Tải bản đầy đủ (.doc) (12 trang)

TIỂU LUẬN TRIẾT HỌC - CÁC QUY LUẬT của PHÉP BIỆN CHỨNG TRONG tác PHẨM CHỐNG ĐUY RINH của ENGHEN

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (103.15 KB, 12 trang )

Các quy luật cơ bản của phép biện chứng trong tác
phẩm chống đuy-rinh của ph. ăng-ghen
1.Hoàn cảnh ra đời tác phẩm
Cuối thế kỷ XIX chủ nghĩa t bản đã trở thành một hệ thống rộng lớn, trải
từ lục địa châu Âu sang Bắc Mỹ. Chủ nghĩa t bản phát triển không chỉ bằng
sức mạnh nội tại của nó, bằng sự thay đổi trong cơ cấu lực lợng sản xuất và
các quan hệ xã hội, mà cả bằng sự xâm chiếm thuộc địa, đặt ách thống trị lên
các dân tộc khác. Chủ nghĩa t bản chuyển từ giai đoạn tự do cạnh tranh sang
giai đoạn độc quyền. Phong trào công nhân đã trở thành một lực lợng lớn
mạnh, chủ nghĩa xã hội khoa học ngày càng đợc đông đảo công nhân tiên tiến
tin theo, song cũng bị nhiều kẻ thù tấn công từ nhiều phía, đặc biệt là trên lĩnh
vực lý luận t tởng. Sau Công xã Pa ri bị thất bại, các học thuyết xét lại và học
thuyết cơ hội đã đa ra những giải thích mới về chủ nghĩa Mác, mà thực chất là
xa rời các luận điểm cơ bản của chủ nghĩa Mác, nó chủ trơng dung hoà với
trật tự xã hội hiện tại, hoặc tìm kiếm một cơng lĩnh chính trị dựa trên sự thoả
hiệp giai cấp mà chúng cho là tiến bộ. Tại Đức, trung tâm của phong trào công
nhân là Đảng dân chủ-xã hội đã đợc thành lập, song lại chịu sự chi phối của
khuynh hớng chiết trung t tởng và chủ nghĩa xã hội đạo đức từng bị C. Mác và
Ph.Ăngghen phê phán.
Nớc Đức, thời kỳ này vẫn là nớc chậm phát triển, còn nhiều cát cứ phong
kiến cản trở con đờng phát triển t bản chủ nghĩa; kinh tế còn lạc hậu, ruộng
đất tập trung chủ yếu ở giai cấp phong kiến. Mặt khác cuộc chiến tranh kéo
dài đã làm cho kinh tế nớc Đức càng kiệt quệ. Năm 1879 cách mạng t sản
Pháp nổ ra và giành thắng lợi đã là tấm gơng cho các nớc châu Âu và nớc Đức
đi theo con đờng t bản chủ nghĩa. Nớc Đức lại có chung đờng biên giới với nớc Pháp do đó lại càng ảnh hởng trực tiếp cách mạng t sản Pháp. Nhng giai
cấp t sản Đức lúc bấy giờ còn yếu hèn một mặt vừa muốn làm cách mạng, mặt
khác lại muốn thoả hiệp với giai cấp phong kiến thực hiện cách mạng bằng
con đờng cải lơng, chấp nhận sự thống trị của nhà nớc quân chủ Phổ. Do vậy,


nhiệm vụ xoá bỏ chế độ phong kiến đợc trao vào tay giai cấp vô sản Đức để


tiến hành cách mạng dân chủ t sản kiểu mới. Nhng giai cấp vô sản Đức còn
non yếu cả về số lợng và chất lợng, cha có sự thống nhất về mặt tổ chức.
Trong đảng dân chủ xã hội Đức có sự phân hoá chia rẽ thành hai phái: phái
Liên đoàn do Lát xan lãnh đạo, thực hiện cải cách xã hội bằng con đờng cải lơng; phái hữu khuynh do Bêben lãnh đạo, lúc đầu theo chủ nghĩa Mác sau đó
bị nhà nớc Phổ ép buộc, nên cũng đi theo phái Liên đoàn. Vào thời kỳ này
mặc dù chủ nghĩa Mác đã ra đời và thâm nhập vào giai cấp công nhân, nhng
lúc này những t tởng cơ hội xét lại phủ nhận chủ nghĩa Mác có xu hớng phát
triển mạnh mẽ; nhiều học thuyết t sản phản động mọc nên nh nấm sau cơn ma. Lập trờng t tởng của giai cấp vô sản Đức thiếu kiên định; phong trào công
nhân bị các t tởng t sản, cơ hội xét lại lũng đoạn. Các t tởng tiểu t sản cũng
phát triển tràn lan và đợc truyền bá rộng rãi trong xã hội Đức. Vào năm 1875
Đuyrinh đã viết hàng loạt các bài công kích gay gắt, đòi gạt bỏ, thay thế chủ
nghĩa Mác trong phong trào công nhân.
Đầu năm 1875, chủ nghĩa Đuyrinh đợc truyền bá trên quy mô rộng lớn
và trở nên đặc biệt nguy hiểm. Sự kiện này đã góp phần tiêm nhiễm t tởng
độc hại vào phong trào công nhân, đáng chú ý là Đuyrinh đã xuất bản lần thứ
hai cuốn sách Lịch sử phê phán khoa kinh tế chính trị và chủ nghĩa xã hội
và việc cuốn Bài giảng về triết học trong các tác phẩm này Đuyrinh đã công
kích gay gắt chủ nghĩa Mác, Đuyrinh cho rằng chủ nghĩa Mác là phi khoa
học là sự nhắc lại chủ nghĩa Ph. Hêghen và làm mới chủ nghĩa L. Phoi-ơ-bắc
và ông thừa nhận mình là ngời cộng sản và chỉ có ông mới là ngời trung
thành với chủ nghĩa xã hội. Đuyrinh tuyên truyền học thuyết của ông và
khẳng định chỉ có chủ nghĩa của ông mới có hy vọng giải phóng cho giai cấp
công nhân. Đuyrinh đã viết hàng loạt các bài công kích gay gắt chủ nghĩa
Mác, ông ta tự cho mình là đã sáng tạo ra đợc một hệ thống hoàn chỉnh đầy
đủ những quan điểm trong tất cả các lĩnh vực của tri thức. Nhng cái lỗi của
các quan điểm ấy là cái lý luận chủ nghĩa xã hội chống chủ nghĩa xã hội.


