Tải bản đầy đủ (.doc) (50 trang)

Nghiên cứu lựa chọn bài tập phát triển sức bền tốc độ cho nam vđv bóng đá lứa tuổi 17 tỉnh nam định

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (251.69 KB, 50 trang )

1
MỞ ĐẦU
Thể dục thể thao (TDTT) là một bộ phận không thể thiếu được trong nền giáo
dục chủ nghĩa nhằm đào tạo và xây dựng con người mới phát triển toàn diện,
TDTT góp phần nâng cao sức khoẻ cho mọi người dân. Sức khoẻ là vốn quý nhất
của con người. Mặt khác TDTT còn nâng cao vị trí của một đất nước trên thế giới,
mang lại tình đoàn kết, sự hiểu biết giữa các dân tộc. Vì vậy bất cứ quốc gia nào dù
nhỏ hay lớn, dù giàu hay nghèo . . . cũng đều chú trọng đến sự nghiệp phát triển
TDTT.
Bóng Đá là môn thể thao thi đấu đối kháng trực tiếp, có lượng vận động liên tục
không ngừng. Nó đòi hỏi các vận động viên (VĐV) phải có trình độ thể lực tốt mới
đáp ứng được yêu cầu của bóng đá. Chính vì thế trong huấn luyện và giảng dạy của
nhà chuyên môn thường xem thể lực là nền tảng vững chắc làm cơ sở phát triển kỹ,
chiến thuật.
Sức bền tốc độ là tố chất thể lực hết sức quan trọng trong tập luyện và thi đấu
như di chuyển chạy chỗ, dẫn bóng tốc độ sút cầu môn lặp đi lặp lại nhiều lần, là cơ
sở cho VĐV nắm vững kỹ thuật vận động, nâng cao thành tích thi đấu. Nếu tố chất
này không được đảm bảo thì dẫn đến làm hạn chế khả năng phối hợp thực hiện ý đồ
di chuyển. đồng thời làm cho tố chất tốc độ như khéo léo, mềm dẻo cũng không
phát huy hết vai trò tích cực của nó. Huấn luyện thể lực với lượng vận động lớn là
cơ sở đạt thành tích cao nhưng để tiến hành cần phải dựa trên cơ sở trình độ thể lực

nhất định của mỗi VĐV bởi vì trình độ thể lực càng cao thì tố chất chuyên môn
càng phát triển, điều đó cũng có lợi cho nắm vững và phát triển kỹ thuật duy trì
trạng thái tốt cho cầu thủ ở những lúc căng thẳng. Do tính chất của trận thi đấu
Bóng đá tranh cướp quyết liệt, biến hoá phức tạp .Vì vậy sức bền tốc độ là yếu tố
rất quan trọng đối với các cầu thủ.
Qua thực tiễn theo dõi cũng như tham khảo ý kiến của các nhà chuyên môn,
huấn luyện viên (HLV) bóng đá, Sở TDTT Nam Định chúng tôi nhận thấy trình độ
sức bền tốc độ của VĐV bóng đá lứa tuổi 17 phát triển chưa tốt. Thực trạng này có
nhiều nguyên nhân nhưng đáng kể nhất là: Các bài tập đã cũ, một số bài tập không


còn phù hợp với xu hướng bóng đá hiện đại. Phương pháp huấn luyện còn một số
vấn đề chưa hợp lý như khối lượng, cường độ và thời gian giành cho một buổi tập
phát triển cho sức bền tốc độ chưa phù hợp. Điều đó làm giảm sút thể lực của VĐV
trong quá trình huấn luyện và phần nào ảnh hưởng tới chất lượng đào tạo VĐV.
Vì vậy nghiên cứu ứng dụng bài tập phát triển sức bền tốc độ cho VĐV Bóng đá
còn hết sức quan trọng và cần thiết .Trên cơ sở phân tích ý nghĩa và tầm quan trọng
của vấn đề nghiên cứu, chúng tôi tiến hành nghiên cứu đề tài:
“Nghiên cứu lựa chọn bài tập phát triển sức bền tốc độ cho nam VĐV Bóng
đá lứa tuổi 17 tỉnh Nam Định”.
* Mục đích nghiên cứu:
2

Mục đích nghiên cứu của đề tài là lựa chọn được những bài tập có hiệu quả nhất
phát triển sức bền tốc độ cho nam VĐV Bóng đá tỉnh Nam Định nói riêng và Bóng
đá trẻ Việt Nam nói chung. Từ đó góp phần nâng cao chất lượng quá trình đào tạo
VĐV Bóng đá, tạo tiền đề cho VĐV đạt thành tích cao trong tập luyện và thi đấu.
* Mục tiêu nghiên cứu.
- Mục tiêu 1: Đánh giá thực trạng sức bền tốc độ của nam VĐV bóng đá lứa
tuổi17 tỉnh Nam Định.
+ Nghiên cứu lựa chọn test đánh giá sức bền tốc độ của nam VĐV bóng đá lứa
tuổi 17 tỉnh Nam Định.
+ Nghiên cứu đánh giá thực trạng sức bền tốc độ của nam VĐV bóng đá lứa tuổi
17 tỉnh Nam Định.
+ Nghiên cứu lựa chọn bài tập phát triển sức bền tốc độ của nam VĐV bóng đá
lứa tuổi 17 tỉnh Nam Định.
- Mục tiêu 2: Nghiên cứu lựa chọn ứng dụng các bài tập phát triển sức bền tốc
độ cho nam VĐV bóng đá lứa tuổi 17 tỉnh Nam Định.
+ Ứng dụng các bài tập đã chọn vào thực tiễn huấn luyện
+ Đánh giá hiệu quả các bài tập đã lựa chọn trên đối tượng nghiên cứu.
Đối tượng nghiên cứu.

