Tải bản đầy đủ (.doc) (85 trang)

ĐỀ CƯƠNG CHI TIẾT ôn THI CAO học TRIẾT KHÔNG CHUYÊN đầu vào

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (540.37 KB, 85 trang )

ĐỀ CƯƠNG ÔN THI CAO HỌC TRIẾT HỌC MÁC – LÊ NIN .
Triết học ( philosophia theo tiếng Hy Lạp cổ là tình yêu và sự thông
thái. Bản thân khái niệm “thông thái”) của người cổ đã chứa đựng một ý nghĩa
cao cả, đối lập với suy nghĩ thông thường. Nó hàm chứa khát vọng trí tuệ của con
người hiểu thế giới như một chỉnh thể, dựa trên một nền tảng thống nhất. Nó không
phải thể hiện sự hiểu biết về những sự vật cá biệt, mà đem lại những tri thức mang
tính khái quát trí tuệ về thế giới, về bản chất cuộc sống con người, về số phận cũng
như mục đích cuộc đời con người…
Giá trị của sự thông thái được thể hiện ở chỗ nó đem lại cho con người
những cách giải quyết đúng đắn những vấn đề do cuộc sống đặt ra.. còn đề cương
triết học không có mục đích nào khác nó giúp cho bạn thi tốt hơn và đỗ cao học
điều mà tất cả chúng ta đều mong muốn.
Xin chúc bạn thành công.

BEST WISH FOR YOU!
ĐỀ CƯƠNG ÔN THI ÔN CAO HỌC TRIẾT HỌC
MÁC- LÊ NIN NĂM 2010.
Triết học Mác - Lênin là một trong ba bộ phận cấu thành chủ nghĩa Mác và
là hạt nhân thế giới quan, phương pháp luận của chủ nghĩa Mác - Lênin. Nghiên
cứu triết học Mác - Lênin góp phần hình thành thế giới quan, nhân sinh quan,
phương pháp luận khoa học và cách mạng trong nhận thức và hoạt động thực tiễn.
Trên cơ sở đó đấu tranh phê phán các tư tưởng, quan điểm sai trái trên lĩnh vực tư
tưởng, lý luận nhất là trong tình hình hiện nay.
NỘI DUNG
I. TRIẾT HỌC LÀ GÌ. VẤN ĐỀ CƠ BẢN CỦA TRIẾT HỌC
1. Triết học là gì: Triết học ra đời vào khoảng thế kỷ VIII – VI TCN ở cả
phương Đông lẫn phương Tây.
Quan niệm triết học của người Phương Đông: Triết học theo gốc từ
chữ Hán là sự truy tìm bản chất của đối tượng, là sự hiểu biết sâu sắc của con
người, đi đến đạo lý của sự vật. Theo người Ấn Độ, triết học là darshana. Điều đó
có nghĩa là sự chiêm ngưỡng dựa trên lý trí, là con đường suy ngẫm để dẫn dắt con


người đến với lẽ phải.
Quan niệm triết học của người Phương Tây: Theo chữ Hy Lạp, triết
học là philosophia, có nghĩa là yêu thích sự thông thái. Nhà triết học được coi là
nhà thông thái, có khả năng nhận thức được chân lý, làm sáng tỏ được bản chất của
sự vật.
Sự thống nhất trong quan niệm chung của Phương Đông lẫn Phương
Tây. Khi triết học ra đời, đều coi triết học là đỉnh cao của trí tuệ, là sự nhận thức
1


sâu sắc về thế giới, đi sâu nắm bắt được chân lý, được quy luật, được bản chất của
sự vật.
* Triết học là hệ thống những quan điểm, quan niệm chung nhất của con
người về thế giới, là thế giới quan, phương pháp luận của một giai cấp hay của
một lực lượng xã hội nhất định và vị trí, vai trò của con người trong thế giới đó.
- Triết học là hệ thống những quan điểm, quan niệm chung nhất của
con người về thế giới. (Bao gồm tự nhiên, xã hội và cả tư duy).
- Triết học là thế giới quan, phương pháp luận của một giai cấp, một
lực lượng xã hội nhất định.
- Triết học nhằm làm rõ vai trò, vị trí của con người trong thế giới.
* Điều kiện ra đời của triết học. 2 điều kiện.
- Về kinh tế.
- Về xã hội.
2. Vấn đề cơ bản của triết học.
Theo Ph.Ăngghen thì vấn đề cơ bản của triết học là vấn đề về mối
quan hệ giữa tư duy và tồn tại, hay mối quan hệ giữa vật chất và ý thức.
Vấn đề cơ bản của triết học gồm 2 mặt:
- Thứ nhất: Trong mối quan hệ đó triết học phải trả lời câu hỏi giữa vật
chất và ý thức cái nào có trước, cái nào có sau, cái nào quyết định cái nào. Tuỳ vào câu
trả lời mà triết học được chia thành 2 trường phái chính là duy vật và duy tâm.

Ngoài hai trường phái trên trong triết học không có trường phái thứ 3.
Bởi phái nhị nguyên luận chẳng qua cũng chỉ là chủ nghĩa duy tâm mà thôi.
- Thứ hai: Con người có khả năng nhận thức thế giới không. Trả lời câu
hỏi này trong triết học chia thành 2 khuynh hướng là khả tri và bất khả tri.
3. Phương pháp biện chứng và phương pháp siêu hình trong triết
học
Trong quá trình lý giải về thế giới và sự tồn tại của nó triết học đã chia
thành 2 trường phái, 2 khuynh hướng và có hai phương pháp trong nhận thức và cải
tạo thế giới, đó là phương pháp biện chứng và phương pháp siêu hình.
* Phương pháp biện chứng.
- Thế nào là phép biện chứng: Phép biện chứng là khoa học về những quy
luật phổ biến của sự vận động và sự phát triển của tự nhiên, của xã hội loài người
và của tư duy. Trong tác phẩm Biện chứng của tự nhiên, Ph. Ănghen định nghĩa:
“ Phép biện chứng là khoa học về sự liên hệ phổ biến” Ở một góc độ
khác, trong Chống Đuy rinh, Ph.Ănghen viết: “ Nhưng phép biện chứng chẳng qua
chỉ là môn khoa học về những quy luật phổ biến của sự vận động và sự phát triển
của tự nhiên, của xã hội loài người và của tư duy.”
Lênin trong tác phẩm Bút ký triết học viết: “ Có thể định nghĩa vắn tắt phép
biện chứng là học thuyết về sự thống nhất của các mặt đối lập. Như thế là nắm
được hạt nhân của phép biện chứng, nhưng đó đòi hỏi phải có những sự giải thích
mâu và một sự phát triển thêm.”
- Thế nào là phương pháp biện chứng: “ Xem xét những sự vật và những
phản ánh của chúng trong tư tưởng trong mối liên hệ qua lại lẫn nhau của
chúng, trong sự ràng buộc, sự vận động, sự phát sinh và sự tiêu vong của
chúng”.
Ănghen nêu lên: “điều căn bản’’ của phương pháp biện chứng là xem
xét những sự vật và những phản ánh của chúng trong tư tưởng trong mối liên hệ
2



qua lại lẫn nhau của chúng, trong sự ràng buộc, sự vận động, sự phát triển sinh và
sự tiêu vong của chúng”. Với một tư duy mền dẻo và linh hoạt.
Phép biện chứng đã trải qua 3 hình thức cơ bản:
+ Phép biện chứng tự phát, ngây thơ
+ Phép biện chứng duy tâm
+ Phép biện chứng duy vật
* Phương pháp siêu hình.
- Thế nào là phép siêu hình: Lại xem xét sự vật, hiện tượng, quá trình trong
trạng thái biệt lập, ngưng đọng, giữa chúng không có liên hệ gì với nhau, nếu có
liên hệ cũng chỉ là bề ngoài.”
C.Mác và Ănghen “ quan điểm siêu hình chỉ nhìn thấy những vật riêng biệt
ấy mà không nhìn thấy mối liên hệ qua lại giữa những vật ấy, chỉ nhìn thấy những
sự phát sinh và sự tiêu vong của những vật ấy, chỉ nhìn thấy trạng thái tĩnh của
những sự vật ấy mà quên mất sự vận động của những sự vật ấy, chỉ nhìn thấy cây
mà không thấy rừng.”
- Biện chứng khách quan và biện chứng chủ quan:
+ Biện chứng khách quan: là cái vốn có của bản thân sự vật, hiện tượng, quá
trình, tồn tại độc lập với ý thức của con người.
+ Biện chứng chủ quan: là sự phản ánh biện chứng khách quan (biện
chưungs của sự vật, hiện tượng, quá trình) vào trong đầu óc của con người.
Tóm lại: Vấn đề cơ bản của triết học … và việc giải quyết nó dẫn đến
tồn tại 2 trường phái, 2 khuynh hướng, 2 phương pháp đối lập nhau trong lịch sử triết
học. Cuộc đấu tranh giữa 2 trường phái là nội dung cơ bản xuyên suốt trong lịch sử
triết học. Nghiên cứu vấn đề này có ý nghĩa cực kỳ quan trọng với chúng ta trong
cuộc đấu tranh chống lại các tư tưởng sai trái, phản động hiện nay.
II. ĐỐI TƯỢNG, CHỨC NĂNG CỦA TRIẾT HỌC MÁC - LÊNIN
1. Khái niệm triết học Mác - Lênin
* Triết học Mác – Lênin là hệ thống quan điểm duy vật biện chứng về
tự nhiên, xã hội và tư duy, thế giới quan và phương pháp luận khoa học, cách
mạng của giai cấp công nhân và nhân dân lao động trong nhận thức và cải tạo thế

giới.
- Triết học Mác – Lênin là sự thống nhất hữu cơ giữa chủ nghĩa duy
vật và phép biện chứng duy vật. Triết học Mác – Lênin là triết học duy vật biện
chứng.
- Triết học Mác – Lênin là kết quả của sự kế thừa và phát triển những
thành tựu của tư tưởng triết học nhân loại. Đồng thời là sự khái quát hóa những
thành tựu mới nhất, quan trọng nhất của khoa học tự nhiên, khoa học xã hội và thực
tiễn xã hội. Chính vì thế, triết học Mác - Lênin là vũ khí lý luận của giai cấp vô sản
trong nhận thức và cải tạo xã hội cũ, xây dựng xã hội mới.
- Trong thời đại ngày nay, triết học Mác – Lênin là đỉnh cao của tư
duy triết học nhân loại.
2. Đối tượng của triết học Mác – Lênin
* Đối tượng nghiên cứu của triết học Mác – Lênin là nghiên cứu những qui
luật chung nhất của sự vận động, phát triển của tự nhiên, xã hội và tư duy trên lập
trường duy vật biện chứng
3


- Nghiên cứu mối quan hệ vật chất và ý thức trên lập trường của chủ
nghĩa duy vật biện chứng làm cơ sở nền tảng cho nghiên cứu mối quan hệ khách
quan, chủ quan trong hoạt động thực tiễn của con người.
- Nghiên cứu những hình thức tồn tại của vật chất và các trạng thái tồn
tại của thế giới, qua đó làm rõ những qui luật cơ bản của nó.
- Nghiên cứu con người với tư cách là đối tượng của triết học, qua đó
chỉ ra sự khác nhau giữa đối tượng nghiên cứu của triết học và các khoa học khác.
- Nghiên cứu con đường nhận thức và cải tạo thế giới một cách hiệu
quả, qua đó chỉ ra cách thức, biện pháp nhằm giải phóng con người, xã hội.
Đối tượng nghiên cứu của triết học Mác – Lênin vừa thống nhất với đối
tượng nghiên cứu của triết học trước đó, vừa có sự khác biệt so với nó.
3. Chức năng của triết học Mác – Lênin