Chủ nghĩa xã hội của Đuyrinh là ý đồ tầm thờng của kẻ cải lơng, tuyệt đối hoá
vai trò nhà nớc t sản, không muốn làm thay đổi bản chất của chủ nghĩa t bản.

Các quan điểm t tởng của Đuyrinh thực ra không có gì mới mẻ, kể cả trong
triết học, cũng chỉ là thứ chiết trung chủ nghĩa, duy vật tầm thờng, là thứ t tởng phản động chống lại chủ nghĩa Mác.
Trớc tình hình đó Ph.Ăngghen phải gác công việc bận rộn của mình để
trực tiếp đấu tranh với Đuyrinh. ông cho rằng cần phải công khai nói lên quan
điểm chính kiến và chống lại sai lầm về sự ngạo mạng của Đuyrinh. Vì vậy,
Ph.Ăngghen đã tạm ngừng viết tác phẩm Biện chứng tự nhiên để quay sang
vạch trần những sai lầm nghiêm trọng của học thuyết xã hội chủ nghĩa vừa
mới hình thành của Đuyrinh; thông qua đó Ph.Ăngghen đã bảo vệ và phát
triển chủ nghĩa Mác, làm cho nó thật sự là thế giới quan khoa học, cách mạng,
là cơ sở lý luận của giai cấp công nhân để nhận thức và cải tạo thế giới. Từ
nhu cầu tất yếu ấy, một tác phẩm dới hình thức bút chiến và bách khoa về nội
dung của Ph.Ăngghen đã ra đời. Tác phẩm Chống Đuyrinh bắt đầu viết từ
tháng 9 năm 1876, viết xong vào tháng 4 năm 1878; tác phẩm đợc xuất bản ba
lần vào năm 1878, 1885, 1894; sau khi ông mất toàn bộ tác phẩm Chống
Đuyrinh đợc dịch sang tiếng Nga và đợc xuất bản ở đây.
2. Kết cấu và t tởng cơ bản của tác phẩm
Tác phẩm Chống Đuyrinh của Ph.Ăngghen in trong C. Mác và Ph.
Ăngghen, Toàn tập, tập 20, Nxb CTQG, Hà Nội 1994, gồm lời tựa cho 3 lần
xuất bản, lời mở đầu và 3 phần chính: Triết học, Kinh tế chính trị học và Chủ
nghĩa xã hội khoa học.
Phần 1: Triết học. Ph.Ăngghen đã phê phán những sai lầm của Đuyrinh
về các vấn đề không gian, thời gian, thiên thể học, vật lý học, hoá học, giới
hữu cơ trên cơ sở chủ nghĩa duy vật biện chứng. Ph.Ăngghen phê phán
Đuyrinh về quan điểm chân lý vĩnh cữu, tự do và tất yếu Ph.Ăngghen đã


bàn về vấn đề đạo đức và pháp quyền và trình bày một cách có hệ thống các
quy luật cơ bản của phép biện chứng duy vật.
Phần 2: Kinh tế chính trị học. Phê phán Đuyrinh đảo lộn kinh tế chính
trị học một cách rối răm. Ph.Ăngghen đã trình bày về lịch sử kinh tế theo t tởng của C. Mác.

