Tải bản đầy đủ (.pdf) (70 trang)

Ứng dụng thương mại điện tử

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (2.33 MB, 70 trang )

MỤC LỤC
LỜI NÓI ĐẦU

4

CHƯƠNG 1: TỔNG QUAN VỀ INTERNET VÀ THƯƠNG MẠI ĐIỆN TỬ
I. Công nghệ Internet
1. Internet và xuất xứ của nó
6
2. Cách thức truyền thông trên Internet
7
3. Các dịch vụ trên Internet
9
II. Thương mại điện tử
1. Thương mại điện tử là gì ?
10
2. Thương mại điện tử và tầm quan trọng của nó
11
3. Thực tế Thương mại điện tử ở Việt Nam
12
CHƯƠNG 2: MÔ HÌNH CLIENT/SERVER
I. Các khái niệm
II. Mô hình Client/Server
III. Ưu và nhược điểm chính
IV. Ứng dụng mô hình Client/Server
V. Mô hình Web Client/Server
VI. Hoạt động
VII. Mở rộng khả năng của Web Server

15
15


17
18
20
20
21

CHƯƠNG 3: LẬP TRÌNH TRÊN WWW - NGÔN NGỮ HTML
I. Giới thiệu ngôn ngữ HTML (HyperText Makeup Language)
23
II. Đặc điểm ngôn ngữ HTML
III. Phương pháp thiết kế một trang Web
IV. Lập trình trang Web động
V. Cách thức hoạt động của mô hình Web Client/Server
VI. Xây dựng chương trình giao tiếp
VII. Các phương pháp xây dựng chương trình giao tiếp

24
24
26
27
28
30

CHƯƠNG 4: CƠ SỞ DỮ LIỆU VÀ PHƯƠNG PHÁP TRUY XUẤT CSDL
MySQL
I. Các khái niệm cơ bản.
1. Khái niệm
32

1



2. Quản trị cơ sở dữ liệu là gì ?
II. MySQL và phương pháp truy xuất CSDL MySQL
1. Khái niệm
2. Phương pháp truy xuất CSDL MySQL

32
33
34

CHƯƠNG 5: PHP VÀ VIỆC XÂY DỰNG CÁC ỨNG DỤNG TRÊN WEB
I. Lý thuyết cơ bản
1. PHP là gì?
42
2 Cài đặt như thế nào?
42
II. Ngôn ngữ PHP
1. Cách dùng PHP
43
2. Các kiểu dữ liệu
43
3. Biến và các giá trị
45
4. Constants
48
5. Biểu thức
49
6. Các cấu trúc lệnh
49

7. Hàm
50
8. Các toán tử
51
9. Lớp và các đối tượng
52
10. Tham chiếu
53
11. Thao tác với ảnh
54
12. PHP và MySQL
55
CHƯƠNG 6: PHÂN TÍCH - THIẾT KẾ VÀ XÂY DỰNG
Website Viet7.biz - Đại lý bán Templates của Paypal Co.,Ltd
I. Khảo sát hiện trạng
1. Giới thiệu về Payal Co. Ltd
2. Nội dung chính của website www.viet7.biz
II. Phân tích - thiết kế
1. Yêu cầu chức năng
2. Xây dựng biểu đồ phân cấp chức năng
3. Xây dựng biểu đồ luồng dữ liệu DFD
III. CÀI ĐẶT
KẾT LUẬN
TÀI LIỆU THAM KHẢO

58
58
59
59
60

66
71
72

2


LỜI NÓI ĐẦU
Ngày nay cùng với sự phát triển của khoa học kĩ thuật, công nghệ máy tính đã
đạt được nhiều thành tựu to lớn nếu như không muốn nói những bước đột phá thần
kì. Máy tính đã và đang được sử dụng rộng rãi trong các công việc mà trước đó con
người phải sử dụng đôi bàn tay của mình với hình thức lao động thủ công năng suất
thấp và chất lượng công việc không cao. Với sự ra đời và phát triển không ngừng
của công nghệ máy tính hiện nay đã một phần đáp ứng được nhu cầu trong cuộc
sống, sản xuất, nghiên cứu khoa học và nó đã làm thay đổi bộ mặt xã hội.
Để có một website “Thương mại điện tử” ứng dụng được, đáp ứng được nhu
cầu công việc đặt ra thì những người làm tin học phải biết phân tích thiết kế hệ
thống làm việc của chương trình để từ đó xây dựng nên một website ứng dụng quản
lý chương trình đó bằng ngôn ngữ lập trình nào đó. Trong thời đại bùng nổ của cuộc
cách mạng công nghệ thông tin trên toàn cầu, Website đóng một vai trò vô cùng
quan trọng. Khi nói đến Internet, thì người ta không bao giờ tách rời khái niệm
Web. Với một vai trò quan trọng nhất là đảm bảo một môi trường chia sẻ thông tin
chung cho toàn nhân loại Internet. Web hiện nay đang chứa rất nhiều những giải
pháp, những công nghệ để đảm nhận được vai trò to lớn của nó trong đời sống, kinh
tế, văn hóa, xã hội của toàn nhân loại.
Một ứng dụng của công nghệ thông tin có vai trò rất quan trọng trong việc
cung cấp thông tin, trao đổi thông tin, giao dịch thương mại … thông qua hệ thống
Website trên Internet đã tạo ra một hiệu quả rất lớn. Qua mạng Internet mọi người
có thể tìm kiếm thông tin về khoa học, giáo dục, dịch vụ, giải trí, du lịch, … phục
vụ và đáp ứng nhu cầu của mọi người. Vì vậy xây dựng Website để đáp ứng tất cả

những nhu cầu đó là hết sức cần thiết.
Bắt nguồn từ những ý tưởng và nhu cầu thực tế đó em chọn đề tài:
“ Ứng dụng Thương Mại Điện Tử vào việc xây dựng Website Viet7.biz - Đại lý
bán Templates của Paypal Co.,Ltd ”
Sau khi đã xây dựng hoàn thành trang Web, em xin được viết báo cáo cho Đồ án tốt
nghiệp này. Đồ án bao gồm những thành phần cơ bản sau :

3


Chương 1 : Tổng quan về internet và Thương Mại Điện Tử
Chương 2 : Mô hình Client/Server
Chương 3 : Lập trình trên WWW - Ngôn ngữ HTML
Chương 4 : Cơ sở dữ liệu và phương pháp truy xuất CSDL MySQL
Chương 5 : PHP và việc xây dựng các ứng dụng trên Web
Chương 6: Phân tích - thiết kế và xây dựng Website Viet7.biz - Đại lý bán
Templates của Paypal Co.,Ltd
Với nỗ lực của bản thân để hoàn thành tốt Đồ án tốt nghiệp nhưng do trình
độ kiến thức và kinh nghiệm còn non kém nên Đồ án còn có nhiều hạn chế, em kính
mong ban chủ nhiệm Khoa, các Thầy cô giáo cùng các bạn đóng góp ý kiến để Đồ
án của em được phát triển và hoàn thiện hơn nữa.
Và qua đây cho phép em gửi lời cảm ơn chân thành tới toàn thể các Thày cô
giáo trong khoa Công nghệ Thông tin - Đại học Thái Nguyên đã hết lòng dạy dỗ,
chỉ bảo, tạo điều kiện tốt cho em và các bạn trong suốt quá trình học tập và rèn
luyện tại Khoa cũng như trong thời gian thực hiện Đồ án tốt nghiệp.
Đặc biệt em xin bầy tỏ lòng biết ơn sâu sắc tới Cô giáo Trần Thị Ngân, Cô
đã hết sức quan tâm, tận tình hướng dẫn, giúp đỡ và tạo mọi điều kiện thuận lợi cho
em trong quá trình thực hiện Đồ án tốt nghiệp này. Em xin chân thành cảm ơn đến
ban giám hiệu khoa Công Nghệ Thông Tin, các Thầy cô giáo trong bộ môn Khoa
học cơ bản và các Thầy cô đã dạy bảo, dìu dắt em trong suốt quá trình học tập tại

Khoa.
Cuối cùng em xin bầy tỏ lòng biết ơn tới gia đình, bạn bè đã động viên và
giúp đỡ em trong suốt quá trình học tập. Em xin chân thành cảm ơn!

