cả trận đấu .
Do vậy, hiệu quả thi đấu tốt hay xấu, phụ thuộc rất lớn vào tố chất thể
lực chuyên môn của mỗi VĐV. Song thể lực chuyên môn, ngoài phụ thuộc
vào yếu tố di truyền, như tố chất sức bền chung ,sức bền mạnh , sức bền tốc
độ , để làm cơ sở cho việc phát triển sức bền chuyên môn , còn đòi hỏi giáo
viên khi huấn luyện, phải đặc biệt chú ý tới việc huấn luyện tố chất này .
1.4. Cơ sở lý luận về các tố chất thể lực chuyên môn của sinh viên.
1.4.1. Khái niệm chung
Huấn luyện thể lực là quá trình động tác thường xuyên, liên tục theo kế
hoạch sắp xếp hợp lý bằng những bài tập TDTT nhằm phát triển khả năng vận
động. Quá trình đó tác động sâu sắc tới hệ thần kinh, cơ bắp cũng như đối với
hệ tuần hoàn, hô hấp và trao đổi chất.
13
Nói đến thể lực cũng có nghĩa là chúng ta đang nói đến các tố chất thể
lực. Các tố chất thể lực bao gồm: Sức nhanh, sức mạnh, sức bền, mềm dẻo và
năng lực phối hợp vận động.
Ở đây, khi nói đến thể lực hay tố chất vận động, thực chất là cần hiểu rõ hơn
trong hoạt động chung của con người thì hoạt động cơ bắp là dạng đặc biệt và
mang tính trọng tâm. Hoạt động cơ bắp được thể hiện ở 3 phương diện:
- Sự co cơ ( phụ thuộc chủ yếu và tỉ lệ với cấu trúc sợi cơ, số lượng sợi
cơ và tiết diện sợi cơ ).
- Sự trao đổi chất ( là quá trình sinh năng lượng phục vụ cho quá trình
vận động ).
.- Sự dẫn truyền kích thích ( nói đến hoạt động thần kinh cơ ).
Ba phương diện luôn có mối tương quan với khả năng hoạt động của
các tố chất thể lực theo ( Ozilin, 1970; Vaixekhovxki, 1976; Phomin, 1979).
Đặc biệt chúng tôi luôn có mối tương quan chặt chẽ với 3 tố chất thể lực cơ
bản: Sức mạnh, sức nhanh, sức bền. Trong đó độ lớn của sức mạnh có quan
hệ chủ yếu tới khả năng co cơ, thể hiện theo hướng thay đổi giữa yếu tố thời
gian duy trì và cường độ vân động cơ bắp. Độ lớn của sức nhanh có quan hệ
chủ yếu tới khả năng dẫn truyền của hện thần kinh và liên quan đến thành
phần của sợi cơ. Độ lớn của sức bền có quan hệ chủ yếu tới hoạt động trao đổi
chất, mối quan hệ này dựa trên cơ sở sinh năng yếm khí và ưa khí( Ozolin,
1970; Patrerxki, 1972; Dietrich Hare, 1976) [ 7,8,9].
Hiện nay tồn tại rất nhiều quan điểm về huấn luyện thể lực, song
chúng tôi cho rằng hệ thống các quan điểm của giáo sư HLV Công Huân
CHLB Nga N.G.Ozolin trình bày trong cuốn “ Hệ thống huấn luyện thể thao
hiện đại –NXB – TDTT, Matxcova 1970 ” là đầy đủ hơn cả. Tác giả cho rằng:
“ Quá trình huấn luyện thể lực là việc hướng đến củng cố các hệ thống cơ
quan của cơ thể, nâng cao khả năng chức phận của chúng, đồng thời là việc
14
phát triển các tố chất vận động ( sức nhanh, sức mạnh, sức bền, khéo léo và
khả năng phối hợp vận động ) ”.