- 20 nam VĐV bóng đá trẻ lứa tuổi 17 tỉnh Nam Định.
Phạm vi nghiên cứu.
- Sở TDTT tỉnh Nam Định.
3

- Trường Đại học TDTT - Bắc Ninh
Ý nghĩa luận văn:
Đề tài nghiên cứu có ý nghĩa khoa học và thực tiễn trong việc đánh giá thực
trạng sử dụng các bài tập phát triển sức bền tốc độ cho nam VĐV bóng đá lứa tuổi
17 tỉnh Nam Định trong quá trình huấn luyện.
Trong quá trình nghiên cứu đề tài đã lựa chọn được các bài tập phát triển sức bền
tốc độ cho nam VĐV bóng đá lứa tuổi 17 tỉnh Nam Định góp phần nâng cao thành
tích thể thao
4

CHƯƠNG I
TỔNG QUAN CÁC VẤN ĐỀ NGHIÊN CỨU
1.1 Đặc điểm sức bền và sức bền tốc độ trong bóng đá.
*Theo quan điểm lý luận:
Sức bền và khả năng thực tiễn một hoạt động với cường độ cho trước hay là
khả năng vận động trong thời gian dài nhất mà cơ thể có thể chịu đựng được.Do
thời gian hoạt động đó bị giới hạn bở sự xuất hiện của mệt mỏi nên cũng có thể nói
sức bền là năng lực của cơ thể chống lại mệt mỏi trong hoạt động nào đó. Sức bền
chia ra làm 2 loại:
Sức bền chung: đó là khả năng thực hiện một công cơ học do nhiều nhóm cơ
tham gia và có tác động trực tiếp đến môn thể thao trong thời gian dài.
Sức bền chuyên môn: là năng lực duy trì khả năng vận động cao trong những
loại hình bài tập nhất định.
Bóng đá là môn thể thao vận động không ngừng với khối lượng lớn, các động tác
kỹ thuật có cường độ cao, đua tranh quyết liệt, sử dụng nhiều loại hình xuất phát

nhanh, chạy đổi hướng, xuất phát đột ngột, trong khi thời gian lại giữ những lần di
chuyển đó lại không nhiều. Do đó để trở thành một cầu thủ thi đấu tốt thì phải có
một lền tảng thể lực tuyệt vời bởi thể lực và cơ sở để phát triển các tố chất khác
như kỹ thuật, chiến thuật và nhiều khả năng khác và sức bền tốc độ là yếu tố ảnh
hưởng lớn nhất đến sự phát triển đó.
5

Sức bền tốc độ trong bóng đá là khả năng duy trì hoạt động VĐV thực hiện một
hoạt động nào đó có cường độ lớn trong thời gian hoạt động mà khả năng duy trì
tốc độ giảm không nhiều. Sức bền tốc độ là tố chất đặc thù của bóng đá bởi trong
thi đấu cầu thủ luôn vận động với cường độ cao di chuyển liên tục để thực hiện ý
đồ chiến thuật như phòng thủ kèm ngường, phòng thủ khu vực, phối hợp nhóm, bật
tường nhanh, di chuyển bóng lôi kéo, chạy đổi vị trí cho nhau, tấn công nhanh tấn
công trận tuyến, đột phá cá nhân……. Đồng thời các thủ phải xử lý thật tốt tình
huống xảy ra trên sân và thực hiện các kỹ thuật một cách chính xác, nhanh chóng
trong những điều kiện khác nhau. Do đó sức bền tốc độ trong thi đấu bóng đá là
điều kiện nâng cao thành tích VĐV.
Trong công tác giảng dạy và huấn luyện sức bền tốc độ cho VĐV bóng đá cần
tiến hành theo chương trình giáo án có quy củ và tiến hành song song việc huấn
luyện kỹ, chiến thuật vì bóng là môn thể thao đối kháng, là hoạt động không có chu
kỳ, không định trước động tác, thời gian thi đấu kéo dài do đó sức bền là nền tảng,
là cơ sở cho mọi hoạt động. Vì vậy huấn luyên tốc độ là một nhiệm vụ quan trọng
trong huấn luyện bóng đá do nó liên quan đến việc hình thành và phát triển đồng
đều các tố chất khác đồng thời nâng cao khả năng phối hợp thực hiện các ý đồ kỹ -
chiến thuật.
Sức bền tốc độ trong bóng đá có hai mặt liên quan trực tiếp đó là: sức bền tốc độ
và tốc độ, trong đó muốn đánh giá sức bền mà VĐV có khả năng duy trì được với
cường độ định trước thì phương pháp huấn luyện sức bền riêng đều phải nâng cao
khả năng ưa khí và yếm khí, năng cao giới hạn tâm lý để duy trì tính bền vững của
cơ thể với những biến đổi nội môi nhất định.

Tốc độ chính là biểu hiện ra các chỉ số tương đối hay riêng biệt. Vì vậy huấn
luyện sức bền tốc độ cho VĐV bóng đá thì phương pháp thay đổi phương pháp
giãn cách là thích hợp. Ngoài ra phương pháp tập luyện vòng tròn có tác dụng tổng
6

hợp, đặc biệt lựa chọn bài tập một cách khéo léo và sắp xếp thích hợp các nhân tố
của lượng vận động.
*Theo quan điểm tâm lý học
Bóng đá là môn tập thể đối kháng trực tiếp do vậy VĐV ngoài sự chịu đựng
lượng vận động cao còn phải chịu sự tác động tâm lý rất lớn và trong đó hoạt động
sức bền có liên quan rất nhiều đến sự nỗi lực ý trí, nó biểu hiện các phẩm chất về
tâm lý, về tính tự chủ và cả tính mục đích của bài tập. Thường những hoạt động sức
bền là những hoạt động với cường độ ổn định trước, trong thời gian kéo dài dễ mệt
mỏi cho người tập.Do đó người tập phải tự động viên và phát huy hết năng lực dự
trữ của cơ thể để đảm bảo duy trì cường độ vận động trong thời gian dài. Để đạt
được mục đích của bài tập và luôn có ý trí tiến lên trong quá trình thi đấu VĐV
phải có năng lực điều khiển ý thức tập trung chú ý, do thời gian thi đấu kéo dài nên
có yêu cầu rất cao đối với hoạt động của hệ thần kinh, trong sức bền tâm lý và khả
năng của hệ thần kinh mà VĐV có thể chịu đựng lượng vận động cao trong thể lực
thi đấu, duy trì sự cân bằng cần thiết ở hệ thống đó.
*Theo quan điểm sinh lý học
Theo sinh lý học TDTT sức bền thường đặc trương cho khả năng thực hiện các
hoạt động thể lực kéo dài và sự tham gia của một khối lượng cơ bắp lớn nhờ sự hấp
thụ oxy để cung cấp năng lượng cho cở thể. Chủ yếu sức bền phụ thuộc vào.
- Khả năng hấp thụ oxy tối đa của cơ thể ( VO
2
max ).
- Khả năng duy trì lâu dài của mức độ hấp thụ oxy cao, mức độ hấp thụ oxy tối
đa( VO
2

max ) cang cao thì công suất hoạt động ưa khí tối đa, lầm cho cơ thể hoạt
động ưa khí được dễ dàng và lâu hơn.
Mặt khác khả năng hấp thụ oxy tối đa được quyết định bởi khả năng của 2 hệ
thống chính.
- Hệ VĐV oxy đảm nhận vai trò hấp thụ oxy từ môi trường bên ngoài và vận
chuyển oxy đến cơ quan trong cơ thể.
7