Thái Nguyên, ngày 10 tháng 05 năm 2008

4


CHƯƠNG 1:
TỔNG QUAN VỀ INTERNET VÀ THƯƠNG MẠI ĐIỆN TỬ
I. CÔNG NGHỆ INTERNET
1. Internet và xuất xứ của nó
Internet là một mạng máy tính nối hàng triệu máy tính với nhau trên phạm vi
toàn thế giới. Internet có lịch sử rất ngắn, nó có nguồn gốc từ một dự án của Bộ
Quốc Phòng Mỹ có tên là ARPANET vào năm 1969, dự án nhằm thực nghiệm xây
dựng một mạng nối các trung tâm nghiên cứu khoa học và quân sự với nhau. Đến
năm 1970 đã có thêm hai mạng: Store-and-forwarrd và ALOHAnet, đến năm 1972
hai mạng này đã được kết nối với ARPANET. Cũng trong năm 1972 Ray
Tomlinson phát minh ra chương trình thư tín điện tử E-mail. Chương trình này đã
nhanh chóng được ứng dụng rộng rãi để gửi các thông điệp trên mạng phân tán.
Kết nối quốc tế đầu tiên vào ARPANET từ University College of London
(Anh) và Royal Radar Establishment (Na Uy) được thực hiện vào năm 1973. Thành
công vang dội của ARPANET đã làm nó nhanh chóng được phát triển, thu hút hầu
hết các trường đại học tại Mỹ. Do đó tới năm 1983 nó đã được tách thành hai mạng
riêng: MILNET tích hợp với mạng dữ liệu quốc phòng (Defense Data Network)
dành cho các địa điểm quân sự và ARPANET dành cho các địa điểm phi quân sự.
Sau một thời gian hoạt động, do một số lý do kỹ thuật và chính trị, kế hoạch
sử dụng mạng ARPANET không thu được kết quả như mong muốn.
Vì vậy Hội đồng khoa học quốc gia Mỹ (National Science Foundation) đã

quyết định xây dựng một mạng riêng NSFNET liên kết các trung tâm tính toán lớn
và các trường đại học vào năm 1986. Mạng này phát triển hết sức nhanh chóng,
không ngừng được nâng cấp và mở rộng liên kết tới hàng loạt các doanh nghiệp, các
cơ sở nghiên cứu và đào tạo của nhiều nước khác nhau.
Cũng từ đó thuật ngữ Internet ra đời. Dần dần kỹ thuật xây dựng mạng
ARPANET đã được thừa nhận bởi tổ chức NSF, kỹ thuật này được sử dụng để dựng
mạng lớn hơn với mục đích liên kết các trung tâm nghiên cứu lớn của nước Mỹ.
Người ta đã nối các siêu máy tính (Supercomputer)thuộc các vùng khác nhau bằng

5


đường điện thoại có tốc độ cao. Tiếp theo là sự mở rộng mạng này đến các trường
đại học.
Ngày càng có nhiều người nhận ra lợi ích của hệ thống trên mạng, người ta
dùng để trao đổi thông tin giữa các vùng với khoảng cách ngày càng xa. Vào những
năm 1990 người ta bắt đầu mở rộng hệ thống mạng sang lĩnh vực thương mại tạo
thành nhóm CIX (Commercial Internet Exchange Association). Có thể nói Internet
thật sự hình thành từ đây.
Cho đến thời điểm hiện tại, Internet đã trở thành một phần không thể tách rời
của cuộc sống hiện đạiĐối với một người lao động bình thường tại một nước phát
triển bình thường, Internet đã trở thành một khái niệm giống như Điện thoại, Tivi.
Trong thời gian biểu của một ngày làm việc đã xuất hiện một khoảng thời gian nhất
định để sử dụng Internet, cũng giống như khoảng thời gian xem Tivi mà thôi.
Theo số liệu thống kê, năm 2000 số lượng người sử dụng Internet là khoảng
150 triệu và dự đoán đến năm 2003 sẽ là 545 triệu người sử dụng hiệnSố lượng 150
triệu người sử dụng hiện tại được phân bố rất không đồng đều trên toàn cầuQuá nửa
số người sử dụng là ở khu vực Bắc Mỹ còn lại ở Châu Âu, Châu Á, Nam Mỹ, Châu
Phi và khu vực cận ĐôngCụ thể là: Bắc Mỹ 57%, Châu Âu 21.75%, Nam Mỹ 3%,
Châu Phi 0.75% và khu vực cận Đông 0.5%

Các loại hình dịch vụ được sử dụng nhiều nhất trên Internet là: Giáo dục, mua
bán, giải trí, công việc thường ngày tại công sở, truyền đạt thông tin, các loại dịch
vụ có liên quan đến thông tin cá nhân. Trong đó, các dịch vụ liên quan đến thông tin
cá nhân chiếm nhiều nhất, sau đó là công việc, giáo dục, giải trí và mua bán.
2. Cách thức truyền thông trên Internet
Trong những năm 60 và 70, nhiều công nghệ mạng máy tính đã ra đời nhưng
mỗi kiểu lại dựa trên các phần cứng riêng biệt. Một trong những kiểu này được gọi
là mạng cục bộ (Local Area Networks - LAN), nối các máy tính với nhau trong
phạm vi hẹp bằng dây dẫn và một thiết bị được cài đặt trong mỗi máy. Các mạng
lớn hơn được gọi là mạng diện rộng (Wide Area Networks - WAN), nối nhiều máy
tính với nhau trong phạm vi rộng thông qua một hệ thống dây truyền dẫn kiểu như
trong các hệ thống điện thoại.

6


Mặc dù LAN và WAN đã cho phép chia sẻ thông tin trong các tổ chức một
cách dễ dàng hơn nhưng chúng vẫn bị hạn chế chỉ trong từng mạng riêng rẽ Mỗi
một công nghệ mạng có một cách thức truyền tin riêng dựa trên thiết kế phần cứng
của nó. Hầu hết các LAN và WAN là không tương thích với nhau.
Internet được thiết kế để liên kết các kiểu mạng khác nhau và cho phép thông
tin được lưu thông một cách tự do giữa những người sử dụng mà không cần biết họ
sử dụng loại máy nào và kiểu mạng gì. Để làm được điều đó cần phải có thêm các
máy tính đặc biệt được gọi là các bộ định tuyến (Router) nối các LAN và các WAN
với các kiểu khác nhau lại với nhau. Các máy tính được nối với nhau như vậy cần
phải có chung một giao thức (Protocol) tức là một tập hợp các luật dùng chung qui
định về cách thức truyền tin.
Với sự phát triển mạng như hiện nay thì có rất nhiều giao thức chuẩn ra đời
nhằm đáp ứng nhu cầu phát triển. Các chuẩn giao thức được sử dụng rộng rãi nhất
hiện nay như giao thức TCP/IP, giao thức SNA của IBM, OSIISDN, X.25 hoặc giao