Là một khoa học, triết học Mác - Lênin thực hiện vai trò đa chức năng
như chức năng nhận thức, chức năng dự báo, chức năng giáo dục … và chức năng
thế giới quan, phương pháp luận.
* Chức năng thế giới quan.
Thế giới quan
- Triết học Mác – Lênin trang bị cho giai cấp vô sản và quần chúng nhân dân
lao động hệ thống tri thức khoa học về thế giới, làm cơ sở nền tảng cho toàn bộ
hoạt động của con người.
+ Cung cấp cho con người bức tranh khái quát nhất, khoa học nhất về
thế giới, qua đó giúp chúng ta hiểu sâu sắc hơn, đúng đắn hơn về thế giới.
+ Định hướng cho sự phát triển của các khoa học khác.
+ Định hướng thái độ, hành vi của con người, qua đó góp phần bồi
dưỡng những phẩm chất nhân cách khác nhằm hoàn thiện con người.
+ Nâng cao vai trò tích cực, tự giác, sáng tạo của con người trong
nhận thức và cải tạo thế giới, giải phóng con người, xã hội.
- Đấu tranh vạch trần những tư tưởng sai trái khác như quan điểm duy
tâm, mê tín dị đoan, phản động, phản khoa học … dưới mọi hình thức.
* Chức năng phương pháp luận.
- Với vai trò là phương pháp luận triết học Mác – Lênin định hướng
cho hoạt động nhận thức và phương pháp cải tạo thế giới của con người có hiệu
quả.
- Quán triệt nguyên tắc khách quan, toàn diện, lịch sử – cụ thể, phát
triển, gắn lý luận với thực tiễn, giữa nhận thức thế giới và cải tạo thế giới.
Tuy nhiên cần thấy rằng, triết học Mác – Lênin không phải là đơn
thuốc vạn năng mà con người chỉ cần áp dụng vào là có kết quả như mong muốn,
mà để làm được điều đó, triết học Mác – Lênin cũng cần được bổ sung, phát triển
thêm thông qua hoạt động thực tiễn của các ĐCS. V.I.Lênin chỉ rõ: “Chúng ta
không hề coi lý luận của Mác như là một cái gì đã xong xuôi hẳn và bất khả xâm
phạm; trái lại, chúng ta tin rằng lý luận đó chỉ đặt nền móng cho môn khoa học
mà những người xã hội chủ nghĩa phải phát triển hơn nữa về mọi mặt, nếu họ

không muốn trở thành lạc hậu với cuộc sống”.
4. Phương pháp nghiên cứu của triết học Mác – Lênin.
* Phải đứng vững trên lập trường của giai cấp vô sản trong nghiên cứu.
* Vận dụng phương pháp tư duy trừu tượng trong nghiên cứu.
4


III. VAI TRÒ CỦA TRIẾT HỌC MÁC - LÊNIN TRONG GIẢI
QUYẾT NHỮNG NHIỆM VỤ CẤP THIẾT VỀ LÝ LUẬN VÀ THỰC TIỄN
HIỆN NAY
1. Vai trò của triết học Mác - Lênin trong giải quyết những nhiệm
vụ cấp thiết của đời sống xã hội
Trước những biến động dữ dội của lịch sử những năm cuối cùng của thế kỷ
XX cả về kinh tế, chính trị, đạo đức, lối sống, văn hoá tư tưởng …
* Xét trên bình diện quốc tế:
- Về chính trị: Hệ thống chủ nghĩa xã hội và chủ nghĩa tư bản?
- Về kinh tế: Xu hướng toàn cầu hoá nền kinh tế thế giới, sự hội nhập
và giao lưu kinh tế quốc tế…
- Sự phát triển mạnh mẽ của cuộc cách mạng khoa học và công nghệ
hiện đại, nhất là trong lĩnh vực thông tin, vũ trụ…
- Về tư tưởng, lý luận: Đang diễn ra cuộc đấu tranh gay go, quyết liệt
trên lĩnh vực ý thức hệ … và sự chuyển đổi của những giá trị truyền thống
- Cuộc đấu tranh dân tộc, sắc tộc, tôn giáo, chủ nghĩa khủng bố quốc
tế
- Những vấn đề toàn cầu như bệnh tật, đói nghèo, môi trường sinh thái…
* Trong phạm vi quốc gia:
- Từ thực trạng và những yêu cầu của công cuộc đổi mới ở nước ta hiện nay
như vấn đề định hướng xã hội chủ nghĩa, kinh tế thị trường, hội nhập và giao lưu
quốc tế và cả những vấn đề nảy sinh trong quá trình đổi mới…
- Từ thực trạng của những diễn biến xã hội đang đặt ra hiện nay như chính trị

tư tưởng, đạo đức lối sống, văn hóa…
Với chúng ta, Triết học Mác - Lênin là cơ sở lý luận khoa học của
công cuộc đổi mới xây dựng CNXH ở Việt Nam và sự nghiệp xây dựng Quân đội
nhân dân Việt Nam cách mạng, chính qui, tinh nhuệ, từng bước hiện đại đáp ứng
yêu cầu mới của sự nghiệp bảo vệ vững chắc Tổ quốc Việt Nam XHCN trong điền
kiện mới.
2. Vai trò của triết học Mác - Lênin trong giải quyết những nhiệm
vụ cấp thiết của lý luận và thực tiễn quân sự hiện nay
Trong xu thế hội nhập và giao lưu quốc tế hiện nay, thực tiễn cho thấy
có những vấn đề để giải quyết không thể dựa vào nỗ lực cá nhân của mỗi quốc gia,
mà cần có sự hợp tác quốc tế trên tất cả mọi lĩnh vực, trong đó có quốc phòng - an
ninh. Thực tế sự tham gia ngày càng nhiều và có hiệu quả của các nước tư bản vào
những vấn đề chung như tranh chấp, xung đột khu vực, khủng bố… Việc nghiên
cứu triết học Mác – Lênin là cơ sở khoa học để xem xét, phân tích chính xác bản
chất của các hiện tượng đó
* Xác định đúng bản chất của các cuộc chiến tranh, nguồn gốc,
nguyên nhân của chiến tranh, những vấn đề có tính qui luật trong chiến tranh, đấu
tranh vũ trang…
* Nhận thức rõ tính tất yếu phải xây dựng quân đội vững mạnh toàn
diện, lấy xây dựng chính trị làm cơ sở.
* Những vấn đề có tính nguyên tắc trong xây dựng nền quốc phòng
toàn dân, thế trận chiến tranh nhận dân trước sự phát triển mới của nhiệm vụ bảo vệ
Tổ quốc trong điều kiện phát triển của khoa học quân sự hiện đại.
* Phê phán các nhận thức lệch lạc, mơ hồ, mất cảnh giác hoặc duy ý
chí.
5


KẾT LUẬN
Triết học Mác – Lênin là một trong 3 bộ phận cấu thành chủ nghĩa Mác –

Lênin, là thế giới quan, phương pháp luận khoa học của giai cấp vô sản trong nhận
thức và cải tạo xã hội cũ xây dựng xã hội mới là xã hội xã hội chủ nghĩa và cộng
sản chủ nghĩa. Nghiên cứu triết học Mác – Lênin là cơ sở để mỗi người tự hoàn
thiện nhân cách, góp phần xây dựng con người “vừa hồng, vừa chuyên” đáp ứng
yêu cầu của sự nghiệp xây dựng và bảo vệ Tổ quốc Việt Nam xã hội chủ nghĩa
trong giai đoạn cách mạng mới

6


VẤN ĐỀ 2.
PHẠM TRÙ VẬT CHẤT CỦA LÊ NIN. Ý NGHĨA PHƯƠNG PHÁP
LUẬN ĐỐI VỚI KHOA HỌC TỤ NHIÊN VÀ KHOA HỌC QUÂN SỰ.
NỘI DUNG
I. VẬT CHẤT VÀ CÁC HÌNH THỨC TỒN TẠI CỦA VẬT CHẤT
1. Phạm trù vật chất
* Một số quan niệm ngoài mácxít về phạm trù vật chất.
- Chủ nghĩa duy tâm( khách quan + chủ quan): Chủ nghĩa duy tâm trong
mọi thời đại và dưới mọi hình thức đều tìm mọi cách phủ nhận đặc tính tồn tại khách
quan của vật chất. Lấy lực lượng tinh thần để giải thích vật chất, cho ý thức, tinh thần là
cái có trước, quyết định sự tồn tại phát triển của thế giới vật chất. Thực chất phủ nhận
phạm trù vật chất, phủ nhận chủ nghĩa duy vật.
Ví dụ : Hê Ghen( 1770- 1831) cho rằng vật chất là “ Ý niệm tuyệt đối”.
Thế giới quan duy tâm rất gần với thế giới quan tôn giáo và tất yếu
dẫn tới thần học.
- Chủ nghĩa duy vật trước Mác: Thừa nhận sự tồn tại khách quan của sự vật
hiện tượng, của thế giới vật chất, coi vật chất là tính thứ nhất, ý thức là tính thứ hai
Cố gắng giải thích tự nhiên bằng chính tự nhiên, không dựa vào lực
lượng tự nhiên nào khác ( chống lại duy tâm tôn giáo) song khuynh hướng chung là
đi tìm bản nguyên ban đầu của thế giới:

Ta lét (625-543) >…. Nước
Hê ra clít ( 540- 448) > Lửa
A naximen ( 585-525) > không khí
Cha rơ vắc > Đất – Nước – Lửa- Không khí
Ngũ hành ( Trung Quốc) > Ngũ hành
* Đặc biệt thuyết nguyên tử của Lơ xíp và Đê Môcrít cho rằng nguyên tử và
chân không là cơ sở đầu tiên của thế giới. Quan niệm này tồn tại đến thời cận đại
( XVII ) khi khoa học vật lý thực nghiệm tìm ra nguyên tử thì quan niệm này cũng
được các nhà khoa học và triết học khẳng định và phát triển( Gli Lê, Niu Tơn , Đề
Các, Ph. Bê Cơn, Hốp Sơ)
* Đông thời do sự thống trị của cơ học Niu Tơn lúc đó K/Đ : Khối
lượng là đặc trưng cơ bản, bất biến của vật chất > Quan niệm đồng nhất vật chất
với khối lượng một thuộc tính của vật chất.
Tuy nhiên cũng có những quan niệm phủ nhận thuyết nguyên tử và chống
lại việc cơ học cổ điển của Niu tơn để giải thích thế giới. Họ đưa ra những quan
niệm về vật chất khác quan niệm của số đông các nhà triết học và khoa học theo
thuyết nguyên tử về phạm trù vật chất.
Phoi ơ Bắc: “ Tất cả những cái gì không phải tinh thần thì là vật chất,
cái gì không là vật chất thì là tinh thần”
Lênin nhận xét Phoi ơ Bắc: “ Giới tự nhiên bằng tất cả trừ cái gì siêu
tự nhiên Phoi ơ Bắc sáng rõ nhưng không sâu sắc” ( T29 tr 54).
Tóm lại, Quan niệm về vật chất của các nhà triết học và khoa học
nhìn chung về cơ bản vẫn mang tính chất cơ giới, đồng nhất vật chất với nguyên tử
và khối lượng. Quan niệm này tồn tại dai dẳng đến cuối XIX, khi nổ ra cuộc cách
mạng trong vật lý học và khoa học tự nhiên.

