Tải bản đầy đủ (.doc) (20 trang)

TIỂU LUẬN - NHẬN THỨC về CHỦ NGHĨA xã hội và CON ĐƯỜNG đi lên CHỦ NGHĨA xã hội ở VIỆT NAM

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (178.76 KB, 20 trang )

---–—µ˜™---

BAØI TIỂU LUẬN
Nhận thức về Chủ nghĩa xã hội
và con đường đi lên Chủ nghĩa xã hội ở Việt Nam

1


LỜI NÓI ĐẦU
Vào giữa thế kỷ XIX, với sự xuất hiện của hệ thống Triết học Mác và đến cuối thế
kỷ này, chủ nghĩa Mác – Lênin ra đời, lịch sử phát triển của xã hội loài người trải
qua các thời kỳ khác nhau với những quan hệ xã hội vật chất nhất định, lần đầu
tiên được nghiên cứu từ trong bản chất để sau đó được khái quát thành một khái
niệm cơ bản duy nhất “ Hình thái xã hội”.
Sự phát triển của xã hội loài người đã lần lượt trải qua nhiều Hình thái kinh tế xã hội (HTKT-XH) khác nhau, đây là một quá trình lịch sử - tự nhiên, vận động,
phát triển theo quy luật khách quan của xã hội, không theo ý muốn chủ quan của
con người.
Trải qua 5 HTKT-XH, từ công xã nguyên thuỷ, chiếm hữu nô lệ… cho đến chủ
nghĩa tư bản (CNTB) và cuối cùng là chủ nghĩa cộng sản (CNCS) mà giai đoạn
đầu là chủ nghĩa xã hội (CNXH), mỗi một HTKT-XH đều chỉ một cấu trúc xã hội
ở từng giai đoạn lịch sử, dựa trên một phương thức sản xuất nhất định với kiểu
quan hệ sản xuất đặc trưng cho cơ sở kinh tế của xã hội và với một kiến trúc
thượng tầng được xây dựng trên cơ sở đó. Mỗi một HTKT-XH đều có cấu trúc phổ
biến và tính quy luật chung, có những mối liên hệ biện chứng giữa lực lượng sản
xuất và quan hệ sản xuất, giữa kiến trúc thượng tầng và cơ sở hạ tầng, giữa tồn tại
xã hội và ý thức xã hội. Sự tác động lẫn nhau giữa các thành phần cơ bản nói trên
là động lực bên trong thúc đẩy sự vận động của HTKT-XH và sự tiến bộ lịch sử,
làm chuyển biến xã hội từ HTKT-XH thấp lên HTKT-XH cao hơn, thường là
thông qua những chuyển biến có tính cách mạng về xã hội.
Nghiên cứu “Nhận thức về Chủ nghĩa xã hội và con đường đi lên Chủ nghĩa xã


hội ở Việt Nam ” là chủ đề bài viết này. Qua bài viết độc giả phần nào nắm bắt
được lý luận về HTKT-XH của Chủ nghĩa Mác-Lênin, nguồn gốc sự thay thế lẫn
nhau của các HTKT-XH trong lịch sử phát triển của xã hội loài người, mô hình về
HTKT-XH XHCN cũng như nhận thức của Đảng ta về CNXH qua các kỳ đại hội
và con đường đi lên CNXH ở nước ta trong thời đại ngày nay.
Do thời gian hạn hẹp, tài liệu nghiên cứu giới hạn, tư duy nghiên cứu còn
hạn chế, nên bài viết không thể không có những thiếu sót hay có sự lặp lại những
tư tưởng, quan điểm đã từng được đề cập đến trước đây. Rất mong sự đóng góp
phê bình của quý độc giả để nội dung bài viết được hoàn thiện hơn.
Tác giả xin chân thành cảm ơn Đại tá – Tiến sỹ Lê Văn Tân đã tận tình
hướng dẫn, chỉ đạo nội dung trong quá trình chuẩn bị và tập thể học viên lớp

2


CHQS - 6 – Học viện Hải Quân đã cung cấp những tư liệu quý báu để tôi hoàn
thành bài viết này.
Thân ái

