Tải bản đầy đủ (.doc) (26 trang)

TIỂU LUẬN TRIẾT HỌC - LÊ NIN PHÁT TRIỂN lý LUẬN PHÉP BIỆN CHỨNG TRONG tác PHẨM CHỦ NGHĨA DUY vật và CHỦ NGHĨA KINH NGHIỆM PHÊ PHÁN

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (209.87 KB, 26 trang )

V.I. LÊNIN PHÁT TRIỂN CHỦ NGHĨA DUY VẬT BIỆN CHỨNG TRONG
TÁC PHẨM “CHỦ NGHĨA DUY VẬT VÀ CHỦ NGHĨA KINH NGHIỆM
PHÊ PHÁN”. Ý NGHĨA TRONG CUỘC ĐẤU TRANH TRÊN LĨNH VỰC
TƯ TƯỞNG LÝ LUẬN Ở NƯỚC TA HIỆN NAY
-------------------Tác phẩm chủ nghĩa duy vật và chủ nghĩa kinh nghiệm phê phán được viết
trong khoảng thời gian từ tháng 2 đến tháng 10 năm 1908 và được in thành sách
vào tháng 5/1909. Đây là tác phẩm bút chiến nhằm vạch trần tính chất phản động,
phản khoa học của chủ nghĩa kinh nghiệm phê phán, đấu tranh bảo vệ và phát triển
chủ nghĩa Mác trong phong trào công nhân.
1. Hoàn cảnh ra đời và mục đích của tác phẩm
Vào những năm đầu thế kỷ XX, cách mạng tư sản trên phạm vi toàn thế giới
cơ bản đã hoàn thành, chủ nghĩa tư bản đã phát triển sang giai đoạn tột cùng là chủ
nghĩa đế quốc và đã bộc lộ rõ nguyên hình thông qua bản chất phản động của nó.
Các giá trị chân chính của nhân loại như “tự do”, “bình đẳng”, “bác ái” vốn được
chủ nghĩa tư bản giương cao trong giai đoạn đầu phát triển, lúc này đã bị chúng
ngang nhiên chà đạp và tước bỏ. Sau khi C. Mác và Ph.Ăngghen mất, các học giả
phương Tây và bọn cơ hội đã tìm mọi cách đưa ra nhiều học thuyết phản động
hòng phủ định chủ nghĩa Mác, bênh vực cho quyền lợi phi nhân tính của giai cấp
tư sản. Một trong những học thuyết phản động tiêu biểu lúc bấy giờ là “Chủ nghĩa
kinh nghiệm phê phán” do E.Ma-khơ và R.A-vê-na-ri-út tạo ra. Đó là thứ học
thuyết triết học duy tâm chủ quan, phục hồi lại quan điểm của G.Béc-cơ-li và
Đ.Hi-um; thế nhưng, C.Cau-xky - một trong những lãnh tụ của Đảng Dân chủ xã
hội Đức và của Quốc tế II, về sau trở thành kẻ phản bội chủ nghĩa Mác, nhà tư
tưởng của chủ nghĩa phái giữa (chủ nghĩa Cau-xky) lại cho rằng có thể bổ sung lý
luận của chủ nghĩa Mác bằng nhận thức luận của E.Ma-khơ (!).
Cuối thế kỷ XIX và đầu thế kỷ XX cũng là thời kỳ mà khoa học tự nhiên đã
có những bước phát triển mới và sâu sắc, đặc biệt là trong lĩnh vực vật lý học đã
xuất hiện nhiều phát minh quan trọng: năm 1895, Rơn-ghen phát hiện ra tia “X”;


năm 1896, Béc-cơ-ren phát hiện ra hiện tượng phóng xạ; năm 1897, Tôm-xơn phát


hiện ra điện tử; năm 1898, một số nhà khoa học phát hiện ra các chất phóng xạ
mạnh là Plodi và Radi; trong những năm 1905-1906, Anh-xtanh phát hiện ra thuyết
tương đối… Sự kiện này đã được V.I. Lênin gọi là “cuộc cách mạng vật lý học” vì
nó đã xoá bỏ về cơ bản những quan niệm cổ truyền mang tính chất siêu hình tr ước
đó khi xem xét thế giới vật chất. Thế nhưng, trước những phát minh khoa học có
tính chất biến đổi quá đột ngột như vậy, nhiều nhà khoa học tự nhiên “giỏi về khoa
học nhưng kém cỏi về triết học”. Do khủng hoảng về thế giới quan vì chịu ảnh
hưởng của “thuyết duy năng” (còn gọi là “thuyết năng lượng”), nên đã tán đồng sự
luận giải mang tính chất duy tâm chủ quan của E.Ma-khơ, vì thế họ đã “trượt dài”
từ chủ nghĩa duy vật máy móc, siêu hình, đến chủ nghĩa tương đối, hoài nghi, rồi
sa xuống vũng bùn của chủ nghĩa duy tâm.
Riêng đối với nước Nga, vào thời kỳ này đã trở thành một nước đế quốc non
yếu và là nơi tập trung tất cả những mâu thuẫn gay gắt nhất của thời đại. Năm
1903, Đảng Dân chủ xã hội Nga đã tách thành hai đảng là Bôn-sê-vích (đa số) và
Men-sê-vích (thiểu số). Sau thất bại tạm thời của cuộc cách mạng dân chủ tư sản
(1905-1907), do Đảng Bôn-sê-vích Nga lãnh đạo, chính phủ chuyên chế Nga
hoàng đã thực hiện chiến dịch khủng bố trắng, thẳng tay đàn áp vô cùng tàn bạo
những người cách mạng, tước đoạt mọi thành quả mà cuộc cách mạng dân chủ thu
được. Bọn phản động tìm mọi cách lôi kéo quần chúng, làm cho họ xa rời lý tưởng
cách mạng, không tin tưởng vào tương lai của cách mạng và thoả hiệp với trật tự
xã hội hiện tại. Tiêu biểu là Đảng “Trăm đen” - một tổ chức chính trị của bọn bảo
hoàng, địa chủ đã công khai ca ngợi chế độ phản động đương thời, ca ngợi
“Thượng đế - Nga hoàng - Tổ quốc”, ra sức tuyên truyền những tư tưởng bi quan
trong quần chúng nhân dân. Trong bối cảnh ấy, những tư tưởng thần bí, tôn giáo,
bi quan dưới mọi màu sắc không những được phục hồi mà còn nảy nở thêm và lan
tràn nhanh chóng như một thứ bệnh dịch.


Nguy hi hn na, s thoỏi tro ca cỏch mng khụng nhng ó em li c
hi cho bn phn ng m cuc tin cụng trc din vo trit hc Mỏc, m cũn lm

cho b tham mu ca giai cp cụng nhõn Nga b phõn hoỏ sõu sc. Mt s phn t
trớ thc l ng viờn ng Bụn-sờ-vớch Nga nh A.Bụ-ga-np, V.Ba-da-rp,
A.V.Lu-na-tsac-xki v mt s ngi trong giai cp t sn vn tng l ng minh
ca cỏch mng ó chao o, ri b hng ng cỏch mng, i theo ch chuyờn ch
Nga hong. Bn Men-sờ-vớch cng tng cú tinh thn cỏch mng thỡ nay ó sa sỳt,
mt tinh thn, hong s. Nhng din bin bt li nờu trờn ó lm dy lờn phong
tro chng ng, ũi th tiờu ng, th tiờu u tranh chớnh tr, hựa theo tro lu c
hi, tho hip vi ch phn ng, chng li phong tro cỏch mng. Nhn nh
v tỡnh hỡnh ú, V.I. Lờnin vit: Cú tỡnh trng thoỏi chớ, mt tinh thn, phõn lit,
chy di, t b lp trng, núi chuyn dõm bụn ch khụng phi chớnh tr na. Xu
hng ngy cng ng v trit hc duy tõm, ch ngha thn bớ c dựng che y
tinh thn phn cỏch mng(1).
Trờn lnh vc t tng, bn c hi theo ch ngha Ma-kh Nga ó ln ting
ũi xột li nhng nguyờn lý trit hc ca ch ngha Mỏc, coi õy l ũn kớch ch
yu th tiờu ng v mt th gii quan v c s lý lun. Chỳng cho rng tht bi
ca cỏch mng Nga trong nhng nm 1905-1907 ó chng t hc thuyt Mỏc v
cỏch mng vụ sn l sai lm v ó b phỏ sn hon ton. Chim a v thng tr
trong trit hc thi gian ny l nhng hỡnh thc ch ngha duy tõm phn ng nht,
ph nh tớnh quy lut trong quỏ trỡnh phỏt trin ca t nhiờn v xó hi, ph nh
kh nng nhn thc v ci to th gii ca con ngi. Cng vo thi im ny,
trong gii trớ thc t sn cũn lan truyn rng rói thuyt tỡm thn, mt tro lu
trit hc tụn giỏo phn ng. Nhng i biu ca tro lu y ó khng nh rng,
nhõn dõn Nga ó mt Chỳa v cú nhim v l phi tỡm li Chỳa. Trờn thc t,
ch trong vũng cha y sỏu thỏng ca nm 1908, nc Nga ó xut hin bn tp
sỏch cú ni dung cụng kớch ch ngha duy vt bin chng Thc trng ú ó
chng t, õy l thi k ch ngha Mỏc b cỏc th lc thự ch phn ng liờn tc
cụng kớch t nhiu phớa. Mc dự gia chỳng cũn cú nhng quan im v chớnh tr
(1)

V.I. Lênin: Toàn tập, tiếng Việt, Nxb tiến bộ, Mátxcơva, 1978, t41, tr.11-12.