7


Nhận xét: Mặc dù đứng vững trên lập trường duy vật nhưng do

hạn chế bởi nhận thức, truyền thống thói quen tư duy, các nhà duy vật trước
Mác vẫn rơi vào hạn chế của phương pháp siêu hình:
+ Đi tìm cái giới hạn, cái tận cùng, cái bất biến trong cái vô
hạn vô tận và thường xuyên biến đổi.
+ Đồng nhất vật chất với vật thể cụ thể, với thuộc tính của nó.
Năm 1895 Rơn ghen phát hiện ra tia X; mở đầu cuộc cách mạng vật lý học
( cuối thế kỷ XIX đầu thế kỷ XX) đi sâu vào thế giới vi mô.
1896 Béc cơ ren phát hiện ra chất phóng xạ; chứng tỏ nguyên tử có thể phân
chia và chuyển hóa lẫn nhau.
1897 Tôm xơn phát hiện ra điện tử;( electrôn chứng tỏ nguyên tử không phải là
phần tử nhỏ nhất.)
1901 Kau Fman chứng minh khối lượng điện tử không bất biến;phụ thuộc vào vận tốc
vận động của nó khác với Niu Tơn)
1905 và 1916 thuyết tương đối hẹp và thuyết tương đối rộng của Anh xtanh đã
chứng minh không gian, thời gian, khối lượng của sự vật không bất biến mà phụ thuộc
vào vận tốc. V lớn thì m lớn; Chuyển động nhanh thì không gian bé; khi vận tốc xấp xỉ
bằng vận tốc ánh sáng thì khối lượng của sự vật đạt Max và thời gian bằng o.
Lợi dụng sự phát triển đó CNDT đã tấn công CNDV, xuyên tạc quan niệm về
vật chất của CNDV.
Sự phát triển của khoa học đã dẫn đến sự phá sản của quan niệm siêu
hình về thế giới.
- Nhận xét:
+ Những phát minh trên đã làm 1 cuộc cách mạng trong vật lý
học làm đảo lộn căn bản những quan niệm cũ của bức tranh cơ học về thế giới, bác
bỏ quan niệm của CNDV trước Mác về phạm trù vật chất vật chất không còn là
nguyên tử và khối lượng nữa.
+ Điều đó làm các nhà duy vật siêu hình hoang mang lúng túng,
các nhà khoa học giỏi về chuyên môn kém về triết học thì dao động ngả nghiêng sang
lập trường duy tâm, còn các nhà triết học duy tâm tiến công chủ nghĩa duy vật, cho
rằng nguyên tử tiêu tan ==> VẬT CHẤT tiêu tan, vật chất chỉ còn là bóng ma trống

rỗng, chỉ có tinh thần là tồn tại vĩnh viễn.
Vì sao sự phát triển của Vật lý học cuối thế kỷ XIX đầu thế kỷ
XX lại tạo nên sự khủng hoảng về nhận thức luận trong triết học?
Vì : Trước nay các nhà triết học siêu hính quan niệm nguyên tử là
phần tử bé nhất, đồng nhất vật chất với khối lượng… nay quan niệm đó đã bị bác
bỏ
Sự phát triển của khoa học vật lý đã đem lại sự biến đổi trong nhận
thức của con người về vật chất và đã gây ra sự khủng hoảng về thế giới quan đối
với các nhà triết học siêu hình. “Vật chất tiêu tan, vật chất biến mất”. Đã phá vỡ
quan điểm cho rằng vật chất là nguyên tử.
Lợi dụng sự phát triển đó của KHTN CNDT đã tấn công CNDV,
xuyên tạc quan niệm về vật chất. Họ cho rằng vật chất đã tiêu tan, chỉ còn lại
một thực thể duy nhất là tinh thần ý thức, CNDV không còn chỗ đứng. Các nhà
khoa học dao động một số chuyển sang lập trường duy tâm. Tình hình đó đặt ra
cho các nhà duy vật phải khái quát, giải thích về mặt triết học các thành tựu đó

8


Lênin đã chỉ ra: Thực chất khủng hoảng vật lý học là khủng hoảng về thế
giới quan. Nguyên nhân khủng hoảng là hạn chế bởi phương pháp siêu hình
“Điện tử cũng vô cùng, vô tận như nguyên tử, giới tự nhiên là vô tận”. Con đường
thoát khỏi khủng hoảng là thay CNDVSH bằng CNDVBC. Điều kiện thực hiện sự
thay thế theo Lênin đến lúc này KHTN đã có đủ điều kiện thực hiện cuộc thay thế
đó. “Vật lý học đang nằm trên giường đẻ và nó đang đẻ ra CNDVBC ” nhưng nó
đẻ ra tự phát và ngập ngừng. Lênin xuất hiện đòi hỏi yêu cầu khái quát mới về mặt
triết học những thành tựu của khoa học tự nhiên, bảo vệ và phát triển CNDV trước hết
là phạm trù nền tảng của nó là phạm trù vật chất.
* Quan niệm của chủ nghĩa Mác - Lênin về phạm trù vật chất
- Tư tưởng của C.Mác- Ph.Ăng ghen: C.Mác- Ph.Ăngghen tuy chưa

đưa ra định nghĩa hoàn chỉnh về vật chất nhưng đã đưa ra tư tưởng về vật chất.
+ Phạm trù vật chất phải bao quát được những thuộc tính chung của
tất cả các sự vật, hiện tượng đang tồn tại cảm tính.
+ Tính vô tận, vô hạn và tính không thể sáng tạo, không thể diệt vong;
Tính thống nhất vật chất của thế giới; Đưa ra các hình thức tồn tại của vật chất…
+ Tính trừu tượng và tính cụ thể. Và tính có thể nhận thức được.
=> Những tư tưởng này có ý nghĩa rất quan trọng đối với khoa
học đồng thời và là cơ sở để Lênin phát triển học thuyết DVBC về vật chất sau này.
- Định nghĩa vật chất của V.I.Lênin:
Khái quát những tư tưởng của Mác và Ăng ghen, đồng thời tổng kết
những thành tựu mới nhất của khoa học, Lênin đã định nghĩa vật chất như sau:
“Vật chất là một phạm trù triết học dùng để chỉ thực tại khách
quan được đem lại cho con người trong cảm giác, được cảm giác của chúng ta
chép lại, chụp lại, phản ánh và tồn tại không lệ thuộc vào cảm giác”.
( TB. M, 1980 tr 51)
+ Vật chất là cái tồn tại khách quan bên ngoài ý thức, độc lập với ý
thức.
Thứ nhất, vật chất là phạm trù triết học.
Phạm trù triết học là những khái niệm chung nhất, phản ánh những
thuộc tính, những mặt những mối liên hệ cơ bản và phổ biến của toàn bộ thế giới hiện
thực.
(cả tự nhiên xã hội và tư duy). Do đối tượng nghiên cứu của triết học … nên triết
học biểu hiện khái quát nghiên cứu của mình bằng các khái niệm rộng nhất tức bằng các
phạm trù triết học (vật chất, ý thức, khách quan, chủ quan..)
Định nghĩa vật chất = phạm trù triết học là nhằm xác định ‘góc
độ’ của việc xem xét, tránh nhầm lẫm của các quan niệm về khoa học tự nhiên về cấu
trúc và những thuộc tính cụ thể của các đối tượng vật chất khác. Với tư cách là phạm
trù triết học, phạm trù vật chất vừa thống nhất vừa khác biệt với phạm trù của các khoa
học cụ thể nghiên cứu về vật chất:
Thống nhất (nhưng không đồng nhất) về đối tượng nghiên cứu

đều nghiên cứu các thuộc tính của vật chất.
Khác biệt về phạm vi phản ánh phạm trù vật chất rộng đến cùng
cực bao hàm cả hết mọi sự vật hiện tượng của thế giới vật chất, phạm trù khoa học cụ
thể chỉ phản ánh 1 sự vật, 1 đối tượng nghiên cứu cụ thể trong phạm vi một nghành
khoa học nhất định.
9


Với tư cách là phạm trù triết học, vật chất vừa thống nhất lại vừa khác biệt
với các dạng tồn tại cụ thể của vật chất.
Thống nhất giữa tính trừu tượng ( là phạm trù triết học) với tính
hiện thực cụ thể biểu hiện ra các sự vật cụ thể cảm tính
Khác biệt vật chất với tư cách là phạm trù triết học không tồn tại
cảm tính nó vô cùng, vô tận không có khởi đầu, không có kết thúc không do ai sinh ra
và tiêu diệt được = > không thể đồng nhất vật chất với vật thể 1 dạng tồn tại cụ thể của
vật chất.
Với tư cách là phạm trù triết học, cách định nghĩa duy nhất đúng về vật
chất là phải đặt nó trong mối liên hệ với phạm trù độc lập là phạm trù ý thức, xem xét
cái nào có trước, cái nào có sau, cái nào quyết định cái nào.
+ Có nhiều cách định nghĩa một khái niệm, cách thông thường trong lô
gic học quy khái niệm cần định nghĩa về một khái niệm rộng hơn và chỉ ra những đặc
điểm khác biệt :
Ví dụ: trong toán học hình chữ nhật là hình bình hành có hai đường
chéo bằng nhau. Tam giác cân là tam giác có hai cạnh bên bằng nhau, có hai góc bằng
nhau. Trong sinh học Lừa là một động vật..) = > Cách định nghĩa này không áp dụng
cho định nghĩa phạm trù vật chất, vì vật chất là phạm trù rộng nhất có ngoại diên rộng
đến cùng cực, không có phạm trù nào rộng hơn để quy vào.
Cách thứ hai, định nghĩa theo phương pháp phát sinh, tức vạch ra những
đặc trưng bản chất của đối tượng bằng cách chỉ rõ phương thức phát sinh( nguồn gốc
phát sinh ) ra đối tượng. Cách này cũng không áp dụng cho định nghĩa vật chất được vì

vật chất có nguồn gốc tự nó, không ai sinh ra. Các nhà triết học cổ đại đã định nghĩa vật
chất
=> phương pháp này sai lầm quy vật chất vào vật thể ban đầu, đi tìm bản nguyên
ban đầu của thế giới .
Theo Lênin, phương pháp duy nhất đúng là phải đem đối lập vật chất với
ý thức, chỉ ra thuộc tính phổ biến để phân biệt vật chất với ý thức.
Thứ hai, vật chất là thực tại khách quan.