- Hệ cơ là hệ sử dụng oxy được cung cấp.
Trình độ sức bền được xây dựng trước hết bởi chức năng của hệ tuần hoàn, hệ
trao đổi chất, hệ thần kinh và sự phối hợp hoạt động của các cơ quan trong cơ thể.
Trong quá trình tập luyện để nâng cao sức bền thì sự thay đổi các chức năng của
các cơ quan trong cơ thể có vai trò cơ bản. Do đó việc huấn luyện sức bền phải
hướng chủ yếu vào việc nâng cao sức bền ưa khí và năng lực hoạt động yếm khí.
1.2.Đặc điểm tâm sinh lý và cấu trúc giải phẫu của lứa tuổi 17.
1.2.1 Đặc điểm tâm lý.
Ở giai đoạn này các em có những bước phát triển nhảy vọt cả về thể chất lẫn tinh
thần. Biểu hiện là đã có những bước phát triển từ tuổi thơ ấu sang tuổi trưởng thành
, lứa tuổi này các em ở ngưỡng không hẳn là người lớn cũng không hẳn là trẻ con
nữa.Giai đoạn này các em đã hình thành những phẩm chất mới về trí tuệ, tình cảm,
đạo đức, phong cách và thái độ về công việc được giao. Sự phát triển của các em
trong giai đoạn này tương đối phức tạp, tâm lý của các em biến đổi mâu thuẩn với
nhau xuất hiện nhiều đột biến.
Sự phát triển thân thể của các em đột ngột như chiều cao, cân nặng, hệ xương
được cốt hóa và phát triển mạnh. Hệ thần kinh cũng dần được hoàn thiện và phát
triển. Sự mất cân bằng giữa tim và mạch máu, dung tích của tim cũng tăng lên gấp
1,5 lần. Hệ tuần hoàn tậm thời bị rối loạn gây nên hiện tượng thiếu máu cục bộ ở
một số bộ phận trên vỏ não làm chủ các em trong quá trình tập luyện rất dễ mệt
mỏi, chán tập, thần kinh không ổn định, dễ xúc động, dễ kích động làm cho các
phản xạ giữa hưng phấn và ức chế không ổn định, có hưng phấn mạnh hơn, có lúc

ức chế lại lấn át hưng phấn làm cho các em có nhiều khi tự chủ bản thân.
Cùng với sự phát triển về sức nhanh và sức mạnh trong cơ bắp khiến trong hoạt
động có nhiều động tác thừa, lóng ngóng và vụng về, sai lệch về biên độ và kỹ
thuật động tác. Đây chỉ là dấu hiệu khó khăn tạm thời của sự phát triển. Trong quá
8

trình học tập các em rất thích được giao công việc cụ thể, rất thích được khen ngợi,
biểu dương và có xu hướng bắt trước học tập người lớn.
1.2.2 Đặc điểm sinh lý
Ở lứa tuổi này cơ thể các em đang trong quá trình phát triển và trưởng thành, các
hệ thống cơ quan khác nhau trong đó thể hiện rõ nét ở các đăc điểm giới tính, vì
vậy làm cho quá trình huấn luyện hết sức phức tạp. Do đó yêu cầu người huấn
luyện viên, người lập kế hoạch phải nắm vững được các đặc điểm sinh lý của lứa
tuổi, cần phải có sự phối hợp lý giữa lượng vận động và thi đấu trong sự phát triển
sinh lý của các em ở giai đoạn này.
Trong giai đoạn này mệt mỏi khả năng vận động và các chỉ số khác nói riêng
như tần số động tác, sức mạnh, sức bền, độ chính xác của động tác rõ rệt so với
người trưởng thành. Sự mệt mỏi của các em diễn ra cả khi các môi trường bên
trong của cơ thể chỉ có sự biến đổi nhỏ.Dẫn đến quá trình hồi phục sau lượng vận
động bị ảnh hưởng như:
1.2.3. Đặc điểm giải phẩu của lứa tuổi 17.
* Hệ xương khớp.
- Hệ xương: Lứa tuổi các em trong giai đoạn này về xương các bước nhảy vọt về
cả chiều dài và độ dày của xương.Tính đàn hồi có xu hướng giảm do lượng canxi,
photpho……trong xương tăng lên. Do đó xương của các em đx cứng hơn, đôi khi
xuất hiện côt hóa ở một số bộ phận của xương, các tổ chúc liên kết của xương dần
dần được thay thế bằng mô xương.
- Hệ khớp: Tuy hệ xương có sự phát triển đáng kể nhưng bao khớp của các em
vẫn còn yếu mỏng các diện khớp còn nông, bao khớp mỏng và lỏng lẻo.
* Hệ cơ:

Hệ cơ phát triển nhanh nhưng vẫn còn chậm hơn sự phát triển của hệ xương
khớp, biểu hiện cảu các em cao hơn và gầy. Số lượng của hệ cơ tăng lên nhưng vẫn
không đều chủ yếu là các cơ nhỏ và cơ dài, độ phì đại của cơ chưa cao. Do vậy khi
9

hoạt động cơ rất nhanh bị chùa cứng và làm cho cơ thể nhanh mệt mỏi nên quá
trình tập luyện các em phải chú ý tới khối lượng và cường độ buổi tập sao cho sự
phát triển tôt của cơ thể.
*Hệ tuần hoàn
Trong giai đoạn này các em có sự phat triển nhanh về tim và mạch máu, tim phát
triển to ra, thành mạch của tim dày lên làm cho tần số chùa bóp của tim giảm và
tương đối ổn định. Tiềm năng hoạt động đã đạt tới mức tương đối cao. Sự phát
triển của cỏ thể trong giai đoạn này phần nào đã có phản ứng thích nghi với sự tăng
công suốt hoạt động, sự hồi phục của tim tương đối nhanh, thể tích phút của dòng
máu giảm, thể tích tâm thu và thể tích phút của tim tăng cao (thể tích tâm thu từ
140 – 170ml, thể tích phút 28-32l/phút).
Huyết áp tăng: + Huyết áp tối đa 100-110 mmHg
+ Huyết áp tối thiểu 80-95 mmHg
* Máu:
Hoạt động mạnh mẽ của cơ bắp dẫn đến thay đổi nhất dịnh sau thời gian tập
luyện lâu dài và căng thăng.Độ nhớt của máu tăng lên, khối lượng máu ít tỷ lệ với
trọng lượng của cơ thể ở múc cao lượng tăng lên sau quá trình tập luyện làm cho cơ
thể đầy đủ dẫn đến quá trình hồi phực diễn ra mạnh mẽ và nhanh chóng sau lượng
vận động.
* Hệ hô hấp :
Cơ thể đã phát triển mạnh nhưng không đều và chưa hoàn thiện quá trình hô hấp
có sự thay đổi về chu kỳ, trong tập luyện và thi đấu các em thường thở nông và
10