Phần 3: Chủ nghĩa xã hội khoa học. Ph.Ăngghen đã tóm tắc lịch sử và
lý luận về chủ nghĩa xã hội khoa học, phác thảo những đặc trng cơ bản của
chủ nghĩa cộng sản. ông khẳng định khi nào xoá bỏ chủ nghĩa t bản xây dựng
chủ nghĩa xã hội thì lúc đó con ngời mới thật sự tự do và hạnh phúc.
3. Nội dung các qui luật cơ bản của phép biện chứng trong tác phẩm
3.1. Qui luật thống nhất và đấu tranh của các mặt đối lập
Tác phẩm Chống Đuyrinh của Ph.Ăngghen là tác phẩm luận chiến,
xuất phát từ việc ông Đuyrinh tạo nên một hệ thống lý luận chống chủ nghĩa
Mác nói chung và triết học Mác nói riêng. Do đó xuyên suốt tác phẩm Ph.
Ăngghen kết hợp việc trích dẫn quan điểm của Đuyrinh và quan điểm của
Mác, qua đó vạch trần bộ mặt thật của Đuyrinh và khẳng định quan điểm duy
vật biện chứng Mácxít.
Khi nghiên cứu bất kỳ sự vật, hiện tợng nào, chúng ta cũng thấy các sự
vật, hiện tợng đó đợc tạo thành từ nhiều bộ phận, mang nhiều thuuộc tính khác
nhau. Một phân tử nớc do 2 nguyên tử hyđrô và 1 nguyên tử nớc tạo thành.
Trong số các yếu tố cấu thành sự vật hay trong các thuộc tính của sự vật đó
không chỉ có sự khác nhau, có cả những cái đối lập nhau. Khi nói đến nhân tố
cấu thành mâu thuẫn thì có những mặt, những thuộc tính, những đặc điểm có
huynh hớng biến đổi trái ngợc nhau tồn tại một cách khách quan vốn có của
sự vật.
Ph.Ăngghen đã chỉ ra tính khách quan, tính phổ biến của mâu thuẫn:
mâu thuẫn có ở tất cả các sự vật hiện tợng cả trong tự nhiên, xã hội và t duy
con ngời. Trong bản thân các sự vật và các quá trình, có một mâu thuẫn tồn


tại khách quan, hơn nữa mâu thuẫn đó lại là một lực lợng có thực(1) Mâu
thuẫn của sự vật đợc thể hiện giữa hai mặt đối lập của nó, vừa thống nhất vừa
chuyển hoá cho nhau. Đồng thời, Ph.Ăngghen cũng chỉ ra nguồn gốc, động
lực của sự vận động phát triển của sự vật đó là tự thân do mâu thuẫn và đấu
tranh giải quyết mâu thuẫn giữa các mặt đối lập bên trong sự vật.

Đuyrinh cho rằng mâu thuẫn chỉ có trong t tởng còn trong sự vật không
có mâu thuẫn. Ph.Ăngghen cho rằng cách xem xét nh vậy của Đuyrinh là siêu
hình, trái lại khi xem xét sự vật phải dựa trên quan điểm duy vật biện chứng.
Ph.Ăngghen đã minh hoạ bằng nhiều ví dụ trong các lĩnh vực khác nhau của
sự nhận thức giới tự nhiên nh cơ học, toán học, sinh vật học... Chúng ta đã
nói đến một trong những cơ sở chính của toán học cao cấp là mâu thuẫn: trong
những điều kiện nhất định thì thẳng và cong phải đợc coi là nh nhau(2) Ph.
Ăngghen còn coi vận động cũng có đặc trng mâu thuẫn thờng xuyên nảy sinh
mâu thuẫn và giải quyết mâu thuẫn, mà điều đó khác với phơng pháp siêu
hình mà Đuyrinh không thể hiểu nổi. Mâu thuẫn biện chứng trong vận động
thể hiện trong sự đối lập và chuyển hoá giữa vận động và đứng im. Ph.
Ăngghen viết: Nếu nh bản thân sự di động một cách máy móc đơn giản đã
chứa đựng mâu thuẫn, thì tất nhiên những hình thức vận động cao hơn của vật
chất và đặc biệt là sự sống hữu cơ và sự phát triển của sự sống hữu cơ đó lại
càng chứa đựng mâu thuẫn(3) Khi bàn đến cái vô tận trong không gian và thời
gian, Ph.Ăngghen chỉ ra mâu thuẫn đặc trng của cái vô tận. Ông viết: Cái vô
tận là một mâu thuẫn, và nó chứa đầy những mâu thuẫn. Cái vô tận chỉ gồm
những đại lợng có hạn cộng thành cũng đã là một mâu thuẫn rồi...Chính vì cái
vô tận là một mâu thuẫn nên nó là một quá trình vô tận, diễn ra vô tận trong
thời gian và trong không gian(4).

(1)

C.Mác-Ph.Ăngghen: Toàn tập, Nxb Chính trị quốc gia,
C.Mác-Ph.Ăngghen: Toàn tập, Nxb Chính trị quốc gia,
(3)
C.Mác-Ph.Ăngghen: Toàn tập, Nxb Chính trị quốc gia,
(4)
C.Mác-Ph.Ăngghen: Toàn tập, Nxb Chính trị quốc gia,
(2)


Hà Nội, 1994, Tập 20, tr 173
Hà Nội, 1994, Tập 20, tr 174
Hà Nội, 1994, Tập 20, tr 173
Hà Nội, 1994, Tập 20, tr 77