Khách quan: là cái độc lập với cảm giác con người. Theo Lênin là:
“cái đang tồn tại độc lập với loài người và cảm giác của con người.
Vật chất thì vô cùng vô tận, có vô số thuộc tính khác nhau rất đa dạng
và phong phú (khoa học càng ngày, càng phát hiện ra nhiều thuộc tính mới của nó).
Trong tất cả các thuộc tính của nó thì thuộc tính chung nhất, vĩnh hằng với mọi
dạng, mọi đối tượng khác của vật chất đó là thuộc tính thực tại khách quan. Vì
thế, Lênin xem nó là thuộc tính chung nhất của vật chất .
Kết luận này, khắc phục được thiếu sót của CNDVSH không thấy
được thuộc tính cơ bản nhất và phổ biến nhất của vật chất, chống được CNDT phủ
nhận thuộc tính khách quan của vật chất ==> phủ nhận sự tồn tại khách quan của
vật chất.Vì thế, nó giải phóng khoa học tự nhiên ra khỏi cuộc khủng hoảng thế giới
quan, và khuyến khích các nhà khoa học đi sâu tìm hiểu những hoạt động kỳ lạ của
vật chất với thế giới quan khoa học.
+ Vật chất là cái khi tác động vào các giác quan của con người thì gây ra
cảm giác.

10


Vật chất với tính cách là phạm trù triết học thì không tồn tại cảm tính song
nó không tồn tại vô hình trừu tượng mà nó biểu hiện ra các sự vật hữu hình cảm tính. Các
sự vật này tác động vào cơ quan cảm giác (các giác quan) của con người thì gây cho ta

cảm giác về nó.
Vật chất (thực tại khách quan) không phải là cái gì thần bí, không thể không
biết mà về nguyên tắc con người có thể nhận thức được thế giới vật chất, không có cái gì
con người không nhận thức được chỉ có cái con người chưa nhận thức được mà thôi( là cơ
sở chống thuyết bất khả tri) = > giải quyết vấn đề cơ bản của triết học
Vật chất vừa là nguồn gốc, vừa là đối tượng của nhận thức, là cái có trước ý
thức và quyết định ý thức, ý thức là phản ánh của vật chất, ý thức là tính thứ hai (giải
quyết vấn đề cơ bản triết học).
+ Vật chất là cái mà ý thức chẳng qua chỉ là sự phán ánh nó. Nghĩa là
vật chất không phải tồn tại thần bí, mà tồn tại hiện thực dưới dạng các sự vật, hiện
tượng cụ thể cảm tính con người có thể nhận thức được.
* Ý nghĩa
- Định nghĩa vật chất của V.I.Lênin đã giải quyết đúng đắn vấn đề cơ
bản của triết học theo lập trường chủ nghĩa duy vật biện chứng.
- Định nghĩa vật chất của V.I.Lênin khắc phục những thiếu sót, hạn
chế của chủ nghĩa duy vật cũ, đấu tranh phê phán chủ nghĩa duy tâm…
- Định nghĩa vật chất của V.I.Lênin có ý nghĩa định hướng, mở
đường cho sự phát triển của khoa học. Cổ vũ động viên họ tin tưởng ở khả
năng nhận thức của con người, tiếp tục đi sâu khám phá những thuộc tính mới
của vật chất, những quy luật vận động của vật chất để làm giàu thêm kho tàng
tri thức nhân loại. Do vậy, định nghĩa có tác dụng giải phóng KHTN ta khỏi
khủng hoảng TGQ cuối thế kỷ XIX đầu thế kỷ XX.
- Hiện nay định nghĩa vẫn còn nguyên giá trị về mặt triết học và
khoa học, nó đã góp phần củng cố sự liên minh Triết học và KHTN trong cuộc
đấu tranh chống liên minh tôn giáo.
Tháng 09 năm 1995 tại trung tâm nghiên cứu hạt nhân châu Âu
các nhà khoa học đã tiến hành một thực nghiệm tạo ra được 9 phản nguyên tử,
tức 9 phản vật thể đầu tiên, loài người có thêm một cơ hội khoa học để tin cậy
khẳng định giá trị to lớn của định nghĩa vật chất.
-Trong việc nhận thức các hiện tượng thuộc đời sống xã hội, định

nghĩa vật chất của Lênin đã cho phép xác định cái gì là vật chất trong lĩnh vực
xã hội. Đây là điều mà các nhà duy vật trước Mác cũng chưa nhận thức
tới.Định nghĩa vật chất của V.I Lênin giúp cho các nhà khoa học có cơ sở lý
luận để giải thích những nguyên nhân thuộc về sự vận động của phương thức
sản xuất, trên cơ sở đó, người ta có thể tìm ra các phương án tối ưu để hoạt
động thúc đẩy xã hội phát triển.
2. Các hình thức tồn tại của vật chất . Ý nghĩa phương pháp luận
trong hoạt động quân sự của người cán bộ chính ủy chính trị viên.
* Các quan niệm khác về vận động:
- CNDT: Sự vận động của giới tự nhiên và xã hội chỉ là sự sao
chép sự vận động của ý niệm tuyệt đối nguồn gốc của vận động là từ lực lượng siêu
tự nhiên, từ cái hích ban đầu của thượng đế hoặc coi vận động chỉ là vận động của
tư duy, của những biểu hiện của cảm giác của cái tôi.
11


- Quan niệm SH: Tách rời vật chất và vận động, coi nguyên
nhân vận động từ bên ngoài( lực) gây ra, họ quy các hình thức về một hình thức
vận động cơ giới.Vận động chỉ là sự tăng lên hoặc giảm về số lượng, chỉ là sự dịch
chuyển vị trí đơn thuần trong không gian. Cho nên đối với phép siêu hình thì không
thể có nhiều hình thức vận động và cũng không có sự chuyển hóa từ hình thức vận
động này sang hình thức vận động khác => hạn chế bởi phương pháp xem xét SH,
máy móc.
- Thuyết duy năng : Quy hai khái niệm vật chất và tinh thần
vào khái niệm năng lượng, đem đồng nhất vật chất với năng lượng, cho rằng vật
chất chỉ chuyển hóa thành năng lượng , và như vậy đồng nhất vật chất với vận động
1 thuộc tính của vật chất = >Nhằm phủ nhận sự vận động của vật chất, tách vận
động ra khỏi vật chất.
Lênin : “ Vật lý học duy năng là nguồn gốc sản sinh ra những
mưu toan mới của CNDT nhằm quan niệm vận động không có vật chất .”( T18.

1980. Tr.337-338)
- Thuyết vũ trụ “ chết nhiệt”, dựa vào định luật thứ hai của nhiệt
động học ( vật lý phân tử) để suy ra: Mọi vận động khác sẽ chuyển thành vận động
nhiệt, nhiệt bao giờ cũng truyền từ vật có nhiệt độ cao xuống vật có nhiệt độ thấp,
đến khi cân bằng, còn quá trình ngược lại thì không có. “ Lúc đó vũ trụ chỉ còn 1
dạng vận động nhiệt ở cùng một nhiệt độ. Và vũ trụ vĩnh viễn ở trạng thái như thế,
không còn sư biến đổi nào khác, không bao giờ ra khỏi trạng thái nhiệt như thế
nữa . Đó là vũ trụ chết, vũ trụ “chết nhiệt”.
= > Suy diễn chủ quan, chỉ tính bất diệt của vật chất vận động đơn
thuần về lượng mà không hiểu tính bất diệt về mặt chất lượng của vận động, = >
vận động chỉ nhất thời, vũ trụ có thể bị diệt vong ( Biện chứng của tụ nhiên tr. 39
40)
Các quan điểm trên đều không đúng nguồn gốc, bản chất vận động.
* Quan điểm triết học Mác Lênin :
- Khái niệm vận động là gì? Vận động theo nghĩa chung nhất là mọi
sự biến đổi nói chung.
+ Ănghen trong biện chứng của tự nhiên; “ Vận động, hiểu theo nghĩa
chung nhất – tức nó được hiểu là một phương thức tồn tại của vật chất, là một
thuộc tính cố hữu của vật chất- thì bao gồm tất cả mọi sự thay đổi và mọi quá trình
diễn ra trong vũ trụ, từ sự thay đổi vị trí đơn giản cho đến tư duy.”
= > Như vậy cách hiểu thông thường vận động là sự di chuyển vị trí
đơn giản là chưa đầy đủ, và không giống với quan niệm Triết Học MLN
- Vận động là phương thức tồn tại của vật chất: nghĩa là vật chất luôn
luôn vận động, vận động là vận động của vật chất, vật chất và vận động không thể
tách rời.
Vật chất luôn luôn vận động, vật chất chỉ có thể tồn tại = vận động,
thông qua vận động mới biểu hiện sự tồn tại của mình, vận động là hình thức tồn tại
của vật chất.Vì:mỗi dạng vật chất cụ thể chỉ biểu hiện được sự tồn tại của mình và
chỉ rõ mình là cái gì thông qua vận động dưới hình thức này hay hình thức khác. Vì
thế vật chất không thể tách rời vận động không có vật chất không vận động.

Ănghen : “ Vật chất không vận động là điều không thể quan niệm
được”

12


Lênin : “Tách vận động ra khỏi vật chất thì cũng như tách tư duy ra
khỏi thực tại khách quan tách những cảm giác của tôi ra khỏi thế giới bên ngoài,
tức là đã sang phía CNDT”.
Vận động là thuộc tính cố hữu của vật chất, gắn liền với vật chất, là
thuộc tính cố hữu của vật chất chứ không phải do lực lượng bên ngoài ( SH) tác
động vào. Vì vận động là vốn có, nên ở 1 dạng vật chất nào đó có thể không có 1
thuộc tính nào đó, nhưng không thể không có tính vận động.
Vì khoa học đã chứng minh: nguồn gốc sinh ra vận động của vật chất
là do sự tác động qua lại giữa các yếu tố, các bộ phận khác trong bản thân sự vật và
giữa các sự vật với nhau. Vì thế vận động của vật chất là tự thân, vốn có
Vận động gắn liền với vật chất, là thuộc tính vốn có của vật chất nên
vận động là tuyệt đối, vĩnh viễn và bất diệt, tính bất diệt của vận động chính là sự
bảo toàn của vận động cả về số và chất lượng.
= = > Cơ sở chứng minh.
Về mặt triết học: Ănghen trong biện chứng của tụ nhiên vật chất đối diện
với chúng ta như một cái gì đó có sẵn không thể sáng tạo ra và không thể tiêu diệt
được.
Về khoa học: Vật lý học đã chứng minh; định luật bảo toàn và chuyển hóa
năng lượng. Năng lượng không tự nhiên sinh ra cũng không tự nhiên mất đi, nó chỉ
biến đổi từ dạng này sang dạng khác. Định luận này khẳng định rằng vận động
được bảo toàn cả về mặt số lượng lẫn chất lượng.
Đó là một trong ba phát kiến vĩ đại làm tiền đề khoa học tự nhiên cho
sự ra đời của chủ nghĩa duy vật biện chứng. Đánh giá phát hiện này Ph. Ănghen
viết:

“ Sự thống nhất của mọi vận động trong tự nhiên bây giờ không còn là một
sự khẳng định triết học nữa mà là một sự thực khoa học tự nhiên rồi.”
Vận động cũng là một thuộc tính cố hữu của vật chất, nó không tự nhiên sinh
ra và không tự nhiên mất đi mà chỉ chuyển hóa từ hình thức vận động này sang
hình thức vận động khác. Lý giải sự khái quát này bằng một phản ứng hóa học rất
đơn giản:
Ví dụ: 2 Na + Cl2 = 2Na Cl, và bằng phương pháp điện
phân Na Cl ta lại được 2 nguyên tố ban đầu:
Điện phân
2 Na Cl ============ 2 Na + Cl2
- Các hình thức vận động của vật chất: (Cơ học, vật lý, hoá học, sinh học, xã
hội)
Khoa học hiện đại chia các hình thức vận động thành 3 nhóm chính
tương ứng vói 3 LVCB của thế giới vật chất.
1. Trong giới tự nhiên vô sinh đặc trưng của vận động là sự liên hệ giữa vận
động vật lý và vận động hóa học.
2. Trong giới tự nhiên hữu sinh đặc trưng bởi vận động sinh học và những
biểu hiện đa dạng của sự sống.
3. Trong xã hội đặc trưng vận động xã hội và những biểu hiện đa dạng của
hoạt động con người.
- Vận động và đứng im.
+ Vận động là phương thức tồn tại của vật chất, do đó vận động
là tuyệt đối nghĩa là bất kỳ ở đâu, lúc nào bao giờ vật chất cũng vận động .
13


+ Vất chất tồn tại thông qua sự tồn tại của sư vật hiện tượng cụ
thể cảm tính, do vậy sự tồn tại của vật chất tất yếu phải có đứng im. Không có trạng
thái đứng im sẽ không có sự hình thành, tồn tại của các sự vật hiện tượng cụ thể.
Đứng im chỉ là 1 trạng thái đặc thù của vận động là sự vận động trong trạng thái

căn bằng, trong sự ổn định tương đối của sự vật làm cho sự vật là nó chưa là cái
khác.
- Đứng im chỉ là tương đối vì nó chỉ xảy ra trong 1 mối quan hệ với một hệ
thống nhất định, còn quan hệ với các hệ thống khác thì sự vật vẫn đang vận động .
Trạng thái tĩnh là một trạng thái đặc thù của sự vận động. Còn bản thân sự vận
động là một mâu thuẫn, trong đó đứng im không tách rời khỏi vận động. Bởi vì,
ngay như sự di động một cách máy móc và đơn giản Ănghen rút ra kết luận: “ Mọi
sự cân bằng chỉ là tương đối và tạm thời’’.Trong sự vận động tuyệt đối và vĩnh
viễn của thế giới vật chất.
Ví dụ: Công thức tính năng lượng của vật lý học cổ điển của Niu tơn
M. V2
E=
2
Trong đó E là năng lượng của vật
M là khối lượng của vật
V2 là vận tốc vận động của vật
Khi V=0 có nghĩa là vật chất không vận động vật lý học cổ điển không
chứng minh được.
M. V2
Vật lý học hiện đại của Anhxtanh E =
√ 1/c2
E là năng lượng của vật
V là vận tốc vận động của vật
C2 là vận tốc vận động của ánh sáng
M là khối lượng của vật.
Khi V = O tức vật không chuyển động = > suy ra E = m.c 2 > O ,vật không
chuyển động nhưng nămg lượng vẫn tỏa ra, vậy đứng im cũng là một hình thức vận
động của vật chất.Vât lý học hiện đại càng phát triển khoa học càng phát triển
càng chứng minh những nguyên lý cơ bản của CNDVBC càng đúng đắn
* Ý nghĩa trong hoạt động quân sự:

- Ý nghĩa phương pháp luận
+ Phải xem xét sự vật trong trạng thái động, song phải phân
tích để thấy được những yếu tố nào đang biến đổi, những yếu tố nào đang ổn định
tạm thời, từ đó có biện pháp tác động thích hợp nhằm phục vụ cho con người(liên
hệ tình hình, kinh tế, xã hội, quốc tế, quân đội...)
+ Sự vận động của cơ chế thị trường, các xu hướng biến đổi
của nó, các mặt phải, mặt trái của nó nhân tố ổn định và nhân tố gây mất ổn định
+ Su thế hòa hoãn đối thoại, hợp tác, hội nhập trong quan hệ
quốc tế.
+ Sự vận động của quân đội về tổ chức, tư tưởng trong trong
điều kiện quốc tế mới và trong điều kiện nền kinh tế hàng hóa nhiều thành phần.

14


+ Trong chiến đấu có nhiều yếu tố ngẫu nhiên, có khi ta lại vào
tình huống bất lợi phải bình tĩnh và sáng suốt xử trí tình huống địch, địa hình trong
sự vận động và đứng im tương đối của nó cho phù hợp tránh chủ quan duy ý chí.
* Không gian và thời gian.
- Quan niệm của chủ nghĩa duy tâm:
Những người theo chủ nghĩa duy tâm thường phủ nhận tính
khách quan của không gian và thời gian.
Can Tơ: KG- TG chỉ là những hình thức chủ quan của trực
quan cảm tính để sắp đặt các cảm giác chúng ta thu nhận được một cách hỗn loạn
chứ không phải của thực tại khách quan (vật chất).
E.M Khơ cũng cho rằng không phải con người với những cảm
giác mình tồn tại trong không gian và thời gian mà chính không gian và thời gian
tồn tại trong con người lệ thuộc vào con người và do con người sinh ra.
== Phủ nhận cái đặc tính khách quan của KG- TG
Niu Tơn: “ Không gian, thời gian và vận động là những thực thể nào đó ở

bên ngoài vật chất và không liên hệ với nhau. Ông hình dung KG như cái bình chứa
rỗng không, bất động để chứa các vật thể, thời gian là đồng nhất, trôi đều đều 1
hướng từ quá khứ đến tương lai. KG- TG không có liên hệ gì với nhau. Đó là “
KHÔNG GIAN tuyệt đối” và “THỜI GIAN tuyệt đối” chẳng của cái gì cả.
Không gian tuyệt đối là không gian rỗng hoàn toàn không có liên hệ gì với các sự
vật, không chứa đựng một sự vật nào trong đó nó đồng chất và đẳng hướng.
Thời gian tuyệt đối là thời gian hoàn toàn không liên hệ gì với các sự vật,
hiện tượng, cũng không quan hệ gì đến sự vận động và biến hóa của thế giới vật
chất.
Nó trôi đi một cách đều đặn và diễn ra đều đều trong thế giới hiện thực
===========.> Điểm thiếu sót cơ bản trong quan niệm trên ở chỗ,
không thấy được không gian và thời gian là thuộc tính của vật chất, không
tách rời khỏi các sự vật.
=====.> tách rời TG- KG khỏi vật chất …>>> CNDT. Lênin trong bút ký
triết học “ thời gian tách rời các sự vật còn thời gian = thần linh”
Chủ nghĩa duy vật biện chứng:
-Khái niệm. Không gian là hình thức tồn tại của vật chất xét về
mặt quảng tính, sự cùng tồn tại, trật tự, kết cấu sự tác động lẫn nhau
của vật chất.
Thời gian dùng để chỉ hình thức tồn tại của vật chất xét về mặt
độ dài diễn biến, sự kế tiếp của các quá trình.
Lênin đã từng nhận xét rằng: “ Trong thế giới, không có gì ngoài vật chất
đang vận động và vật chất đang vận động không thể vận động ở đâu ngoài không
gian và thời gian.”
KG-TG là những hình thức tồn tại khách quan của vật chất, chúng tồn tại
KQ độc lập với ý thức của con người. Khái niệm của con người về không gian và
thời gian chỉ là sự phản ánh không gian thời gian của thực tại khách quan (vật
chất). Giữa không gian và thời gian, vận động và vật chất có mối quan hệ hữu cơ
không thể tách rời. Không có một loại không gian, thời gian nào tách rời khỏi vật
chất, đứng biệt lập với vật chất. Nếu tính khách quan là một thuộc tính bản chất của

vật chất thì không gian, thời gian, vận động cũng là những thuộc tính tương tự như

15


vậy. Khi nói đến vật chất là nói đến thực tại khách quan, sự vận động của nó trong
không gian diễn ra theo thời gian nhất định.
- Các tính chất của không gian - thời gian.
1. Tính khách quan: Không gian, thời gian là thuộc tính của vật chất
gắn liền với nhau và gắn liền với vật chất. Vật chất tồn tại khách quan, do đó KG
TG cũng tồn tại khách quan. Bởi đó là không gian thời gian của vật chất vận độn, là
thuộc tính nội tại của vật chất, là hình thức tồn tại của vật chất nên nó gắn liền với
và thống nhất với vật chất vận động. Không gian, thời gian là thuộc tính khách
quan của vật chất không có không gian thuần túy tách rời vận chất vận động. Do đó
không gian thời gian tồn tại khách quan như vật chất vận động khách quan.
Phụ thuộc vào vật chất nghĩa là không gian và thời gian không
phải là đồng nhất, bất biến( như quan niệm siêu hình) mà nó có những tính chất
khác và phụ thuộc vào vật chất vận động, sự biến đổi của chúng vạt chất. Khoa học
đã chứng minh; Anhxtanh cho rằng: Vận tốc càng lớn thì kích thước sự vật càng
nhỏ và thời gian trôi càng chậm.
2. Tính vĩnh cửu và vô tận. Theo Ănghen vật chất vĩnh cửu và
vô tận trong không gian và thời gian.Vô tận có nghĩa là không có tận cùng về một
phía nào cả, cả đằng trước lẫn đằng sau, cả về phía trên lẫn phía dưới, cả về bên
phải lẫn bên trái. Những thành tựu của vật lý học vi mô cũng như những thành tựu
của vũ trụ học ngày càng xác nhận tính vĩnh cửu và tính vô tận của KG- TG
Khoa học hiện đại đã chứng minh trong thế giới không ở đâu có tận
cùng cả về bề rộng và bề sâu, cũng không ở đâu có sự ngưng động, không biến đổi
và không có sự tiếp nối của các quá trình. Tức là vật chất vận động vô cùng trong
không gian và vô tận trong thời gian.
Tính vô cùng của không gian được hình thành từ những quảng tính có

hạn của vô số các sự vật, tính vô tận của thời gian được hình thành từ độ dài diễn
biến có hạn của vô số quá trình riêng lẻ. Vì thế, không gian và thời gian là thống
nhất của tính gián đoạn và tính liên tục của vật chất vận động.
3.Tính ba chiều của KG và tính một chiều của thời gian.
Tính ba chiều của không gian là chiều dài, chiều rộng, chiều cao.Tính một chiều
của thời gian là từ chiều quá khứ đến tương lai.
Trong toán học đưa ra và sử dụng không gian nhiều chiều (n chiều;
n>3) là loại không gian suy rộng, không có thực, nhưng cần thiết để giải quyết
những bài toán cụ thể của toán học hoặc vật lý học, không gian hiện thực chỉ có ba
chiều mà thôi.
Không gian, thời gian là hai thuộc tính, hai hình thức tồn tại khác của
vật chất vận đông, song chúng không tách rời nhau. Một tính chất của không gian
bao giờ cũng liên quan đến một tính chất của thời gian tương ứng. Vì vậy về thực
chất, không gian và thời gian là một thể thống nhất không - thời và có 4 chiều.
* Chú ý: Trong lịch sử phát triển của khoa học tự nhiên, quan niệm
không gian và thời gian được thể hiện trước hết trong quan niệm của Cơ học cổ
điển của Niu tơn.
Khái niệm không gian thời gian tuyệt đối mà cơ học cổ điển của Niu tơn đưa
ra dù có yếu tố không đúng đắn nhưng nếu xem xét các sự vật, hiện tượng ở trong
trạng thái đứng yên hay chuyển động thẳng đều thì những đặc tính về không gian
và thời gian cũng được xác định bằng những đại lượng cụ thể.

