Tải bản đầy đủ (.doc) (15 trang)

Báo cáo Khảo sát một số di tích tiền sơ sử ở Sơn La, Điện Biên và Lai Châu

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (146.37 KB, 15 trang )

MỤC LỤC

MỞ ĐẦU
Tây Bắc là một khu vực đồi núi phía tây của miền Bắc Việt Nam có
địa hình rất hiểm trở. Đây vốn là vùng đất bí hiểm đối với nhiều người và
cũng rất bí hiểm đối với ngành Khảo cổ học Việt Nam. Sau chiến thắng Điện
Biên Phủ năm 1954, người ta mới biết đến vùng đất này nhiều hơn. Trong
những năm gần đây, vùng đất này lại được chú ý đến bởi các dự án thủy điện
lớn. Một trong các dự án đó là công trình thủy điện Sơn La với công suất lớn
nhất Đông Nam Á.
Cùng với sự phát triển của các dự án thủy điện, công tác khảo cổ học
ở vùng này cũng được tiến hành khẩn trương. Trong quá trình giải phóng
lòng hồ thủy điện, người ta tìm thấy rất nhiều các di vật thuộc thời kỳ đồ đá.
Viện Khảo cổ học đã tiến hành một loạt các cuộc khảo sát và khai quật ở
khu vực này. Kết quả khảo sát và khai quật cho thấy, tại đây tồn tại rất nhiều
các di chỉ khảo cổ học thuộc thời kỳ Tiền - Sơ sử, phần lớn có niên đại Đá
mới và Sơ kỳ thời đại Đồng thau.
Hiện nay, trong kho và hệ thống trưng bày của Bảo tàng Lịch sử Việt
Nam đang khuyết trống mảng tư liệu về thời Tiền - Sơ sử khu vực Tây Bắc.

1


Cùng với đó, trước yêu cầu của Dự án nghiên cứu và sưu tầm hiện vật phục
vụ việc xây dựng Bảo tàng Lịch sử Quốc gia trong tương lai. Vì vậy, Bảo
tàng Lịch sử Việt Nam nhận thấy cần sớm triển khai chương trình nghiên
cứu tại khu vực này nhằm sưu tầm, hệ thống hóa các di tích và di vật thời
Tiền - Sơ sử khu vực Tây Bắc, phục vụ công tác nghiên cứu, trưng bày, phát
huy và quảng bá giá trị của chúng tại Bảo tàng Lịch sử Việt Nam hiện nay
cũng như Bảo tàng Lịch sử Quốc gia sau này.
Được sự giúp đỡ của Sở Văn hóa, Thể thao & Du lịch cùng sự phối


hợp của 3 Bảo tàng các tỉnh Sơn La, Điện Biên, Lai Châu từ ngày
28/07/2011 đến ngày 10/08/2011 Bảo tàng Lịch sử Việt Nam đã tiến hành
đợt điều tra, khảo sát tại địa bàn 3 tỉnh trên. Đợt khảo sát chủ yếu nhằm tiếp
cận hiện vật phát hiện tại lòng hồ thủy điện Sơn La hiện đang lưu giữ trong
kho của bảo tàng 3 tỉnh, đồng thời, tiến hành điều tra một số địa điểm khảo
cổ học trong khu vực.
Để hoàn thành đợt khảo sát này, chúng tôi đã nhận được sự giúp đỡ
của Sở Văn hóa, Thể thao & Du lịch và Bảo tàng các tỉnh Sơn La, Điện
Biên, Lai Châu, các Phòng văn hóa, các cán bộ văn hóa xã và bà con các địa
phương nơi Đoàn tiến hành khảo sát. Chúng tôi xin ghi nhận và gửi lời cảm
ơn sâu sắc những sự giúp đỡ quý báu đó.
Dưới đây là nội dung kết quả của đợt điều tra, khảo sát của chúng tôi.