Nếu nh vận động cơ giới đã là một mâu thuẫn, thì các hình thức cao khác
của vận động tất yếu cũng phải chứa đựng mâu thuẫn. Cho nên khi coi mâu
thuẫn là nguồn gốc, động lực của sự vận động và phát triển của thế giới các sự
vật. Về vấn đề này Ph.Ăngghen viết: Sự sống cũng là một mâu thuẫn tồn tại
trong bản thân các sự vật và các quá trình, một mâu thuẫn thờng xuyên nảy
sinh và tự giải quyết, và khi mâu thuẫn chấm dứt thì sự sống cũng không còn
nữa và cái chết xảy đến(5). Khi thừa nhận mâu thuẫn là phổ biến trong hiện
thực khách quan thì tất yếu trong t duy không tránh khỏi mâu thuẫn. Ph.
Ăngghen chỉ ra mâu thuẫn trong t duy đó là mâu thuẫn giữa năng lực nhận
thức vô hạn ở bên trong con ngời với năng lực thực tế của con ngời, bởi vì theo
ông con ngời bị hạn chế bởi hoàn cảnh bên ngoài và mâu thuẫn đó sẽ đợc giải
quyết trong sự nối tiếp nhau vô tận của các thế hệ của con ngời. Ph.Ăngghen
viết: Trong lĩnh vực t duy, chúng ta không thể thoát khỏi mâu thuẫn; chẳng
hạn nh mâu thuẫn giữa năng lực nhận thức vô tận ở bên trong của con ngời với
sự tồn tại thực tế của năng lực ấy trong những con ngời bị hạn chế bởi hoàn
cảnh bên ngoài, và bị hạn chế, trong những năng lực nhận thức, mâu thuẫn
này đợc giải quyết trong sự nối tiếp của các thế hệ, sự nối tiếp đó ít ra đối với
chúng ta trên thực tiễn, cũng là vô tận, và đợc giải quyết trong sự vận động đi
lên vô tận(6).
Trên cơ sở phân tích quy luật phát triển bằng con đờng đấu tranh giữa
các mặt đối lập, Ph.Ăngghen xem xét mối tơng quan giữa lôgíc hình thức và
lôgíc biện chứng, đó là mối tơng quan giữa cái không biến đổi và cái luôn
biến đổi. Ph.Ăngghen viết: Chừng nào chúng ta xem xét các sự vật nh là

đứng im và không có sinh khí, cái nào riêng cho cái ấy, cái này bên cạnh cái
kia và cái này nối tiếp cái kia, thì chắc chắn là chúng ta không thấy đợc một
mâu thuẫn nào trong các sự vật cả...Trong giới hạn của lĩnh vực xem xét này,
chúng ta dùng phơng pháp t duy thông thờng, phơng pháp thông thờng, phơng
(5)
(6)

C.Mác-Ph.Ăngghen: Toàn tập, Nxb Chính trị quốc gia, Hà Nội, 1994, Tập 20, tr 174.
C.Mác-Ph.Ăngghen: Toàn tập, Nxb Chính trị quốc gia, Hà Nội, 1994, Tập 20, tr 174.


pháp siêu hình cũng có thể giải quyết đợc. Nhng tình hình sẽ khác hẳn khi
chúng ta bắt đầu xem xét các sự vật trong sự vận động, sự biến đổi, sự sống,
sự tác động lẫn nhau của chúng. Lúc đó, chúng ta sẽ lập tức gặp phải những
mâu thuẫn. Bản thân sự vận động đã là một mâu thuẫn; ngay nh sự di động
một cách máy móc và đơn giản sở dĩ có thể thực hiện đợc, cũng chỉ là vì một
vật trong cùng một lúc vừa ở nơi này vừa ở nơi khác, vừa ở cùng một chỗ lại
vừa không ở chỗ đó. Và sự nảy sinh thờng xuyên và giải quyết đồng thời mâu
thuẫn này- đó cũng chính là sự vận động(7). Nh vậy khi xem xét các sự vật
trong sự vận động và phát triển, chúng ta gặp phải mâu thuẫn. Lúc này, phản
ánh và giải quyết mâu thuẫn đó chỉ có thể bằng t duy biện chứng, lôgích biện
chứng. Qua phân tích của Ph.Ăngghen chúng ta thấy ông coi sự tơng quan
giữa lôgíc hình thức và lôgíc biện chứng tơng tự nh tơng quan giữa toán học về
cái đại lợng không đổi và toán học về các đại lợng biến đổi.
Mâu thuẫn biện chứng tồn tại trong cả tự nhiên lẫn trong xã hội và t
duy. Mâu thuẫn biện chứng trong t duy là sự phản ánh mâu thuẫn trong hiện
thực và là nguồn gốc phát triển của nhận thức, của t duy trên con đờng vơn tới
chân lý khách quan, chân lý tuyệt đối về hiện thực. Những mâu thuẫn lôgíc
hình thức chỉ tồn tại trong t duy, thông qua phán đoán đúng-sai trong cùng
một quan hệ tại một thời điểm xác định và chỉ có một phán đoán là đúng còn

phán đoán kia là sai. Hai mặt đối lập tuy có thuộc tính bài trừ nhau nhng lại
gắn bó chặt chẽ với nhau và cùng tồn tại.
Sự thống nhất của các mặt đối lập là sự na tựa vào nhau, đòi hỏi phải có
nhau của các mặt đối lập, sự tồn tại của mặt này phải lấy sự tồn tại của mặt kia
làm tiền đề. Nh vậy, cũng có thể xem sự thống nhất của hai mặt đối lập là tính
không thể tách rời của hai mặt đó.
Mâu thuẫn là một hiện tợng khách quan và phổ biến, nó tồn tại ở trong
tất cả các sự vật hiện tợng, ở mọi giai đoạn tồn tại và phát triển của sự vật hiện
tợng. Nhng ở các sự vật khác nhau, ở các giai đoạn phát triển khác nhau của
(7)