16


Khi vật lý học hiện đại xuất hiện, những quan niệm về không gian và
thời gian trong cơ học cổ điển không còn thích ứng với việc khảo sát sự chuyển
động của các vật thể vi mô. Trong sự khảo sát đó, không gian và thời gian không
phải chỉ là yếu tố có tính chất liên tục gắn liền với vị trí các vật thể ở trong từng
thời điểm, từng giai đoạn nhất định đó mà nó phản ánh tính liên tục của sự vận

động, biến đổi và phát triển không ngừng của thế giới vật chất. Vì thế, thời gian
vừa là yếu tố có tính chất gián đoạn vừa cóa tính liên tục.
Quan niệm về không gian và thời gian không phải là những đại lượng
bất biến mà luôn luôn biến đổi cùng với sự vận động biến đổi của không gian và
thời gian càng nhiều. Sự biến đổi của không gian và thời gian được thể hiện trong
lý thuyết tương đối của Anhxtanh.
Thuyết tương đối hẹp đã bác bỏ quan niệm không gian tuyệt đối và thời
gian tuyệt đối của Niu tơn, không gian và thời gian có tính tương đối có quan hệ
chặt chẽ với vận động của vật chất và không tách rời khỏi vật chất.
Thuyết tương đối rộng cho ta một bức tranh khái quát và sâu sắc hơn về
mối quan hệ giữa không gian, thời gian với vận động và vật chất. Đây là minh
chứng nữa xác định tính đúng đắn trong quan niệm của chủ nghĩa duy vật biện
chứng về mối quan hệ chặt chẽ không thể tách rời giữa vật chất, vận động, không
gian và thời gian.
* Ý nghĩa phương pháp luận trong hoạt động quân sự:
- Ý nghĩa phương pháp luận: Trong hoạt động thực tiễn xã hội,
muốn nhận thức đúng sự vật hiện tượng phải có quan điểm LS cụ thể phải gắn sự
vật hiện tượng với điều kiện hoàn cảnh, thời điểm cụ thể (tức điều kiện không gian
và thời gian tồn tại của vật chất) phải xét cả quá khứ, hiện tại và tương lai của nó.
Chống rập khuôn giáo điều, áp đặt chủ quan duy ý chí, tùy tiện KG- TG cho sự vật
hiện tượng.
Liên hệ đánh giá các thành tựu – khuyết điểm trên quan điểm lịch sử
cụ thể
Phê phán chủ nghĩa hư vô, phủ nhận sạch trơn bất chấp tính lịch sử áp
đặt chủ quan
* Trong hoạt động quân sự;
- Không gian trong quân sự là điều kiện hoàn cảnh địa hình,
thời tiết nơi các quân nhân hoạt động.
- Trong chiến đấu người chỉ huy phải biết không gian chiến
trường, phạm vi trận đánh địa hình để tổ chức lực lượng thích hợp.

- Thời gian trong hoạt động quân sự rất quan trọng đặc biệt là
thời cơ đánh địch, thời gian trước trong và sau trận đánh, người chỉ huy phải nắm
chắc thời gian liên quan đến từng trận đánh và cho cả chiến dịch.
- Ta trong chống pháp trường kỳ kháng chiến, đánh mùa xuân
năm 1975 chọn không gian mở màn buôn Ma Thuột thời gian kết thúc trước mùa
mưa năm 1975. ( tháng 04)
II. NGUỒN GỐC, BẢN CHẤT Ý THỨC
1. Nguồn gốc của ý thức
* Định nghĩa ý thức: Là một phạm trù triết học dùng chỉ một hình
thức phản ánh cao nhất diễn ra trong óc người thông qua sự tương tác biện chứng
giữa con người với hiện thực khách quan.
* Nguồn gốc của ý thức.
17


- Nguồn gốc tự nhiên. Dựa trên cơ sở của những thành tựu KHTN, CNDVBC
khẳng định: Ý thức là thuộc tính riêng có của một dạng vật chất có tổ chức cao nhất là
bộ óc con người. Bởi vì:
- Bộ óc người là tổ chức sống đặc biệt có cấu trúc tinh vi và phức tạp(1415 tỷ tế bào). Các tế bào này liên hệ với nhau và liên hệ với các giác quan tạo thành vô
số những mối liên hệ thu nhận và xử lý thông tin trong quan hệ với thế giới bên ngoài
qua các phản xạ..
- Từ mối liên hệ giữa óc người và thế giới bên ngoài. Chính mối liên hệ
ấy hình thành nên quá trình phản ánh thế giới vật chất vào trong óc người.
Học thuyết phản ánh khẳng định : Phản ánh là thuộc tính phổ biến của mọi
dạng vật chất, là sự tái tạo những đặc điếm của hệ thống vật chất này ở hệ thống vật
chất khác trong quá trình tác động qua lại giữa chúng. Kết quả phụ thuộc cả hai vật
.Vật nhận tác động mang thông tin của vật tác động.
Như vậy, bộ não người và sự tác động của thế giới khách quan vào não người
thông qua các giác quan là nguồn gốc tự nhiên của ý thức.
Điều này căn cứ vào học thuyết phản ánh của Lênin tập 18 nội dung cơ

bản như sau:
+ Mọi hệ thống vật chất đều có thuộc tính phản ánh, đó là năng lực giữ lại tái
hiện của hệ thống vật chất này những đặc điểm của hệ thống vật chất khác trong
quá trình tác động qua lại giũa chúng.
+ Sự tác động giữa 2 hệ thống vật chất bao giờ cũng gây ra một sự biến đổi
nhất định sự biến đổi này phụ thuộc vào cả vật tác động và vật bị tác động
+ Sự biến đổi trong vật nhận tác động bao giờ cũng mang “dấu vết”
hình ảnh hay một nội dung thông tin nào đó về vật tác động ( có ý nghĩa khẳng định
ý thức là phản ánh của thế giới khách quan vào óc người, nội dung của ý thức là
khách quan, mang nội dung vật chất khách quan. Não người cơ quan phản ánh thế
giới vật chất xung quanh, và sự tác động của thế giới vật chất xung quanh, nên não
người là nguồn gốc tự nhiên của ý thức)
Điều này khoa học đã chứng minh;
+ Giới vô cơ phản ánh vật lý, thụ động, đơn giản máy móc,
không có lựa chọn.
+ Giới hữu sinh thực vật phản ánh mang tính kích thích có chọn
lọc trước điều kiện môi trường sống, động vật bậc thấp phản ánh mang tính cảm
ứng (tức năng lực cảm giác) nó được thực hiện do hệ thần kinh đẻ liên hệ giữa cơ
thể với môi trường thông qua phản xạ bẩm sinh. Ví dụ sâu bọ mầu sắc giống lá cây.
Động vật bậc cao có xương sống và hệ thần kinh trung ương phản ánh đạt
trình độ tâm lí thông qua phản xạ có điều kiện. Một số đạt hành vi trí tuệ, kỹ xảo
song đó chỉ là quá trình tư duy bằng tay con vật mò mẫm làm chứ không hiểu bản
chật việc làm của nó. Song đây là mắt khâu trung gian để chuyển tiếp từ tâm lý
động vật lên ý thức con người.
+ Khi vượn biến thành người thì phản ánh tâm lý ở động vật
chuyển lên một hình thức mới cao hơn về chất, phản ánh ý thức đó là hình thức
phản ánh cao nhất riêng có ở óc người nhờ có mối liên hệ vật chất giữa óc người và
thế giới bên ngoài ý thức mới xuất hiện và hình thành ở trong óc, óc liên hệ với bên
ngoài thông qua các giác quan (nhờ tác động của thế giới vật chất gây ra cảm giác ý
thức)

* Nguồn gốc xã hội.
18


- Lao động là quá trình con người tác động vào giới tự nhiên tạo ra sản
phẩm phục vụ cho nhu cầu con người và xã hội.
Lao động là hoạt động riêng có của con người; là điều kiện tiền đề để con người
tồn tại và phát triển; lao động đã làm cho tự nhiên bộc lộ các thuộc tính để con người
nhân thức.
+ Vai trò của lao động: lao động là hoạt động đặc thù của con người, làm
cho con người và xã hội loài người khác về chất các loài động vật khác…
+ Lao động là cơ sở cho hình thành phát triển ngôn ngữ. trong lao động tất
yếu phải liên hệ với nhau và có nhu cầu trao đổi kinh nghiệm. từ đó nảy sinh nhu
cầu phải nói với nhau một cái gì đấy vì thế ngôn ngữ ra đời và phát triển cùng lao
động.
- Ngôn ngữ: là sự phản ánh hiện thực khách quan vào trong não người bằng
những tín hiệu, dấu hiệu là phương tiện mã hoá và truyền đạt thông tin. Là hệ thống tín
hiệu vật chất mang nội dung ý thức, không có ngôn ngữ thì ý thức không thể tồn tại.
Là công cụ phương tiện để con người giao tiếp trong xã hội, công cụ của tư duy
để khái quát hiện thực.
Như vậy: Ý thức là sự phản ánh hiện thực khách quan vào trong bộ óc con
người thông qua lao động, ngôn ngữ và các quan hệ xã hội. Ý thức là sản phẩm xã hội,
là một hiện tượng xã hội.
Ngôn ngữ là công cụ, phương tiện để con người phản ánh khái quát hóa, trừu
tượng hóa và truyền đạt nội dung tri thức, tư tưởng từ người này sang ng\ười khác,
từ thế hệ này sang thế hệ khác. Vì thế ngay từ đầu ngôn ngữ đã là phương tiện vật
chất không thể thiếu của quá trình hình thành ý thức.
Tóm lại: lao động và ngôn ngữ là hai sức kích thích chủ yếu để biến dần bộ
óc con vật thành bộ óc người, biến tâm lí động vật thành ý thức nó là những mặt xã
hội quyết định sự hình thành và phát triển ý thức.