2


NỘI DUNG

I. Tỉnh Sơn La
Nằm cách Hà Nội 320km trên trục Quốc lộ 6, Sơn La là một tỉnh nằm
sâu trong nội địa có độ cao trung bình 600 đến 700m so với mực nước biển,
địa hình chia cắt sâu và mạnh, 97% diện tích tự nhiên thuộc lưu vực sông Đà
và sông Mã. Dự án thủy điện Sơn La nằm trên địa bàn tỉnh cũng là dự án
thủy điện lớn nhất Đông Nam Á với công suất lên tới 2400MW. Đây cũng là
địa bàn dừng chân đầu tiên của Đoàn khảo sát.
Đoàn đã làm việc với Phó Giám đốc Sở Văn hóa Thể thao và Du lịch
tỉnh và lãnh đạo Bảo tàng, tham quan hệ thống trưng bày (Ba1: A2); khảo sát
kho bảo tàng, di tích Nhà tù Sơn La (Ba1: A3). Tiến hành điều tra, khảo sát
2 địa điểm khảo cổ học là mái đá bản Mòn (Thuận Châu) và hang Con
Moong (Mường La).

1.1. Làm việc với Sở Văn hóa, Thể thao &Du lịch Sơn La
Trong buổi làm việc với Sở Văn hóa, Thể thao & Du lịch Sơn La, ông
Nguyễn Anh Tuấn - Phó Giám đốc Sở bày tỏ sự cảm ơn của tỉnh tới sự quan
tâm của Bảo tàng Lịch sử Việt Nam đối với Sơn La. Ông rất ủng hộ chủ
trương của Đoàn công tác trong việc phát huy giá trị khối di sản phát hiện ở
3


lòng hồ thủy điện Sơn La tại Bảo tàng Lịch sử Quốc gia sau này. Ông hy
vọng, đợt công tác này chính là tiền đề cho những hợp tác sâu rộng hơn
trong tương lai giữa các bên.
1.2. Làm việc với Bảo tàng Sơn La
Tại buổi làm việc với Bảo tàng Sơn La (Ba1: A1), bà Vũ Thị Linh Giám đốc Bảo tàng rất vui mừng khi nhận được sự quan tâm của Bảo tàng
Lịch sử Việt Nam và sẵn sàng tạo mọi điều kiện thuận lợi cho Đoàn khảo sát
trong quá trình thực hiện công việc. Theo bà, hiện nay, Bảo tàng Sơn La vẫn
nằm trong khuôn viên di tích Nhà tù Sơn La trên đồi Khau Ca. Hiện đang có
dự án xây dựng Bảo tàng tổng hợp tỉnh. Trên địa bàn tỉnh Sơn La có 14 di
tích thuộc lòng hồ thủy điện đã được Viện Khảo cổ học phát hiện và khai
quật. Số lượng hiện vật khai quật thu được rất lớn, có niên đại Hậu kỳ Đá cũ
đến Sơ kỳ thời đại Đồng thau. Tuy nhiên, do chưa được chỉnh lý nên vẫn
chưa bàn giao cho Bảo tàng. Vì thế, chưa thể tiếp cận được số hiện vật này.
Bà rất hy vọng sau khi được chỉnh lý và bàn giao, sẽ tiếp tục hợp tác với Bảo
tàng Lịch sử Việt Nam để phát huy khối di sản lòng hồ này không chỉ tại bảo
tàng tỉnh Sơn La mà còn tại Bảo tàng Lịch sử Quốc gia.
Đoàn tiến hành khảo sát hệ thống kho của Bảo tàng Sơn La (Ba2), qua
đó nhận thấy tuy là kho của một Bảo tàng địa phương còn có nhiều khó khăn
về cơ sở vật chất, hạn chế về không gian nhưng các kho ngăn nắp, sạch sẽ,
sắp xếp khá quy chuẩn. Số lượng hiện vật tuy không nhiều nhưng cũng khá
đa dạng, phong phú về các loại hình, chất liệu. Đặc biệt, hiện vật đồ đá
chiếm số lượng nhiều nhất mang phong cách đồ đá Sơn Vi, Hòa Bình.