Trong quá trình huấn luyện thể lực, người tập phát triển một cách toàn
diện mà sự phát triển này được gọi là năng lực thể chất. Nó được đánh giá bởi
mức độ phát triển về khả năng sức nhanh, sức mạnh, sức bền, khéo léo và khả
năng phối hợp vận động, khả năng làm việc của tất cả các khả năng chức phận
của cơ thể. Dưới ảnh hưởng của quá trình chuẩn bị thể lực, sức khỏe của con
người được tăng cường, các hệ cơ quan chức phận của cơ thể được hoàn
thiện. Vì vậy, khả năng tiếp nhận lượng vận động của cơ thể cũng được nâng
lên và khả năng phát triển về các tố chất thể lực cũng được nâng lên.
Điểm đặc biệt của quá trình chuẩn bị thể lực là phải củng cố được
những điểm yếu trong cơ thể, những cơ quan chậm phát triển.
Qua tham khảo các nguồn tài liệu, các công trình nghiên cứu của nhiều
chuyên gia hàng đầu trong lĩnh vực lí luận và phương pháp huấn luyện thể
thao trong nước như: GS. Lê Văn Lẫm, GS. Dương Nghiệp Chí, PGS. Lê
Bửu, PGS.Phạm Trọng Thanh, TS. Nguyễn Thế Truyền, TS. Phạm Danh Tốn.
Chúng ta thấy các nhà khoa học cho rằng: “Quá trình huấn luyện thể lực cho
người tập là hướng đến việc củng cố và nâng cao khả năng chức phận của hệ
cơ quan trước lượng vận động thể lực ( bài tập thể chất ) và như vậy đồng thời
đã tác động đến quá trình phát triển của các tố chất vận động ”. Đây có thể coi
là quan điểm có xu hướng sư phạm trong quá trình giáo dục các tố chất vận
động [5,7,8,10 ].
Một số quan điểm theo các chuyên gia y sinh Việt Nam như: PTS.
Nguyễn Ngọc Cừ, PTS. Phan Hồng Minh, GS. Lưu Quang Hiệp, PGS. Trịnh
Hùng Thanh, PGS. Nguyễn Kim Minh, PGS. Lê Quá Phượng. “Nói đến huấn
luyện thể lực trong thể thao là nói tới những biến đổi thích nghi về mặt sinh
15
học (cấu trúc và chức năng ) diễn ra trong cơ thể người tập dưới tác động của
tập luyện được biểu hiện ở năng lực hoạt động cao hay thấp ”.
Đồng thời đề tài nhận thấy một số chuyên gia Viêt Nam đề cập đến vấn
đề này dưới góc độ tâm lý như: PGS. Phạm Ngọc Viễn, PGS. Lê Văn Xem
cho rằng: Huấn luyện thể lực cho VĐV là quá trình sư phạm nhằm phát triển
và giáo dục các tố chất thể lực như: sức mạnh, sức nhanh, sức bền, mềm dẻo
và khả năng phối hợp vận động.
- Phát triển các tố chất thể lực có nghĩa là tăng cường và mở rộng khả năng
giới hạn của các tố chất thể lực trong thực tiễn hoạt động TDTT. Đó là kết quả
của việc đưa lượng vận động với cường độ cao vào quá trình luyện tập.
- Giáo dục các tố chất thể lực nhằm biến các tố chất đó vào thực tiễn ý
thức của VĐV. Trên cơ sở đó họ có thể điều khiển được tất cả các tố chất thể
lực phù hợp với nhiệm vụ và hành động đã đề ra.
- Huấn luyện thể lực không ngừng liên quan tới sự xuất hiện ở VĐV
một loạt phẩm chất và thuộc tính tâm lý. Việc xác định mối quan hệ tương hỗ
giữa biểu hiện cụ thể của các quá trình, trạng thái tâm lý với kết quả giải
quyết các nhiệm vụ khác nhau của công tác huấn luyện thể lực, hoàn thiện các
quá trình đó một cách có chủ đích, giáo dục các thuộc tính cần thiết và điều
khiển hợp lý trạng thái cho VĐV là cơ sở tâm lý của huấn luyện thể lực để
đảm bảo rằng nâng cao hiệu quả huấn luyện.