không đều do phổi còn chưa to, lồng ngực còn hẹp về dung tích sống và khả năng

hấp thụ oxy tăng lên hơn lứa tuổi.
*Hệ thần kinh:
Bộ não các em trong thời kỳ này tiếp tục phát triển mạnh đi đến hoàn thiện khả
năng tư duy, nhất là tư duy trừu tượng hóa phát triển rất thuận lợi cho sự hình thành
phản xạ có điều kiện. Ngoài ra do sự phát triển của tuyến yêu, tuyến giáp làm cho
hệ thần kinh có sự hưng phấn mạnh.
*Tóm lại:
Ở lứa tuổi này các em được hình thành những phẩm chất mới trí tuệ, tình cảm
đạo đức phong cách về thái độ và công việc được giao sự phát triển tương đối phức
tạp, tâm lý của các em có biến đổi mâu thuẫn với nhau xuất hiện nhiều đột biến. Do
vậy công tác huấn luyện phải nắm được đặc điểm tâm sinh lý lứa tuổi như biết
động viên, biểu dương kịp thời tạo cho các em có nhận thức đúng đắn và hưng
phấn trong tập luyện và thi đấu.
Trong giai đoạn này cơ thể các em đang phát triển và trưởng thành làm cho quá
trình huấn luyện hết sức phúc tạp. Giai đoạn thích nghi và ổn định bao giờ cũng
kém tuổi trưởng thành, giai đoạn mệt mỏi sớm xuất hiện. Do vậy trong công tác
huấn luyện phải nắm được đặc điểm sinh lý của lứa tuổi cần có sự phối hợp giữa
lượng vận động và thi đấu trong sự phát triển sinh lý của các em.
1.3. Các phương pháp phát triển sức bền và sức bền tốc độ trong bóng đá.
1.3.1. Xu hướng huấn luyện thể lực cho VĐV bóng đá.
Sự phát triển của bóng đá ngày nay đòi hỏi công tác huấn luyện thể lực cần phải
tìm hiểu, khai thác những nhân tố thúc đẩy nguồn năng lượng tiềm năng của VĐV,
thông thường những nhân tố đố là khối lượng vận động và cường độ vận động của
VĐV. Hai nhân tố này chính là động lực chính làm tăng thể lực cũng như thành
tích cho VĐV thực tiễn đã chứng minh các cường quốc bóng đá trên thế giới như
11

Braxin, Anh, Đức, Pháp… trong đó công tác huấn luyện đã chú ý giải quyết khối
lượng vận động cao và cường độ vận động lớn một cách hợp lý. Đây cũng là kinh
nghiệm mà bất cứ huấn luyên viên nào cũng biết nhưng để làm tốt không phải ai

cũng có thể làm được bởi muốn làm được thì phải huấn luyện mọi cách nghiêm túc,
khoa học và phải có hệ thống hóa các bài tập, phải tập luyện liên tục trong nhiều
năm mới có thể thành đạt và trở thành những VĐV đỉnh cao. Trong huấn luyện
diễn biến tuần tự mục tiêu của từng giai đoạn thường là không thể chuyển tiếp hết
được do vậy bất kỳ một huấn luyện viên nào muốn VĐV vượt qua đặc điểm của
quá trình huấn luyện chuyên môn hóa quá sớm để đạt được thành tích nhất thời, tất
yếu sẽ dẫn đến VĐV đạt thành tích khi chưa có thể đạt được và như vậy hiệu quả
của nó là thời gian duy trì thành tích ngắn, đời hoàng kim của VĐV mau lụi tàn và
có nhiều tác hại xấu không thể lường trước được.
Huấn luyện đóng vai trò trong việc hình thành cho VĐV những năng lực vận
động kỹ - chiến thuật thi đấu và phù hợp các chỉ số lượng vận động thi đấu, mức độ
căng thẳng tâm lý. Do đó trong huấn luyện thể thao hiện đại thì huấn luyện thể lực
giữ vị trí, mang tính chất và tầm quan trong đặc biệt với xu thế của bóng đá ngày
nay là toàn diện tấn công, toàn đội phòng thủ tức là lối đá tổng lực và so với bóng
đá trước kia dù là trên bình diện chất lượng, tốc độ cảu chất đấu hay mức độ đối
kháng quyết liệt của trận đấu đều được nâng cao và phát triển một bước khá dài. Do
đó yêu cầu huấn luyện thể lực cho VĐV bóng đá hiện nay rất cao.
1.3.2. Đặc điểm của một số phương pháp huấn luyện sức bền và sức bền tốc
độ trong bóng đá.
1.3.2.1. Phương pháp nâng cao khả năng ưa khí.
Khả năng ưa khí của cơ thể là khả năng tạo ra nguồn năng lượng cho hoạt động
cơ bắp thông qua quá trình oxy hóa các hợp chất giàu năng lượng cơ thể. Để nâng
cao khả năng ưa khí cần giải quyết 3 nhiệm vụ: Nâng cao khả năng hấp thụ oxy tối
12