khỏc nhau rừ rt, nhng li cú chung quan im l cựng thự ghột ch ngha duy
vt bin chng (!), nờn chỳng luụn tỡm mi cỏch liờn kt vi nhau nhm chng
li ch ngha Mỏc mt cỏch tinh vi thụng qua vic gii thớch li ch ngha Mỏc.
Nh vy, lch s ó ũi hi V.I. Lờnin phi tin hnh mt cuc lun chin
chng li õm mu en ti ca cỏc th lc thự ch phn ng trờn nhiu phng
din ca lnh vc chớnh tr - t tng, nhm bo v v phỏt trin ch ngha Mỏc núi
chung, trit hc Mỏc núi riờng. Vic tin hnh cuc lun chin ny, nh V.I. Lờnin
ó khng nh: ... chng nhng vỡ õy l mt ngha v vn hc m cũn l mt
ngha v chớnh tr tht s na1. Nhng ngha v ú ó c V.I. Lờnin hon thnh
mt cỏch xut sc thụng qua tỏc phm Ch ngha duy vt v ch ngha kinh
nghim phờ phỏn, mt tỏc phm mu mc cho vic khỏi quỏt v mt trit hc
nhng thnh tu mi nht trong vt lý hc, ch ra thc cht cuc khng hong
trong khoa hc t nhiờn, vch ra phng phỏp thoỏt khi s khng hong ú bng
con ng ca ch ngha duy vt bin chng, gúp phn lm giu thờm ch ngha
duy vt Mỏc-xớt trờn c hai phng din: ni dung v phng phỏp.
Túm li, thụng qua vic tranh lun vi quan im ca E.Ma-kh v nhng
ngi theo ch ngha Ma-kh trong vic gii quyt vn c bn ca trit hc,
vch ra thc trng din bin t tng ca xó hi lỳc y, V.I. Lờnin ó bo v v
phỏt trin thnh cụng cỏc giỏ tr v th gii quan v phng phỏp lun ca ch ngha
Mỏc, Ngi ó tip tc c th hoỏ v hon thin nhng ni dung c bn ca ch
ngha duy vt bin chng v ch ngha duy vt lch s, chng minh tớnh ỳng n
ca nú trong iu kin bựng n xó hi v khỏm phỏ khoa hc, trong iu kin liờn
minh gia trit hc v khoa hc t nhiờn cn c lý gii mt cỏch hp lý phỏt
huy tỏc dng tớch cc i vi s phỏt trin ca c hai lnh vc khoa hc ny.

2. Kt cu v nhng t tng c bn ca tỏc phm
1


V.I. Lênin: Toàn tập, tiếng Việt, Nxb tiến bộ, Mátxcơva, 1980, t18, tr.12.


Trong bản tiếng Việt của bộ sách V.I. Lênin toàn tập, tập 18, do Nhà xuất bản
Tiến bộ, Mát-xcơ-va phát hành năm 1980, được in theo bản dịch của Nhà xuất bản
Sự thật, Hà Nội thì, ngoài phần lời tựa, mười câu hỏi dành cho báo cáo viên, phần
thay lời mở đầu, bổ sung và kết luận, nội dung chính của tác phẩm “Chủ nghĩa duy
vật và chủ nghĩa kinh nghiêm phê phán” gồm có 6 chương với 39 mục (tiết).
Về phần Lời tựa, sau khi điểm tên một loạt tác giả cùng các tập luận văn của
họ và chỉ ra âm mưu, thủ đoạn của họ đã chống phá chủ nghĩa Mác như thế nào;
V.I. Lênin đã tự xác định cho mình nhiệm vụ là: “Tìm xem những kẻ đã đưa ra,
dưới chiêu bài chủ nghĩa Mác, những cái vô cùng hỗn độn, hồ đồ và phản động, đã
lầm đường, lạc lối ở chỗ nào”(1).
Trong phần Mười câu hỏi dành cho báo cáo viên, V.I. Lênin yêu cầu báo cáo
viên phải đứng vững trên lập trường chủ nghĩa duy vật biện chứng, kiên quyết đấu
tranh với chủ nghĩa kinh nghiệm phê phán - thứ chủ nghĩa cố tình nặn ra cái gọi là
“đường lối thứ ba”, dung hoà giữa chủ nghĩa duy vật và chủ nghĩa duy tâm mà
thực chất “hoàn toàn chỉ là phục vụ cho bọn tín ngưỡng chủ nghĩa trong cuộc đấu
tranh của chúng chống chủ nghĩa duy vật nói chung và chống chủ nghĩa duy vật
lịch sử nói riêng”(2).
Phần Thay lời mở đầu với cách đặt vấn đề cho tiêu đề Vào năm 1908, một số
người “Mác-xít” và vào năm 1710, một số nhà duy tâm đã bác bỏ chủ nghĩa duy
vật như thế nào, V.I. Lênin đã chỉ rõ sự giống nhau hoàn toàn về bản chất chống
chủ nghĩa duy vật của những nhà triết học đương thời ở Nga “đội lốt Mác-xít” theo
chủ nghĩa Ma-khơ với chủ nghĩa duy tâm chủ quan của G. Béc-cơ-li vào năm 1710
trong việc giải quyết vấn đề cơ bản của triết học.
Trong Chương I với tựa đề: “Lý luận nhận thức của chủ nghĩa kinh nghiệm
phê phán và của chủ nghĩa duy vật biện chứng”, V.I. Lênin vạch ra sự đối lập của
chủ nghĩa duy vật và chủ nghĩa duy tâm trong việc giải thích luận điểm thứ nhất
của vấn đề cơ bản của triết học, nghĩa là về tính có trước của một trong hai thực

(1)
(2)

V.I. Lªnin: Toµn tËp, tiÕng ViÖt, Nxb tiÕn bé, M¸txc¬va, 1980, t18, tr.11.
V.I. Lªnin: Toµn tËp, tiÕng ViÖt, Nxb tiÕn bé, M¸txc¬va, 1980, t18, tr445.


thể vật chất và tinh thần; đồng thời, Người phê phán và bác bỏ quan niệm của phái
Makhơ khi cho rằng, cảm giác (còn được gọi là “yếu tố”) là cái có trước, rằng các
quan niệm của họ là hoàn toàn mâu thuẫn với những kết luận đã được kiểm chứng
trong lịch sử khoa học tự nhiên.
Chơng II với tựa đề: “Lý luận nhận thức của chủ nghĩa kinh nghiệm phê phán
và của chủ nghĩa duy vật biện chứng”, V.I. Lênin đã xem xét các vấn đề về nhận
thức, trả lời câu hỏi “con người có thể nhận thức được thế giới không; nếu có, thì
nhận thức như thế nào?”; thông qua đó, Người phân tích kỹ tính chất nhị nguyên
trong quan niệm của I.Can-tơ và đi đến kết luận: E. Ma-khơ và môn phái của ông
ta đã bắt đầu từ triết học I. Can-tơ, nhưng đã không phát triển theo hướng duy vật
mà đã đi lùi về phái theo thuyết “bất khả tri” (thuyết “không thể biết”) của G. Béccơ-li và Đ. Hi-um (phủ nhận khả năng và nội dung khách quan trong nhận thức của
con người). Cũng trong chương này, V.I. Lênin đã nêu lên những kết luận quan
trọng làm nền tảng cho lý luận nhận thức duy vật và trình bày định nghĩa kinh điển
của chủ nghĩa duy vật biện chứng về vật chất.
Chương III với tựa đề: “Lý luận nhận thức của chủ nghĩa duy vật biện chứng
và của chủ nghĩa kinh nghiệm phê phán”, V.I. Lênin đã tập trung phê phán tính
chất duy tâm chủ quan của phái Ma-khơ xung quanh các vấn đề về vật chất, các
mối liên hệ và các hình thức tồn tại của nó, nhất là quan niệm của phái này cho
rằng “yếu tố” (cảm giác) là cái có trước, là nền tảng xuất phát của tất cả những vấn
đề nói trên; thông qua đó, Người đã xác lập nên lý luận nhận thức của chủ nghĩa
duy vật biện chứng.
Chơng IV với tựa đề: “Những nhà triết học duy tâm, bạn chiến đấu và kẻ kế
thừa chủ nghĩa kinh nghiệm phê phán”, V.I. Lênin đã nêu rõ khuynh hướng phát

triển của chủ nghĩa kinh nghiệm phê phán và mối liên hệ của nó với các khuynh
hướng triết học phương Tây đương đại. Thông qua đó, Người “điểm mặt, chỉ tên”
những biến tướng của nó ở Nga như: Thuyết kinh nghiệm ký hiệu, Thuyết kinh
nghiệm nhất nguyên, Thuyết thực tại ngây thơ… Cũng ở chương này, V.I. Lênin
đã đa ra những quan điểm có tính nguyên tắc của chủ nghĩa duy vật rằng, giới tự