1.4.2. Các tố chất thể lực chuyên môn
1.4.2.1. Sức mạnh chuyên môn:
Đa số các động tác kỹ thuật bóng chuyền đòi hỏi phải có sức mạnh
chuyên môn biểu hiện đáng kể ở các pha nhảy đập, phát bóng, sức mạnh thực
hiện động tác khác nhau, và có ý nghĩa đối với việc thể hiện sức bền và khéo
léo. Ví dụ như để thể hiện kỹ thuật chuyền bóng cao tay bằng hai tay cần phải
có trình độ phát triển nhất định của sức mạnh cơ các bàn tay, cơ tay, bả vai,
16
thân; để đập bóng là sự phát triển đồng bộ sức mạnh của cơ bàn tay, bả vai,
thân và chân. Để thực hiện hiệu quả các động tác kỹ thuật trong thi đấu bóng
chuyền, cần phải có sức mạnh bột phát- khả năng linh hoạt của hệ thống thần
kinh- cơ khắc phục sức cân bằng tốc độ co cơ cao. Vì thế cho nên huấn luyện
sức mạnh chuyên môn trước tiên là huấn luyện sức mạnh tốc độ của VĐV.
Bên cạnh đó thì sức mạnh bền và sức mạnh tối đa là rất cần thiết.
Sức mạnh tốc độ là năng lực của VĐV phát huy sức mạnh trong 1 thời
gian ngắn nhất. Để phát triển sức mạnh tốc độ về nguyên tắc cần tạo ra sự
căng cơ tối đa. Mục đích của huấn luyện sức mạnh tối đa là tạo nên những
tiền đề cho việc phát triển sức mạnh tốc độ.
Sức mạnh bền được đo bằng các bài tập kiểm tra chuyên môn khi khắc
phục 1 lực cản nhất định và tiêu chuẩn đánh giá sức mạnh bền là số lần lặp lại
được trong một thời gian cho trước hoặc là số lần lặp lại tới mức kiệt sức.
Sức mạnh tối đa là khả năng khắc phục lực cản lớn nhất cản cơ thể.
1.4.2.2. Sức nhanh chuyên môn:
Sức nhanh chuyên môn của VĐV bóng chuyền là khả năng thực hiện di động
trên sân và thực hiện nhiệm vụ vận động với khoảng thời gian ngắn nhất trong điều
kiện nhất định. Sức nhanh trong bóng chuyền thể hiện ở ba dạng cơ bản:
- Sức nhanh phản ứng động tác ( trước tín hiệu của đồng đội, trước sự
thay đổi của tình huống thi đấu…) là điều kiện cơ bản, cần thiết để nhanh
chóng hành động vượt lên trước đối phương, đánh giá trước tình thế, có quyết
định hợp lý nhất và thực hiện quyết định đó nhanh nhất.
- Sức nhanh tối đa khi thực hiện động tác riêng rẽ.
- Sức nhanh di chuyển và xoay vòng trong các đoạn ngắn.
Khi rèn luyện sức nhanh, cần phải cân nhắc đến đặc điểm sau: Trước
khi thực hiện bài tập rèn luyện sức nhanh, VĐV phải khởi động kĩ để cơ thể
chuẩn bị sẵn sàng ở mức tối ưu cho hoạt động vận động, thời gian thực hiện
17
mỗi lần lặp lại phải sao cho tốc độ giới hạn của VĐV không được giảm số
lượng lần lặp lại bài tập. Đảm bảo sao cho mỗi lần lặp lại tốc độ không được
giảm xuống ( bình thường 4-5 lần ) quãng nghỉ được tiến hành sao cho đợt lặp
lại sau được bắt đầu với tốc độ không giảm. Bài tập phát triển sức nhanh cần
thực hiện ở đầu buổi tập. Vì thực hiện bài tập trong trạng thái mệt mỏi thì
không phải là phát triển sức nhanh mà là phát triển sức bền.
- Sức nhanh trong thi đấu bóng chuyền được thể hiện một cách tổng
hợp còn khi tập luyện phát triển các dạng sức nhanh có thể tách riêng.
- Sức nhanh phản ứng động tác có thể phát triển đến mức nào đó nhờ
các bài tập thực hiện theo tín hiệu thay đổi bất ngờ của HLV hoặc trong các
tình huống quy ước trước.
- Sức nhanh tối đa thực hiện các động tác riêng rẽ được rèn luyện bằng
những bài tập sức mạnh tốc độ ( ném đẩy, bật nhảy,các bài tập phát triển theo
cấu trúc kỹ thuật động tác và các bài tập kỹ thuật thi đấu chủ yếu ).