3


CHƯƠNG I
LÝ LUẬN HÌNH THÁI KINH TẾ - XÃ HỘI
CỦA CHỦ NGHĨA MÁC – LÊNIN

1.1. Tiền đề xây dựng lý luận HTKT-XH:
Như chúng ta đã nghiên cứu Triết học phương Đông, phương Tây thời cổ và trung
đại, các nhà triết học trước Mác đã tìm cách tiếp cận xã hội từ nhiều góc độ khác
nhau, cũng muốn khám phá bản chất xã hội, tìm ra nguyên nhân vận động, phát

triển của xã hội loài người, mặc dù đã đạt được mức độ nào đó về những yếu tố,
mầm mống hợp lý khi nghiên cứu lịch sử xã hội, song những quan điểm đó còn rời
rạc, chưa có hệ thống, chưa phản ánh xã hội một cách toàn diện, nhìn chung còn
giải thích đời sống xã hội xuất phát từ ý thức tư tưởng, niềm tin tôn giáo. Có thể
nói triết học trước Mác chưa có một hệ thống triết học nào nhận thức và khái quát
được các quy luật, phạm trù, khái niệm về quá trình phát triển của xã hội một cách
đúng đắn và hoàn chỉnh. Bên cạnh đó, bản thân các nhà triết học gần như đều xuất
phát từ tầng lớp trung lưu trở lên, do vậy những quan điểm triết học khi nghiên cứu
những quan hệ xã hội đều hướng tới việc phục vụ cho giai cấp thống trị, xem xét
xã hội từ giới trí thức, còn người sản xuất, nông dân chỉ là thứ yếu. Ví dụ Platôn
cho rằng con người sống là để phục vụ nhà nước, vì nhà nước..., hoặc Arixtốt tán
thành sự thống trị của chủ nô đối với nô lệ và đó là lẽ tất nhiên… , còn đối với
Đêmôcrit – nhà triết học duy vật lại cho rằng nền tảng của chế độ nô lệ là nhà
nước, ông tuyên truyền cho dân chủ, tự do, nhưng dân chủ, tự do đó là của chủ nô
chứ không phải là của nô lệ. Hay như Tômát Đacanh, Ôguýtxtanh… cho rằng lịch
sử là sự thể hiện ý chí của Thượng đế, cuộc sống loài người là tấm kịch của vương
quốc cái thiện và cái ác, trong đó con người là vai diễn. Họ truyền bá sự thống trị
của nhà thờ đối với xã hội và bảo vệ sự bất bình đẳng xã hội.
Thành quả phát triển cao nhất của triết học trước Mác là triết học cổ điển Đức thì
vẫn siêu hình và duy tâm khi nghiên cứu về xã hội, mà đại diện là Hêghen, lại cho
rằng toàn bộ sự phát triển của lịch sử xã hội được quy vào sự phát triển của lý tính,
của tinh thần tuyệt đối. Hay Phoiơbắc – nhà triết học duy vật lớn trong nền triết
học cổ điển Đức đã xây dựng được những quan niệm khá triệt để về tự nhiên, song
khi ông nghiên cứu về lịch sử xã hội lại rơi vào duy tâm.
Ngược lại các nhà kinh điển chủ nghĩa Mác – Lênin nghiên cứu các mối quan hệ
xã hội xuất phát từ con người trong thực tại với việc sản xuất của cải vật chất cho
4


xã hội, không đi từ đời sống ý thức, tâm linh của con người mà đi từ đời sống cụ

thể để nghiên cứu, tiếp cận.
Trong tiến trình lịch sử, bất kỳ một xã hội nào dù là thời nguyên thuỷ hay kỷ
nguyên hiện đại, việc sản xuất vật chất vẫn là nền tảng của đời sống xã hội. Để tồn
tại, con người trước hết phải có đồ ăn, thức uống…. , để đáp ứng được nhu cầu đó,
con người bắt đầu từ hái lượm, sau đến trồng trọt, săn bắn…và làm ra các công cụ
sản xuất để kết quả thu được cao hơn. Cũng thông qua hoạt động thực tiễn, mà nhu
cầu và lợi ích của con người được hình thành một cách khách quan ngày càng tăng
về ăn, mặc, ở, giao tiếp, sinh hoạt cộng đồng… nhu cầu đó đồng hành cùng với sự
phát triển tư duy, nhận thức của con người về quy luật tự nhiên. Sự hoạt động của
con người là sự thống nhất giữa mặt khách quan và chủ quan, không thể xoá bỏ
hoặc tạo ra quy luật khách quan, nhưng có khả năng nhận thức và vận dụng vào
thực tiễn. Khi chưa nhận thức quy luật, con người hành động tự phát, khi đã nhận
thức được quy luật và những điều kiện họat động của chúng thì con người điều
khiển hoạt động của mình phù hợp với yêu cầu của quy luật một cách tự giác.
Cùng với việc sản xuất ra của cải vật chất, con người còn sản xuất ra tinh thần, ra
bản thân con người và các quan hệ xã hội. Các lĩnh vực sản xuất này có sự tác
động qua lại lẫn nhau, không tách rời nhau, trong đó sản xuất ra của cải vật chất để
đáp ứng nhu cầu sống cho bản thân và xã hội là cơ sở của đời sống xã hội. Như
vậy, xét đến cùng nhân tố quyết định trong lịch sử vẫn là sản xuất và tái sản xuất ra
đời sống xã hội.
Khi nghiên cứu các mối quan hệ xã hội, Mác đã làm nổi bật những quan hệ xã hội
vật chất, tức là những quan hệ hình thành thông qua hoạt động của con người
nhưng không lệ thuộc vào ý thức con người. Mác coi đó là những quan hệ cơ bản,
ban đầu quyết định các quan hệ khác. Trong quá trình sản xuất của cải vật chất, có
nghĩa con người tác động, cải tạo thiên nhiên, tất yếu nảy sinh quan hệ giữa con
người với tự nhiên. Ngoài ra con người còn phải kết hợp với nhau để cùng sản xuất
hoặc trao đổi trong quá trình sản xuất cũng như của cải làm ra, từ đó nảy sinh quan
hệ giữa người với người. Hai mối quan hệ trên là tất yếu khách quan, không tách
rời nhau, tác động qua lại lẫn nhau tạo thành Phương thức sản xuất (PTSX), trong
đó quan hệ giữa người với tự nhiên trong sản xuất là Lực lượng sản xuất (LLSX),