1.3. Di chỉ mái đá Bản Mòn

4


Mái đá Bản Mòn thuộc xã Thôm Mòn, huyện Thuận Châu, cách thành
phố Sơn La khoảng 30km về phía tây bắc. Cách đường Quốc lộ 6 khoảng
500m. Tọa độ đo được:
21°25'14.92" vĩ Bắc
103°42'25.19" kinh Đông
Độ cao so với mực nước biển hiện tại của di chỉ là khoảng 600m.
Di chỉ mái đá Bản Mòn được nữ học giả người Pháp, bà M.Colani
phát hiện và khai quật vào tháng 5 và tháng 6 năm 1927. Trong 6 mái đá của
di chỉ này chỉ có 2 mái đá phía Tây và phía Đông có vết tích cư trú của con
người. Theo nhận xét của bà M.Colani thì di chỉ Bản Mòn là một di chỉ
xưởng chế tác công cụ lao động và đồ trang sức có niên đại hậu kỳ đá mới.
Trong quá trình khảo sát mái đá (Ba3), chúng tôi cũng đã thu nhận
được một số hiện vật đá trên bề mặt. Đặc biệt, trên vách của 1 khối đá,
chúng tôi phát hiện 2 hiện vật đá kết dính trên đó(Ba4). Hai hiện vật này đều
là những công cụ có vết chế tác thuộc thời đại đá cũ (nhiều khả năng thuộc
văn hóa Sơn Vi). Ngoài một số hiện vật đá, chúng tôi còn phát hiện một
mảnh gốm nhỏ, màu xám, có hoa văn (Ba6: A2) và 3 công cụ đá cuội khác
(Ba5: A1, A2a, A2b), (Ba6: A1a, A1b).
Theo các tư liệu về di chỉ cũng như các di vật thu được, chúng tôi
đồng ý với ý kiến cho rằng mái đá Bản Mòn thuộc thời đại hậu kỳ đá mới
đến sơ kỳ kim khí.
Hiện tại, di chỉ này đã được xếp hạng cấp tỉnh ngày 28 tháng 4 năm
2006. Tuy nhiên, do nằm trong khu dân cư nên việc lấn chiếm di chỉ, thậm
chí đào bới trái phép vẫn diễn ra ngay sát mái đá, làm ảnh hưởng nghiêm
trọng đến di chỉ. Vì vậy, Bảo tàng Sơn La và các cơ quan chức năng cần có

những biện pháp tuyên truyền và bảo vệ di chỉ. Đồng thời, có những định

5


hướng phát triển du lịch trong vùng gắn với di chỉ mái đá Bản Mòn. Thực
hiện được điều đó sẽ góp phần thúc đẩy được kinh tế địa phương, cũng như
nâng cao được nhận thức của người dân sở tại trong việc bảo vệ, giữ gìn và
phát huy giá trị của di chỉ.
1.3. Di chỉ Hang Con Noong
Di chỉ Hang Con Noong thuộc xã Ít Ong, huyện Mường La, tỉnh Sơn
La. Di chỉ nằm ngay sát bờ sông Đà, cách công trình thủy điện Sơn La
khoảng 500m (Ba8: A1) . Từ cửa hang, có thể nhìn bao quát công trình Thủy
điện Sơn La. Đây là một hang đá rộng, có nhiều ngách, có nhiều nhũ đá đẹp
(Ba8: A2, A3) - hứa hẹn một điểm du lịch kỳ thú. Tuy nhiên, đường lên hang
khá cao, dốc và khá hiểm trở (Ba7). Tọa độ di chỉ chúng tôi đo được ở đây
là:
21°30'12.84" vĩ Bắc
103°59'53.44" kinh Đông
Độ cao so với mực nước biển hiện tại của di chỉ là khoảng 300m.
Đây là di chỉ khảo cổ học được Viện Khảo cổ và Bảo tàng Sơn La
khai quật năm 1997. Đã phát hiện và thu thập 11 di vật gồm: 5 công cụ rìu
ngang, 2 công cụ cuội, 4 công cụ mảnh tước, ngoài ra còn thu thập 04 mảnh
gốm thô. Hiện vật thu được cho thấy ở đây có vết tích cư dân của 2 thời kỳ
khác nhau: những đồ đá mang đặc trưng văn hoá thời đại đá cũ, những mảnh
gốm có thể đặc trưng cho thời đại đồng thau.
Trong quá trình khảo sát hang Con Noong, chúng tôi cũng thu nhận
được một vài hiện vật đá ghè đẽo có niên đại hậu kỳ đá cũ (Ba9: A1, A2).
Hiện di chỉ đã được xếp hạng di tích lịch sử cấp tỉnh theo Quyết định
số 214/QĐ-UB 28/4/2008. Tuy nhiên vẫn chưa có bản đồ khoanh vùng bảo