Sức nhanh di động được rèn luyện với sự trợ giúp của các môn bóng
( bóng rổ, bóng đá, bóng ném…) các bài tập điền kinh ( xuất phát, chạy biến
tốc cự ly ngắn ) và các bài tập thi đấu khác.
1.4.2.3. Sức bền chuyên môn:
Sức bền chuyên môn của bóng chuyền là khả năng thực hiện nhiệm vụ vận
động nhất định của bóng chuyền trong thời gian dài mà không giảm hiệu quả.
Sức bền chuyên môn bao gồm: Sức bền tốc độ, sức bền bật nhảy và sức
bền thi đấu. Sức bền chuyên môn phụ thuộc vào trình độ phát triển của sức
bền chung, khả năng hoạt động của bộ máy vận động vào cường độ của quá
trình tâm lý và hiệu quả của kỹ thuật thể thao.
Sức bền tốc độ là khả năng của VĐV bóng chuyền thực hiện các động tác
kỹ thuật và di chuyển với tốc độ cao trong suốt cả trận đấu. Để phát triển sức bền
tốc độ người ta thường sử dụng sức bền tốc độ người ta thường sử dụng các bài
18
tập phát triển sức nhanh và được thực hiện lặp lại nhiều lần. Các bài tập chạy, các
bài tập mô phỏng kỹ thuật động tác và các bài tập cơ bản kỹ thuật bóng chuyền là
các biện pháp cơ bản để phát triển sức bền tốc độ. Các bài tập để rèn luyện sức
bền tốc độ nên thực hiện ở giữa và cuối buổi tập. Thời gian cho các bài tập này
có thể từ 25 đến 30 phút trong một lần và lặp lại.
Sức bền bật nhảy- là khả năng thực hiện động tác bật nhảy nhiều lần
trong thi đấu với sự nỗ lực co cơ tốt nhất. Dạng sức bền này biểu hiện trong
bật nhảy đập bóng, chắn bóng và trong chuyền hai. Các khả năng chức năng
được phát triển ở mức cao cũng như việc huấn luyện ý chí của VĐV bóng
chuyền sẽ đảm bảo cho khả năng tiếp tục hoạt động cơ bắp có hiệu quả trên
nền mệt mỏi. Các bài tập bật nhảy có mang trọng lượng (nhỏ) và không mang
trọng lượng, các bài tập mô phỏng bật nhảy các bài tập kỹ thuật cơ bản là biện
pháp chính để rèn luyện sức bền bật.
Sức bền thi đấu là khả năng tham gia thi đấu với nhịp độ cao, với hiệu
quả thực hiện kỹ thuật động tác ổn định. Sức bền thi đấu bao gồm tất cả các
dạng sức bền và các tố chất thể lực chuyên môn. Trình độ phát triển cao
những khả năng chức phận của VĐV bóng chuyền là 1 trong các yếu tơ quan
trọng để duy trì khả năng hoạt động cao trong quá trình thi đấu và thực hiện
có hiệu quả các biện pháp kỹ- chiến thuật thi đấu.
1.4.2.4. Tố chất khéo léo chuyên môn
Trong quá trình tiến hành thi đấu, các tình huống xảy ra luôn thay đổi
đòi hỏi VĐV phải có khả năng phán đoán nhanh và thực hiện quyết định
chính xác. Ngoài ra khi thực hiện động tác kỹ thuật cần phải rất chuẩn xác và
không phạm lỗi kỹ thuật. Trong bóng chuyền có nhiều động tác kỹ thuật cần
thực hiện ở tư thế không có điểm tựa, đòi hỏi rất cao đến sự hoạt động của
tiền đình. Điều đó đòi hỏi phải nâng cao tố chất khéo léo chuyên môn và khả
năng thực hiện động tác kỹ thuật chuẩn xác trong không gian.
19
Sự khéo léo của VĐV bóng chuyền có 2 dạng khác nhau:
- Khéo léo khi nhào lộn, được thể hiện trong các động tác lao, ngã, lăn
trong thi đấu phòng thủ.
- Khéo léo khi bật nhảy – là kỹ năng điều khiển cơ thể mình ở tư thế
không có điểm tựa khi đập bóng, chắn bóng và nhảy chuyền hai.