đa, nâng cao khả năng kép dài thời gian duy trì mức độ hoạt động với công suất
cao.
Để giải quyết những nhiệm vụ trên, nguyên tắc chung của các phát triển tập
luyện nâng cao khả năng ưa khí là sử dụng các bài tập trong đó hiệu suất hô hấp và
tuần hoàn có thể đạt mức tối đa và duy trì được mức hấp thụ oxy cao trong thời

gian dài. Tất nhiên đó là những bài tập có sự thâm gia của nhiều nhóm cỏ và tốc độ
gần giới hạn.
Các phương pháp chủ yếu được sử dụng để nâng cao khả năng ưa khí của cơ thẻ
là phương pháp đồng đều liên tục, phương pháp biến đổi và phương pháp lặp lại.
Phương pháp đồng đều liên tục được áp dụng rộng rãi trong giai đoạn đầu của
quá trình huấn luyện sức bền: Đặc điểm của phương pháp này thực hiện các bài tập
liên tục, không bỏ nghỉ giữa quãng với tốc độ ở mức gần tới hạn và thời gian bài
tập, tương đối dài. Với phương pháp này khả năng phối hợp hoạt động của các hệ
thống đảm bảo việc hấp thụ oxy được nâng lên ngay trong quá trình vận động,
đồng thời bài tập có thể đạt hiệu quả do chúng tác động lên cơ thể trong thời gian
tương đối dài.
Phương pháp lập lại và phương pháp biến đổi được áp dụng để phát triển sức bền
là những phương pháp dựa trên những bài tập yếm khí (tức là với tốc độ tới hạn)
với thời gian mỗi cần thực hiện bài tập tương đối ngắn và những quảng nghỉ giữa
(quãng giãn cách) có tính toán kỹ lưỡng để phát huy tối đa khả năng ưa khí của cơ
thể. Tác dụng của các bài tập diễn ra chủ yếu là thời gian giãn cách giữa các lần lặp
lại bài tập, tức là mức hấp thụ oxy cao nhất đạt được vào lúc nghỉ giũa quãng chứ
không phải trong lúc thực hiện bài tập.
Các phương pháp giãn cách và phương pháp biến đổi được sử dụng để nâng cao
khả năng ưa khí thường có cấu trúc các thành phần của lượng vận động như sau:
Cường độ hoạt động (tốc độ di chuyển) cao hơn mức tới hạn tức là vào khoảng 75-
80% tốc độ tối đa, sao cho cuối mỗi lần lặp lại tần số mạch sấp xỉ 180lầnphút (đây
13

là tần số nhịp tim có hiệu suất cao). Độ dài cự ly tập luyện phải được lựa chọn sao
cho thời gian thực hiện không quá 1-1,5 phút. Chỉ trong trường hợp này hoạt động
mới diễn ra trong điều kiện yếm khí và mới đạt được mức hấp thụ oxy tối đa vào
lúc nghỉ giữa quảng.
Khoảng cách nghỉ giữa quãng tùy theo trình độ tập luyện của VĐV, dao động từ
40-120 giây, để cho lần lặp lại tiếp theo được bắt đầu trong lúc thể tích tâm thu và

mức hấp thụ oxy đang ở mức cao (tần số nhịp tim vào khoảng 120-140 lần/phút).
Trong mỗi trường hợp quãng nghỉ không nên vượt 3-4 phút, khi mà hoạt động của
hệ tuần hoàn và hệ hô hấp đã giảm nhiều. Trong quãng nghỉ nên tiếp tục hoạt động
với cường độ thấp để tránh sự chuyển đột ngột từ trạng thái tĩnh và ngược lại, tăng
nhanh quá trình hồi phục tạo điều kiện để thực hiện được khối lượng vận động lớn.
Số lần lặp lại cần tính toán sao cho đảm bảo duy trì được trạng thái ổn định trong
sự phối hợp hoạt động của các hệ thống cơ thể, thể hiện ở khả năng hấp thụ oxy ổn
định ở mức tương đối cao. Cụ thể là khi có hiện tượng giảm mức hấp thụ oxy thì đó
là tín hiệu để ngừng bài tập. Trong thực tế có thể dựa vào tần số mạch đập, khi tốc
độ bài tập vẫn không thay đổi, nhưng tần số mạch đập sau bài tập tăng lên đáng kể
so với những bài tập lặp lại trước đó. Chứng tỏ đã xuất hiện sự rối loạn trong phối
hợp hoạt động của các hệ thống hô hấp và tuần hoàn thì nên ngừng tập.
1.3.2.2. Phương pháp nâng cao khả năng yếm khí:
Khả năng yến khí là khả năng vận động của cơ thể trong điều kiện dựa vào các
nguồn cung cấp năng lượng yếm khí (các phản ứng năng lượng không có sự tham
gia của oxy).
Nâng cao khả năng ưa khí cũng là yếu tố quan trọng để nâng cao khả năng yếm
khí tạo điều kiện thuận lợi cho việc thự hiện những hoạt động yếm khí. Bởi vì như
chúng ta đã biết quá trình trả nợ oxy được diễn ra một phần ngay trong lúc vận
động và nếu khả năng ưa khí cao thì phần trả nợ oxy trong lúc vận động đó sẽ lớn
hơn và hiệu quả hoạt động của cơ thể tăng lên.
14

Tuy nhiên nhiệm vụ chính ở đây là tăng cường khả năng giải phóng năng lượng
nhờ các phản ứng phân hủy photphocreatin và phân hủy glucoozo, đồng thời nâng
cao khả năng chịu đựng trạng thái nợ oxy ở mức cao.
Các bài tập nhằm hoàn thiện cơ chế giải phóng năng lượng từ photphocreatin có
những đặc điểm sau:
- Cường độ hoạt động gần mức tối đa hoặc thấp hơn một chút.
- Thời gian của bài tập (mỗi lần lặp lại) chỉ giới hạn từ 3-8 giây (chạy 30-60m)

sở sĩ như vậy vì dự trữ photphocreatin trong cơ còn rất ít. Sự phân hủy hợp chất
này chỉ diễn ra trong thời gian vài giây (3-8 giây) sau khi bắt đầu hoạt động.
- Thời gian nghỉ giữa quảng từ 2-3 phút, đó cũng là thời gian để phục hồi
photphocreatin.Sụ phân hủy photphocreatin không tạo ra axit lactic, nên tốc độ trả
nợ oxy diễn ra nhanh. Nhưng do dự trữ photphocreatin trong cơ rất ít, nên sau 3-4
lần lặp lại thì hoạt động của cơ chế gluco phân sẽ tăng lên, còn cơ chế
photphocreatin sẽ giảm đi.
Để khắc phục hiện tượng này người ta chia cả bài tập thành 2-3 nhóm mỗi nhóm
gồm 3-5 lần lặp lại, thời gian lặp lại giữa các nhóm kéo dài từ 7-10 phút (đủ để oxy
hóa phần lớn axitlactic và đảm bảo duy trì được trạng thái hưng phấn cao của các
trung tâm thần kinh).
- Cần sử dụng hình thức nghỉ nhơi tích cực nhất là trong thời gian nghỉ giữa các
nhóm như đi bộ chạy nhe nhàng… ngay sau mỗi lần lặp lại, sau đó cơ thể nghỉ
thoải mái để cho cơ thể trở về trạng thái tương đối tĩnh ban đầu.
- Số lần lặp lại tùy thuộc vào trình độ tập luyện của VĐV sao cho tốc độ không
giảm. Việc chia bài tập thành các nhóm là một biện pháp cho phép tăng được tổng
số lần lặp lại của các bài tập, nâng cao được khối lượng vận động.
Để hoàn thiện cơ chế glucophân (tức là nâng cao khả ăng yếm khí của cơ thể)
cần áp dụng các bài tập có những đặc điểm sau:
15