còn quan hệ giữa người với người trong sản xuất là Quan hệ sản xuất (QHSX).
Trong PTSX, LLSX biểu thị mặt thứ nhất, QHSX biểu thị mặt thứ hai của mối
quan hệ, mối quan hệ giữa con người với con người tồn tại thống nhất với mối
quan hệ giữa con người với tự nhiên, trong đó LLSX là yếu tố động nhất và cách
5


mạng nhất, là nội dung của PTSX. Quy luật QHSX phù hợp với tính chất và trình
độ của LLSX là quy luật cơ bản nhất, mang tính phổ biến tác động đến toàn bộ tiến
trình lịch sử của nhân loại.
Chúng ta biết rằng xu hướng chung của sản xuất là không ngừng biến đổi theo
chiều hướng tiến bộ đó là không ngừng nâng cao năng xuất lao động, tạo ra nhiều
của cải vật chất. Sự biến đổi đó bao giờ cũng bắt nguồn từ sự biến đổi và phát triển
của LLSX mà trước hết là của công cụ lao động. Do vậy, LLSX là yếu tố quyết
định đối với sự biến đổi của PTSX. Trong từng giai đoạn phát triển của lịch sử loài
người, trình độ của LLSX thể hiện trình độ chinh phục tự nhiên của con người
trong giai đoạn lịch sử đó, nghĩa là khả năng của con người sử dụng công cụ lao
động trong việc chinh phục thiên nhiên nhằm bảo đảm cuộc sống của mình.
Trình độ của LLSX thể hiện ở trình độ của công cụ lao động, trình độ tổ chức lao
động, phân công lao động, trình độ ứng dụng khoa học vào sản xuất và kinh
nghiệm, kỹ năng lao động của con người.
Ngoài ra, tính chất của LLSX cũng cũng thể hiện một mặt của LLSX nhưng không
tách biệt với trình độ của LLSX. Khi nền sản xuất được thực hiện với những công
cụ thô sơ, ở trình độ thủ công thì LLSX chủ yếu mang tính cá nhân, còn khi nền
sản xuất đạt tới trình độ cơ khí hoá, hiện đại lúc đó đòi hỏi LLSX phải được vận
động trong sự hợp tác xã hội rộng rãi trên cơ sở chuyên môn hoá cao. Tính chất tự
cung tự cấp của nền sản xuất nhỏ lúc đó phải được thay thế bởi tính chất đa dạng
của nền sản xuất mang tính xã hội hoá.
Chủ nghĩa duy vật lịch sử đã chứng minh vai trò quyết định của LLSX đối với
QHSX, song cũng chỉ rõ tính độc lập tương đối của QHSX trong mối quan hệ đó