thức LAN to LAN netBIOS. Giao thức được sử dụng rộng rãi nhất hiện nay trên
mạng là TCP/IP. Giao thức này cho phép dữ liệu được gửi dưới dạng các “gói “
(packet) thông tin nhỏ. Nó chứa hai thành phần, Internet Protocol (IP) và
Transmission Control Protocol (TCP).
Giao thức TCP/IP đảm bảo sự thông suốt việc trao đổi thông tin giữa các máy
tính. Internet hiện nay đang liên kết hàng ngàn máy tính thuộc các công ty, cơ quan
nhà nước, các trung tâm nghiên cứu khoa học, trường đại học, không phân biệt
khoảng cách địa lý trên toàn thế giới. Đó là ngân hàng dữ liệu khổng lồ của nhân
loại.
Một số mạng máy tính bao gồm một máy tính trung tâm (còn gọi là máy chủ)
và nhiều máy trạm khác nối với nó. Các mạng khác kể cả Internet có quy mô lớn
bao gồm nhiều máy chủ cho phép bất kỳ một mạng máy tính nào trong mạng đều có
thể kết nối với các máy khác để trao đổi thông tin.
Một máy tính khi được kết nối với Internet sẽ là một trong số hàng chục triệu
thành viên của mạng khổng lồ này. Vì vậy Internet là mạng máy tính lớn nhất thế
giới hay nó là mạng của các mạng.

7


3. Các dịch vụ trên Internet
Internet là công nghệ thông tin liên lạc mới, nó tác động sâu sắc vào xã hội,
vào cuộc sống ở mức độ khá bao quát. Nó đưa chúng ta vào một thế giới có tầm
nhìn rộng lớn và chúng ta có thể làm mọi thứ như: viết thư, đọc báo, xem bản tin,
giải trí, tra cứu và hiện nay các công ty có thể kinh doanh thông qua Internet, dịch
vụ thương mại điện tử hiện nay đang phát triển khá mạnh mẽ. Dưới đây chỉ là một
số dịch vụ trên Internet:
Thư điện tử (E-mail): Dịch vụ E-mail có thể dùng để trao đổi thông tin giữa
các cá nhân với nhau, các cá nhân với tổ chức và giữa các tổ chức với nhau.
Dịch vụ này còn cho phép tự động gửi nội dung thông tin đến từng địa chỉ

hoặc tự động gửi đến tất cả các địa chỉ cần gửi theo danh sách địa chỉ cho
trước (gọi là mailing list). Nội dung thông tin gửi đi dùng trong thư điện tử
không chỉ có văn bản (text) mà còn có thể ghép thêm (attack) các văn bản
đã được định dạng, graphic, sound, video. Các dạng thông tin này có thể
hoà trộn, kết hợp với nhau thành một tài liệu phức tạp. Lợi ích chính dịch
vụ thư điện tử là thông tin gửi đi nhanh và rẻ.
WWW (World Wide Web): Đây là khái niệm mà người dùng Internet quan
tâm nhiều nhất hiện nay. Web là một công cụ, hay đúng hơn là một dịch vụ
của Internet, Web chứa thông tin bao gồm văn bản, hình ảnh, âm thanh và
thậm chí cả video được kết hợp với nhau... Web cho phép chúng ta chui vào
mọi ngõ ngách trên Internet, là những điểm chứa CSDL gọi là Website.
Nhờ có Web nên dù không phải là chuyên gia, mọi người có thể sử dụng
Internet một cách dễ dàng. Phần mềm sử dụng để xem Web gọi là trình
duyệt (Browser). Một trong những trình duyệt thông thường hiện nay là
Navigator của Netcape, tiếp đó là Internet Explorer của Microsoft.
Dịch vụ truyền file (FTP - File Transfer Protocol): là dịch vụ dùng để trao
đổi các tệp tin từ máy chủ xuông các máy cá nhân và ngược lại.
Gropher: Dịch vụ này hoạt động như viện Menu đủ loại. Thông tin hệ thống
Menu phân cấp giúp người sử dụng từng bước xác định được những thông
tin cần thiết để đi tới vị trí cần đến. Dịch vụ này có thể sử dụng để tìm kiếm
thông tin trên các FTPSite.

8


Telnet: Dịch vụ này cho phép truy cập tới Server được xác định rõ như một
TelnetSite tìm kiếm Server. Người tìm có thể thấy một dịch vụ vô giá khi
tìm kiếm các thông tin trong thư viện và các thông tin lưu trữ. Telnet đặc
biệt quan trọng trong việc kết nối các thông tin từ các máy tính xuống trung
tâm.

II. THƯƠNG MẠI ĐIỆN TỬ
1. Thương mại điện tử là gì ?
Thương mại điện tử (E- Commerce) là hình thái hoạt động kinh doanh bằng
các phương pháp điện tử; là việc trao đổi “thông tin” kinh doanh thông qua các
phương tiện công nghệ điện tử.
- Là bán hàng trên mạng
- Là bán hàng trên Internet
- Là kinh doanh trên Internet
Đúng vậy, hiện nay có rất nhiều cách hiểu khác nhau về Thương mại điện tử.
Nhiều người hiểu Thương mại điện tử là bán hàng trên mạng, trên Internet. Một số
ý kiến khác lại cho rằng Thương mại điện tử là làm thương mại bằng điện tử.
Những cách hiểu này đều đúng theo một góc độ nào đó nhưng chưa nói lên được
phạm vi rộng lớn của Thương mại điện tử.
Theo khái niệm này, Thương mại điện tử không chỉ là bán hàng trên mạng hay
bán hàng trên Internet mà là hình thái hoạt động kinh doanh bằng các phương pháp
điện tử. Hoạt động kinh doanh bao gồm tất cả các hoạt động trong kinh doanh như
giao dịch, mua bán, thanh toán, đặt hàng, quảng cáo và kể cả giao hàng. Các
phương pháp điện tử ở đây không chỉ có Internet mà bao gồm việc sử dụng các
phương tiện công nghệ điện tử như điện thoại, máy FAX, truyền hình và mạng máy
tính (trong đó có Internet). Thương mại điện tử cũng bao hàm cả việc trao đổi thông
tin kinh doanh thông qua các phương tiện công nghệ điện tử. Thông tin ở đây không
chỉ là những số liệu hay văn bản, tin tức mà nó gồm cả hình ảnh, âm thanh và phim
video.
Các phương tiện điện tử trong Thương mại điện tử
+ Điện thoại

9


+ Máy FAX

+ Truyền hình
+ Hệ thống thanh toán điện tử
+ Intranet / Extranet
Mạng toàn cầu Internet / World Wide Web
Các hình thức hoạt động Thương mại điện tử
+ Thư tín điện tử (E-mail)
+ Thanh toán điện tử
+ Trao đổi dữ liệu điện tử (EDI)
+ Trao đổi số hoá các dung liệu
+ Mua bán hàng hoá hữu hình
2. Thương mại điện tử và tầm quan trọng của nó
Ngày nay Thương mại điện tử đã trở thành một ngành kinh tế mũi nhọ trên thế
giới và đã xuất hiện nhiều trung tâm thương mại và thị trường chứng khoán lớn trên
thế giới.
Hiện nay nhờ vào sự phát triển của các phương tiện truyền thông, đặc biệt là
sự phát triển của tin học đã tạo điều kiện cho mọi người có thể giao tiếp với nhau
một cách nhanh chóng và dễ dàng hơn thông qua các dịch vụ Internet. Vì là một
môi trường truyền thông rộng khắp thế giới nên thông tin có thể giới thiệu tới từng
thành viên một cách nhanh chóng và thuận lợi. Chính vì vậy đã tạo điều kiện thuận
lợi cho Thương mại điện tử thông qua Internet. Và Thương mại điện tử nhanh
chóng trở nên phổ biến trên thế giới trở thành một công cụ rất mạnh mẽ để bán hàng
và quảng cáo hàng hoá của các nhà cung cấp. Đối với khách hàng, có thể có thể lựa
chọn, so sánh hàng hoá phù hợp cả về loại hàng hoá, dịch vụ giá cả, chất lượng và
phương thức giao hàng cho khách hàng.
Có rất nhiều ý kiến cho rằng Thương mại điện tử là sự thay đổi lớn nhất trong
kinh doanh kể từ sau cuộc cách mạng công nghiệp.
Thương mại điện tử không chỉ mở ra những cơ hội kinh doanh mới, những sản
phẩm và dịch vụ mới, những ngành nghề kinh doanh mới mà bản thân nó thực sự là