Các bài tập thể dục dụng cụ, bài tập nhào lộn, các bài tập mô phỏng,
các động tác kỹ thuật thi đấu cơ bản là những biện pháp chính để rèn luyện tố
chất khéo léo chuyên môn cho VĐV bóng chuyền.
1.4.2.5. Tố chất mềm dẻo chuyên môn:
Mềm dẻo chuyên môn là sự linh hoạt của các khớp cho phép thực hiện
các chuyển động đa dạng và với biên độ lớn trong bóng chuyền.
Để phát triển tố chất mềm dẻo chuyên môn người ta sử dụng các bài tập
làm căng cơ có cấu trúc vận động giống như các động tác kỹ thuật hoặc từng
phần động tác. Biên độ động tác trong các bài tập như vậy phải lớn hơn khi
thực hiện các động tác đó. Sử dụng trọng lượng nhỏ, hợp lý để tăng dần biên
độ động tác và giữ nguyên cấu trúc động tác. Các bài tập với người cùng tập
và các bài tập có khả năng tăng cường độ linh hoạt của các khớp, củng cố hệ
cơ và dây chằng và phát triển sức mạnh cơ, tính đàn hồi của cơ và dây chằng
đem lại hiệu quả tốt khi rèn luyện tố chất mềm dẻo.
1.5. Đặc điểm tâm sinh lý lứa tuổi
1.5.1. Đặc điểm tâm lý
Sinh viên có nhiều diễn biến tâm lý đã dần đi vào ổn định. Đây là thời
kỳ mà lứa tuổi đã có những ổn định các chức năng tâm lý, là thời kỳ mà nhân
cách con người cơ bản được định hình và có tính độc lập cao. Để quá trình
GDTC đạt hiệu quả thì phải nắm rõ tâm lý ở lứa tuổi này.
- Những điều kiện ảnh hưởng tới tâm lý của sinh viên.
+ Điều kiện sinh học.
20
Trong giai đoạn này sự phát triển về mặt sinh học đã có sự hài hoà cân
đối hơn, đây là thời kỳ đạt được sự trưởng thành về mặt cơ thể. Đa số cá nhân
đã trải qua thời kỳ phát dục bên cạnh đó sự phát triển của hệ thần kinh đã có
bước nhảy vọt, những cấu trúc và chức năng bên trong não đã hoàn thiện, cấu
trúc của tế bào đại não giống như người lớn.
+ Điều kiện xã hội
Thanh niên đã có vai trò cao hơn hẳn so với lứa tuổi thiếu niên. Đến lứa
chịu sự phụ thuộc kinh tế vào gia đình và đã có một vị trí trong gia tuổi này
tất cả đã có quyền công dân nhưng một số bộ phận vẫn đình và xã hội một
cách rõ ràng hơn. Ở lứa tuổi này các em đã có mỗi quan hệ rộng hơn và vị thế
của các em đã được nâng cao
- Sự hình thành thế giới quan
Ở sinh viên đã có những điều kiện nhất định về tri thức, nhân cách cho
việc hình thành thế giới quan tư duy trừu tượng,tư duy lý luận... Nội dung cơ
bản của thế giới quan trong giai đoạn lứa tuổi này là các vấn đề liên quan đến
con người, quyền lợi nghĩa vụ, trong đó nổi bật là vấn đề lựa chọn cách thức
khẳng định mình trong xã hội, đó chính là việc lựa chọn và quy định nơi mình
làm việc sau khi ra trường.
- Sự phát triển trí tuệ
Mang tính nhạy bén và tương đối hoàn thiện. Tính chủ đích của quá
trình nhận thức được phát triển mạnh mẽ và đạt đến trình độ cao.
- Trí nhớ
Sinh viên đã biết cách ghi nhớ có hệ thống, trong đó trí nhớ có chủ định
giữ vai trò chủ đạo, ghi nhớ logic và có ý nghĩa chiếm phần nhiều.
- Tư duy
21
Lứa tuổi này tư duy đã trở nên nhất quán và chặt chẽ hơn. Họ đã biết
khái quát hoá, trừu tượng hoá trong tư duy. Ở giai đoạn này sự phát triển năng
lực chuyên môn của bản than là tương đối mạnh mẽ.