C.Mác-Ph.Ăngghen: Toàn tập, Nxb Chính trị quốc gia, Hà Nội, 1994, Tập 20, tr 172- tr 173.


một sự vật, ở mỗi lĩnh vực, mỗi yếu tố tố cấu thành sự vật sẽ có những mâu
thuẫn khác nhau.
3.2. Qui luật về lợng và chất
Ph.Ăngghen chỉ ra tính khách quan và phổ biến của quy luật này. Về
vấn đề này, Đuyrinh đà phủ nhận tính khách quan phổ biến của quy luật, phủ
nhận sự chuyển hoá lợng- chất và cho rằng Mác đã bịa đặt ra, nhng trên thực
tế ông ta vẫn ngấm ngầm sử dụng quy luật này. Đuyrinh cho rằng bất kỳ sự
tích luỹ về lợng nào cũng biến thành chất, ông không thấy rằng để lợng biến
thành chất thì phải có điều kiện và cách thức biến đổi mới trở thành chất khác
nh C. Mác đã kết luận Không phải bất kỳ một số tiền nào, hoặc giá trị nào,
cũng có thể chuyễn hoá thành t bản đợc; trái lại, tiềnđề của sự chuyễn hoá đó
là một số tiền hoặc giá trị trao đổi tối thiểu nhất định trong tay kẻ sở hữu tiền
hay hàng hoá(8) Trong ví dụ của Mác để trở thành t bản không chỉ có tiền mà
phải thuê công nhân với một số lợng lớn và đa vào qui trình sản xuất và cuối
cùng là thu đợc giá trị thặng d thì mới trở thành nhà t bản, chứ không phải có
tiền là trở thành t bản theo cách của Đuyrinh. Ph.Ăngghen đã viết những thay

đổi đơn thuần về lợng, đến một mức độ nhất định, sẽ chuyễn hoá thành những
sự khác nhau về chất(9), đến một mức độ nhất định đây là điều kiện cần và
đủ để chất này chuyễn hoá thành chất kia và phải có bớc nhảy vọt về chất, có
nghĩa là quá trình tích luỹ về lợng đến một độ nhất định và nhảy vọt về chất.
Ph.Ăngghen đã phê phán Đuyrinh đã xuyên tạc những quan điểm, t tởng của Mác để phục vụ ý đồ chủ quan của ông một cách thô thiển, thông qua
việc trích dẫn quan điểm của Mác về sự biến đổi lợng và chất Đối với cái thói
cứ trích dẫn lời ngời khác một cách sai lạc nh thế Ph.Ăngghen đã vạch trần
thủ đoạn dùng lý luận của Mác để xuyên tạc chủ nghĩa Mác của Đuyrinh bằng
các ví dụ cụ thể mà Mác đã đa ra trong bộ t bản, bằng những minh chứng
hùng hồn để chỉ cho chúng ta thấy đợc bản chất phản động của Đuyrinh.
(8)
(9)

C.Mác-Ph.Ăngghen: Toàn tập, Nxb Chính trị quốc gia, Sự Thật, Hà Nội, 1994, Tập 20, tr 178-179
C.Mác-Ph.Ăngghen: Toàn tập, Nxb Chính trị quốc gia, Sự Thật, Hà Nội, 1994, Tập 20, tr 179


Bằng nhiều ví dụ trong các lĩnh vực khoa học khác nhau và thực tiễn xã
hội, Ph.Ăngghen chỉ ra tính khách quan, phổ biến, bản chất của quy luật lợng
chất là ở chỗ, trong thế giới hiện thực sự thay đổi về chất là kết quả của những
sự thay đổi về lợng. Ông viết: chúng ta còn có thể rút ra trong giới tự nhiên
và trong đời sống xã hội loài ngời hàng trăm những sự việc tơng tự nh thế để
chứng minh cho quy luật này(10). Ví dụ về sự thay đổi về lợng chuyễn thành
chất mới của Na-pô-lê-ông về của kỵ binh Pháp với kỵ binh Ma-me-lúc: cứ 2
ngời lính ma-me-lúc thì trội hơn hẳn 3 ngời lính Pháp; 100 ngời lính Ma-melúc và 100 ngời lính Pháp thì ngang nhau; 300 ngời lính Pháp thì thờng trội
hơn 300 ngời lính Ma-me-lúc và 1000 ngời lính Pháp thì bao giờ cũng đánh
bại đợc 1500 ngời lính Ma-me-lúc. Nếu so sánh một cách siêu hình, cơ học thì
ví dụ trên không đúng nhng thực tế lại diễn ra đúng nh sự so sánh của Na-pôlê-ông, ở đây chúng ta xét sự thay đổi về lợng thì chuyễn biến về chất và tuỳ
theo điều kiện, cách thức chuyễn hoá mà có chất khác nhau, xét ở tính kỷ luật,
tính tổ chức của ngời lính Pháp cao hơn ngời lính Ma-me-lúc cho nên khi đợc