10



một phương thức kinh doanh mới: Phương thức kinh doanh điện tử. Thương mại
điện tử chuyển hoá các chức năng kinh doanh, từ nghiên cứu thị trường và sản xuất
sản phẩm đến bán hàng, dịch vụ sau bán hàng từ phương thức kinh doanh truyền
thống đến phương thức kinh doanh điện tử.
Theo Andrew Grove - Intel thì trong vòng năm năm, tất cả các công ty sẽ trở
thành công ty Internet, hoặc sẽ không là gì cả. Tuy câu nói này có phần phóng đại
nhưng nó phản ánh về cơ bản tầm quan trọng và sự ảnh hưởng của Thương mại điện
tử đến kinh doanh trong thời đại hiện nay.
3. Thực tế Thương mại điện tử ở Việt Nam
Doanh thu từ các hoạt động Thương mại điện tử tại khu vực Châu Á hiện tại là
khá thấp so với các khu vực khác.
Khi đặt vấn đề phát triển Thương mại điện tử của một nước, việc đầu tiên cần
đề cập đến là mức độ phát triển nền CNTT của nước này. Việt Nam là một nước có
nền CNTT kém phát triển so với thế giới nói chung và khu vực nói riêng. Xoay
quanh vấn đề phát triển CNTT ở Việt Nam hiện còn tồn tại nhiều vấn đề nổi cộm.
Có thể lấy ví dụ : Vấn đề bản quyền phần mềm, vấn đề đội ngũ những người làm tin
học còn quá ít ỏi và thiếu đào tạp cơ bản, vấn đề phương hướng phát triển, đầu tư cơ
bản, đầu tư mạo hiểm v.v...
Theo định hướng của Chính phủ (phát biểu của Giáo sư Chu Hảo, Thứ trưởng
Bộ Khoa học Công nghệ và Môi trường với báo chí) thì “...Trong tương lai, công
nghiệp phần mềm sẽ trở thành một ngành kinh tế mũi nhọn của Việt Nam...”.
Nhưng tương lai đó có vẻ như còn rất xa nếu xét tình hình hiện tại. Tuy nhiên, nhìn
từ góc độ của những nhà tin học chuyên nghiệp nước ngoài thì lại có vẻ khá lạc
quan, như lời ông Peter Knook (Phó chủ tịch tập đoàn Microsoft) nói nhân dịp ông
sang thăm và làm việc tại Việt Nam năm 1999: “...Việt Nam có tiềm năng to lớn
trong việc phát triển ngành CNTT của mình, vì Việt Nam là nước với 80 triệu
dânvới hệ thống giáo dục tốt, và đặc biệt là Chính phủ có chủ trương xây dựng xã
hội phát triển dựa trên nền tảng tri thức...”

Ngày 19/11/1997 (ngày Internet Việt Nam) Chính phủ Việt Nam chính thức
chỉ định 4 nhà cung cấp dịch vụ Internet (ISP) đầu tiên ở Việt Nam là : Công ty điện
toán và truyền số liệu (VDC), Công ty Phát triển Đầu tư Công nghệ (FPT), Viện

11


Công nghệ Thông tin và Công ty Cổ phần Bưu chính Viễn thông Sài Gòn
(Saigonpostel). Theo con số dự kiến của Ban điều phối mạng Internet quốc gia, sau
6 tháng kết nối Internet, số thuê bao Internet tại Việt Nam sẽ đạt từ 20.000 đến
25.000. Thực tế cho thấy đây là một dự đoán khá lạc quan, vì theo số lượng đưa ra
vào cuối năm 1998, sau một năm hoạt động, số thuê bao Internet mới chỉ đạt con số
11.000. Trong năm 1999, tốc độ thuê bao có nhiều lạc quan hơn, theo số liệu của
Công ty FPT, một trong số 4 ISP đưa ra, số thuê bao Internet đã đạt khoảng 31.000,
tức là cứ 10.000 dân Việt Nam thì có 4 thuê bao Internet. Số thuê bao chủ yếu tập
trung tại TPHCM và Hà Nội. Tỷ lệ thuê bao các nhân đạt khoảng 60% tổng số thuê
bao, còn lại là các công ty, cơ quan Nhà nước và người nước ngoài.
Theo dự đoán của một số tổ chức quốc tế, doanh thu từ các hoạt động thương
mại trên Internet năm 2000 khoảng 120 tỷ USD, chia sẻ doanh thu đó là mong
muốn của nhiều quóc gia. Tại Việt Nam, xu hướng ứng dụng Thương mại điện tử
đã bắt đầu. Theo đánh giá của các chuyên gia thuộc Bộ Thương mại (Vụ Châu ÁThái Bình Dương), con đường tiếp cận Thương mại điện tử qua 3 giai đoạn: chuẩn
bị, chấp nhận và ứng dụng, và Việt Nam đang ở bước đầu tiên của giai đoạn thứ
nhất.
Cho đến thời điểm này, Bộ Thương Mại và Tổng cục Bưu Điện đã xúc tiến
những nghiên cứu cơ bản về Thương mại điện tử và trình Chính phủ dự án thành lập
một hội đồng quốc gia về Thương mại điện tử cũng như chương trình hành động
Quốc gia về vấn đề này. Bên cạnh đó, các hoạt động chuẩn bị và thử nghiệm cũng
đã được bắt đầu. nhiều công ty đã lên Web để giới thiệu về mình và tìm kiếm bạn
hàng, một số siêu thị ảo đã được khai thác...
Theo các kết quả nghiên cứu, báo cáo của Hiệp hội Thương mại điện tử Châu

Á-Châu Đại Dương, những trở ngại khi tiến hành Thương mại điện tử bao gồm:
Các trở ngại có tính Công nghệ như: thiếu một cơ sở hạ tầng và một môi
trường công nghệ thích hợp như; giá sử dụng; khả năng bải mật; nền CNTT
kém phát triển và thiếu cán bộ kỹ thuật.
Các trở ngại có tính Xã hội: thiếu một môi trường xã hội thích hợp, thiếu
hiểu biết từ lãnh đạo đến nhân viên; thiếu hiểu biết từ khách hàng đến bạn
hàng.