nhiên là vốn có, tồn tại từ lâu, trước khi có con người và là cơ sở hình thành nên
con người, ý thức là đặc trưng phản ánh của bộ óc con người.
Chương V với tựa đề: “Cuộc cách mạng mới nhất trong khoa học tự nhiên và
chủ nghĩa duy tâm triết học”, V.I. Lênin đã phân tích thực chất và vai trò của
“cuộc cách mạng vật lý học” cuối thế kỷ XIX, đầu thế kỷ XX; phê phán “chủ nghĩa
duy tâm vật lý học” (chủ nghĩa Ma-khơ), chỉ ra mối liên hệ của triết học Ma-khơ
với các phát minh mới nhất trong vật lý học, những nguyên nhân dẫn đến khủng
hoảng thế giới quan trong khoa học nói chung và trong vật lý học nói riêng, chỉ ra
con đường thoát khỏi cuộc khủng hoảng đó. Trên cơ sở này, V.I. Lênin đã phát
triển, làm giàu thêm lý luận nhận thức Mác-xít về chân lý khách quan, về tính tuyệt
đối và tương đối của chân lý, về quan hệ giữa lý luận và thực tiễn.
Chơng VI với tựa đề: “Chủ nghĩa kinh nghiệm phê phán và chủ nghĩa duy vật
lịch sử”, V.I. Lênin đã phê phán chủ nghĩa duy tâm của phái Ma-khơ trong lĩnh
vực xã hội, phát triển và làm giàu thêm học thuyết duy vật về lịch sử của chủ nghĩa
Mác; đồng thời, Người đã nêu lên những kết luận, phương pháp luận để tập trung
làm sáng tỏ việc giải quyết vấn đề cơ bản của triết học và một lần nữa nhấn mạnh
tính đảng trong triết học, chỉ rõ thực chất của “con đường thứ ba” trong triết học
phương Tây đương đại.
Trong phần Kết luận, với mấy dòng cô đọng trong hai trang, V.I. Lênin đã phê
phán tính chất sai lầm, thoái bộ của chủ nghĩa Ma-khơ; đồng thời, Người nêu lên
bốn quan điểm quan trọng, định hướng cho việc nhận diện và đánh giá thực chất
chủ nghĩa kinh nghiệm phê phán.
Tóm lại, nội dung tác phẩm “Chủ nghĩa duy vật và chủ nghĩa kinh nghiệm phê

phán” của V.I. Lênin đề cập đến nhiều tư tưởng cơ bản của triết học, có ý nghĩa
đặc biệt to lớn trong việc tiếp tục hoàn thiện chủ nghĩa duy vật biện chứng, đáp
ứng yêu cầu đòi hỏi được xem là nhiệm vụ quan trọng hàng đầu của cuộc đấu tranh
chống lại chủ nghĩa duy tâm triết học, nhằm bảo vệ và phát triển chủ nghĩa duy vật
triết học Mác-xít, cũng như bảo vệ và phát triển lý luận duy vật biện chứng về nhận
thức trong thời kỳ cuối thế kỷ XIX, đầu thế kỷ XX.


3. V.I. Lênin bảo vệ, phát triển chủ nghĩa duy vật mác xít trong tác phẩm
“chủ nghĩa duy vật và chủ nghĩa kinh nghiệm phê phán”.
V.I. Lênin phát triển học thuyết về vật chất: Cuộc tranh luận của V.I. Lênin
với chủ nghĩa kinh nghiệm phê phán xoay quanh luận điểm thứ nhất vấn đề cơ bản
của triết học được Người trình bày trong Chương I của tác phẩm. Sở dĩ V.I. Lênin
đề cập vấn đề này vì theo Người, sự đối lập trước tiên giữa chủ nghĩa Ma-khơ với
chủ nghĩa duy vật là ở việc giải quyết vấn đề quan hệ giữa tư duy và tồn tại, vật chất
và ý thức, tinh thần và giới tự nhiên. Vì thế, trước tiên phải trang bị cho khoa học
một màn giáo đầu về thế giới quan và phương pháp luận để họ lấy đó làm cơ sở, tiền
đề cho việc đi sâu nghiên cứu các vấn đề khác đạt hiệu quả cao hơn; đồng thời, tiếp
tục phát triển luận điểm này lên tầm cao mới vì trước đó C.Mác và Ph.Ăng-ghen chỉ
đưa ra những vấn đề căn bản chứ chưa đa ra những khái niệm cụ thể.
Điều dễ dàng nhận thấy là, thế giới quan duy tâm của E.Ma-khơ và những
người theo chủ nghĩa của ông ta bộc lộ rõ ràng trong cách hiểu về đối tượng của
nhận thức, do chịu ảnh hưởng bởi quan niệm của G. Béc-cơ-li (trước đó, khi mở
một cuộc luận chiến với những người duy vật, G. Béc-cơ-li đã nêu lên quan điểm
của mình, một quan điểm mà V.I. Lênin gọi một cách mỉa mai là “danh ngôn”,
quan điểm đó như sau: “Tôi hoàn toàn không quan niệm được rằng người ta có thể
nói đến tồn tại tuyệt đối của những vật mà không nghĩ rằng có người nào đó tri
giác được chúng. Tồn tại có nghĩa là bị tri giác”) (1). Như vậy, E.Ma-khơ đã đứng
trên lập trường duy tâm chủ quan để xem xét vấn đề vật chất, ông ta xem thế giới
vật chất như là “các yếu tố của thế giới”, mà trên thực tế là tổ hợp của các cảm

giác. Các yếu tố đó là màu sắc, mùi, vị; còn toàn bộ thế giới khách quan sinh động
thì dường như không phải là đối tượng trực tiếp của nhận thức. Thực ra, trong suy
nghĩ của mình, E.Ma-khơ không muốn dừng lại ở cái “vật chất nói chung”, mà
muốn đi tới tận cùng của “các yếu tố” tác động lên cảm giác của con người.
V.I.Lênin đặt vấn đề: Không lẽ “các yếu tố”, theo cách hiểu của Ma-khơ, là cái
(1)

V.I. Lªnin: Toµn tËp, tiÕng ViÖt, Nxb tiÕn bé, M¸txc¬va, 1980, t18, tr.16.


quyết định? Mà nếu vậy thì quyết định cái gì? Người viết: “Toàn bộ lý luận của
Ma-khơ và A-vê-na-ri-út, cái lý luận coi trái đất là một phức hợp cảm giác (“vật
thể là những phức hợp cảm giác”) hay là một “phức hợp yếu tố, trong đó cái tâm lý
đồng nhất với cái vật lý”, hay là “một vế đối lập mà vế trung tâm của nó thì không
bao giờ có thể bằng số không”, chỉ là một chủ nghĩa ngu dân triết học, tức là chủ
nghĩa duy tâm chủ quan được phát triển đến chỗ vô lý”(1).
Mặc dù phái Ma-khơ đứng trên lập trường duy tâm chủ quan để xem xét vấn
đề vật chất như đã nêu trên, song lại thích tuyên bố rằng: họ là những nhà triết học
hoàn toàn tin vào sự chứng thực của các giác quan của con người và coi thế giới
thực sự đúng như nó biểu hiện ra với con người, trên thực tế là không phải như
vậy. Về vấn đề này, V.I.Lênin chỉ rõ: “Phái Ma-khơ thực ra chỉ là những kẻ chủ
quan và bất khả tri, vì họ không tin tưởng đầy đủ vào sự chứng thực của các giác
quan của chúng ta và họ áp dụng thuyết cảm giác không được triệt để. Họ không
thừa nhận rằng thực tại khách quan, độc lập đối với con người, là nguồn gốc các
cảm giác của chúng ta. Họ không coi các cảm giác là hình ảnh đúng đắn của thực
tại khách quan đó, như vậy là họ mâu thuẫn trực tiếp với khoa học tự nhiên và mở
cửa đón chủ nghĩa tín ngưỡng”(2).
Ngược lại với những người theo quan điểm chủ nghĩa duy tâm chủ quan khi
xem xét vấn đề vật chất là những người duy vật, V.I.Lênin chỉ rõ: “Đối với người
duy vật thì thế giới lại phong phú, sinh động, có nhiều vẻ hơn là nó biểu hiện ra, vì

mỗi bước phát triển của khoa học lại phát hiện ra những khía cạnh mới của thế
giới. Đối với người duy vật, cảm giác của chúng ta là hình ảnh của thực tại khách
quan duy nhất và cuối cùng”(3). Tiếp theo đó, Người giải thích: “Cuối cùng, không
phải theo nghĩa là nó đã được nhận thức triệt để rồi, mà theo nghĩa là ngoài nó ra,
không có và không thể có một thực tại nào khác nữa. Quan điểm ấy tuyệt đối
không những không dung nạp mọi thứ chủ nghĩa tín ngưỡng mà còn không dung

(1)

V.I. Lªnin: Toµn tËp, tiÕng ViÖt, Nxb tiÕn bé, M¸txc¬va, 1980, t18, tr.85.
V.I. Lªnin: Toµn tËp, tiÕng ViÖt, Nxb tiÕn bé, M¸txc¬va, 1980, t18, tr.150.
(3)
V.I. Lªnin: Toµn tËp, tiÕng ViÖt, Nxb tiÕn bé, M¸txc¬va, 1980, t18, tr.150.
(2)

(


nạp cả triết học kinh viện lối nhà giáo nữa, một thứ triết học không thấy thực tại
khách quan là nguồn gốc của các cảm giác của chúng ta”(1).
Mặt khác, trong quá trình tranh luận của V.I.Lênin với những người theo chủ
nghĩa Ma-khơ, chủ yếu là ở Nga xung quanh sự khủng hoảng của vật lý học và
phương hướng khắc phục cuộc khủng hoảng đó, đã gợi ra vấn đề cực kỳ quan
trọng là: cần phải xác lập một cách hiểu khác với trước đây về phạm trù “vật chất”
trong triết học để tránh những khó khăn và bế tắc trước những biến đổi trong khoa
học về thực tại vật chất, do những phát minh mới trong lĩnh vực vật lý học đem lại
lúc đó. Từ gợi ý này, khi phê phán quan niệm về “vật chất đang tiêu tan”,
V.I.Lênin viết: ““Vật chất đang tiêu tan”, điều đó có nghĩa là giới hạn hiểu biết vật
chất cho đến nay của chúng ta đang tiêu tan, tri thức của chúng ta trở nên sâu sắc
hơn; những đặc tính của vật chất, trước đây được coi là tuyệt đối, bất biến, đầu tiên