hợp thành số lớn sẽ tạo ra một chất tốt hơn so với ngời lính Ma-me-lúc.
Quá trình chuyển hoá từ chất này sang chất khác là sự đứt đoạn trong liên
tục, là sự nhảy vọt về chất. Ông đã đồng thời phê phán cả Hêghen và Đuyrinh
về vấn đề này; ông đã viện dẫn quan điểm của Đuyrinh: Bất chấp tất cả tính
chất tiệm tiến về lợng, bớc chuyển từ lĩnh vực không có cảm giác qua lĩnh vực
có cảm giác chỉ đợc thực hiện bằng một bớc nhảy vọt về chất, một bớc nhảy
mà chúng ta...có thể khẳng định rằng nó khác đến vô cùng tận với sự tăng
giảm dần dần đơn thuần của một thuộc tính (11) và khẳng định bớc nhảy vọt về
chất của sự vật. Ph.Ăngghen viết: Mặc dù, tất cả tính tiệm tiến của nó, bớc
chuyển từ hình thức vận động này sang một hình thức vận động khác bao giờ
cũng vẫn là một bớc nhảy vọt, một bớc ngoặt quyết định(12). Còn Đuyrinh đã
dựa vào khái niệm tồn tại của Hêghen để minh chứng cho sự nhảy vọt về chất
(10)

C.Mác-Ph.Ăngghen: Toàn tập, Nxb Chính trị quốc gia, Hà Nội, 1994, Tập 20, tr 181.
C.Mác-Ph.Ăngghen: Toàn tập, Nxb Chính trị quốc gia, Hà Nội, 1994, Tập 20, tr 68.
(12)
C.Mác-Ph.Ăngghen: Toàn tập, Nxb Chính trị quốc gia, Hà Nội, 1994, Tập 20, tr 98.
(11)


của sự vật, ông Đuyrinh cho rằng tồn tại và h không là quá trình thực hiện bớc
chuyễn sang sự sinh thành mà kết quả sự sinh thành dẫn đến tồn tại hiện có
dẫn đến chất, chất dẫn đến lợng, đó là thay đổi theo kiểu cơ học, giản đơn.
Ph.Ăngghen đã chứng minh sự chuyển hoá lợng- chất và sự chuyển hoá
ngợc lại ở tất cả mọi lĩnh vực, Ph.Ăngghen viết: Vô số trờng hợp thay đổi về
lợng làm cho chất của sự vật biến đổi, cũng nh thay đổi về chất làm cho lợng
của sự vật biến đổi(13). Bất kỳ sự vật hiện tợng nào cũng có chất và lợng.
Trong quá trình vận động và phát triển, chất và lợng của sự vật cũng biến đổi.
Sự thay đổi của lợng và của chất không diễn ra độc lập đối với nhau, mà

chúng có quan hệ chặt chẽ với nhau. Nhng không phải bất kỳ sự thay đổi nào
của lợng cũng ngay lập tức làm thay đổi căn bản chất của sự vật. Lợng của sự
vật có thể thay đổi trong một giới hạn nhất định mà không thay đổi căn bản
của sự vật đó. Chẳng hạn, khi xét các trạng thái tồn tại khác nhau nhng cha
đến độ thì nó vẫn là nó nhng đến khi vợt qua giới hạn thì chất cũ mất đi chất
mới ra đời.
Sự thay đổi về lợng khi đạt tới điểm nút sẽ dẫn đến sự ra đời chất mới.
Sự thống nhất giữa lợng và chất mới tạo thành chu kỳ mới của sự vận động sự
vật hiện tợng. Sự thay đổi về chất là kết quả của sự thay đổi về lợng khi đạt
đến điểm nút. Sau khi ra đời chất mới có tác dụng trở lại sự thay đổi của lợng.
Chất mới có thể làm thay đổi quy mô tồn tại của sự vật, làm thay đổi nhịp điệu
của sự vận động và phát triển của sự vật đó.

(13)

C.Mác-Ph.Ăngghen: Toàn tập, Nxb Chính trị quốc gia, Hà Nội, 1994, Tập 20, tr 181.


3.3 Quy luật phủ định của phủ định
Phủ định của phủ định là một chu kỳ phát triển của sự vật hiện tợng, sự
phát triển này đã đợc các nhà biện chứng tự phát nêu ra từ lâu. Song, do cha
nhận thức sâu sắc tính biện chứng của quá trình phát triển, một số nhà triết
học sau này đã tuyệt đối hoá tính lặp lại sau một chu kỳ phát triển, từ đó, hình
thành quan niệm siêu hình khi xem xét sự phát triển nh là một quá trình diễn
ra theo một vòng tròn khép kín.
Phủ định của phủ định với t cách là một quy luật cơ bản của phép biện
chứng lần đầu tiên đợc trình bày trong tiết học Hêghen. Nhng quy luật đó đợc
xây dựng trên cơ sở duy tâm khách quan. C. Mác và Ph.Ăngghen đã kế thừa
những giá trị đó và đa ra quy luật phủ định của phủ định là sự phát triển thông
qua những lần phủ định biện chứng sẽ tạo ra xu hớng tiến lên không ngừng.