và sự tác động trở lại đối với LLSX, quy định mục đích xã hội của sản xuất, tác
động đến khuynh hướng phát triển từ đó hình thành một hệ thống những yếu tố
hoặc thúc đẩy LLSX phát triển, hoặc ngược lại kìm hãm sự phát triển của LLSX.
Thực tiễn đã chứng minh rằng LLSX chỉ có thể phát triển khi có một QHSX hợp
lý, đồng bộ và phù hợp với nó. Khi LLSX đã phát triển mà QHSX không kịp thời
thay đổi cho phù hợp, trở nên lạc hậu hoặc phát triển tiên tiến hơn một cách giả
tạo, lúc đó QHSX trở thành “xiềng xích”, kìm hãm sự phát triển của LLSX. Từ đó,
mâu thuẫn giữa LLSX và QHSX bộc lộ gay gắt (nghĩa là sự không đồng bộ, không
phù hợp ngày càng biểu hiện rõ rệt), đòi hỏi phải giải quyết mâu thuẫn để phá bỏ
QHSX cũ, thiết lập QHSX mới phù hợp hơn. Việc không kịp thời phát hiện hoặc
phát hiện nhưng giải quyết sai lầm, chủ quan sẽ thể hiện sự kìm hãm của QHSX
đối với LLSX, nó trở thành nhân tố phá hoại đối với LLSX.
6


Việc xoá bỏ QHSX cũ, thiết lập một QHSX mới phù hợp không phải là phủ định
sạch trơn, do vậy trong xã hội vẫn còn tồn tại tàn dư của QHSX cũ. Bên cạnh đó,
cùng với việc xây dựng một QHSX mới (QHSX thống trị) đã tiềm ẩn một QHSX
khác cao hơn, hay nói cách khác là QHSX mầm mống. Như vậy, trong xã hội luôn
tồn tại nhiều QHSX khác nhau và tạo nên Cơ sở hạ tầng (CSHT). CSHT được
hiểu là toàn bộ những QHSX hợp thành cơ cấu kinh tế của một xã hội nhất định,
trong đó đặc trưng cho tính chất của một CSHT là QHSX thống trị.
Cùng với việc đưa ra khái niệm về CSHT, Mác cũng đưa ra khái niệm Kiến trúc
thượng tầng (KTTT). Đây là toàn bộ những quan điểm chính trị, tư tưởng xã hội,
cùng với những thiết chế xã hội tương ứng và những quan hệ nội tại của thượng
tầng được hình thành trên một CSHT nhất định. Mỗi yếu tố của KTTT có đặc điểm
và quy luật phát triển riêng, nhưng chúng có liên hệ, tác động lẫn nhau và đều nảy
sinh trên CSHT, phản ánh CSHT, trong đó nhà nước có quyền lực mạnh mẽ nhất
của KTTT. Chính nhờ có nhà nước mà giai cấp thống trị mới thống trị được toàn
bộ đời sống xã hội.

Do được sinh ra trên nền một CSHT nhất định, nên CSHT của một xã hội như thế
nào, tính chất của nó ra sao, giai cấp đại diện cho nó như thế nào... thì hệ thống tư
tưởng chính trị, pháp quyền, đạo đức, triết học,. cũng như các quan hệ, thể chế xã
hội tương ứng với nó cũng như thế. Và do đó, CSHT quyết định sự biến đổi củ
KTTT. Tuy nhiên KTTT cũng có tác động trở lại CSHT, bởi vì chức năng chính trị
- xã hội của KTTT là nhằm bảo vệ, duy trì, củng cố và phát triển CSHT sinh ra nó,
đấu tranh xoá bỏ CSHT và KTTT cũ, lỗi thời, lạc hậu hay ngăn chặn mầm mống
của QHSX mới. Sự biến đổi này dẫn đến sự thay thế lẫn nhau của các thời kỳ trong
lịch sử xã hội loài người.
Như vậy, từ việc vận dụng phép biện chứng vào nghiên cứu và sự kế thừa có
chọn lọc những thành quả triết học của các bậc tiền bối khi tìm hiểu về lịch sử xã
hội loài người, Mác đã nghiên cứu, phân tích một cách khoa học mối quan hệ lẫn
nhau giữa các mặt trong đời sống xã hội, tìm ra quy luật vận động và phát triển từ
đó giải quyết được các vấn đề về phân loại các chế độ xã hội và phân kỳ lịch sử, và
Mác đã đi đến khái quát khoa học về lý luận HTKT-XH. Nguồn gốc và động lực
phát triển của toàn bộ đời sống xã hội, xét đến cùng, vẫn là sự tác động biện chứng
giữa LLSX và QHSX, giữa CSHT và KTTT. Mác đã nhìn thấy sự phát triển của xã
hội từ HTKT-XH này sang HTKT-XH khác không phải do một lực lượng thần bí
hay một cá nhân anh hùng nào mà chính là hoạt động thực tiễn của con người, của
quần chúng nhân dân dưới tác động của các quy luật khách quan. Nói một cách
7