(tính không thể thâm nhập được, quảng tính, khối lượng…) đang tiêu tan và bây
giờ tỏ ra là tương đối và chỉ là đặc tính vốn có của một số trạng thái nào đó của vật
chất. Vì “đặc tính” duy nhất của vật chất mà chủ nghĩa duy vật triết học là gắn liền
với việc thừa nhận đặc tính này-là cái đặc tính tồn tại với tư cách là thực tại khách
quan, tồn tại ở ngoài ý thức của chúng ta”(2).
Như vậy, từ nhu cầu khắc phục cuộc khủng hoảng trong vật lý học gắn liền
với cách hiểu mới về vật chất (bởi vấn đề vật chất, xét đến cùng cũng là một vấn
đề của nhận thức), đã trở thành động lực để V.I. Lênin nghiên cứu, đề cập đến vấn
đề nhận thức, lý giải vật chất và các phương thức tồn tại của nó; trên cơ sở đó, Người đưa ra định nghĩa hoàn chỉnh về vật chất, nhằm đáp trả hiệu quả nhất về mặt lý
luận trước những cách hiểu sai lầm về thế giới sau khi phát hiện ra điện tử.
Trung thành với học thuyết của C. Mác và Ph.Ăng-ghen, đứng vững trên lập
trường duy vật triệt để, V.I.Lênin nêu vấn đề: Nếu ta cảm thấy được thực tại khách
quan, thì phải đặt cho nó một khái niệm triết học; và khái niệm này đã được xác định
từ lâu, lâu lắm rồi, đó chính là khái niệm: “vật chất”. Từ cách đặt vấn đề như vậy,
V.I.Lênin nêu định nghĩa: “Vật chất là một phạm trù triết học dùng để chỉ thực tại
(1)
(2)

V.I. Lªnin: Toµn tËp, tiÕng ViÖt, Nxb tiÕn bé, M¸txc¬va, 1980, t18, tr.150.
V.I. Lªnin: Toµn tËp, tiÕng ViÖt, Nxb tiÕn bé, M¸txc¬va, 1980, t18, tr.321.


khỏch quan c em li cho con ngi trong cm giỏc, c cm giỏc ca chỳng ta
chộp li, chp li, phn ỏnh, v tn ti khụng l thuc vo cm giỏc(1).
T ni dung nh ngha Vt cht nh ó nờu trờn cho thy rng: V.I. Lờnin
ó a ra mt phng phỏp nh ngha hon ton mi v phm trự nn tng ny
ca ch ngha duy vt, Ngi ó nh ngha trit hc v vt cht bng cỏch ch
nờu lờn du hiu c trng nht ca phm trự ny (dựng ch thc ti khỏch
quan), ch khụng phõn tớch chi tit, mang tớnh chuyờn bit nh cỏc mụn khoa hc
c th. Vi quan nim vt cht l mt phm trự trit hc v nh ngha vt cht

thụng qua phm trự i lp vi nú l ý thc, V.I. Lờnin ó ch ra cỏi c tớnh
duy nht ca vt cht m ch ngha duy vt trit hc l gn lin vi vic tha nhn
c tớnh ny - l cỏi c tớnh tn ti vi t cỏch l hin thc khỏch quan, tn ti
ngoi ý thc ca chỳng ta(2). iu ny khụng nhng cú ý ngha to ln i vi s
phỏt trin ca ch ngha duy vt, m cũn cú ý ngha to ln i vi vic c v cỏc
nh khoa hc t nhiờn trong quỏ trỡnh khỏm phỏ th gii vt cht; ng thi, ni
dung nh ngha ú cng th hin nhng ý tng chớnh sau:
- Tha nhn cú mt thc ti khỏch quan, c em li cho chỳng ta trong cm
giỏc; khụng cú v khụng th cú cỏi no khỏc ngoi thc ti khỏch quan y (chớnh
thnh tu ca vt lý hc hin i thi gian gn õy ó b sung vo cỏch hiu ny
ni dung mi, lm cho nú sõu sc v phong phỳ hn).
- Khng nh dt khoỏt rng, núi n vt cht l núi n thc ti tn ti bờn
ngoi chỳng ta v khụng l thuc vo cm giỏc ca chỳng ta.
- Ch ra vt cht c em n cho chỳng ta trong cm giỏc, cỏc cm giỏc l
ngun gc ca nhn thc.
- Qua cỏch hiu v vt cht, V.I.Lờnin i n kt lun rng, con ngi cú th
nhn thc c th gii, qua ú cao tớnh nng ng, sỏng to ca con ngi v
chng li thuyt bt kh tri.

(1)
(2)

V.I. Lênin: Toàn tập, tiếng Việt, Nxb tiến bộ, Mátxcơva, 1980, t18, tr.151.
V.I. Lênin: Toàn tập, tiếng Việt, Nxb tiến bộ, Mátxcơva, 1980, t18, tr.321.


- Vic tha nhn tớnh cú trc ca vt cht ó hm cha cỏc yu t lch s, bi
l cỏch hiu nh th cú ngha l, trong lch s phỏt trin ca gii t nhiờn, vt cht
tn ti trc ý thc con ngi, rng trong quỏ trỡnh phỏt trin ca gii t nhiờn ó
dn hỡnh thnh b nóo con ngi, c quan ca t duy, l hỡnh thc, hay nc thang

c t chc cao ca vt cht.
Cng theo V.I.Lờnin, vt cht cú thuc tớnh c hu l vn ng, vn ng ca
vt cht din ra trong khụng gian v thi gian. iu ú l hon ton khỏch quan.
Ngi nhn mnh: Tha nhn s tn ti ca thc ti khỏch quan, ngha l ca vt
cht ang vn ng, khụng l thuc vo ý thc ca chỳng ta, ch ngha duy vt tt
nhiờn cng phi tha nhn tớnh thc ti khỏch quan ca khụng gian v thi gian,
v: Cng nh s vt hay vt th khụng phi l nhng hin tng gin n, khụng
phi l nhng phc hp cm giỏc, m l nhng thc ti khỏch quan, tỏc ng vo
giỏc quan chỳng ta, khụng gian v thi gian cng l nhng hỡnh thc khỏch quan
v thc ti ca tn ti ch khụng phi l nhng hỡnh thc gin n ca hin
tng(1). Trờn c s lp lun ú, V.I.Lờnin khng nh: Trong th gii, khụng cú
gỡ ngoi vt cht ang vn ng v vt cht ang vn ng khụng th vn ng
õu ngoi khụng gian v thi gian (2). T ni dung khng nh mt cỏch dt khoỏt
nh vy, Ngi lun gii: Tớnh kh bin ca nhng quan nim ca con ngi v
khụng gian v thi gian khụng h bỏc b tớnh thc ti khỏch quan ca khụng gian
v thi gian, cng ging nh tớnh kh bin ca nhng tri thc khoa hc v kt cu
ca vt cht v v hỡnh thc vn ng ca vt cht khụng h bỏc b tớnh thc ti
khỏch quan ca th gii bờn ngoi(3).
Phờ phỏn E.Ma-kh v nhng ngi theo ch ngha Ma-kh ó khụng chu
tha nhn tớnh thc ti khỏch quan ca khụng gian v thi gian, bng cỏch dn li
li ging gii ca Ph.ng-ghen i vi uy-rinh trc ú rng Nhng hỡnh thc
c bn ca mi tn ti l khụng gian v thi gian v mt tn ti ngoi thi gian
cng cc k vụ lý nh mt tn ti ngoi khụng gian (4), V.I.Lờnin ó khng nh
(1)

V.I. Lênin: Toàn tập, tiếng Việt, Nxb tiến bộ, Mátxcơva, 1980, t18, tr.209.
V.I. Lênin: Toàn tập, tiếng Việt, Nxb tiến bộ, Mátxcơva, 1980, t18, tr.209-210.
(3)
V.I. Lênin: Toàn tập, tiếng Việt, Nxb tiến bộ, Mátxcơva, 1980, t18, tr.210.
(4)

V.I. Lênin: Toàn tập, tiếng Việt, Nxb tiến bộ, Mátxcơva, 1980, t18, tr.211.
(2)


mt cỏch chc chn: V lý lun, ph nh tớnh thc ti khỏch quan ca khụng gian
v thi gian l h v trit hc, v trong thc tin, l u hng ch ngha tớn
ngng hoc l thỳ nhn mỡnh bt lc trc ch ngha ú(1).
chng minh cho ni dung khng nh ú, V.I.Lờnin cho rng, cng ging
nh nhng ngi theo phỏi Ma-kh ng thi, trc õy uy-rinh vỡ ó: Khụng
tha nhn tớnh thc ti khỏch quan ca khụng gian v thi gian hay ớt ra cng l
khụng tha nhn tớnh thc ti ú mt cỏch rừ rng v minh bch. Cng theo
V.I.Lờnin, chớnh vỡ th m ụng ta: Tt nhiờn, ch khụng phi tỡnh c ó ri tut
n tn nhng nguyờn nhõn cui cựng v nhng cỏi y u tiờn, vỡ ụng ta ó
t tc mt ca mỡnh cỏi tiờu chun khỏch quan ngn cn khụng cho vt ra khi
gii hn ca thi gian v khụng gian. Trờn c s ú, Ngi lp lun: Nu thi
gian v khụng gian ch l nhng khỏi nim thụi, thỡ loi ngi ó to ra nhng khỏi
nim ú, t cú quyn thoỏt ra khi gii hn ca nhng khỏi nim ú (2) v nhn xột:
Nh tng i ch ngha Ma-kh ch úng khung trong vic xem xột khỏi nim
thi gian trong nhng quan h khỏc nhau m thụi! V ngi dm chõn ti ch ht
nh uy-rinh vyHc thuyt v khụng gian v thi gian c gn lin cht ch
vi cỏch gii ỏp vn c bn ca nhn thc lun: cm giỏc ca chỳng ta l hỡnh
nh ca vt th v s vt, hay vt th l nhng phc hp cm giỏc ca chỳng ta?
Ma-kh ch ln ln gia hai cỏch gii ỏp y m thụi(3).
Nhm nờu bt phng thc tn ti ca vt cht v phờ phỏn nhng nh khoa
hc ng trờn lp trng t phỏt, siờu hỡnh ó hoang mang, dao ng, hoi nghi
tớnh ỳng n ca ch ngha duy vt bin chng trc nhng phỏt minh dn dp
ca khoa hc t nhiờn thi k ny; V.I.Lờnin ch rừ: Khoa hc t nhiờn khụng
nghi ng gỡ rng vt cht m nú nghiờn cu ch tn ti trong khụng gian ba chiu
thụi, v do ú, nhng phn t ca vt cht ú, dự nh bộ n mc ta khụng nhỡn thy c, cng vn tn ti mt cỏch tt yu trong cỏi khụng gian ba chiu ú. Trong
khong hn ba chc nm, k t 1872 tr i (nm 1872 l thi im khoa hc t nhiờn