Trong chơng Phép biện chứng phủ định của phủ định. Ph.Ăngghen đã
dẫn lời của Đuyrinh phê phán Mác xung quanh phủ định của phủ định.
Đuyrinh tuyên bố rằng quy luật phủ định của phủ định là một cái mang tính
thần bí, lấy từ phép biện chứng của Hêghen, Đuyrinh viết Cứ dựa vào những
điều nhảm nhí của Hêghen, chẳng hạn nh phủ định của phủ định, thì khó mà
làm cho một ngời có đầu óc suy nghĩ tin đợc rằng việc bỏ chung ruộng đất và
t bản là cần thiết(14). Nh chúng ta đã biết Hêghen là nhà triết học duy tâm
khách quan ông đã có những cống hiến nhất định cho nền triết học nhân loại,
đặc biệt là hạt nhân hợp lý của phép biện chứng của ông mà sau đó C. Mác và
Ph.Ăngghen đã kế thừa và loại bỏ những yếu tố không phù hợp để xây dựng
nên học thuyết của mình. Nhng ở đây Đuyrinh đã phủ nhận Hêghen và phê
phán Mác trong quy luật phủ định của phủ định một cách thô thiển, ông cho
rằng phủ định của phủ định là những vòng khâu kép kín có ở tự nhiên, xã hội
và t duy Đây là đỉnh cuối cùng của bất bình đẳng và là điểm cuối cùng khép
kín cái vòng tròn và tiếp tục cận với điểm mở đầu cái vòng tròn(15).
(14)
(15)

C.Mác-Ph.Ăngghen: Toàn tập, Nxb Chính trị quốc gia, Hà Nội, 1994, Tập 20, tr 185
C.Mác-Ph.Ăngghen: Toàn tập, Nxb Chính trị quốc gia, Hà Nội, 1994, Tập 20, tr 199


Bằng những ví dụ cụ thể trong các lĩnh vực tự nhiên, xã hội và t duy của
con ngời, Ph.Ănghen đã luận chứng và chỉ ra tính khách quan phổ biến của nó
những biểu hiện rất phong phú đa dạng. Quy luật này đã chỉ ra khuynh hớng
của sự phát triển, sau mỗi lần phủ định của phủ định sự vật ngày càng hoàn
thiện hơn.
Trong lĩnh vực tự nhiên Ph.Ăngghen đã chứng minh cho Đuy rinh thấy
rằng phủ định của phủ định của hạt lúa mạch thành cây lúa mạch và cây lúa
mạch cho ra nhiều hạt lúa mạch, chứ không phải là phủ định của phủ định là

nghiền nát hạt lúa mạch rồi nấu thành mạch nha. Nếu tôi nghiền nát một hạt
đại mạch, hay xéo chết một con sâu, thì đúng là tôi đã hoàn thành bớc thứ
nhất, nhng tôi đã làm cho bớc thứ hai không có khả năng thực hiện đợc. Đối
với mỗi loại sự vật cũng nh đối với mỗi loại quan niệm, khái niệm, do vậy,
đều có phơng thức phủ định riêng biệt của nó, đó chính là sự phủ định trong
đó có sự phát triển(16).
Trong xã hội Ph.Ăngghen viết Nền sản xuất t bản chủ nghĩa lại tự nó
gây ra cái phủ định bản thân nó với tính tất yếu của một quá trình tự nhiên. Đó
là sự phủ định của phủ định(17). Ph.Ăngghen đã chứng minh quá trình vận
động của nền triết học nhân loại là quá trình phủ định của phủ định làm cho
nền triết học ngày càng phát triển. Triết học cổ đại là một thứ chủ nghĩa duy
vật nguyên thuỷ tự phát, qua lần phủ định thứ nhất thì xuất hiện chủ nghĩa duy
tâm và quá trình phát triển của lịch sử nhân loại thì chủ nghĩa duy vật hiện đại
ra đời trên cơ sở của chủ nghĩa duy vật cổ đại nhng ở trình độ cao hơn, đây là
phủ định của phủ định.
Bản chất của quy luật phủ định của phủ định là ở chỗ, cái mới dờng nh
trở lại cái cũ, nhng trên cơ sở cao hơn. Ph.Ăngghen đã đa ra nhiều ví dụ ở các
lĩnh vực khác nhau cả trong tự nhiên, xã hội và t duy của con ngời, ông chứng
minh rằng cái ra đời sau phủ định cái trớc đó nhng trên cơ sở cao hơn. Ph.
(16)
(17)

C.Mác-Ph.Ăngghen: Toàn tập, Nxb Chính trị quốc gia, Hà Nội, 1994, Tập 20, tr 201
C.Mác-Ph.Ăngghen: Toàn tập, Nxb Chính trị quốc gia, Hà Nội, 1994, Tập 20, tr 191