- Đời sống tình cảm và giao tiếp
Ở lứa tuổi này đời sống tình cảm sâu sắc, phong phú và rõ ràng hơn
thời kỳ trước nhất là trong tỉnh yêu các em đã nhận thức sâu hơn và đã có
những suy nghĩ chín chắn hơn về vấn đề này. Phạm vi giao tiếp mở rộng hơn,
đa dạng và phức tạp hơn rất nhiều so với lứa tuổi trước.
- Hứng thú
Nhận thức được động cơ học tập là đúng đắn nên hầu hết sinh viên đều
có thái độ tự giác tích cực trong học tập để hướng tới một công việc như
mong muốn sau khi đã tốt nghiệp đại học. Ở giai đoạn này thì hứng thú học
tập của sinh viên còn chịu nhiều tác động khác do những yếu tố chủ quan và
khách quan mang lại, do đó các em phải nhận thức đúng và có vai trò trách
nhiệm đối với công việc học tập của mình.
- Các phẩm chất ý chí
Khác với lứa tuổi trước thì khả năng hoạt động của sinh viên tốt hơn rất
nhiều, khả năng nhận thức và tư duy về động tác đã tốt hơn và việc tiếp thu
động tác đã được thực hiện một cách hệ thống hoá. Hơn nữa các em còn có
thể hoàn thành được những bài tập khó và đòi hỏi sự khắc phục lớn trong tập
luyện. Do đó trong quá trình huấn luyện thể thao đặc biệt là huấn luyện người
HLV cần phải biết kết hợp huấn luyện chuyên môn với giáo dục đạo đức, ý
chí, kịp thời uốn nắn các hành vi không tốt của VĐV.
1.5.2. Đặc điểm sinh lý:
Sinh lý của từng lứa tuổi là căn cứ quan trọng để tiến hành trong quá
trình huấn luyện.
- Hệ vận động ( hệ cơ xương )
22
+ Hệ xương
Vào thời kì này xương đã giảm tốc độ phát triển, chiều dài của các em
phát triển chậm dần và xu hướng phát triển về chiều ngang tăng. Tập luyện
TDTT một cách thường xuyên liên tục làm cho bộ xương khỏe mạnh hơn. Ở
lứa tuổi này các xương nhỏ như xương cổ tay, xương bàn tay hầu như đã hoàn
thiện nên các em có thể tập luyện một số động tác treo, chống, mang vác nặng
mà không làm tổn hại hoặc không tạo sự phát triển lệch lạc của cơ thể cột
sống. Cột sống đã ổn định hình dáng nhưng vẫn chưa được hoàn thiện, vẫn có
thể bị cong vẹo nên việc tiếp thu bồi dưỡng tư thế chính xác qua các bài tập
như đi, chạy, nhảy, thể dục nhịp điệu, thể dục cơ bản và giúp cơ thể phát triển
hoàn thiện hơn.
+ Hệ cơ
Đã phát triển tương đối hoàn thiện và gần như giống người trưởng
thành. Các cơ nhỏ đã phát triển hơn ở thời kì trước. Do vậy, những bài phát
triển sức mạnh để góp phần tăng thêm sự phát triển các cơ. Những bài tập
không nên chỉ có treo hoặc chống đơn thuần mà phải là những bài tập kết hợp
giữa treo và chống cùng với những bài tập khắc phục lực đối kháng nữa. Tập
như vậy vừa phát triển nhóm cơ, cơ duỗi vừa giảm nhẹ sự chịu đựng của cơ
khi tập liên tục trong thời gian dài. Các bài tập phải đảm bảo nguyên tắc vừa
sức đảm bảo cho tất cả các loại cơ phát triển.
- Hệ tuần hoàn
Hệ tuần hoàn đã phát triển và toàn diện, buồng tim phát triển tương đối
hoàn chỉnh, tần số của tim từ 60-80 lần/phút ( yên tĩnh), khi vận động sẽ thay
đổi nhiều. Sự phục hồi sau vận động đạt mức ngang so với người trưởng
thành. Thể tích phút đạt 24-28 lần/phút, thể tích tâm đạt 120-140ml, huyết áp
tối đa tăng 180-200mmHg, huyết áp tối thiểu không ổn định. Vì vậy, ở lứa
tuổi này có thể tập những bài tập có khối lượng mà cường độ tương đối lớn
23
nhưng vẫn phải thận trọng và thường xuyên kiểm tra, theo dõi tình trạng sức
khỏe của các vận động viên.