(1)

V.I. Lênin: Toàn tập, tiếng Việt, Nxb tiến bộ, Mátxcơva, 1980, t18, tr.212.
V.I. Lênin: Toàn tập, tiếng Việt, Nxb tiến bộ, Mátxcơva, 1980, t18, tr.212.
(3)
V.I. Lênin: Toàn tập, tiếng Việt, Nxb tiến bộ, Mátxcơva, 1980, t18, tr.214.
(2)


đã tìm tòi và sơ bộ phát hiện thấy nguyên tử của điện, tức điện tử, trong không gian ba
chiều), khoảng thời gian mà khoa học đạt được những thành tựu vô cùng to lớn trong
vấn đề kết cấu của vật chất, quan điểm duy vật về không gian và thời gian vẫn “vô hại”,
nghĩa là vẫn phù hợp với khoa học tự nhiên như trước, còn quan điểm ngược lại của
Ma-khơ và đồng bọn lại là một sự đầu hàng “có hại” trước chủ nghĩa tín ngưỡng”(1).
Tiếp tục phê phán Ma-khơ và những nhà triết học Nga theo chủ nghĩa Ma-khơ
đã tỏ ra lúng túng, dao động khi họ chống lại chủ nghĩa duy tâm của những nhà
thần học và những người theo thuyết thông linh, bằng cách nhận định rằng “chỉ có
không gian ba chiều mới là không gian hiện thực, nhưng lại không thừa nhận
không gian và thời gian là thực tại khách quan”, V.I.Lênin vạch rõ: “Như vậy,
nghĩa là khi ngài cần tách khỏi những người theo thuyết thông linh thì ngài bèn
dùng cái phương pháp mượn ngầm chủ nghĩa duy vật. Vì những người duy vật
thừa nhận thế giới hiện thực, vật chất mà ta cảm biết được, là một thực tại khách
quan, nên có quyền kết luận rằng bất kỳ những điều tưởng tượng nào của con
người, không kể mục đích của những điều tưởng tượng đó là như thế nào, cũng đều
không hiện thực, nếu chúng vượt khỏi giới hạn của thời gian và không gian”(2).
Không ngoài mục đích vạch trần bản chất của những nhà triết học theo quan niệm
của chủ nghĩa kinh nghiệm phê phán đương thời, thông qua việc so sánh những người
theo chủ nghĩa Ma-khơ ở Nga và ở Anh, với những đại diện tiêu biểu là V. Ba-da-rốp
và C. Piếc-xơn; V.I. Lênin cho rằng “người theo phái Ma-khơ ở Anh đã được hoàn
toàn xác định” vì “đó là chủ nghĩa duy tâm thẳng thắn và công khai”, khi Người trích

dẫn lại quan điểm của C. Piếc-xơn là: “Chúng ta không thể khẳng định rằng không gian
và thời gian có một sự tồn tại hiện thực; không gian và thời gian không tồn tại trong sự
vật, mà tồn tại trong phương thức của chúng ta cảm biết sự vật”(3). Ngược lại, cũng theo
sự so sánh của V.I. Lênin, những người theo chủ nghĩa Ma-khơ ở Nga lại “ngây thơ
tin rằng học thuyết Ma-khơ đem lại một cách giải quyết “mới” cho vấn đề không
gian và thời gian”. Từ sự so sánh đó, Người chỉ trích: “Trong cuộc đấu tranh chống
(1)

V.I. Lªnin: Toµn tËp, tiÕng ViÖt, Nxb tiÕn bé, M¸txc¬va, 1980, t18, tr.217.
V.I. Lªnin: Toµn tËp, tiÕng ViÖt, Nxb tiÕn bé, M¸txc¬va, 1980, t18, tr.218.
(3)
V.I. Lªnin: Toµn tËp, tiÕng ViÖt, Nxb tiÕn bé, M¸txc¬va, 1980, t18, tr.219.
(2)


chủ nghĩa duy vật, các ngài phủ nhận tính thực tại khách quan của “hiện thực”, nhưng đến khi cần chống lại chủ nghĩa duy tâm triệt để, công khai và gan dạ đến
cùng thì các ngài lại lén lút du nhập tính thực tại khách quan đó trở lại”(1).
Theo V.I.Lênin, nguyên nhân dẫn đến những quan điểm sai lầm của những
người tạo ra chủ nghĩa kinh nghiệm phê phán là do họ đã dung hoà, kết hợp vô
nguyên tắc quan điểm của những nhà triết học duy tâm trước đó; đồng thời, Người
đã chỉ ra sự vô lý khi họ cứ khăng khăng cho rằng quan điểm của mình là “mới”
nhưng thật ra là đã “cũ rích”, hơn thế nữa, sự vô lý đó còn thể hiện rõ hơn khi họ
tự nhận định rằng quan điểm của họ không giống với quan điểm của những người
theo chủ nghĩa kinh nghiệm tượng trưng. Để làm rõ vấn đề này, V.I.Lênin dẫn
chứng: “Thật thế, khi Ri-lơ và La-a-xơ chỉnh lý Can-tơ theo tinh thần của Hi-um,
còn Ma-khơ và A-vê-na-ri-út lại chỉnh lý Hi-um theo tinh thần của Béc-cơ-li, như
thế há chẳng phải họ là cùng một giuộc với nhau hay sao?” (2). Từ đó, V.I.Lênin đi
đến kết luận: “Cần phải vạch ra rằng sự kết hợp, về thực chất có tính chất chiết
trung, Can-tơ với Hi-um hoặc Hi-um với Béc-cơ-li là có thể thực hiện được, có thể
nói là với những tỷ lệ khác nhau, khi thì đặc biệt nhấn mạnh nhân tố này, khi thì

nhấn mạnh nhân tố khác của sự hỗn hợp”(3).
Tóm lại, thông qua việc đấu tranh chống lại quan điểm sai trái của E. Ma-khơ
và những người theo chủ nghĩa của ông ta, vạch trần bản chất phản động trong triết
học của họ… V.I.Lênin, với trí tuệ thiên tài của mình đã đúc kết toàn bộ những
thành tựu khoa học (cả khoa học tự nhiên và khoa học xã hội) mà nhân loại đã đạt
đợc trong tiến trình lịch sử, bảo vệ và phát triển thành công những tư tưởng cơ bản
của chủ nghĩa duy vật biện chứng của triết học Mác; đặc biệt, Người đã thành công
trong việc phát triển sáng tạo học thuyết về vật chất, thông qua việc nêu lên được
định nghĩa hoàn chỉnh về phạm trù nền tảng này của chủ nghĩa duy vật, giá trị khoa
học của định nghĩa ấy đến nay vẫn còn nguyên giá trị, bởi chưa một nhà triết học
nào từ đó đến nay vượt qua được tính bền vững của nó.
(1)

V.I. Lªnin: Toµn tËp, tiÕng ViÖt, Nxb tiÕn bé, M¸txc¬va, 1980, t18, tr.218.
V.I. Lªnin: Toµn tËp, tiÕng ViÖt, Nxb tiÕn bé, M¸txc¬va, 1980, t18, tr.250.
(3)
V.I. Lªnin: Toµn tËp, tiÕng ViÖt, Nxb tiÕn bé, M¸txc¬va, 1980, t18, tr.251.
(2)


V.I.Lênin phát triển học thuyết về ý thức: Song song với việc phát triển học
thuyết về vật chất, học thuyết về ý thức, một trong hai học thuyết nền tảng của chủ
nghĩa duy vật cũng được V.I.Lênin tập trung giải quyết và phát triển trong tác
phẩm này. Người đã khởi thảo ra học thuyết phản ánh và lần đầu tiên đưa ra mối
quan hệ giữa cảm giác, ý thức, cũng như sự phản ánh của bộ não con người.
Trước tiên, thông qua việc trích dẫn lại quan điểm của Ph.Ăng-ghen đã nêu
trong tác phẩm “Lút-vích Phoi-ơ-bắc” là: “thế giới vật chất, mà chúng ta cảm biết
được bằng giác quan, mà bản thân chúng ta cũng thuộc vào đó, là thế giới duy nhất
hiện thực”, thêm nữa: “ý thức và tư duy của chúng ta, xem ra tựa hồ như là siêu
cảm giác, đều chỉ là sản phẩm của một khí quan vật chất, của một khí quan nhục

thể là bộ óc mà thôi. Vật chất không phải là sản phẩm của tinh thần, nhưng tinh
thần chỉ là sản phẩm cao cấp của vật chất mà thôi” (1). Bằng cách đó, V.I.Lênin đã
chứng minh chức năng của bộ não người là phản ánh và ý thức chính là kết quả
của sự phản ánh hiện thực vào bộ não của con người.
Đối lập hoàn toàn với quan điểm duy vật nêu trên là quan điểm duy tâm của
những nhà triết học, tạo ra và đi theo chủ nghĩa kinh nghiệm phê phán đương thời.
Đối với học thuyết sai trái R. A-vê-na-ri-út về chức năng phản ánh của bộ óc
người, V.I. Lênin nhận xét: “R. A-vê-na-ri-út không những bác bỏ luận điểm duy
vật, mà còn xây dựng cả một “lý luận” để bác bỏ chính luận điểm ấy”. Bằng chứng
rõ ràng nhất là ông ta đã nói: “óc của chúng ta không phải là nơi ở, là trụ sở của tư
duy, là kẻ sáng tạo ra tư duy, cũng không phải là công cụ hoặc khí quan của tư duy,
là kẻ chứa đựng tư duy hoặc là cơ chất… của tư duy.. Cảm giác không phải là chức
năng tâm lý của óc”(2).
Trên cơ sở dẫn chứng và nhận xét đó, V.I.Lênin khẳng định: “Như vậy là theo
R.A-vê-na-ri-út, óc không phải là khí quan của tư tưởng, tư tưởng không phải là
chức năng của óc”. Người viết tiếp và khuyên rằng: “Chúng ta hãy đọc Ăng-ghen
và chúng ta sẽ thấy ngay những công thức rõ ràng duy vật, hoàn toàn ngược lại.
Trong tác phẩm “Chống Đuy-rinh”, Ăng-ghen viết: “Tư duy và ý thức là những
(1)
(2)