Ăngghen viết: ...Đó là phủ định cái phủ định, bình đẳng ở một trình độ cao
hơn...Vậy phủ định cái phủ định là gì? Là một quy luật vô cùng phổ biến và
chính vì vậy mà có một tầm quan trọng và có tác dụng vô cùng to lớn về sự
phát triển của tự nhiên , của lịch sử và của t duy; một quy luật nh ta đã thấy,

biểu hiện trong giới động vật và thực vật, trong địa chất học, toán học, lịch sử,
triết học(18).
Ph.Ăngghen đã phân tích và chỉ ra sự khác nhau cơ bản giữa phủ định
biện chứng và phủ định siêu hình; phủ định siêu hình là phủ định sạch trơn,
còn phủ định biện chứng là sự phủ định gắn liền với sự phát triển, là sự kế
thừa lịch sử của cái mới đối với cái cũ. Ph.Ăngghen viết: Phủ định, trong
phép biện chứng, không phải chỉ có ý nghĩa giản đơn là nói; không, hoặc giả
là tuyên bố rằng một sự vật không tồn tại, hay phá huỷ sự vật ấy theo một
cách nào đó(19).
Tóm lại, ba quy luật trên là ba quy luật cơ bản của phép biện chứng duy
vật. Chúng tác động trong giới tự nhiên, xã hội và t duy của con ngời. Mỗi
một quy luật cơ bản đề cập một phơng diện của quá trình vận động và phát
triển. Trong thực tế, sự vận động và phát triển của bất kỳ một sự vật, hiện tợng
nào cũng là sản phẩm tác động tổng hợp của tất cả các quy luật của phép biện
chứng. Ph.Ăngghen đã đấu tranh chống lại những quan điểm sai trái của
Đuyrinh, chỉ ra cái cắt nghĩa, trích dẫn những quan điểm của Mác mà Đuyrinh
cố tình xuyên tạc để đạt mục đích công kích, hạ bệ giá trị của học thuyết Mác.
4. ý nghĩa của tác phẩm Chống Đuy rinh
Tác phẩm Chống Đuyrinh có ý nghĩa đặc biệt quan trọng trong di sản
t tởng của chủ nghĩa Mác- Lênin. Thông qua cuộc đấu tranh trên mặt trận t tởng lý luận chống lại các trào lu t tởng đối lập, dới hình thức bút chiến, Ph.
Ăngghen đã tổng kết toàn diện sự phát triển của chủ nghĩa Mác và chỉ ra mối
liên hệ không thể tách rời sự phụ thuộc lẫn nhau giữa ba bộ phận cấu thành
(18)
(19)

C.Mác-Ph.Ăngghen: Toàn tập, Nxb Chính trị quốc gia, Hà Nội, 1994, Tập 20, tr 200.
C.Mác-Ph.Ăngghen: Toàn tập, Nxb Chính trị quốc gia, Hà Nội, 1994, Tập 20, tr 201 .


chủ nghĩa Mác đó là, triết học, kinh tế chính trị học và chủ nghĩa xã hội khoa

học.
Thông qua tác phẩm này chúng ta thấy việc đấu tranh phê phán các quan
điểm sai trái đó là kết quả của quá trình nghiên cứu khoa học nghiêm túc, sự
cần cù sáng tạo và thiên tài của Ph.Ăngghen, ông đã góp phần cống hiến vô
giá vào việc đa chủ nghĩa Mác thâm nhập vào phong trào công nhân quốc tế.
Tác phẩm đã góp phần quyết định vào việc trang bị cho giai cấp công nhân thế
giới quan khoa học và Đảng cách mạng của giai cấp là một thể thống nhất
không thể tách rời. Tác phẩm là cơ sở lý luận cho cuộc đấu tranh của giai cấp
công nhân chống lại triết học t sản. Từ đây giai cấp vô sản có một học thuyết
cách mạng và khoa học hoàn bị, trở thành hệ t tởng vô sản, đa cuộc đấu tranh
của giai cấp công nhân từ tự phát lên tự giác. Qua đó, chúng ta nhận thấy sự
trung thành vô hạn của Ph.Ăngghen đối với Mác về t tởng duy vật biện chứng.
Trong điều kiện đấu tranh không khoan nhợng với các trào lu t tởng phản
động lúc đó mà đại biểu là ông Đuyrinh, nhng Ph.Ăngghen vẫn tuyệt đối
trung thành với những nguyên lý của Mác. Tác phẩm Chống Đuyrinh đã
góp một phần quyết định vào thắng lợi của chủ nghĩa Mác trong phong trào
công nhân. Nghiên cứu tác phẩm này giúp chúng ta hiểu sâu sắc t tởng Mác
xít và phơng pháp bút chiến của Ph.Ăngghen, nó có ý nghĩa cả về lý luận và
thực tiễn. Hiện nay những t tởng cơ bản trong tác phẩm vẫn đúng, vẫn giữ
nguyên giá trị, nó vẫn là cơ sở lý luận, phơng pháp luận khoa học cho hoạt
động của các Đảng cộng sản trong lãnh đạo cách mạng hiện nay. Có thể nói
đây là tác phẩm thể hiện xuất sắc nhất tính Đảng và tính bút chiến của Ph.
Ăngghen. Mác và Ph.Ăngghen biến triết học của mình thành vũ khí tinh thần
của giai cấp vô sản, đồng thời là cơ sở lý luận nền tảng để xây dựng chủ nghĩa
xã hội, giải phóng con ngời khỏi áp bức bất công./.



×