6


vệ, đường lên cửa hang còn khá hiểm trở. Thiết nghĩ trong thời gian tới, Bảo
tàng tỉnh Sơn La cùng các cơ quan chức năng cần có những định hướng phát
triển tuyến du lịch của di chỉ gắn với hệ thống Nhà trưng bày di tích lòng hồ
thủy điện (cách đó khoảng 3km) và Đại công trình Thủy điện Sơn La - công
trình thủy điện lớn nhất Đông Nam Á
II. Tỉnh Điện Biên
Sau khi làm việc tại Sơn La, Đoàn khảo sát vượt đèo Pha Đin sang
vùng đất Điện Biên. Điện Biên là một tỉnh mới tách ra từ tỉnh Lai Châu cũ
thuộc vùng Tây Bắc, cách thủ đô Hà Nội 504km về phía tây. Phía bắc giáp
tỉnh Lai Châu mới, phía đông và đông bắc giáp tỉnh Sơn La, phía tây bắc
giáp tỉnh Vân Nam (Trung Quốc), phía tây và tây nam giáp Lào.
2.1. Làm việc với Bảo tàng Điện Biên
Điện Biên cũng chịu ảnh hưởng của các công trình Thủy điện của
sông Đà, đặc biệt là huyện Tủa Chùa và thị xã Mường Lay. Theo “Những
phát hiện mới về khảo cổ học năm 2007” của Viện Khảo cổ học, thì có 6 địa
điểm đã được khai quật tại khu vực này. Các di chỉ này đều đã bị ngập sâu
dưới lòng hồ nên Đoàn khảo sát cũng không thể tiếp cận thực địa. Trong quá
trình khảo sát tại tỉnh Điện Biên, Đoàn cũng đã đến tham quan Bảo tàng
Chiến thắng Điện Biên Phủ và một số di tích lịch sử khác (Ba10: A2). Trong
chuyến khảo sát lần này tại địa bàn tỉnh Điện Biên, Đoàn Khảo sát đã nhận
được sự giúp đỡ tận tình của cán bộ Bảo tàng Điện Biên (Ba10: A1). Phó
Giám đốc Bảo tàng Điện Biên, bà Trịnh Thị Mai rất vui mừng đón tiếp đoàn
và sẵn sàng tạo điều kiện để những di sản của tỉnh được phát huy tại Bảo
tàng Lịch sử Quốc gia sau này.