V.I. Lªnin: Toµn tËp, tiÕng ViÖt, Nxb tiÕn bé, M¸txc¬va, 1980, t18, tr.97-98.
V.I. Lªnin: Toµn tËp, tiÕng ViÖt, Nxb tiÕn bé, M¸txc¬va, 1980, t18, tr.97.


sn phm ca úc con ngi. ý kin ú c nhc i, nhc li nhiu ln trong tỏc
phm y. Vt cht khụng phi l sn phm ca tinh thn, nhng tinh thn ch l
sn phm cao cp ca vt cht m thụi(1).
Vi ni dung v cỏch lp lun nhm mc ớch phờ phỏn ch ngha duy tõm
ch quan nh ó nờu trờn, V.I.Lờnin ch rừ hc thuyt ca R.A-vờ-na-ri-ỳt l: Mt

s h , nú lộn lỳt duy vt bin chng nhp cỏi m hn n duy tõm ch ngha
trỏi vi khoa hc t nhiờn, l khoa hc vn kiờn quyt ch trng rng t tng l
mt chc nng ca úc, rng cm giỏc, tc l hỡnh nh ca th gii bờn ngoi, tn
ti trong chỳng ta, do tỏc ng ca vt vo cỏc giỏc quan ca chỳng ta gõy nờn
tinh thn khụng tn ti c lp i vi th xỏc, tinh thn l cỏi cú sau, l chc nng
ca úc, l phn ỏnh ca th gii bờn ngoi v rng, R.A-vờ-na-ri-ỳt khụng cú
cỏch no khỏc ngoi vic to ra s hn hp h ch ngha duy vt vi ch ngha
duy tõm, m theo Bụ-ga-np v nhng ngi cựng cỏnh vi ụng ta thỡ ú li l
mt chõn lý ngoi ch ngha duy vt v ch ngha duy tõm(2).
Cng vi tinh thn u tranh ú, khi phờ phỏn lun im v ngun gc ca
nhn thc ca Bụ-ga-np - mt ngi t nhn mỡnh l ngi Mỏc-xớt, khụng chu
t nhn l ngi theo phỏi Ma-kh, nhng thc ra quan im ca ụng ta ó bt
ngun t chớnh nhng nn múng ca ch ngha kinh nghim phờ phỏn, vỡ ụng ta ó
tha nhn trờn i ch cú cm giỏc (theo quan im ca A-vờ-na-ri-ỳt) v vt
th l nhng phc hp cm giỏc (theo quan im ca Ma-kh); V.I.Lờnin ó
thng thn ch rừ, nu theo quan nim ca Bụ-ga-np: Thỡ rừ rng l chỳng ta
ang ng trc mt ch ngha ch quan trit hc khụng th khụng dn n ch
ph nh chõn lý khỏch quan Nh vy, l h ng trờn quan im ca thuyt
kinh nghim (mi hiu bit u do kinh nghim m ra) hay ca thuyt cm giỏc
(mi hiu bit u t cm giỏc m ra). Nhng quan im ny khụng h xoỏ b s
khỏc nhau gia nhng khuynh hng trit hc c bn l ch ngha duy tõm v ch
ngha duy vt, m trỏi li, nú dn n ch khỏc nhau y, dự ngi ta cú trang sc cho
nú bng mt t ng mi (yu t) nh th no i na. C ngi duy ngó, tc l
(1)
(2)

V.I. Lênin: Toàn tập, tiếng Việt, Nxb tiến bộ, Mátxcơva, 1980, t18, tr.97-98.
V.I. Lênin: Toàn tập, tiếng Việt, Nxb tiến bộ, Mátxcơva, 1980, t18, tr.101.



người duy tâm chủ quan, cũng như người duy vật đều có thể cho cảm giác là nguồn
gốc sản sinh ra các hiểu biết của chúng ta” (1). Từ đó, V.I.Lênin lập luận: “Tất cả các
hiểu biết đều bắt nguồn từ kinh nghiệm, từ các cảm giác, tri giác. Đúng. Nhưng thử
hỏi, thực tại khách quan có “thuộc về tri giác” không? Nếu trả lời là có thì anh là
người duy vật. Nếu trả lời là không thì anh là không triệt để và tất nhiên anh sẽ đi
đến chủ nghĩa chủ quan, đến thuyết bất khả tri, dù anh có phủ định tính có thể nhận
thức được vật tự nó, phủ định tính khách quan của thời gian, của không gian và của
tính nhân quả (như Can-tơ), hoặc là không thừa nhận đến cả cái ý niệm về vật tự nó
(như Hi-um), thì cũng vẫn thế thôi. Tính không triệt để của chủ nghĩa kinh nghiệm
của anh, trong trường hợp này, sẽ là ở chỗ anh phủ định nội dung khách quan của
kinh nghiệm, chân lý khách quan trong nhận thức kinh nghiệm”(2).
Nhận xét một cách tổng quát quan điểm của những nhà triết học theo chủ
nghĩa Ma-khơ ở Nga, V.I. Lênin chỉ rõ: “Đó không phải là một triết học mà là một
mớ những từ được ghép hổ lốn lại với nhau mà thôi”. Người hóm hỉnh so sánh:
“Đối với chuột thì không có con thú nào mạnh hơn mèo. Đối với phái Ma-khơ ở
Nga thì không có nhà duy vật nào mạnh hơn Plê-kha-nốp…Vì phái Ma-khơ đều sợ
thừa nhận chân lý. Họ đấu tranh chống chủ nghĩa duy vật, nhưng lại giả làm như
chỉ đấu tranh chống Plê-kha-nốp thôi: đó là một thủ đoạn khiếp nhược và vô
nguyên tắc”(3).
Tóm lại, quá trình phê phán nhận thức luận duy tâm của Ma-khơ và những
người theo chủ nghĩa Ma-khơ, đồng thời phát triển học thuyết về ý thức của triết
học Mác, V.I. Lênin đã nêu ra một tiên đoán khoa học chính xác, dẫn đến sự ra đời
của học thuyết phản ánh mang tên ông, đó là tiên đoán về đặc tính phản ánh của
mọi dạng vật chất. Học thuyết này không những làm phong phú thêm nhận thức
luận duy vật biện chứng mà còn có ý nghĩa rất to lớn đối với sự phát triển của khoa
học công nghệ hiện đại.

(1)

V.I. Lªnin: Toµn tËp, tiÕng ViÖt, Nxb tiÕn bé, M¸txc¬va, 1980, t18, tr.146-147.

V.I. Lªnin: Toµn tËp, tiÕng ViÖt, Nxb tiÕn bé, M¸txc¬va, 1980, t18, tr.148.
(3)
V.I. Lªnin: Toµn tËp, tiÕng ViÖt, Nxb tiÕn bé, M¸txc¬va, 1980, t18, tr.96.
(2)


V.I. Lênin phát triển học thuyết về mối quan hệ vật chất, ý thức: Xét một cách
tổng thể, sai lầm của chủ nghĩa duy tâm chủ quan, hay thuyết duy ngã, theo V.I.Lênin
là ở chỗ, họ không xem xét mối quan hệ giữa vật chất và ý thức trong lịch sử phát
triển lâu dài của thế giới vật chất, của toàn bộ vũ trụ. Để chứng minh cho điều này,
V.I.Lênin đã dẫn ra quan điểm của E.Ma-khơ: “Đối với chúng tôi, vật chất không
phải là cái có trước. Nói cho đúng ra, cái có trước ấy chính là những yếu tố (mà người
ta thường gọi là cảm giác theo một ý nghĩa xác định nào đó)”. Theo V.I.Lênin: “Vậy
là chỗ khác nhau giữa chủ nghĩa duy vật và “chủ nghĩa duy tâm Ma-khơ” trong vần
đề này chung quy là như sau đây. Chủ nghĩa duy vật hoàn toàn nhất trí với khoa học
tự nhiên, coi vật chất là cái có trước, coi ý thức, tư duy, cảm giác là cái có sau, vì cảm
giác, trong hình thái rõ rệt của nó, chỉ gắn liền với những hình thái cao của vật chất
(vật chất hữu cơ), và người ta chỉ có thể giả định là “trên nền móng của bản thân lâu
đài vật chất” có sự tồn tại của một năng lực giống như cảm giác”(1).
Chủ nghĩa duy vật thể hiện quan điểm ngược lại với chủ nghĩa duy tâm, đồng
thời vạch ra những hạn chế của nó. Theo V.I.Lênin thì: “Vật chất gây nên cảm giác
bằng cách tác động vào giác quan của chúng ta. Cảm giác phụ thuộc vào óc, thần
kinh, võng mạc… nghĩa là vào vật chất được tổ chức theo một cách thức nhất định.
Sự tồn tại của vật chất không lệ thuộc vào cảm giác. Vật chất là cái có trước. Cảm
giác, tư tưởng, ý thức là sản phẩm cao nhất của vật chất được tổ chức theo một
cách thức đặc biệt”(2) và: “Cảm giác của chúng ta, ý thức của chúng ta chỉ là hình
ảnh của thế giới bên ngoài; và dĩ nhiên là nếu không có cái bị phản ánh thì không
thể có cái phản ánh, nhưng cái bị phản ánh tồn tại một cách độc lập đối với cái
phản ánh”(3).
Thông qua khẳng định quan điểm của mình và chỉ ra hạn chế của chủ nghĩa

duy tâm, V.I. Lênin dẫn chứng: “Các nhà khoa học tự nhiên khẳng định một cách
tích cực rằng trái đất đã từng tồn tại trong một trạng thái chưa có và cũng không