- Cường độ vận động (tốc độ di chuyển) xấp xỉ tối đa, tức là khoảng 90-95%
tốc độ tối đa ở các cự ly tương ứng sử dụng. Sau một số lần lặp lại chỉ số tốc độ
tuyệt đối có thể giảm ít nhưng vẫn được coi là xấp xỉ tốc độ tối đa trong trạng thái
hiện có lúc đó của cơ thể.
- Thời gian mỗi lần lặp lại có thể từ 20 giây đến 2 phút các cự ly chạy 200-
600m….
- Khoảng cách nghỉ ngơi nên giảm dần thường không quá 3-4 lần, vì trạng thái
mệt mỏi tăng nhanh. Nếu tăng số lần lặp lại một cách liên tục thì tốc độ giảm dần,
cơ chế cung cấp năng lượng sẽ chuyển dần sang cực phản ứng có oxy. Bằng cách

chia ra các nhóm, mỗi nhón gần 3-4 lần lặp lại, giữa các nhóm có thời gian nghỉ dài
15-20 phút, đủ để thanh toán phần còn nợ oxy.
1.3.2.3. Đặc điểm các phương pháp huấn luyện phát triển sức bền tốc độ
trong bóng đá.
Bóng đá là môn thể thao có cấu trúc hỗn hợp: vừa có hoạt động chu kỳ vừa có
hoạt động không có chu kỳ. Đặc trưng của bóng đá là cường độ hoạt động và hình
thức di chuyển luôn luôn thay đổi. Vì vậy nâng cao năng lục ưa khí bằng các bài
tập có chu kỳ là rất cần thiết để nâng cao sức bền chuyên môn. Vì nhờ đó có thể
đảm bảo được khả năng phục hồi nhanh chóng những lúc không di chuyển với
cường độ cao.
Ngoài ra, để thích nghi với tính chất hoạt động thay đổi, cần áp dụng nhiều bài
tập chạy tốc độ có cường độ và độ dài khác nhau, các bài tập bật nhảy kết hợp với
chạy đổi hướng, vượt vật cản, các hình thức biến dạng của các phương pháp đồng
đều và giãn cách cũng được áp dụng rộng rãi. Cụ thể là kéo dài thời gian trong tập
luyện. Mặt khác có thể tăng số hiệp đấu với điều kiện rút ngắn thời gian và cường
độ đấu tập. Thí dụ toàn thời gian thi đấu bóng đá (2x45 phút) được chia thành 6
hiệp ngắn, mỗi hiệp 15phút, đâú tập với cường độ (VĐV ở các vị trí phải di chuyển
) giữa các hiệp ngắn có thời gian nghỉ rút ngắn dần.
16

Qua theo dõi và quan sát các trận đấu bóng đá chúng tôi nhận thấy các VĐV
phải di chuyển liên tục và chạy nước rút rất nhiều bởi khuynh hướng của bóng đá
hiện đại là đẩy nhanh tốc độ trận đấu gây bất ngờ cho đối phương bằng phản công
nhanh đẩy hậu vệ vào các hoạt động tấn công, tiền đạo vào các hoạt động phòng
thủ. Do đó vai trò của sức bền tốc độ trước hết là phát triển khả năng sức bền tốc độ
không bóng (tức là các bài tập chạy được lặp lại với cường độ ở mức xấp xỉ tới hạn
với quãng nghỉ ngắn.) Ngoài ra VĐV phải duy trì được khả năng đó trong suốt trận
đấu, đáp ứng được yêu cầu mà ban huấn luyện giao cho.
1.3.3 Các yếu tố lượng vận động trong huấn luyện nâng cao sức bền và sức
bền tốc đọ trong bóng đá.

Các phương pháp huấn luyện nâng cao sức bền trong các môn thể thao đều dựa
trên sự kết hợp 5 yếu tố cơ bản của lượng vận động đó là: Tốc độ bài tập, thời gian
thực hiện bài tập, thời gian nghỉ giữa quảng, tính chất nghỉ ngơi, số lần lặp lại.
-Tốc độ bài tập chia làm 3 loại:
+ Tốc độ dưới hạn: là tốc độ di chuyển đòi hỏi cung cấp oxy dưới mức cơ thể có
thể áp dụng đượctức là nhu cầu oxy thấp hơn khả năng hấp thụ của cơ thể. Như
chúng ta đã biết, khi lượng hấp thụ oxy đáp úng đầy đủ nhu cầu oxy do vận động
đòi hỏi thì hoạt động diễn ra trong điều kiện ổn định thực trạng vùng tốc độ dưới
tới hạn thì nhu cầu oxy tỷ lệ thuận với tố độ di chuyển.
Nếu VĐV di chuyển với tốc độ nhanh hơn hơn thì dần dần sẽ đạt đến tốc độ tới
hạn. Khi đó nhu cầu oxy ở mức bằng với khả năng ưa khí (khả năng hấp thụ oxy tối
đa) của cơ thể.
+ Tốc độ trên tới hạn là tốc độ di chuyển có nhu cầu cao hơn năng lực hấp thụ
oxy tối đa. Lúc này hoạt động diễn ra trong điều kiện nợ oxy do các nguồn năng
lượng yếm khí. Do hiệu suất thấp của cơ chế cung cấp năng lượng yếm khí, nên ở
vùng tốc độ trên tới hạn nhu cầu oxy tăng nhanh nhiều so với mức độ di chuyển.
Theo Ahill, lúc này nhu cầu oxy gần như tỷ lệ với lập phương của tốc độ. Thí dụ
17