12


Việt Nam là đất nước tham gia sau và bắt đầu từ đầu nên ngoài vấp phải
những khó khăn chung kể trên thì còn rất nhiều khó khăn riêng. theo đánh
giá của Tổng cục Bưu Điện thì có 3 khó khăn chính là:
Cơ sở hạ tầng thông tin cần cải thiện ngay, cần có thời gian hàng năm và
đầu tư theo đơn vị tỷ USD.
Hệ thống dịch vụ tài chính chưa áp dụng hệ thống thanh toán thẻ - đây là
trở ngại và là khó khăn lớn nhất.
Cần nâng cao nhận thức của người Việt Nam về Thương mại điện tử thì
mới có thể triển khai được.
Còn các chuyên gia của Bộ Thương Mại đặt vấn đề thận trọng hơn:
Tác động của Thương mại điện tử đến xã hội và từng cá nhân là hết sức sâu
rộng nên cần hết sức thận trọng.
Trên quy mô toàn cầu, các nước ít phát triển liệu có thể duy trì khả năng
cạnh tranh hợp lý để cùng phát triển?
Thương mại điện tử có phá vỡ đặc trưng văn hoá của từng nước?
Thuận lợi:
Theo các dự báo về một nền kinh tế kỹ thuật số của thế kỷ 21 thì Thương mại
điện tử là một trong những yếu tố then chốt. Không liên quan đến những trở ngại
vừa nêu, Thương mại điện tử có những đặc trưng thuận lợi và bình đẳng với tất cả

mọi người. Khi phát triển Thương mại điện tử, Việt Nam cũng được thừa hưởng tất
cả các thuận lợi này.

CHƯƠNG 2:
MÔ HÌNH CLIENT/SERVER
I. CÁC KHÁI NIỆM

13


Thuật ngữ Server được dùng cho những chương trình thi hành như một dịch
vụ trên toàn mạng. Các chương trình Server này chấp nhận tất cả các yêu cầu hợp lệ
đến từ mọi nơi trên mạng, sau đó thi hành dịch vụ trên Server và trả kết quả về máy
yêu cầu.
Một chương trình được coi là Client khi nó gửi các yêu cầu tới máy có chương
trình Server và chờ đợi câu trả lời từ Server. Chương trình Server và Client nói
chuyện với nhau bằng các thông điệp (message) thông qua một cổng truyền thông
liên tác IPC (Interprocess Communication). Để một chương trình Server và một
chương trình Client có thể giao tiếp được với nhau thì giữa chúng phải có một
chuẩn để giao tiếp, chuẩn này được gọi là giao thức (Protocol). Nếu một chương
trình Client nào muốn yêu cầu lấy thông tin từ Server thì nó phải tuân theo giao
thức Server đưa ra.
Một máy tính chứa chương trình Server được coi là một máy chủ hay máy
phục vụ (Server) và máy chứa chương trình Client được coi là máy khách. Mô hình
trên mạng mà các máy chủ và máy khách giao tiếp với nhau theo một hoặc nhiều
dịch vụ được coi là mô hình Client /Server.
II. MÔ HÌNH CLIENT/SERVER
Thực tế mô hình Client/Server là sự mở rộng tự nhiên và tiện lợi cho việc
truyền thông tin lên tiến trình, lên các máy tính cá nhân, mô hình này cho phép xây
dựng các chương trình Client/Server một cách rễ ràng và sử dụng chúng để liên tác

với nhau đạt hiệu quả hơn. Mô hình Client/Server như sau:


Client

Gửi yêu cầu
Trả về trang Web


Server

Đây là mô hình tổng quát nhất, trên thực tế thì một Server có thể được nối tới
nhiều Server khác nhằm làm việc hiệu quả hơn và nhanh chóng hơnKhi nhận được
một yêu cầu từ Client/Server này thì có thể gửi tiếp yêu cầu vừa nhận được cho một
Server khácVí dụ như Database Server vì bản thân nó không thể xử lý yêu cầu này
được.

14


Máy Server có thể thi hành các nhiệm vụ đơn giản hoặc phức tạpVí dụ như
một máy chủ trả lời thời gian hiện tại trong ngày khi một máy Client yêu cầu lấy
thông tin về thời gian, nó sẽ phải gửi yêu cầu theo một một tiêu chuẩn do một số
yêu cầu lấy thông tin về thời gian, nó sẽ phải gửi yêu cầu theo một một tiêu chuẩn
do một Server đặt ra, mức yêu cầu được chấp nhận thì máy Server sẽ trả về một
thông tin mà Client yêu cầuCó rất nhiều dịch vụ trên mạng nhưng nó hoạt động theo
nguyên lý là nhận các yêu cầu từ Client sau đó xử lý và trả lại các yêu cầu cho
Client yêu cầu.
Thông thường chương trình Client/ Server được thi hành trên hai máy khác
nhau cho dù lúc nào Server cũng ở trạng thái sãn sàngchờ nhận yêu cầu từ Client

nhưng trên thực tế một tiến trình liên tục qua lại (interaction) giữa Client với Server
lại bắt đầu ở phía Client khi mà Client giữ tín hiệu với Server.
Các chương trình Server thường đều thi hành ở mức ứng dụng (tầng ứng dụng
của mạng)Sự thuận lợi của phương pháp này là nó có thể làm việc trên bất cứ một
mạng máy tính nào hỗ trợ giao thước truyền thông chuẩn mà cụ thể ở đây là giao
thức TCP/IPVới các giao thức chuẩn này cũng giúp cho các nhà sản xuất có thể tích
hợp nhiều sản phẩm khác nhau của họ lên mạng mà không gặp khó khăn gìVới các
chuẩn này thì các chương trình Server cho một ứng dụng nào đó có thể thi hành trên
một hệ thống chia sẻ thời gian với nhiều chương trình và dịch vụ khác hoặc nó có
thể chạy trên chính một máy tính cá nhân bình thườngCó thể có nhiều Server cùnh
làm một dịch vụ, chúng có thể nằm trên nhiều máy tính hoặc một máy tính.
Với mô hình trên thì mô hình Client/Server chỉ mang đặc điểm của phần mềm
không liên quan đến phần cứng mặc dù trên thực tế yêu cầu cho một máy Server là
cao hơn rất nhiều so với máy Client Lý do là bởi vì máy Server phải quản lý rất
nhiều các yêu cầu từ các Client khác nhau trên mạng máy tính.

III. ƯU VÀ NHƯỢC ĐIỂM CHÍNH

15


Có thể nói rằng với mô hình Client/Server thì dường như mọi thứ đều nằm
trên bàn người sử dụng, nó có thể truy cập dữ liệu từ xa (bao gồm các công việc như
gửi và nhận file, tìm kiếm thông tin. . . ).
Mô hình Client/Server cung cấp một nền tảng lý tưởngcho phép tích hợp các
kỹ thuật hiện đại như mô hình thiết kế hướng đối tượng, hệ chuyên gia, hệ thông tin
địa lý(GIS). . .
Một trong những vấn đề nảy sinh trong mô hình này đó là tính an toàn và bảo
mật thông tin trên mạngDo phải trao đổi dữ liệu giữa hai máy ở hai khu vực khác
nhau cho nên dễ dàng xẩy ra hiện tượng thông tin truyền trên mạng bị lộ.