(1)

V.I. Lªnin: Toµn tËp, tiÕng ViÖt, Nxb tiÕn bé, M¸txc¬va, 1980, t18, tr.43.
V.I. Lªnin: Toµn tËp, tiÕng ViÖt, Nxb tiÕn bé, M¸txc¬va, 1980, t18, tr.56.
(3)
V.I. Lªnin: Toµn tËp, tiÕng ViÖt, Nxb tiÕn bé, M¸txc¬va, 1980, t18, tr.74.
(2)


th cú loi ngi hay bt c mt sinh vt no núi chung c. Vt cht hu c l mt
hin tng v sau mi cú, l kt qu ca mt s phỏt trin lõu di(1).
Cng vi tinh thn ú, khi phờ phỏn quan im ca C.Pic-xn, mt ngi
Anh theo phỏi E.Ma-kh, V.I.Lờnin ó nhn xột: Pic-xn ó mt ht bỡnh tnh
khi ụng ta cụng kớch khỏi nim vt cht, coi nh mt cỏi gỡ tn ti c lp i vi
tri giỏc cm tớnh ca chỳng ta Khi lp li tt c nhng lun c ca Bộc-c-li,
Pic-xn tuyờn b vt cht l h vụ Pic-xn ó i n mt s ln ln khụng th
tha th c! Vt cht ch l nhng nhúm tri giỏc cm tớnh; ú l tin ca ụng
ta; ú l trit hc ca ụng ta. Nh th cú ngha l cm giỏc v t tng u l
nhng cỏi cú trc, cũn vt cht l cỏi cú sau. Ngi dt khoỏt khng nh:
Khụng, khụng cú vt cht v thm chớ hỡnh nh khụng cú h thn kinh thỡ khụng
cú ý thc! Núi mt cỏch khỏc, ý thc v cm giỏc l cỏi cú sau(2).
Sau khi ch ra vic Ba-da-rp ó sa cha ng-ghen, V.I.Lờnin nờu vn
v nhn xột: Vy õu l ch khỏc nhau gia quan im ca ngi bt kh tri, nh
ng-ghen ó trỡnh by, v quan im ca Ma-kh? Phi chng s khỏc nhau l
cỏi danh t mi, tc l danh t yu t? Nhng tht l hon ton tr con nu
cho rng thut ng cú th thay i c ng li trit hc; rng cm giỏc c
gi l yu t thỡ khụng cũn l cm giỏc nav: ỏng l phi vt b cỏi quan

im c bn na vi ca cỏc ngi i thỡ cỏc ngi ch sa cha chỳt nh v thay i
thut ng, cỏc ngi ch mi git cht mt con rp thụi!(3)
Bng cỏch dn li quan im ca Ph.ng-ghen khi Ngi ó tng cụng khai
v kiờn quyt bỏc b nhng lý l ca thuyt bt kh tri, V.I.Lờnin nhn mnh:
Nh vy l õy, lý lun duy vt, lý lun cho rng t tng l phn ỏnh ca i
tng ó c trỡnh by ht sc rừ rng: s vt tn ti ngoi chỳng ta. Tri giỏc v
biu tng ca chỳng ta l hỡnh nh ca cỏc vt ú. Chỳng ta da vo thc tin m
kim tra cỏc hỡnh nh y v phõn bit nhng hỡnh nh ỳng vi hỡnh nh sai. Tip
theo ú, V.I. Lờnin dn chng vic L.Phoi--bc ó p ỳng ch him ca
(1)

V.I. Lênin: Toàn tập, tiếng Việt, Nxb tiến bộ, Mátxcơva, 1980, t18, tr.81.
V.I. Lênin: Toàn tập, tiếng Việt, Nxb tiến bộ, Mátxcơva, 1980, t18, tr.104.
(3)
V.I. Lênin: Toàn tập, tiếng Việt, Nxb tiến bộ, Mátxcơva, 1980, t18, tr.124-125.
(2)


những nhà triết học duy tâm khi họ cho rằng biểu tượng cảm tính cũng chính là
hiện thực ở ngoài chúng ta và họ chỉ đứng trên phương diện lý luận mà đặt và giải
quyết vấn đề về tính khách quan và tính chủ quan, tính hiện thực hay tính không
hiện thực của thế giới, Người khẳng định: “Quan điểm về đời sống, về thực tiễn
phải là quan điểm thứ nhất và cơ bản của lý luận về nhận thức…, quan điểm đó tất
nhiên dẫn đến chủ nghĩa duy vật” và đi đến kết luận: “Từ ý kiến của những người
Mác-xít cho rằng lý luận của Mác là chân lý khách quan, người ta chỉ có thể rút ra
một kết luận duy nhất là: đi theo con đường mà lý luận của Mác vạch ra thì chúng
ta ngày càng đi đến gần chân lý khách quan (tuy không bao giờ có thể nắm hết
được); nếu đi theo bất cứ con đường nào khác, chúng ta chỉ có thể đi đến sự lẫn lộn
và dối trá”(1).
Thông qua việc vạch trần thủ đoạn của những nhà triết học theo chủ nghĩa

Ma-khơ (người thì công khai, kẻ thì che giấu) đã tìm mọi cách thay đổi đường lối
triết học cơ bản của chủ nghĩa duy vật (từ tồn tại đến tư duy, từ vật chất đến cảm
giác) bằng một đường lối đối lập là chủ nghĩa duy tâm, V.I. Lênin cho rằng: “Việc
họ phủ nhận vật chất là cái cách rất cũ thường được dùng để giải quyết những vấn
đề của lý luận về nhận thức bằng cách phủ nhận nguồn gốc bên ngoài, khách quan
của cảm giác của chúng ta”. Người tiếp tục khẳng định: “Việc thừa nhận đường lối
triết học mà các nhà duy tâm và bất khả tri phủ nhận thì trái lại được diễn đạt bằng
những định nghĩa sau đây: vật chất là cái tác động vào giác quan của chúng ta, thì
gây ra cảm giác; vật chất là một thực tại khách quan được đem lại cho chúng ta
trong cảm giác…”. Tiếp theo đó, V.I. Lênin phê phán Bô-gđa-nốp tìm cách “phớt
lờ một cách hèn nhát” quan điểm của Ph.Ăng-ghen khi rằng, khuynh hướng của
chủ nghĩa nhất nguyên khi giải quyết vấn đề cơ bản của triết học là: “Đối với
khuynh hướng này trong triết học thì vật chất là cái có trước và tinh thần là cái có
sau, còn đối với khuynh hướng kia thì ngược lại”. Người chỉ rõ: “Về thực chất,
không thể đem lại cho hai khái niệm nhận thức này một định nghĩa nào khác ngoài
cách chỉ rõ rằng trong hai khái niệm đó, cái nào được coi là có trước”.
(1)

V.I. Lªnin: Toµn tËp, tiÕng ViÖt, Nxb tiÕn bé, M¸txc¬va, 1980, t18, tr.167-168.


V.I.Lờnin lý gii bng cỏch t vn v tr li khi thụng qua cỏch nh ngha
cỏc phm trự nn tng ca ch ngha duy vt xỏc nh mi quan h ca chỳng,
Ngi vit: Th no l a ra mt nh ngha? iu ú trc ht cú ngha l em
mt khỏi nim no ú quy vo mt khỏi nim khỏc rng hn Bõy gi th hi
trong nhng khỏi nim m lý lun nhn thc cú th s dng, cú nhng khỏi nim
no rng hn nhng khỏi nim: tn ti v t duy, vt cht v cm giỏc, cỏi vt lý
v cỏi tõm lý, hay khụng? Khụng cú. ú l nhng khỏi nim rng n cựng cc,
rng nht, m cho n nay, thc ra nhn thc lun vn cha vt qua c (tr khi
cú nhng s thay i luụn luụn cú th xy ra v mt thut ng). Ch cú bp bm

hay ngu xun n cc mi cú th ũi hi cho hai lot khỏi nim rng n
cựng cc ú, mt nh ngha no khỏc, ngoi s lp li gin n: cỏi ny hay
cỏi kia phi c coi l cú trc(1). Tip theo ú, Ngi phờ phỏn ba lp lun tiờu
biu ca nhng ngi sỏng lp v theo ch ngha Ma-kh v vt cht v kt lun:
Quy li l: nhng nh trit hc ú i t cỏi tõm lý, hay t cỏi tụi, n cỏi vt lý
hay hon cnh, nh i t v trung tõm n v i lp, hoc i t cm giỏc n vt
cht, hay i t tri giỏc cm tớnh n vt cht Ch cn t vn cho rừ l cú th
hiu c rng phỏi Ma-kh ó ri vo ch ht sc vụ lý bit chng no, khi h
ũi hi nhng ngi duy vt phi a ra mt nh ngha v vt cht m khụng c nhc li rng vt cht, gii t nhiờn, tn ti, cỏi vt lý u l cỏi cú trc, cũn
tinh thn, ý thc, cm giỏc, cỏi tõm lý l cỏi cú sau(2).
Vn nhn mnh õy l, khi xem xột mi quan h gia vt cht v ý thc,
dng nh V.I.Lờnin cm thy quan im ca ụng cú nguy c b tm thng hoỏ
bi nhng nh trit hc phi Mỏc-xớt, bng cỏch h em i lp mt cỏch siờu hỡnh
hai phm trự ny vi nhau; vỡ th, trong tỏc phm, Ngi vit: ng nhiờn, s
i lp gia vt cht v ý thc ch cú ý ngha tuyt i trong nhng phm vi ht
sc hn ch: trong trng hp ny, ch gii hn trong vn nhn thc lun c bn
l tha nhn cỏi gỡ l cỏi cú trc v cỏi gỡ l cỏi cú sau? Ngoi gii hn ú, thỡ