7



Cũng giống thực trạng của Bảo tàng Sơn La, hiện nay, Bảo tàng Điện
Biên cũng chưa có trụ sở và đang mượn khuôn viên Bảo tàng Chiến thắng
Điện Biên Phủ để hoạt động (Ba11). Bảo tàng đang giữ trong kho hơn 2800
tiêu bản hiện vật của các di tích lòng hồ sông Đà (thuộc Thủy điện Sơn La)
do Viện Khảo cổ khai quật nhưng chưa được chỉnh lý.
2.2.Di chỉ Thẩm Khương
Di chỉ Thẩm Khương nằm dưới núi Hồng Cáy thuộc xã Chiềng Sinh,
huyện Tuần Giáo, tỉnh Điện Biên. Cửa hang hướng về phía đông nam, trước
Quốc lộ 6. Di chỉ được phát hiện và đào thám sát cuối năm 1972 do Viện
Khảo cổ tiến hành. Sau đó được khai quật vào đầu năm 1974 với diện tích
53m2. Đến năm 1992, di chỉ tiếp tục được Viện Khảo cổ đào thám sát. Kết
quả cho thấy, tầng văn hoá dày 1,20m được chia làm 3 lớp phân biệt nhau.
Trong các tầng văn hóa đã phát hiện bếp nguyên thủy, mộ táng và nhiều
công cụ bằng đá, xương răng động vật. Về niên đại, hang Thẩm Khương
thuộc văn hoá khảo cổ học Hoà Bình - Bắc Sơn và kéo dài đến các giai đoạn
muộn hơn (Ba12) .
III. Tỉnh Lai Châu
Lai Châu là điểm dừng chân thứ 3 và cũng là diểm dừng chân cuối
cùng của Đoàn khảo sát. Đây là một tỉnh mới được tách ra từ tỉnh Lai Châu
cũ vì vậy, cơ sở hạ tầng của tỉnh cũng như của bảo tàng chưa được hoàn
chỉnh. Hiện nay, trụ sở Bảo tàng tỉnh chỉ là một dãy nhà cấp 4 mượn bên thể
thao để sử dụng thành phòng làm việc, chưa có nhà trưng bày. Tuy nhiên,
quỹ đất dành cho việc xây dựng Bảo tàng tỉnh đã được quy hoạch, hứa hẹn
một bảo tàng địa phương khang trang của khu vực Tây Bắc (Ba13: A2).
3.1. Làm việc với Sở Văn hóa, Thể thao & Du lịch Lai Châu

8



Đoàn khảo sát có buổi làm việc với Phó Giám đốc Sở Văn hóa, Thể
thao và Du lịch tỉnh, ông Nguyễn Văn Diện (Ba13: A1). Quan điểm của Sở
và Bảo tàng đều rất nhất trí với mục đích của Đoàn khảo sát lần này. Hy
vọng, tiếng nói di sản của một tỉnh miền núi Lai Châu sẽ là một phần trong
hệ thống trưng bày của Bảo tàng Lịch sử Quốc gia. Bảo tàng Lai Châu cũng
như Sở Văn hóa, Thể thao và Du lịch tỉnh Lai Châu luôn sẵn sàng cùng với
Bảo tàng Lịch sử Việt Nam cũng như Bảo tàng Lịch sử Quốc gia sau này
trong các lĩnh vực phát triển văn hóa. Đoàn công tác của Bảo tàng Lịch sử
Việt Nam cũng có một số ý kiến đóng góp về việc xây dựng Bảo tàng tỉnh
Lai Châu và sẵn sàng tư vấn cho công tác xây dựng nội dung và hình thức
trưng bày của Bảo tàng tỉnh Lai Châu sau này.