Client: trong mô hình Client/Server người ta còn định nghĩa cụ thể cho một
máy Client là một máy trạm mà chỉ được sử dụng bởi một người dùng thể hiện tính
độc lập của nóMáy Client có thể sử dụng các hệ điều hàng bình thường như Win.
9x, Dos OS/2Bản thân mỗi một Client cũng được tích hợp nhiều chức năng trên hệ
điều hành mà nó chạy. Nhưng khi được nối vào một mạng LAN WAN theo mô
hình Client/Server thì nó còn có thể sử dụng thêm các chức năng do hệ điều hành
mạng đó cung cấp với nhiều dịch vụ khác nhau(Cụ thể là các dịch vụ đó do các
Server trên mạng này cung cấp ví dụ nó có thể yêu cầu lấy dữ liệu từ một Server
hay gửi dữ liệu lên Server đó...) Thực tế trong các phần ứng dụng của mô hình
Client/Server các chức năng hoạt động chính là sự kết hợp giũa Client/Server với sự
chia sẻ tài nguyên, dữ liệu trên cả hai máy.
Vai trò của Client trong mô hình Client/Server:
1. Client: được coi là người sử dụng các dịch vụ trên mạng do một hoặc nhiều
máy chủ cung cấp là Server ddược coi như là người cung cấp dịch vụ để trả
lời các yêu cầu của Client điều quan trọng là phải hiểu được vai trò hoạt
động của nó trong một mô hình cụ thể một máy Client trong mô hình này
lại là Server trong một mô hình khác ví dụ như một máy trạm làm việc như
một Client thường trong mạng LAN nhưng đồng thời nó có thể đóng vai trò
như một máy in chủ (Printer Server) cung cấp dịch vụ in ấn từ xa cho nhiều
khác sử dụngClient được hiểu như là bề nổi của các dịch vụ trên mạng, lếu
có thông tin vào hoặc ra thì chúng sẽ được hiển thị trên máy Client.

16


2. Server: còn được định nghĩa như một máy tính nhiều người sử dụng (Multi
user computer). Vì một Server phải quản lý nhiều yêu cầu từ các Client trên
mạng cho nên nó hoạt động sẽ tốt hơn nếu hệ điều hành của nó là đa nhiệm
với các tính năng hoạt động độc lập song song với nhau như hệ điều hành
UNIX, WindowsNT... Server cung cấp và điều kiển các tiến trình truy cập

vào tài nguyên của hệ thống các ứng dụng chạy trên Server phải được tách
rời nhau để một lỗi của ứng dụng này không làm hỏng ứng dụng khác. Tính
đa nhiệm đảm bảo một tiến trình không sử dụng toàn bộ tài nguyên của hệ
thống.

Vai trò của Server như là một nhà cung cấp dịch vụ cho các Client yêu cầu tới
khi cần, các dịch vụ cơ sở dữ liệu in ấn, truyền file, hệ thống... Các ứng dụng Server
cung cấp các dịch vụ máy tính chức năng để hỗ trợ cho các hoạt động trên các máy
Client có hiệu quả tốt hơn. Sự hỗ trợ của các dịch vụ này có thể là toàn bộ hoặc chỉ
một phần thông qua IPC, để đảm bảo tính an toàn trên mạng cho nên Server này còn
có vai trò như là một nhà quản lý toàn bộ quyền truy nhập dữ liệu của máy Client,
nói các khác nó là vai trò quản lý mạng. Có rất nhiều các thực hiện nhằm quản trị
mạng có hiệu quả, một trong nhưng cách đang được sử dụng nhiều nhất hiện nay là
dùng tên Login và mật khẩu (Password).
IV. ỨNG DỤNG MÔ HÌNH CLIENT/SERVER
WWW (World Wide Web): Có nhiều người đã nghe đến thuật ngữ này nhưng
lại không hiểu nó là cái gì, thậm chí có người đã sử dụng nó nhưng cũng không định
nghia chính xác được WWW là cái gì ? WWW là tập hợp các văn bản tài liệu
(document) có mối liên kết (Link) với nhau trên mạng Internet. Bởi vì WWW đang
phát triển rất mạnh mẽ và được quảng bá khắp nơi nên người sử dụng thường nhầm
lẫn WWW là Internet nhưng thực tế nó chỉ là một dịch vụ của Internet.
Ngày nay Web là một dich vụ lớn nhất của Internet sử dụng giao thức truyền
văn bản siêu liên kết HTTP (Hypertext Transfer Protocol) để hiện thị các siêu văn
bản (còn gọi là trang Web) và hình ảnh trên một màn hình đồ hoạ thuật ngữ siêu
văn bản được hiểu như việc trình bầy các văn bản bình thườngcó mối liên kết với
nhau. Người sử dụng chỉ việc bấn chuột vào một phần của văn bản thì một văn bản

17



khác có mối liên kết đó sẽ hiện lên, có thể thay Web mới này ở một nơi hoàn toàn
khác với trang Web liên kết đến nó. Mỗi một mối liên kết đến một trang siêu văn
bản được gọi là địa chỉ của trang văn bản đó, địa chỉ này có tên là URL(Uniform
Resource Locators) gọi là bộ định danh tài nguyên. Để tạo ra một trang Web người
ta sử dụng một ngôn ngữ gọi là ngôn ngữ đánh dấu siêu văn bản HTML
(HypertText Makeup Language) vì vậy người ta còn gọi các trang Web là trang
HTML.
Như vậy với dịch vụ này trên mạng, người sử dụng máy tính có thể truy cập
vào mạng để lấy các thông tin khác nhau dựa trên văn bản, hình ảnh thậm chí cả âm
thanh (thông tin đa phương tiện-Multimedia). Giao diện giữa người và máy ngày
càng trở nên thân thiện, nhờ các biểu tượng và dùng các thiết bị ngoại vi như chuột,
bút quang... Người dùng mạng không cần có trình độ cao về tin học, với một chút
vốn tiếng Anh đủ để hiểu những gì máy tính thông báo cũng có thể dùng nó như
một công cụ đắc lực.
Công nghệ Web cho phép xử lý các trang dữ liệu đa phương tiện và truy nhập
trên mạng diện rộng đặc biệt là Internet. Thực chất Web là hội tụ của Internet. Các
phần mềm lớn thi nhau thể hiện bộ duyệt Web như Mosaic, NetCape, Internet
Explorer, WinWeb, Midas. WWW rất tiện lợi cho người dùng bình thường, không
phải vất vả mới hiểu được các thủ tục của Internet và dễ dàng truy cập vào thông tin
trên hàng ngàn máy chủ đặt ở khắp nơi trên thế giới một cách nhanh chóng và hiệu
quả. Có công nghệ Web thực chất chúng ta đã bước vào một thập kỷ mà mọi thông
tin có thể có ngay trên bàn làm việc của mình.
Như vậy dịch vụ WWW trên mạng có một ứng dụng rất to lớn trong thời đại
thông tin như hiện nay.
Web đã thay đổi cách biểu diễn thông thường bằng văn bản toàn kiểu chữ
nhàm chán sang kiểu thông tin sinh động có hình ảnh âm thanh. Với một bộ
duyệt có trang bị tiện ích đồ hoạ ta dễ dàng xử lý thông tin đa phương tiện
khác.
Cho phép tìm kiếm thông tin một cách nhanh chóng, phổ biến các tài liệu
khoa học và trao đổi thông tin trên mạng.