Cùng với mặt tự nhiên, mặt xã hội trong nguồn gốc ý thức là những điều cần
và đủ để hình thành ý thức. Như vậ,y ý thức ra đời là sản phẩm phát triển của tự
nhiên và lịch sử xã hội. nguồn gốc trực tiếp của ý thức là thực tiễn xã hội. Do đó ý
thức là một hiện tượng xã hội mang bản chất xã hội. Đây là cơ sở lí luận để chúng
ta chống CNDT.
2. Bản chất của ý thức
Chủ nghĩa duy vật biện chứng khẳng định: Ý thức là sự phản ánh hiện thực
khách quan vào trong bộ óc con người một cách năng động sáng tạo. Là hình ảnh
chủ quan của thế giới khách quan. Mác: “ ý thức chẳng qua chỉ là vật chất được đem

chuyển vào trong đầu óc con người và được cải biến đi trong đó, nói cách khác là hình
ảnh chủ quan của thế giới khách quan”.
(C.Mác - Angghen Toàn tập, tập 23
Nxb CTQG H 1993 tr 35)
* Thừa nhận cả vật chất và ý thức đều tồn tại hiện thực. Nhưng giữa chúng
có sự khác nhau về bản chất (Cái bị phản ánh – vật chất là hiện thực khách quan,
còn cái phản ánh – ý thức là hiện thực chủ quan).
* Ý thức là hình ảnh chủ quan của thế giới khách quan.
* Sự phản ánh của ý thức mang tính tích cực, chủ động, sáng tạo.
- Trao đổi thông tin
- Mô hình hóa đối tượng
19


- Chuyển hóa mô hình từ tư duy ra hiện thực khách quan.
Tuy nhiên, tính sáng tạo của ý thức là sáng tạo của sự phản ánh, theo
quy luật của sự phản ánh, kết quả bao giờ cũng là khách thể tinh thần, chứ không
phải sáng tạo ra thế giới vật chất.
- Vô thức là một hiện tượng tâm lý, nhưng có liên quan đến những
hoạt động xảy ra ở ngoài phạm vi ý thức chưa được con người ý thức đến( giấc mơ

thôi miên hành động kỹ xảo..)
+ Vô thức là vô thức của con người có ý thức, nên không cô lập, tách rời ý
thức và thế giới khách quan, và không thể là cái quyết định ý thức và hành vi hoạt
động của con người. Trong hoạt động của con người ý thức vẫn là chủ đạo quyết
định hành vi cá nhân.
+ Vô thức cũng đóng vai trò quan trọng trong đời sống của con người. Nhờ
vô thức mà con người tránh được sự căng thẳng thần kinh không cần thiết do làm
việc qúa sức, nhờ vô thức mà con người có thể thực hiện được các chuẩn mực đã
được đặt ra một cách nhanh chóng.
+ Chống Phờ rớt vô thức là hành động chủ yếu của con người,tuyệt đối hóa
nó= hạ hành động con người bằng con vật.
3. Kết cấu của ý thức
* Tiếp cận các yếu tố hợp thành quá trình tâm lý gồm: Tri thức, tình cảm, ý
chí.
* Tiếp cận theo cấp độ phản ánh gồm: Tự ý thức, tiềm thức, vô thức.
III. MỐI QUAN HỆ VẬT CHẤT VÀ Ý THỨC
Chủ nghĩa duy vật biện chứng khẳng định: Vật chất và ý thức là hai
phạm trù chung nhất, khái quát nhất có mối quan hệ biện chứng tác động qua lại lẫn
nhau. Trong đó, vật chất có trước, ý thức có sau, vật chất quyết định ý thức, song ý
thức có vai trò tác động trở lại to lớn đối với vật chất.
* Vật chất quyết định ý thức
- Cơ sở khẳng định:
Từ chính sự tồn tại khách quan của thế giới vật chất và sự ra đời của ý
thức.
Vật chất là cái vốn có tồn tại khách quan độc lập với ý thức, là nguồn gốc
sinh ra ý thức. Chỉ có một thế giới duy nhất là thế giới vật chất tồn tại khách quan tự nó
tự thân vận động phát triển đến một giai đoạn nhất định xuất hiện con người, và xã hội
loài người mới xuất hiện ý thức
- Biểu hiện:
Vật chất quyết định nguồn gốc ra đời, nội dung và sự biến đổi của ý

thức.
* Ý thức tác động trở lại vật chất
- Cơ sở khẳng định: Từ bản chất của ý thức và từ vai trò hoạt động
thực tiễn của con người. Mác: “ Thực tiễn căn bản không thực hiện được gì hết,
muốn thực hiện được tư tưởng thì cần có những con người sử dụng lực lượng thực
tiễn..”
“ Cố nhiên vũ khí phê phán ….. mà thôi..”
- Biểu hiện: Ý thức chỉ đạo, hướng dẫn, định hướng cho hoạt động
của con người; thúc đẩy tính tích cực, chủ động của con người đi sâu nhận thức và
cải tạo thế giới, qua đó tác động trở lại vật chất theo hai chiều hướng: Nếu phản ánh
đúng hiện thực khách quan thì thúc đẩy hiện thực khách quan phát triển và ngược lại.
20


* Tính thống nhất vật chất của thế giới
Chủ nghĩa duy vật biện chứng khẳng định: Bản chất của thế giới là vật chất,
thế giới thống nhất ở tính vật chất.
- Chỉ có một thế giới duy nhất và thống nhất là thế giới vật chất, thế
giới vật chất tồn tại khách quan, có trước và độc lập với ý thức và được con người
phản ánh.
- Mọi bộ phận của thế giới vật chất đều có mối liên hệ thống nhất với
nhau.
- Thế giới vật chất tồn tại vĩnh viễn vô hạn và vô tận không ai sinh ra
không tự mất đi.
Chú ý: Quan điểm của triết học Mác- Lênin về tính thống nhất vật chất của
thế giới. Luận điểm của Lênin về ý nghĩa tuyệt đối và ý nghĩa tương đối của sự đối lập
giữa vật chất và ý thức.
Vấn đề cơ bản của triết học phản ánh sự đối lập giữa vật chất và ý thức.
Tuy nhiên, theo Lênin, không cường điệu, khuyếch đại quá đáng sự đối lập đó,
bởi vì sự đối lập giữa vật chất và ý thức vừa có tính tuyệt đối vừa có tính tương đối.

Tính tuyệt đối của sự đối lập đó thể hiện ở việc xác định giữa vật chất và ý thức cái
nào là tính thứ nhất và cái nào là tính thứ hai.
Theo quan điểm duy vật Mácxit, vật chất là cái có trước, cái sinh ra ý thức, còn
ý thức là cái có sau, do vật chất quy định. Đó là nguyên tắc tuyệt đối của thế giới
quan duy vật. Tính tương đối của sự đối lập đó thể hiện ở chỗ ý thức do vật chất sinh
ra, bắt nguồn từ một thuộc tính của vật chất là thuộc tính phản ánh. Ý thức chẳng qua
chỉ là sự phản ánh, là hình ảnh của vật chất, mặt khác ý thức (cái tư tưởng) có thể
chuyển hóa thành cái vật chất thông qua hoạt động thực tiễn của con người.
Lênin viết: “ Sự đối lập giữa vật chất và ý thức chỉ có ý nghĩa tuyệt đối
trong những phạm vi hết sức hạn chế: trong trường hợp này, chỉ giới hạn trong
vấn đề nhận thức luận cơ bản, là thừa nhận cái gì là có trước và cái gì là cái có
sau? Ngoài giới hạn đó. Không còn nghi ngờ gì nữa rằng sự đối lập đó là tương
đối”.
Ý nghĩa phương pháp luận
* Tôn trọng khách quan, đồng thời phát huy tính năng động chủ quan
của con người trong nhận thức và cải tạo thế giới.
- Tôn trọng khách quan là căn cứ vào điều kiện khách quan, quy luật
khách quan lấy khách quan làm cơ sở phương tiện cho hoạt động của mình.
+ Nguyên tắc khách quan trong xem xét: nghĩa là trong nhận thức và
hành động phải bảo đảm tính khách quan xem xét sự vật như nó có, không thêm bớt,
gán ghép chủ quan; trong hoạt động thực tiễn phải luôn xuất phát từ thực tế, tôn trọng
và hoạt động theo qui luật khách quan.
+ Nguyên tắc này yêu cầu: chống thái độ chủ quan, duy ý chí, đi từ
nguyện vọng chủ quan, lấy ý chí làm cơ sở cho chủ trương chính sách, áp đặt cho
thực tế.
- Phát huy tính năng động chủ quan là phải biết nhận thức và vận dụng quy
luật khách quan 1 cách đúng đắn, sáng tạo không rập khuôn, giáo điều, cứng nhắc.
+ Phát huy tính tích cực của ý thức là làm cho ý thức phản ánh đúng hiện
thực khách quan từ đó làm con người hình thành mục đích phương hướng, biện
pháp và ý chí cần thiết cho hoạt động thực tiễn của mình.


21


+ Trong hoạt động thực tiễn phải nâng cao trình độ tri thức khoa học cho
nhân dân cán bộ sỹ quan chiến sỹ, dân trí, tri thức hóa, đồng thời củng cố, bồi
dưỡng nhiệt tình cách mạng, ý chí cách mạng cho nhân dân, cán bộ, chiến sỹ… bảo
đảm sự thống nhất giữa nhiệt tình cách mạng, ý chí cách mạng và tri thức khoa học.
- Chống chủ quan duy ý chí lấy mong muốn chủ quan ý chí con người làm
cơ sở bất chấp ĐKKQ QLKQ duy tâm.
+ Nguồn gốc bệnh chủ quan duy ý chí từ nhận thức, từ sự yếu kém về tri
thức khoa học, lý luận không đáp đáp ứng yêu cầu của thực tiễn, về mặt đời sống
xã hội giai cấp tâm lý của người sản xuất nhỏ chi phối, cơ chế quan liêu bao cấp
cũng tạo điều kiện cho ra đời bệnh chủ quan duy ý chí.
+ Tác hại vai trò tuyệt đối hóa vai trò nhân tố chủ quan, duy ý chí, xa rời
hiện thực khách quan bất chấp quy luật khách quan, lấy nhiệt tình cách mạng thay
cho sự yếu kém tri thức khoa học, lối suy nghĩ và hành động giản đơn nóng vội =.>
Tác hại nghiêm trọng đối với CNXH
+ Để khắc phục chủ quan duy ý chí, phải tiến hành động bộ các biện pháp:
đổi mới tư duy lý luận, nâng cao năng lực trí tuệ trình độ lý luận của Đảng. Trong
hoạt động thực tiễn phải tông trọng khách quan, phải đổi mới cơ chế quản kinh tế
đổi mới phương thức lãnh đạo và tổ chức của hệ thống chính trị chống bảo thủ, trì
trệ, quan liêu.
Chống tư tưởng thụ động và chủ nghĩa giáo điều xa rời thực tiễn thụ động
bất chấp quy luật KQ xa rời thực tiễn sách vở kinh viện duy tam duy ý chí.
* Trong hoạt động quân sự ý nghĩa phương pháp luận đối với giải quyết
mối quan hệ khách quan chủ qưuan trong lĩnh vực quân sự.
- Tại sao từ MQH VC-YT trong hoạt động thực tiễn lại giải quyết MQH
Khách Quan – Chủ quan.
+ Thực chất MQH VC-YT là MQH giữa con người và phần còn lại của thế

giới KQ. Trong MQH đó con người là chủ thể tác động vào thế giới để nhận thức
và cải tạo nó, còn thế giới VC chịu sự tác động, nhận thức và cải tạo cuat chủ thể là
khách thể.
/. Chủ thể là con người (một cá nhân, 1 tập thể có tổ chức) có tri thức, ý chí,
tình cảm và năng lực tổ chức hoạt động cải tạo thế giới khách quan.
/. Khách thể là đối tượng chịu sự tác động, nhận thức và cải tạo của chủ thể
(có thể là 1 SV, 1 hiện tượng, có thể là 1 thế giới VC hoặc 1 con người).
+ MQH VC-YT đây là vấn đề cơ bản của mọi triết học nên việc giải quyết
MQH VC-YT có ý nghĩa phương pháp luận chung cho giải quyết các vấn đề khác
của triết học trong đó có MQH KQ-CQ.
+ Mặt khác con người cải tạo thế giới không phải trực tiếp bằng YT mà bằng
hoạt động VC được YT chỉ đạo (tức hoạt động thực tiễn). hoạt động thực tiễn là
khâu trung gian giữa tri thức tình cảm ý chí (tức những nhân tố chủ quan) của chủ
thể với điều kiện hoàn cảnh môi trường và những QL vận động của chúng (tức
những nhân tố KQ) của khách thể ===> trong hoạt động thực tiễn phải giải quyết
MQH KQ-CQ.
- Khái niệm KQ-CQ:
+ Khách Quan : là phạm trù chỉ tất cả những gì tồn tại không lệ thuộc vào
YT của chủ thể, hợp thành 1 hoàn cảnh hiện thực, thường xuyên và trực tiếp quy
định mọi hoạt động của chủ thể.
/. Nội dung chủ yếu của phạm trù KQ
22