3.2. Làm việc với Bảo tàng Lai Châu
Lai Châu cũng là tỉnh chịu ảnh hưởng trực tiếp của dự án thủy điện
Sơn La, đồng thời, trên địa bàn tỉnh cũng có dự án thủy điện Lai Châu và
một số thủy điện nhỏ khác. Theo thống kê của Viện Khảo cổ, toàn tỉnh có 10
di chỉ thuộc lòng hồ thủy điện Sơn La và 6 di chỉ lòng hồ thủy điện Bản
Chát, Huổi Quảng đã được khảo sát và khai quật đợt 1 và sẽ tiếp tục khai
quật đợt 2 vào tháng 10 tới. Số lượng hiện vật thu được khoảng 24.000 tiêu
bản đã được chỉnh lý và bàn giao. Đoàn khảo sát đã được tiếp cận một số
hiện vật tiêu biểu của các di chỉ như Nậm Dôn, Nậm Cha, Cơ Đớ, Hát Hỉ,
Hát Hí…(Ba14, Ba15, Ba16) hiện có tại Bảo tàng. Theo ông Vàng Ngọc Du,
Giám đốc Bảo tàng Lai Châu, vừa qua đã phát hiện một di chỉ tại khu vực
thủy điện Bản Chát với một bộ xương hóa thạch ở núi Hang Đán Chỉ, thôn
Chiềng Ban, xã Mường Kim, huyện Than Uyên. Và rất may là di chỉ này

9



không bị ngập dưới lòng hồ thủy điện. Trong thời gian tới sẽ chính thức
được khai quật.
3.3. Di chỉ hang Nậm Tun
Đoàn khảo sát cũng được cung cấp tư liệu về di chỉ hang Nậm Tun,
một di chỉ khảo cổ học quan trọng đã được Viện Khảo cổ học khai quật năm
1973. Theo đó, di chỉ Nậm Tun nằm trên địa bàn thị trấn Phong Thổ, huyện
Phong Thổ. Di chỉ có hai tầng văn hóa rõ rệt ứng với hai giai đoạn trước văn
hóa Hòa Bình và giai đoạn hậu kỳ đá mới. Đây là một di chỉ cư trú kết hợp
với mộ táng, bên cạnh đó, các nhà khảo cổ còn nhận thấy đây còn là nơi chế
tác công cụ đá (Ba21). Nậm Tun thực sự là di chỉ khảo cổ học tiêu biểu cho
giai đoạn tiền sử ở vùng Tây Bắc này.
3.4. Một số địa điểm khảo cổ học tại huyện Sìn Hồ và Tủa Chùa
Ngoài tư liệu về di tích Nậm Tun, Đoàn cũng được tiếp cận với tư liệu
về đợt điều tra, khảo sát các di tích khảo cổ học của huyện Sìn Hồ và Tủa
Chùa của tỉnh Lai Châu cũ năm 1997 do Viện Khảo cổ học thực hiện phục
vụ công tác giải phòng lòng hồ thủy điện sông Đà. Đây là hai huyện nằm
ngoài tỉnh Sơn La bị ảnh hưởng của dự án Thủy điện Sơn La. Sau khi tách
tỉnh, huyện Tủa Chùa thuộc tỉnh Điện Biên, còn huyện Sìn Hồ thuộc tỉnh Lai
Châu. Theo như báo cáo thì tại huyện Sìn Hồ đã phát hiện 3 địa điểm khảo
cổ học tiền sử là Nậm Hăn (thuộc bản Nậm Hăn, xã Nậm Hăn), Nậm Mạ
(thuộc bản Nậm Mạ, xã Nậm Mạ) và Cò Đứ (thuộc bản Cò Đứ, xã Nậm
Mạ). Cả 3 địa điểm có công cụ mang đặc trưng chung là đều được chế tác từ
đá cuội ghè đẽo từ một mặt; một mặt còn nguyên vỏ cuội; có công cụ chỉ
ghè vài ba nhát tạo thành lưỡi sắc (Ba22). Đặc trưng nổi bật là công cụ kích
thước tương đối lớn, phong phú loại công cụ chặt mũi nhọn loại ngắn và loại
dài, có loại gần hình tam giác, công cụ kiểu văn hoá Hoà Bình hoàn toàn
10