(1)
(2)

V.I. Lênin: Toàn tập, tiếng Việt, Nxb tiến bộ, Mátxcơva, 1980, t18, tr. 171-172.
V.I. Lênin: Toàn tập, tiếng Việt, Nxb tiến bộ, Mátxcơva, 1980, t18, tr.172.


không còn nghi ngờ gì nữa rằng sự đối lập đó là tương đối”1. Nội dung nhấn mạnh
này không những đưa chủ nghĩa duy vật Mác-xít vượt qua chủ nghĩa duy vật trực
quan trước đó, mà còn ngăn ngừa được những sai lầm sau này trong việc giải thích
những vấn đề cơ bản của triết học.
Tóm lại, thông qua cuộc đấu tranh với quan điểm duy tâm chủ quan của Makhơ và những người theo chủ nghĩa của ông ta, V.I.Lênin không những phát triển

học thuyết về vật chất, ý thức - hai học thuyết nền tảng của chủ nghĩa duy vật, mà
còn giải quyết đúng đắn mối quan hệ giữa chúng. Như vậy, thông qua tác phẩm
kinh điển này, V.I.Lênin đã bảo vệ và phát triển thành công những vấn đề cơ bản
của triết học Mác, trong đó có việc phát triển luận điểm thứ nhất của vấn đề cơ bản
của triết học này một cách trọn vẹn.
4. ý nghĩa đối với cuộc đấu tranh trong lĩnh vực tư tưởng lý luận hiện nay
Từ vấn đề nghiên cứu trong tác phẩm “Chủ nghĩa duy vật và chủ nghĩa kinh
nghiệm phê phán” cho thấy rằng: V.I.Lênin đã có công lao to lớn trong việc tiếp
tục phát triển triết học Mác-xít, đã giải đáp đúng đắn vấn đề cơ bản trong triết học
mà lịch sử đang đặt ra lúc đó, đã khái quát trên phương diện triết học, những thành
tựu mới nhất của khoa học tự nhiên; đồng thời, Người đã phê phán toàn diện triết
học duy tâm tư sản phản động và chủ nghĩa xét lại trong triết học. Chính vì thế,
đây là một trong những tác phẩm kiểu mẫu về tính đảng trong cuộc đấu tranh
chống lại kẻ thù của chủ nghĩa Mác dưới mọi hình thức, tính đảng ấy đã được kết
hợp hữu cơ với tinh thần cách mạng nồng nhiệt và tính khoa học sâu sắc.
Cũng thông qua nghiên cứu vấn đề này đã chứng tỏ rằng, những tư tưởng và
những vấn đề được V.I.Lênin trình bày trong tác phẩm là hết sức phong phú. Theo
sự vận động của thực tiễn, những nội dung đó cần được kế thừa và phát triển cho
phù hợp. Mặt khác, tác phẩm đã trang bị cho những người Mác-xít một thế giới
quan và phương pháp luận khoa học, cũng như một bài học quý giá, một sự mẫu
1

V.I. Lªnin: Toµn tËp, tiÕng ViÖt, Nxb tiÕn bé, M¸txc¬va, 1980, t18, tr.173.


mực về sự cần thiết phải tiếp tục mài sắc hơn nữa vũ khí tư tưởng của giai cấp
công nhân để tiến hành đấu tranh có hiệu quả mọi âm mưu xét lại, phủ định và bài
xích chủ nghĩa Mác nói chung, triết học Mác nói riêng; chống lại những quan điểm
duy tâm và siêu hình, tiếp tục bảo vệ và phát triển những nguyên lý cơ bản của triết
học Mác lên tầm cao mới, nhất là mỗi khi khoa học có được những phát minh mới

có khả năng làm thay đổi và đặt ra yêu cầu phải bổ sung những nhận thức đã có.
Tác phẩm “chủ nghĩa duy vật và chủ nghĩa kinh nghiệm phê phán” của Lênin
là tác phẩm kinh điển kiểu mẫu về tính đảng Bônsêvích, về phương pháp luận luận
chiến trong đấu tranh chống kẻ thù của chủ nghĩa Mác cũng như trong cuộc đấu
tranh chống trào lưu triết học tư sản phản động ngày nay, nguyên lý của chủ nghĩa
duy vật biện chứng đến nay vẫn còn nguyên giá trị.
Nắm vững nội dung trong tác phẩm còn có ý nghĩa quan trọng trong cuộc đấu
tranh trên lĩnh vực tư tưởng lý luận, bảo vệ và phát triển chủ nghĩa Mác - Lênin
trong tình hình hiện nay.
Trong giai đoạn hiện nay, nhất là từ khi chủ nghĩa xã hội ở Liên Xô và các
nước Đông Âu thoái trào. Một số người trước đây vốn tin tưởng vào chủ nghĩa
Mác - Lênin, vào chủ nghĩa xã hội nay cũng bị ngả nghiêng, chao đảo trước những
thử thách khắc nghiệt của lịch sử. Tình hình đó đã tạo lợi thế cho các thế lực chống
cộng tấn công chủ nghĩa Mác - Lênin và chủ nghĩa xã hội. Chúng luôn luôn lấy sự
sụp đổ của chế độ xã hội chủ nghĩa ở Liên Xô và Đông Âu để cố chính minh rằng,
chủ nghĩa Mác - Lênin đã lỗi thời, lạc hậu cần từ bỏ, rằng chủ nghĩa xã hội chỉ là
không tưởng, là một bước đi chệch hướng tạm thời của lịch sử do sự áp đặt chủ
quan của các Đảng Cộng sản nên không thể tồn tại được, mà chỉ có chủ nghĩa tư
bản là có sức sống, vì nó luôn luôn thích nghi với thời đại. Ngay kể cả ở Việt Nam
cũng có một số người đưa ra những lập luận phản bác chủ nghĩa Mác - Lênin, trái
với đường lối quan điểm của Đảng. Chính vì vậy, hơn lúc nào hết chúng ta phải
phê phán, đấu tranh kiên quyết, không khoan nhượng với những quan điểm phản
động đó, bảo vệ sự trong sáng và phát triển chủ nghĩa Mác - Lênin; bảo vệ quan
điểm, đường lối đúng đắn của Đảng trong công cuộc đổi mới hiện nay.


Sự sụp đổ chủ nghĩa xã hội ở Liên Xô và các nước Đông Âu có nhiều
nguyên nhân, trong đó có nguyên nhân là do Đảng Cộng sản cầm quyền ở đó
sa vào giáo điều, chủ quan, bảo thủ, sai lầm về đường lối, Đảng Cộng sản bị
thoái hoá biến chất, trước hết trong giới lãnh đạo cấp cao của Đảng, đã hướng

công cuộc cải tổ của họ đi chệch mục tiêu xã hội chủ nghĩa, phản lại chủ nghĩa
Mác - Lênin. Nếu Đảng cộng sản cầm quyền ở đó mà thật sự trong sạch, vững
mạnh, trung thành và biết vận dụng và phát triển sáng tạo chủ nghĩa Mác Lênin phù hợp với thực tiễn cách mạng của nước mình thì các thế lực thù địch
không thể thực hiện được chiến lược “Diễn biến hoà bình” của chúng. Có thể
khẳng định rằng sự thất bại đó là sự thất bại của việc xa rời chủ nghĩa Mác Lênin chứ không phải là sự lỗi thời của chủ nghĩa Mác - Lênin, của chủ nghĩa
xã hội như bọn phản động lập luận.
Còn chủ nghĩa tư bản không thể tồn tài vĩnh viễn được. Hiện nay, chúng còn
thích nghi là vì chúng lợi dụng sự phát triển của khoa học - kỹ thuật và công nghệ
mới, đã làm cho hiện tượng sản xuất đạt đến trình độ xã hội hoá cao, dẫn đến quá
trình toàn cầu hoá kinh tế, dưới sự chi phối của các tập đoàn tư bản lũng đoạn
xuyên quốc gia. Bản thân quan hệ sản xuất tư bản chủ nghĩa cũng có những biến
đổi để thích nghi, với sự phát triển của lực lượng sản xuất làm nảy sinh những
nhân tố trái với chính nó như là những mầm mống của xã hội tương lai (chế độ “
sở hữu cổ phần”, “dân chủ hoá” quản lý và “tham dự lợi nhuận” của những người
lao động làm thuê…). Thực tế đó đã được phản ảnh dưới hình thức méo mó, xuyên
tạc trong các mô hình xã hội của các nhà tương lai học Phương Tây như “chủ
nghĩa tư bản nhân dân”, “chủ nghĩa tư bản của những người lao động”, “xã hội hậu
công nghiệp”...
Khi quan hệ sản xuất tư bản chủ nghĩa không còn thích nghi với lực lượng sản
xuất, đạt đến trình độ xã hội hoá rất cao, và giai cấp công nhân trí thức đã tr ưởng
thành, thì họ sẽ gánh lấy sứ mệnh lịch sử của mình đưa chủ nghĩa tư bản quá độ lên
chủ nghĩa xã hội.


×