18


Dịch vụ kinh doanh đầu tư trên mạng qua Web. Với sự phát triển vượt bậc
của khả năng truyền thông qua mạng và các công nghệ Web tiên tiến, việc
ta có thể ung dung ngồi nhà mà du ngoạn từ cửa hàng này sang hàng khác
trong không gian ảo không còn là cảnh phim viễn tưởng mà đã trở thành
hiện thực. Ngày nay hầu như bất kỳ thứ hàng hoá nào cũng có thể đặt mua
qua Internet.
V. MÔ HÌNH WEB CLIENT/SERVER
Mô hình Client/Server ứng dụng vào trang Web được gọi là mô hình Web
Client/ServerGiao thức chuẩn được sử dụng để giao tiếp giữa Web Server và Web
Client là HTTP (HyperText Transfer Protocol).
Web Client (Web Browser): Các trình duyệt có vai trò như là Client trong mô
hình Client/Server, khi cần xem một trang Web cụ thể nào thì trình duyệt Web sẽ
gửi yêu cầu lên cho Web Server để lấy nội dung trang Web đó.
Web Server: Khi nhận được yêu cầu từ một Client/Server, Web Server sẽ trả
về nội dung file cho trình duyệt Web Server cho phép chuyển giao dữ liệu bao gồm
văn bản, đồ hoạ và thậm chí cả âm thanh, video tới người sử dụng. Người sử dụng
chỉ cần trình duyệt xét Web để liên kết các máy chủ qua mạng IP nội bộ yêu cầu của
người sử dụng được đáp ứng bằng cách nhấn chuột vào các chủ đề hoặc minh hoạ
mẫu theo khuôn dạng HTML. Những trang dữ liệu theo yêu cầu sẽ được gọi xuống
từ máy chủ nào đó theo giao thức HTTP rồi hiển thị trên máy cá nhân.
VI. HOẠT ĐỘNG
Tất cả các gói tin nhận và trả lời giữa Web Server và Client đều tuân theo giao
thức chuẩn HTTPMô hình hoạt động như sau:
Ban đầu trình duyệt trên máy Client có một văn bản HTML và hiển thị lên
màn hình với đầy đủ các mối liên kết.
Khi người sử dụng chọn một mối liên kết nào đó trong văn bản trên thì trình

duyệt sẽ sử dụng giao thức HTTP gửi một yêu cầu lên mạng cho Web
Server để truy cập tới một trang Web mới hay muốn được phục vụ một dịch
vụ nào đó được chỉ ra bởi mối liên kết đó.

19


Sau khi nhận được thông tin từ trình duyệt nó có thể tự xử lý thông tin hoặc
gửi cho các bộ phận khác có khả năng xử lý (Database Server, CGI. . . ) rồi
chờ kết quả để gửi về cho trình duyệt Client.
Trình duyệt nhận và định dạng dữ liệu theo chuẩn của trang Web để hiển thị
lên màn hình.
Quá trình cứ tiếp diễn như vậy được gọi là duyệt Web trên mạng.
VII. MỞ RỘNG KHẢ NĂNG CỦA WEB SERVER
Web Server là một phần mềm đóng vai trò phục vụ khi được hình thành, nó
nạp vào bộ nhớ và đợi các yêu cầu từ nơi khác đến. Các yêu cầu có thể từ trình
duyệt hoặc từ Web Server khác đến. Các yêu cầu thường là đòi hỏi về một tư liệu
hay một thông tin nào đó. Khi nhận yêu cầu, nó phân tích để xác định xem tư liệu,
thông tin mà người dùng yêu cầu là gì. Sau đó gửi trả kết quả lại nơi yêu cầu. Các
phần mềm Web Server chủ yếu:
 Apche dùng cho UNIX
 HS dùng cho Window NT
 HTTP dùng cho UNIX
Web Quest dùng cho Window NT, Window 95
Oracle Web Server thích hợp cho nhiều nền tảng.
Personal Web Server dùng cho Win 95
Bản thân Web Server không có khả năng truy nhập CSDL. Vấn đề đặt ra là
cần mở rộng khả năng của Web Server để nó có thể xử lý các yêu cầu truy nhập và
một CSDL nào đó, lấy các thông tin từ đó ra và sau đó trả các thông tin này về cho
trình duyệt - nơi đã gửi yêu cầu. Cách mở rộng khả năng này là ta phải viết một

chương trình giao tiếp được cả với Web Server và cả CSDL. Chương trình này sẽ
lấy các yêu cầu, xử lý chúng và đưa ra kết quả là các file HTML. Một chương trình
như vậy gọi là “cổng” (Gateway) giữa Web Server và CSDL.
Một Gateway có thể truy nhập nguồn thông tin không theo dạng chuẩn của
Web(HTML) tức là các thông tin nằm ngoài Web Server và chuyển đổi nó thành
các thông tin có thẻ hiển thị nên màn hình của trình duyệt. Thực tế Gateway chỉ là
một chương trình được gọi bởi Web Server. Thông thường chúng được giữ trong

20


một thư mục đặc biệt và vị trí của thư mục này được cấu hình trong Web Server.
Các chương trình này phải có tính thực thi được. Khi Web Server gọi một file vào
một Gateway thì nó sẽ được thực hiệnSau khi xử lý xongWeb Server nhận kết quả
trả về và định dạng theo chuẩn HTTP để gửi cho trình duyệt.
Có một số hướng để viết một chương trình như vậy:
- Common Gateway Interface(CGI).
- Microsoft Internet Server Pages(ASP).

CHƯƠNG 3:
LẬP TRÌNH TRÊN WWW - NGÔN NGỮ HTML
I. GIỚI THIỆU NGÔN NGỮ HTML (HyperText Makeup Language)

21


HTML là ngôn ngữ chuẩn để tạo lập các tài liệu cho WWW. HTML được sử
dụng trong các chương trình duyệt Web, Ví dụ như MS Internet Explorer, Nescape
Navigator. Một tài liệu HTML là một tệp văn bản chứa các phần tử mà các chương
trình duyệt sẽ sử dụng để hiện các văn bản, các đối tượng Multimedia, và các siêu

liên kết. Người sử dụng có thể dùng chuột để chọn các văn bản được format như
một siêu liên kết trong các tài liệu này. Sau khi liên kết này được chọn, tài liệu mà
nó trỏ tới sẽ được nạp vào máy và hiện lên màn hình.
Một phần tử là một đơn vị cơ sở của HTML. Nó bao gồm một thẻ khởi đầu
(start-tag), một thẻ kết thúc (end-tag), và các ký tự dữ liệu được đặt trong các thẻ
này. Một thẻ bắt đầu bằng một dấu nhỏ hơn (<) và kết thúc bằng một dấu lớn hơn
(>). Thẻ kết thúc phải có thêm một dấu sổ chéo (/) ngay trước tên thẻ. Có một số thẻ
phẩi luôn luôn kết thúc bằng một thẻ phù hợp, còn một số khác lại cho phép bỏ qua
thẻ kết thúc nếu kết quả là rõ ràng và không có sự mập mờ nào cả.
HTML không mô tả trang tài liệu theo như một số ngôn ngữ máy tính khác.
Có những ngôn ngữ mô tả từng phần tử đồ hoạ và vị trí của nó trên trang tài liệu,
bao gồm font chữ, kích cỡ... Ngược lại HTML lại không đưa ra bất cứ mô tả nào về
font, hình ảnh đồ hoạ và chỗ để đặt chúng. HTML chỉ “gán thẻ” cho nội dung tập
tin với những thuộc tính nào đó mà sau đó chúng được xác định bởi chương trình
duyệt để xem tập tin này. Điều này giống như người đánh dấu bằng tay một số đoạn
trên văn bản tài liệu để chỉ cho người thư kí biết những việc cần thiết như: "chỗ này
in đậm", "chỗ này in nghiêng"...
Ví dụ: các thẻ về kích thước chữ



các thẻ về kiểu chữ
<b> </b>

.
HTML gán thẻ cho kiểu chữ, chèn file ảnh đồ hoạ, âm thanh, video vào văn
bản tạo ra mối liên kết và hình thức gọi là siêu văn bản (Hypertext). Siêu văn bản là
đặc tính quan trọng nhất của HTML. Điều này có nghiã là một văn bản hay đồ hoạ
bất kỳ chỗ nào cũng có thể liên kết với một tài liệu khác.
II. ĐẶC ĐIỂM NGÔN NGỮ HTML