vắng mặt. Công cụ kiểu văn hoá Sơn Vi có số lượng ít, kiểu dáng cũng

không thật điển hình. Do vậy chúng tôi nghĩ rằng có thể xếp 3 di tích này
vào nhóm di tích Nậm Tun - Bản Phố đã biết trước đây, thuộc hậu kỳ thời
đại đá cũ, có thể sớm hơn văn hoá Sơn Vi.
3.5. Di tích Pu Sam Cáp
Di tích Pu Sam Cáp là một hang động kỳ vĩ bậc nhất của miền Tây
Bắc nói chung và của tỉnh Lai Châu nói riêng. Từ trung tâm thị xã Lai Châu,
đi 7 km về phía tây theo tỉnh lộ 129 là tới quần thể hang động Pu Sam Cáp.
Sam theo tiếng Thái có nghĩa là ba nên nơi đây còn được gọi là “núi ba
ngọn”. Quần thể này bố trí hài hòa gồm 3 hang động lớn là: Thiên Môn,
Thiên Đường và Thủy Tinh. Mỗi động có một vẻ đẹp hùng vĩ và thơ mộng
với những nhũ thạch có các hình thù khác nhau (Ba19). Sau khi khảo sát
quần thể hang động này (Ba18), Đoàn khảo sát cũng đã tìm thấy một vài
mảnh cuội vỡ (Ba20). Do đó Đoàn nhận định: ngoài giá trị về danh thắng,
quần thể này rất có thể còn có giá trị khảo cổ học cần được khám phá. Do
đó, cần tiến hành khảo sát khảo cổ học sâu rộng tại khu vực hang động này,
qua đó làm phong phú thêm về giá trị của hang động.
Pu Sam Cáp thực sự là “thiên đường hang động” của núi rừng Tây
Bắc. Hiện Pu Sam Cáp đã được khoanh vùng bảo vệ và phát triển thành
công viên du lịch hang động Pu Sam Cáp. Cùng với sự phát triển của tỉnh
Lai Châu, khu hang động Pu Sam Cáp cũng hứa hẹn sẽ trở thành một điểm
sáng về du lịch khám phá, sinh thái cùng với nhiều loại hình du lịch khác
như làng bản, lễ hội truyền thống…

11


NHẬN XÉT
Qua đợt điều tra, khảo sát tại 3 tỉnh Tây Bắc, chúng tôi có một vài
nhận xét như sau:
1. Các dự án thủy điện ở khu vực Tây Bắc đã làm cho bộ mặt của khu

vực này thay đổi nhanh chóng. Tình hình kinh tế, xã hội của các tỉnh Tây
Bắc cũng ngày càng được nâng cao rõ rệt. Các công trình công cộng được
đầu tư ngày càng nhiều và hiện đại. Bên cạnh những mặt tích cực đó, các dự
án thủy điện cũng đem lại những thách thức về môi trường cũng như các vấn
đề xã hội. Một trong những tác động đó là sự mất đi vĩnh viễn những giá trị
khảo cổ học tại các vùng chịu ảnh hưởng của lòng hồ thủy điện.

12


Trong những năm qua, nhờ nỗ lực của Viện Khảo cổ học và các cơ
quan chính quyền địa phương, các di chỉ khảo cổ học nhanh chóng được
khai quật, giải phóng mặt bằng cho lòng hồ thủy điện, làm phong phú thêm
kho hiện vật cho bảo tàng các tỉnh. Tuy nhiên, trong thời gian tới, công tác
khảo cổ học cần được chú trọng và đẩy mạnh hơn nữa nhằm phát hiện khai
quật, sưu tầm, nghiên cứu, bảo tồn các di chỉ khảo cổ học ở đây.
2. Những kết quả mà Đoàn khảo sát của Bảo tàng Lịch sử Việt Nam
thu nhận được sau quá trình làm việc ở vùng Tây Bắc rất khả quan. Tuy
phần lớn các di chỉ hiện nằm dưới lòng hồ thủy điện đã được Viện Khảo cổ
khai quật “chữa cháy”, song bên cạnh đó vẫn còn nhiều di chỉ không bị ảnh
hưởng tới. Các di chỉ khai quật được phần lớn chưa được chỉnh lý, nhưng
Đoàn cũng được Sở Văn hóa, Thể thao & Du lịch cùng Bảo tàng các tỉnh tạo
điều kiện tiếp cận nhiều hiện vật, di tích cũng như tư liệu về các di tích, di
vật đó: số lượng, loại hình di tích và di vật hiện có trong các kho của các
Bảo tàng. Qua đó, phần nào giúp chúng tôi hình dung được diện mạo của
khối di sản này để có kế hoạch phối hợp nghiên cứu sau này. Ngược lại,
Đoàn khảo sát cũng đã có những góp ý cho công tác quản lý, xây dựng hệ
thống trưng bày, bảo quản kho, phát huy các giá trị văn hóa, di sản hiện có ở
các Bảo tàng địa phương.
3. Một kết quả nữa của cuộc điều tra, khảo sát lần này, đây chính là