Điều kiện KQ là tổng thể các mặt, các yếu tố tạo lên 1 hoàn cảnh hiện thực
trong đó chủ thể sống và lao động cải tạo khách thể.
QL KQ: là những QL vận động tất yếu của khách thể (nói chung gồm các ql
của TN-XH-TD) nó là cái bao trùm nhất của phạm trù KQ là cái quyết định hoạt
động chủ quan của chủ thể.
Hoàn cảnh khách quan là những mầm mống, tiền đề, khuynh hướng của

hoàn cảnh đối tượng mà trong những điều kiện nhất định biến thành hiện thực.
- Khái niệm CQ:
+ CQ: là hệ thống các phẩm chất, năng lực của chủ thể phụ thuộc vào YT
của chủ thể được hình thành trên cơ sở phản ánh và cải tạo khách quan.
/. Nội dung phạm trù CQ gồm:
Tri thức: là trình độ nhận thức hiểu biết của con người, là nội dung cơ bản
của YT.
Tình cảm, ý chí: là sự định hướng thôi thúc bên trong để chuyển hóa sự hiểu
biết thành quyết tâm hành động.
Năng lực tổ chức hành động đó là năng lực tổ chức, liên kết và sử dụng các
lực lượng thực tiễn (người với người-người với vật) thành 1 cơ chế hành động
thống nhất có sức mạnh thay đổi được thế giới hiện thực.
- Mối quan hệ KQ-CQ
+ Theo triết học MLN cái KQ-CQ là 2 mặt không thể tách rời nhau và tác
động biện chứng với nhau trong đó cái KQ là tính thứ nhất quyết đinh cái chủ
quan, cái CQ là tính thứ 2 tác động trở lại cái KQ trên cơ sở phù hợp với nó.
/. Khách Quan quyết định Chủ Quan.
Vì:
=> Mọi hoạt động con người đều phản ánh những nhu cầu đã chín muồi của
đời sống xã hội nó không phải do ảo tượng tùy tiện.
=> Những nhiệm vụ mà con người phải giải quyết đều do lịch sử đề ra và
quy định nội dung biện pháp giải quyết nó
=> Hoạt động chủ yếu của con người để phát hiện và vận dụng những quy
luật KQ để tạo ra những điều kiện và hoàn cảnh cần thiết cho đời sống xã hội.
/. CQ không hoàn toàn thụ động mà có vai trò to lớn trong biến đổi cải tạo
cái KQ thong qus hoạt động thực tiễn.
Vì:
Lênin: “Thế giới không thỏa mãn con người và con người quyết định biến
đổi thế bằng hành động của mình”.
Biểu hiện đặc thù KQ-CQ trong hoạt động Quân sự

- Đặc thù trong hoạt động QS: là một hoạt động đặc biệt của hoạt động
thực tiễn xã hội, với những đặc điểm và tính chất phức tạp. Với các tình huống
luôn luôn vận động biến đổi, chịu sự chi phối nghiêm ngặt của hệ thống các QL
chiến tranh, song lại chứa đựng vô số cái ngẫu nhiên bất ngờ, nó sử dụng 1 hệ
thống công cụ đặc biệt chuyên dung công cụ bạo lực vũ trang. Tính chất của hoạt
đọng QS luôn diễn ra trong điều kiện căng thẳng khẩn trương ác liệt liên quan đến
mạng sống con người chủ thể.
- Đặc thù MQH KQ-CQ trong lĩnh vực QS:
MQH KQ-CQ trong lĩnh vực QS được biểu hiện thành MQH giữa chủ thể
QS (người chỉ huy, các đơn vị thuộc quyết) với hệ thống các QL tác động vào quá

23


trình chuẩn bị và sử dụng 1 loại công cụ đặc biệt của thực tiễn (công cụ bạo lực vũ
trang).
Vì: => Vai trò quyết định của Quy Luật chiến tranh, trong đó Quy Luật
“mạnh được yếu thua”. => Vai trò bạo lực nói chung và bạo lực vũ trang nói riêng
đối với Nhà nước và Quân đội đối với thành bại cuả chiến tranh => Vai trò của vũ
khí trang bị giải quyết MQH giữa con người với VKTB.
- MQH KQ-CQ được biểu hiện thành sự đối địch với các bên tham chiến.
Vì: => Phía trước chủ thể không phải đơn thuần là giới tự nhiên cần phải cải
tạo mà là đối phương cần phải tiêu diệt, đối phương đó là con người với dầy đủ sức
mạnh vật chất và tinh thần được kết hợp trong đó.
Do đó phải xuất phát từ đối tượng tác chiến tính đến khả năng của đối
phương để có phườn án đối phó đồng thời phải chuẩn bị mọi mặt huấn luyện bộ đội
xây dựng kế hoạch chiến đấu, quyết tâm chiến đấu phù hợp với tình hình địch ta và
các điều kiện khác.
Mối quan hệ khách quan và chủ quan được biểu hiện thành mối quan hệ giữa
chủ thể và khách thể quân sự với điều kiện và hoàn cảnh đất nước, quân đội và thực

tế chiến trường.
Vì: Sự quyết định của chế độ xã hội với chiến tranh sự phụ thuộc của quân
đội vào kinh tế và chính trị vào điều kiện hoàn cảnh đất nước’
Do đó chủ thể quân sự phải trên cơ sở phân tích khoa học khách quan trong
nước, chiến trường và điều kiện kinh tế để lựa chọn những hình thức tổ chức,
phương thức tiến hành chiến tranh tối ưu nhất để thực hiện những mục tiêu đặt ra.

KẾT LUẬN
Trên lập trường của chủ nghĩa duy vật biện chứng, lần đầu tiên triết học Mác Lênin đã giải quyết một cách đúng đắn, khoa học và triệt để vấn đề cơ bản của triết học.
Đây là cơ sở thế giới quan, phương pháp luận trong nhận thức và hoạt động thực tiễn
của con người. Đồng thời, là cơ sở củng cố lòng tin vào sự nghiệp đổi mới đất nước hiện
nay, góp phần tích cực vào việc xây dựng quân đội nhân dân cách mạng, chính quy, tinh
nhuệ và từng bước hiện đại, hoàn thành tốt mọi nhiệm vụ mà Đảng, Tổ quốc và nhân
dân giao cho.
Vấn đê 3: PHÉP BIÊN CHỨNG DUY VẬT - KHOA HỌC VỀ
MỐI LIÊN HỆ PHỔ BIẾN VÀ VỀ SỰ PHÁT TRIỂN
MỞ ĐẦU
Triết học Mác – Lênin là sự thống nhất hữu cơ giữa chủ nghĩa duy vật và
phép biện chứng. Việc nghiên cứu toàn diện phép biện chứng có ý nghĩa đặc biệt
quan trọng nhằm xây dựng thế giới quan duy vật triệt để và phương pháp tư duy
biện chứng trong nhận thức và hoạt động thực tiễn.
NỘI DUNG
I. PHÉP BIỆN CHỨNG DUY VẬT
1. Khái niệm phép biện chứng duy vật
24


Phép biện chứng duy vật là một môn khoa học về những quy luật phổ biến
của sự vận động và sự phát triển của tự nhiên, xã hội loài người và của tư duy.
* Phép biện chứng duy vật là hình thức phát triển cao nhất của phép biện chứng.

* Phép biện chứng duy vật là biện chứng khách quan do C.Mác và
Ph.Ăngghen sáng lập, V.I.Lênin là người phát triển, bảo vệ.
* Phép biện chứng duy vật trải qua quá trình phát triển lâu dài của nó trong lịch sử.
* Phép biện chứng duy vật nghiên cứu những quy luật phổ biến sự vận động
phát triển tất yếu của thế giới (bao gồm tự nhiên; xã hội và tư duy). Là lý luận khoa
học và cách mạng trong nhận thức và cải tạo thế giới của giai cấp vô sản.
2. Các hình thức lịch sử của phép bịên chứng
* Phép biện chứng cổ đại (biện chứng ngây thơ)
* Phép biện chứng duy tâm khách quan
* Phép biện chứng duy vật
- Phép biện chứng duy vật do C.Mác, Ph.Ăngghen sáng lập và V.I.Lênin là
người phát triển lên tầm cao mới trong điều kiện mới.
- Phép biện chứng duy vật là kết quả hợp qui luật của sự nhận thức của con
người về thế giới và sự phát triển lâu dài của khoa học, là hình thức phát triển cao
nhất của phép biện chứng.
- Phép biện chứng duy vật cho ta cái nhìn toàn diện, sâu sắc về thế giới, đặc
biệt trong lĩnh vực xã hội và lịch sử. Tư tưởng cơ bản, xuyên suốt, cốt lõi của phép
biện chứng duy vật là tư tưởng về sự phát triển. Vì thế, đã trở thành học thuyết sâu
sắc nhất và không phiến diện về sự phát triển
3. Hệ thống nguyên lý, phạm trù, qui luật của phép biện chứng duy vật
Phép biện chứng duy vật bao gồm hai nguyên lý, ba quy luật cơ bản và
những quy luật không cơ bản (phạm trù).
* Các nguyên lý cơ bản gồm nguyên lý về mối liên hệ phổ biến và nguyên lý
về sự phát triển là những yếu tố đầu tiên phổ quát, định hướng toàn bộ nội dung,
đồng thời xác định nguyên tắc phương pháp luận của toàn bộ hệ thống triết học
Mác nói riêng, chủ nghĩa Mác nói chung.
* Các quy luật cơ bản: Qui luật là những mối liên hệ qui định bản chất của sự
vật hiện tượng, chi phối sự vận động phát triển của sự vật.
Phép biện chứng duy vật gồm có 3 qui luật cơ bản, mỗi qui luật chỉ ra một mặt
khác nhau của sự vận động, phát triển của sự vật, hiện tượng. Qui luật thống nhất và

đấu tranh của các mặt đối lập vạch rõ nguồn gốc, động lực bên trong của sự phát triển;
qui luật chuyển hóa từ những thay đổi về lượng thành những thay đổi về chất và
ngược lại vạch rõ cách thức, trạng thái của sự phát triển; qui luật phủ định của phủ
định vạch rõ khuynh hướng của sự phát triển. Các qui luật này thống nhất hữu cơ với
nhau, tác động qua lại lẫn nhau trong sự vận động, phát triển của sự vật, hiện tượng.
* Các phạm trù của phép biện chứng duy vật: Phạm trù là những khái niệm
chung nhất, phản ánh những mặt, những thuộc tính, những mối liên hệ chung, bản
chất của sự vật hiện tượng trong thế giới khách quan.
Các phạm trù khắc phục những hạn chế mà các qui luật cơ bản không phản
ánh được (do cấu trúc phong phú, phức tạp của sự vật, hiện tượng). Các phạm trù
được gọi là những qui luật không cơ bản vì nó chỉ vạch ra những mối liên hệ bản
chất, tất nhiên của các sự vật, hiện tượng hoặc giữa các sự vật, hiện tượng với nhau,

25


×