nếu tốc độ tăng từ 6m/giây đến 9m/giây, tức là tăng 1,5 lần thì nhu cầu oxy sẽ tăng
khoảng 3,3 đến 3,4 lần.
- Thời gian nghỉ giữa quảng trong các bài tập lặp lại có vai trò quan trọng đối với
tính chất và phương tác động của bài tập lặp lại có vai trò quan trọng đối với các
tốc độ tới hạn và dưới tới hạn, nếu thời gian nghỉ giữa quảng đủ dài để cho các hoạt
động sinh lý trở lại mức bình thường thì ở mỗi lần lặp lại bài tập tiếp theo, các phản
ứng của cơ thể sẽ diễn ra giống như lần thực hiện các bài tập trước đó. Tức là thoạt
đầu là cơ chế giải phóng năng lượng từ photphocreatin, tiếp đến là quá trình
glucôphân (1-2 phút tiếp theo).Sau đó các quá trình hô hấp (quá trình ưa khí) mới
phát huy tác dụng 3-4 phút.
Trong các bài tập lặp lại tốc độ dưới tới hạn, khi thời gian bài tập (một lần thực

hiện bài tập) ngắn (dưới 2 phút) các quá trình hô hấp chưa kịp phát huy ở mức đầy
đủ và hoạt động diễn ra trong điều kiện thiếu oxy. Trong trường hợp này nếu thời
gian nghỉ giữa quảng ngắn thì cần thực hiện bài tập tiếp theo sẽ diễn ra trên nền của
quá trình hô hấp chưa giảm đi đáng kể và năng lượng cho hoạt dần dần được đảm
bảo nhờ cơ chế các cơ chế ưa khí.
- Tính chất nghỉ ngơi: Nghỉ ngơi giữa quảng có thể là thụ động, không tiếp tục
bài tập dưới một hình thức nào khác, có thể là nghỉ ngơi tích cực, tức là sau bài tập
vẫn tiếp tục bài tập với cường độ thấp (chạy nhẹ nhàng….). Nói chung mỗi lần thực
hiện bìa tập không nên nghỉ ngơi một cách thụ động (ngồi, nằm) trừ trường hợp có
quảng nghỉ dài, nhưng cũng phải kết hợp với quảng nghỉ tích cực. Các hình thức
nghỉ ngơi tích cực khác nhau được coi là những biện pháp tốt để tránh hiện tượng
chuyển động đột ngột từ trạng thái động sang trạng thái tĩnh và ngược lại, để duy trì
trạng thái cơ thể hoạt động ở mức cần thiết, tạo điều kiện thuận lợi cho việc thực
hiện bài tập ở lần lặp lại tiếp theo, cũng như đẩy nhanh quá trình hồi phục.
- Số lần lặp lại: Trong việc tập huấn để phát triển sức bền chung cũng như sức
bền chuyên môn các bài tập thường được lặp lại với rất nhiều kiểu cách khác nhau.
18

Trong các bài tập ưa khí, khi thời gian của mỗi lần thực hiện bài tập (mỗi lần lặp
lại) tương đối ngắn thì số lần lặp lại phải tương đối lớn. Ngược lại trong các bài tập
yếm khí việc tăng số lần lặp lại phải hết sức thận trọng và chỉ giới hạn trong phạm
vi nhất định. Như vậy số lần lặp lại là một trong những yếu tố quy định lượng vận
động, tạo nên kết quả tổng hợp của bài tập.Việc xác định số lần lặp lại tùy thuộc
vào mục đích của bài tập, cường độ và thời gian thực hiện bài tập trong mỗi lần lặp
lại, trình độ tập luyện của VĐV. Trong rất nhiều trường hợp hiệu quả của các bài
tập phụ thuộc vào số lần lặp lại cuối cùng. Vì vậy nếu quy định số lần không đúng
thì hiệu quả của cả bài tập sẽ giảm đi rất nhiều. Một trong những căn cứ để xác
định số lần lặp lại là đảm bảo cho tốc độ thực hiện bài tập trong những lần lặp lại
cuối cùng không bị giải đi đáng kể.
Qua đây ta thấy ý nghĩa và tác dụng của các yếu tố lượng vận động làm thay đổi

cơ chế, diễn biến sinh lý trong cơ thể, nó có tác dụng trực tiếp đến việc thay đổi
thành tích. Chính vì vậy chúng tôi dựa vào 5 yếu tố trên sẽ đưa ra được những bài
tập có lượng vận động phù hợp trong quá trình giáo dục sức bền.
19

CHƯƠNG II
PHƯƠNG PHÁP VÀ TỔ CHỨC NGHIÊN CỨU
2.1. Phương pháp nghiên cứu
2.1.1. Phương pháp đọc và tổng hợp tài liệu.
Sử dụng phương pháp nhằm tìm ra các cơ sở chung, chuyên môn, chúng tôi đã
phân tích, tổng hợp nhiều vấn đề có ý nghĩa khoa học cho việc lựa chọn ra các bài
tập một cách chính xác hơn.
2.1.2. Phương pháp phỏng vấn tọa đàm.
Để có cơ sở thực tiễn trong phương pháp này chúng tôi sử dụng phỏng vấn thông
qua các huấn luyện viên bóng đá, những cán bộ thể thao có chuyên môn về việc
huấn luyện sức bền tốc độ cho các cầu thủ trẻ, qua đó lựa chọn được phương pháp
huấn luyện và các bài tập phát triển sức bền tốc độ cho nam VĐV bóng đá lứa tuổi
17 tỉnh Nam Định.
Chúng tôi đã tiến hành phỏng vấn 20 cán bộ giáo viên, HLV tại các trường, các
sở TDTT và các trung tâm huấn luyện bóng đá.
2.1.3. Phương pháp quan sát sư phạm.
20

Chúng tôi đã trực tiếp quan sát các buổi tập luyện và thi đấu của các VĐV bóng
đá nam lứa tuổi 17 Nam Định. Qua đó lựa chọn ra các test phù hợp để đánh giá sức
bền tốc độ của các VĐV.
2.1.4. Phương pháp kiểm tra sư phạm.
Phương pháp này nhằm mục đích kiểm tra, đánh giá sức bền tốc độ của nam
VĐV bóng đá lứa tuổi 17 tỉnh Nam Định một cách chính xác và khách quan thông
qua những test sẽ lựa chọn. Trên cơ sở đó có những nhận xét, kết luận về hiệu quả

các bài tập đã lựa chọn trong việc phát triển sức bền tốc độ cho đối tượng nghiên
cứu
2.1.5. Phương pháp thực nghiệm sư phạm
Phương pháp này chúng tôi sử dụng trong quá trình nghiên cứu nhằm kiểm
nghiệm hiệu quả của bài tập giáo dục sức bền tốc độ cho VĐV bóng đá trẻ. Trong
quá trình thực nghiệm với 20 VĐV lứa tuổi 17 tỉnh Nam Định, chúng tôi chia làm 2
nhóm:
- Nhóm thực nghiệm 10 VĐV
- Nhóm đối chứng 10 VĐV
2.1.6. Phương pháp toán học thống kê.
Trong xử lý số liệu và đánh giá kết quả, chúng tôi vận dụng những công thức sau
vào quá trình nghiên cứu:
- Tính số trung bình cộng:

n
x
x
i

=

Trong đó:

: Là dấu hiệu tổng.

x
: Là số trung bình.
x
i
: Là giá trị của từng cá thể.

n: Là số lượng đối tượng quan sát.
21

- Phương sai:
1
)(
1
2
2


=

=
n
xx
n
i
i
x
σ
Với n<30
- Độ lệch chuẩn:
2
xx
σσ
=
- Thang độ C:
C = 5 + 2Z Trong đó: Z =
δ

xx −
- Hệ số biến sai:
v
C
=
x
x
δ
.100%
- Công thức tính hệ số tương quan (n<30).
r =
( ) ( )
( ) ( )
∑ ∑

−−
−−
22
.
B
B
A
A
B
B
A
A
xxxx
xxxx
2.2 Tổ chức nghiên cứu.

Đề tài tiến hành nghiên cứu từ tháng 03/2010 đến 05/2011 được chia thành 3 giai
đoạn:
- Giai đoạn 1: từ tháng 03/2010 đến tháng 04/2010 đề tài sư dụng phương pháp
phân tích và tổng hợp tài liệu để:
+ Xác định vấn đề nghiên cứu
+ Thu thập các tài liệu liên quan đến đề tài
+ Tránh trùng lặp với đề tài khác
+ Lập đề cương nghiên cứu
22

+ Bảo vệ đề cương nghiên cứu
- Giai đoạn 2: Từ tháng 5/2010 đến tháng 2/2011. Đề tài sử dụng các phương
pháp còn lại để tiến hành giải quyết các nhiện vụ nghiên cứu của đề tài:
- Giai đoạn 3: Từ thánh 3/2011 đến tháng 5/2011.
+ Viết luận văn nghiên cứu
+ Hoàn thiện luận văn
+ Chuẩn bị báo cáo kêt quả nghiên cứu trước hội đồng khoa học.
CHƯƠNG III
KẾT QUẢ VÀ PHÂN TÍCH KẾT QUẢ NGHIÊN CỨU
3.1. Giải quyết mục tiêu 1.
Đánh giá thực trạng sức bền tốc độ cho nam VĐV bóng đá lứa tuổi 17 tỉnh
Nam Định.
Để giải quyết vấn đề này, chúng tôi triển khai theo các bước sau:
3.1.1. Nghiên cứu lựa chọn test đánh giái sức bền của nam VĐV bóng đá lứa
tuổi 17 tỉnh Nam Định.
a. Nguyên tắc lựa chọn test đánh giá:
- Các test được lựa chọn phải có tính khả thi đảm bảo độ tin cậy và tính thông
báo trên đối tượng nghiên cứu.
23


- Các test phải đơn giản, dễ thực hiện, dễ kiểm tra.
- Thời gian thực hiện các test phải phù hợp với thời điểm kiểm tra.
b. Lựa chọn test đánh giái sức bền tốc độ cho nam VĐV bóng đá.
Thông qua việc phân tích tổng hợp, tham khảo các tài liệu chuyên môn đề tài xác
định được 4 test để đánh giá năng lực sức bền tốc độ của VĐV bóng đá lứa tuổi 17
tỉnh Nam Định.
Test 1: Chạy 5 x 30m (s)
Test 2: Dẫn bóng sút cầu môn 5 quả liên tục (s).
Test 3: Chạy sút bóng cầu môn 10 quả liên tục (s)
Test 4: Dẫn bóng tốc độ 30m lặp lại 3 lần (s).
Để đảm bảo tính thực tiến của các test trên chúng tôi tiến hành tham khảo ý kiến
của các chuyên gia. Huấn luyện viên đang trực tiếp giảng dạy và huấn luyện. Hầu
hết các ý kiến đều đồng ý sử dụng các test để đánh giá sức bền tốc độ cho VĐV,
song cần lưu ý kiểm tra tính thông báo của các test.
c. Kiểm tra tính thông báo của các test.
Để đảm báo tính thông báo của các test đã lựa chọn tên đối tượng nghiên cứu, đề
tài đã tiến hành xác định hệ số tương quan của các test tới kết quả tập luyện của
VĐV bóng đá lứa tuổi 17 tỉnh Nam Định. Kết quả thu được trình bày ở bảng 3.1.
Bảng 3.1. Xác định tính thông báo của các test đánh giá sức bền tốc độ trên đối
tượng nghiên cứu
24

STT
Test
r p
1 Chạy 5 x 30m (s) 0,80 <0.01
2 Dẫn bóng sút cầu môn 5 quả liên tục (s) 0,46 >0,01
3 Chạy sút bóng cầu môn 10 quả liên tục (s) 0,49 >0,01
4 Dẫn bóng tốc độ 30m lăp lại 3 lần (s) 0,84 <0,01
Từ kết quả 3.1 cho thấy có hai test (test 1,4) có mối tương quan chặt với kết quả tập

luyện của các VĐV bóng đá lứa tuổi 17 được đề tài chọn lựa sử dụng . Hai test còn
lại do không đảm bảo về tính thông báo chúng tôi đã loại bỏ.
3.1.2. Đánh giá thực trạng sức bền tốc độ của nam VĐV bóng đá lứa tuổi 17
tỉnh Nam Định.
Bằng phương pháp quan sát sư phạm (theo dõi qua hình thức tập luyện và thi đấu
của các VĐV) chúng tôi nhận thấy thể lực chuyên môn của các em mới có mức
trung bình, có một số em còn có mức yếu đặc biệt là sức bền tốc độ. Điều đó được
thể hiện rất rõ ở những lần đua nước rút… Chính sự yếu kém đó đã có ảnh hưởng
không ít tới việc thực hiện các động tác kỹ thụât, khả năng phối hợp tấn công.
Để mức độ đánh giá mang tính thực tiễn hơn chúng tôi đã tiến hành so sánh khả
năng sức bền tốc độ của đội bóng đá Nam Định với đội bóng đá Hải Phòng ở lứa
tuổi 17 bằng test kiểm tra.
- Test 1: Chạy 5x 30 (s).
- Test 2: Dẫn bóng tốc độ 30m lặp lại 3 lần (s).
Kết quả kiểm tra được thể hiện ở bảng 3.2
25

×