tiền đề để hướng tới một loạt các chương trình hợp tác lâu dài giữa Bảo tàng
Lịch sử Việt Nam (cũng như Bảo tàng Lịch sử Quốc gia sau này) với Bảo
tàng các tỉnh Tây Bắc trong thời gian tới trên các lĩnh vực thăm dò khai quật
khảo cổ học, bảo tàng học.../.

13


TÀI LIỆU THAM KHẢO
01. Bảo tàng Điện Biên (2010). Di chỉ khảo cổ học hang Thẩm
Khương. Lý lịch di tích Bảo tàng tỉnh.
02. Bảo tàng Sơn La. Di chỉ khảo cổ mái đá Bản Mòm. Lý lịch di tích
Bảo tàng tỉnh.
03. Bảo tàng Sơn La (2010). Kiểm kê di tích lịch sử, văn hóa và danh
thắng huyện Mường La, tỉnh Sơn La.
04. Nguyễn Xuân Diệu (1974). Báo cáo đào khảo cổ hang Nậm Tun
(Phong Thổ, Lai Châu, Tây Bắc).
05. Hà Văn Phùng, Tẩn Lao U (2009). “Địa điểm khảo cổ học Nậm
Hăn (Lai Châu)” trong Những phát hiện mới về Khảo cổ học năm 2009. Nxb
Từ điển Bách Khoa, Hà Nội.
06. Nguyễn Khắc Sử (2010). Nghiên cứu đánh giá giá trị lịch sử văn
hóa hệ thống các di tích khảo cổ học Bắc Việt Nam mới phát hiện được từ
năm 1998 đến 2008. Đề tài nghiên cứu khoa học cấp Bộ, Viện Khảo cổ học.

14


07. Nguyễn Khắc Sử, Bùi Văn Liêm (2007). “Kết quả thẩm định các
di chỉ khảo cổ học vùng lòng hồ Thủy điện Sơn La” trong Những phát hiện
mới về Khảo cổ học năm 2009. Nxb Từ điển Bách Khoa, Hà Nội.

08. Nguyễn Khắc Sử, Bùi Văn Liêm (2009). “Khai quật khảo cổ lòng
hồ Thủy điện Sơn La - mùa điền dã 2008 - 2009” trong Những phát hiện
mới về Khảo cổ học năm 2009. Nxb Từ điển Bách Khoa, Hà Nội.
09. Nguyễn Khắc Sử, Hà Văn Phùng, Bùi Văn Liêm (2008). “Kết quả
bước đầu thực hiện dự án khai quật di dời các di tích Khảo cổ lòng hồ Thủy
điện Sơn La” trong Những phát hiện mới về Khảo cổ học năm 2008. Nxb Từ
điển Bách Khoa, Hà Nội.
10. Viện Khảo cổ học (1997). Báo cáo về đợt điều tra điền dã khảo cổ
học tại huyện Sìn Hồ và Tủa Chùa (tỉnh Lai Châu).

PHẦN PHỤ LỤC
(BẢN ẢNH)

15



×