22



HTML được thiết kế ra để dùng cho Web : trong phần lớn các chương trình xử
lý văn bản khá rắc rối trong một số tiểu tiết -ví dụ như chọn font - HTML, được
thiết kế để dùng trên mọi kiểu máy tính. Nó được thiết kế vừa để dễ vận chuyển trên
internet, vừa thích hợp với các loại máy tính.
HTML là một chuẩn mở: ngoài các thẻ trong bộ chuẩn, HTML có thể được
mở rộng bằng nhiều cách như : Mở rộng thêm các thẻ HTML, sử dụng Javascript,
VBScript và các ngôn ngữ lập trình khác. . .
HTML dễ đọc, dễ hiểu, có chứa các liên kết và hỗ trợ Multimedia.
HTML là ngôn ngữ thông dịch : đây được coi là nhược điểm của ngôn ngữ bởi
vì nó sẽ làm giảm tốc độ thực hiện các ứng dụng khác trên Web đồng thời nó khó
đảm bảo tính an toàn, bảo mật.
III. PHƯƠNG PHÁP THIẾT KẾ MỘT TRANG WEB
Khi nói đến xây dựng một trang Web cũng đồng nghĩa với việc xây dựng một
trang chủ. Theo quan niệm chung, trang chủ là một trang Web chứa liên kết đến
một hay nhiều trang khác và thường là trang cung cấp thông tin tổng quát nhất cho
người xem. Vì vậy việc thiết kế trang Web không chỉ là thiết kế một trang HTML
đơn lẻ, mà còn là thiết kế các mối liên kết tới các tài liệu trong HTML khác ( chưa
kể đến việc phải xây dựng nhiều trang Web liên kết với nhau)
Để xây dựng trang Web với các kết nối trước tiên chúng ta nên xác định xem
thiết kế nội dung gì, cho ai xem và môi trường thể hiện Web. Thông thường có các
bước sau:
• Xác định chủ đề
• Xác định nội dung
• Thiết kế sơ đồ hoạt động (Flow diagram)
• Thiết kế sơ đồ giao diện với người xem của trang chủ.
• Thiết kế và xây dựng chi tiết
Chi tiết các bước:
Xác định chủ đề: Xác định chủ đề trang Web là bước đầu tiên giúp cho việc

định hướng cho các thao tác thiết kế và xây dựng sau này không đi chệch

23


mục tiêu. Chủ đề của trang Web tuy quan trọng song cũng dễ xác định bởi
vì nó hoàn toàn dựa vào mục đích thiết kế trang Web đó.
Xác định nội dung: Xác định nội dung trang Web là bước quan trọng nhất.
Nó cho phép ta hình dung được công việc sẽ phải làm tiếp theo và xây dựng
quy mô trang chủ, qua đó quy định khuôn khổ công tác thiết kế giao diện và
xây dựng trang HTML. Khi xác định nội dung cần nhận rõ những điểm
chính yếu phải giới thiệu trên trang Web. Những thông tin sẽ giới thiệu phải
phân loại theo hai tiêu chí: tính kế thừa và mức độ quan trọng. Việc xây
dựng nội dung cũng phải được định trước phong cách khác nhau: trang
nghiêm hay hài hước cứng rắn hay mềm mại.
Thiết kế sơ đồ hoạt động: Sơ đồ hoạt động là mô hình sắp xếp các nội dung
(được xác định ở bước trên) trong bước này ta sẽ sắp xếp các thông tin cần
giới thiệu theo thứ tự ưu tiên như đã xác định. Công việc sắp xếp bao gồm
thứ tự Trên - Dưới, Trước - Sau, thông tin nào cần được nêu rõ trong một
trang Web thành một phần riêng, thông tin nào có thể mô tả ngay trên trang
chủ.
+ Thiết kế giao diện với người xem: Sơ đồ giao diện với người xemlà sơ đồ
khái quát của những gì mà người đến thăm trang chủ của chúng ta sẽ thấy.
Giao diện với người xem được thiết kế theo sơ đồ này. Yêu cầu của giao
diện là nêu bật được chủ đề chính, bố trí các liên kết sao cho hợp lý, phân
bố mạng thông tin, đồ hoạ sao cho cân đối.
Thiết kế và xây dựng chi tiết : công tác thiết kế và xây dựng chi tiết là phần
việc đồ sộ nhất khi xây dựng trang Web. Nó cũng là phần việc đưa ra kết
quả cuối cùng, vì vậy có thể nói đây là công tác quan trọng nhất. Trong
công tác thiết kế xây dựng chi tiết, việc lựa chọn các hình ảnh(để minh hoạ,

để làm liên kết)là quan trọng. Đây chính là cái sẽ gây ấn tượng mạnh nhất
đến người xem. Vì vậy thiết kế và lựa chọn hình ảnh cực kỳ quan trọng
IV. LẬP TRÌNH TRANG WEB ĐỘNG
Khi duyệt các trang Web trên máy, chúng ta thấy rằng các trang Web làm việc
một cách thực sự sinh động, có thể trao đổi thông tin, dịch vụ mua hàng... với các
form nhập dữ liệu và nhận dữ liệu trở về sau khi bấm nút Submit, chúng ta có thể

24


bấm vào từng phần trong một bức tranh với các liên kết khác nhau, các con số hiển
thị các lần truy cập vào từng trang Web và đặc biệt hơn còn có dịch vụ để truy cập
dữ liệu, tìm kiếm thông tin theo một tiêu chuẩn nào đó. . . Để làm được điều đó
người ta xây dựng các CSDL trên Web Server để lấy thông tin đưa tới từ trình
duyệt, sau đó xử lý và trả lại kết quả cho trình duyệt. Tuy nhiên do bản thân Web
Server lại không có khả năng làm việc với CSDL vì vậy phải có một chương trình
thực thi được khả năng xử lý thông tin và làm việc được với Web Server. Chương
trình này đóng vai trò như một cổng giao tiếp (gateway) giữa Web Server và trình
duyệt
Đặc điểm nổi bật của chương trình này là tính đơn giản, bất cứ một người sử
dụng nào cũng có thể tạo ra một chương trình giao tiếp đơn giản mà không cần phải
có nhiều kinh nghiệm trong lập trình và khả năng thiết kế. Một chương trình giao
tiếp được gọi là kịch bản(Script), chỉ khi nào cần một trang Web động thực sự với
các tính năng hoàn hảo thì chúng ta mới phải nắm vững các kỹ thuật lập trình này.
Mô hình hoạt động và vai trò của chương trình giao tiếp (gateway) như sau:



submit form


Máy Khách


Máy Chủ

gọi chương trình
gateway


chương trình
ứng dụng
gateway

trang kết quả HTML

Kết quả của
chương trình
Ngày nay các chương trình giao tiếp đóng một vai trò rất lớn trong Web
Server, các chương trình giao tiếp chạy chung trên một Web Server có thể giao tiếp
được với nhau để tăng khả năng hoạt động của chúng. Với mô hình này, Web
Server có thể gọi một chương trình giao tiếp trong khi dữ liệu của người sử dụng
cũng được đưa trực tiếp cho chương trình, sau khi xử lý xong Web Server sẽ gửi kết
quả xử lý của chương trình cho trình duyệt. Chương trình giao tiếp thật đơn giản ở
chỗ chỉ có một vài kiểu vào ra đơn giản và một số luật cụ thể cộng với các kỹ thuật
đặc trưng của mô hình.

25



×