- Hệ thần kinh
Hệ thần kinh tiếp tục được phát triển và đi đến hoàn thiện, kỹ năng tư
duy, phân tích tổng hợp và trừu tượng được phát triển tạo điều kiện cho việc
hình thành phản xạ có điều kiện. Đây là đặc điểm thuận lợi cho việc các em
tiếp thu và hoàn thiện kỹ thuật động tác được dễ dàng hơn. Tuy nhiên đối với
một số bài tập mang tính đơn điệu, không hấp dẫn cũng làm các em nhanh
chóng mệt mỏi. Cần thay đổi hình thức tập luyện một cách phong phú và tạo
điều kiện hoàn thành tốt các bài tập chính, nhất là các tập sức bền. Ngoài ra,
do sự hoạt động mạnh của tuyến giáp, tuyến yên, làm cho tính hưng phấn của
hệ thần kinh chiếm ưu thế, giữa hưng phấn và ức chế không cân bằng đã ảnh
hưởng đến hoạt động thể lực. Vì vậy ở lứa tuổi này, giáo viên cần sử dụng
những bài tập thích hợp và thường xuyên quan sát các phản ứng của cơ thể.
- Hệ hô hấp
Đã phát triển và tương đối hoàn thiện, vòng ngực trung bình của nam là
67-72cm. Các chỉ số hô hấp ổn định ( tần số đạt 12-18 lần/phút). Dung lượng
phổi tăng lên nhanh chóng từ lúc 15 tuổi là 2 – 2.5 lít, 18 tuổi là 3 – 4 lít, tần
số hô hấp, các cơ hô hấp đã hoạt động như người trưởng thành. Trong tập
luyện cần thở sâu và tập trung chú ý thở bằng ngực, các bài tập bơi, chạy cự
ly trung bình, việt dã đã có tác dụng đối với sự phát triển hô hấp.
24
CHƯƠNG 2: THỰC TRẠNG HỌC TẬP VÀ TẬP LUYỆN
CỦA NAM SINH VIÊN CHUYÊN SÂU BÓNG CHUYỀN
KHOA GDTC TRƯỜNG ĐHSP HÀ NỘI
2.1.Thực trạng bóng chuyền nam của trường ĐHSP Hà Nội.
2.1.1. Phong trào tập luyện môn bóng chuyền của sinh viên trường
ĐHSP Hà Nội.
Bóng chuyền là môn thể thao mang tính tập thể, tính cộng đồng cao nên
đang được sinh viên các trường ĐH, Cao đẳng nói chung và sinh viên khoa
GDTC trường ĐHSP Hà Nội nói riêng ưa thích, lựa chọn là môn thể dục tự
chọn theo quy định của Bộ Giáo dục và Đào tạo. Sự phát triển của bộ môn
bóng chuyền là nền tảng để mỗi năm học Hội thể thao ĐH, Cao Đẳng khu vực
Hà Nội và đặc biệt là môn thể thao được khoa và nhà trường lựa chọn làm
môn thể thao thi đấu trong giải thể thao truyền thống của nhà trường. Vì vậy
môn bóng chuyền được đông đảo sinh viên quan tâm và tham gia tập luyện.
Các hoạt động thi đấu thể thao từ trung ương đến cơ sở ngày càng phát
triển đa dạng, hệ thống thi đấu lớn như: Đại hội thể thao sinh viên toàn quốc,
Hội thi nghiệp vụ sư phạm văn nghệ thể thao các trường Sư Phạm toàn quốc
hàng năm thu hút hàng trăm sinh viên tham gia.
Để đánh giá thực trạng sự quan tâm và ham thích tập luyện môn bóng
chuyền của sinh viên khoa GDTC đề tài đã tiến hành phỏng vấn 300 sinh viên
khoa GDTC. Kết quả thu được ở bảng sau:
25