ngắn gọn, quan điểm của triết học Mác về HTKT-XH là cơ sở khoa học cho việc
xem xét và giải quyết những vấn đề căn bản của xã hội hiện đại.
1.2. Phạm trù HTKT-XH của Chủ nghĩa Mác – Lênin. Sự vận động và
phát triển của các HTKT-XH:
Như đã đề cập ở trên, Mác và Ăngghen không nhìn động lực của lịch sử xã
hội từ lực lượng siêu tự nhiên, từ sự thay thế các hình thức tôn giáo khác nhau, mà
nhìn động lực của lịch sử nằm ngay trong hoạt động thực tiễn vật chất của con

người. Học thuyết về HTKT-XH là quan điểm duy vật biện chứng duy nhất được
cụ thể hoá trong xem xét đời sống xã hội.
HTKT-XH là một phạm trù của chủ nghĩa duy vật lịch sử dùng để chỉ xã hội ở
từng giai đoạn lịch sử nhất định, với một kiểu QHSX đặc trưng cho xã hội đó, phù
hợp với một trình độ nhất định của lực lượng sản xuất, và với một kiến trúc thượng
tầng tương ứng được xây dựng trên những QHSX đó.
Như vậy, HTKT-XH là một xã hội cụ thể có kết cấu phức tạp gồm những yếu tố cơ
bản là LLSX, QHSX và KTTT với sự tác động liên hệ qua lại lẫn nhau, trong đó
LLSX là nền tảng vật chất – kỹ thuật của mỗi HTKT-XH. Sự phất triển của
HTKT-XH xét đến cùng là do LLSX quyết định, còn QHSX là quan hệ kinh tế cơ
bản, quyết định tất cả các mối quan hệ khác, là tiêu chuẩn khách quan để phân biệt
chế độ xã hội này với chế độ xã hội khác. Mỗi HTKT-XH có một kiểu QHSX
tương ứng với trình độ nhất định của LLSX.
Học thuyết HTKT-XH không chỉ nêu các yếu tố cấu thành chính nó mà còn coi xã
hội như một cơ thể động, luôn luôn trong quá trình vận động, biến đổi và phát triển
không ngừng theo những quy luật khách quan như những quy luật của giới tự
nhiên. Tuy các quy luật của đời sống xã hội được thể hiện thông qua hoạt động của
con người song không phải vì thế mà nó không mang tính khách quan. Trái lại quy
luật vận động của xã hội không những không phụ thuộc vào ý thức, ý chí con
người mà xét đến cùng còn quyết định ý chí, ý thức của con người.
Như vậy, con người làm ra lịch sử, tạo ra những quan hệ xã hội cụ thể và những xã
hội đó luôn vận động theo quy luật khách quan không phụ thuộc vào ý muốn của
con người. Sự thay thế kế tiếp nhau của các HTKT-XH trong lịch sử đó là quá
trình tiến hoá, bao hàm cảc những bước nhảy vọt tạo nên tiến bộ trong lịch sử loài
người. Theo Mác, sự thay thế HTKT-XH này bằng một HTKT-XS khác cao hơn
thường được thực hiện thông qua cách mạng xã hội, mà nguyên nhân sâu xa của
cuộc cách mạng xã hội là do mâu thuẫn giữa LLSX với QHSX.

8



Quá trình lịch sử tự nhiên của sự phát triển xã hội được thể hiện một cách phong
phú và đa dạng. Tính phong phú và đa dạng nói lên tính độc đáo riêng đối với lịch
sử quá trình phát triển của mỗi dân tộc, quốc gia. Lịch sử xã hội loài người đã trải
qua một số HTKT-XH nhất định từ thấp đến cao. Ngoài các quy luật chung chi
phối đến con đường và quá trình phát triển của mỗi dân tộc, mà còn bị tác động bởi
các điều kiện phát triển cụ thể của mỗi quốc gia, chính vì thế lịch sử phát triển
nhân loại vừa tuân theo những quy luật chung, vừa bị tác động bởi các điều kiện
riêng biệt, vừa rất phong phú và đa dạng. Như do đặc điểm về lịch sử, điều kiện tự
nhiên, chính trị, truyền thống văn hoá, điều kiện nội tại, tác động quốc tế… mà
một số quốc gia không nhất thiết phải đi tuần tự qua các HTKT-XH từ thấp đến
cao theo sơ đồ chung, mà có thể bỏ qua một vài HTKT-XH tiến thẳng lên một
HTKT-XH tiến bộ hơn. Việc bỏ qua này cũng diễn ra theo một quá trình lịch sử tự nhiên chứ không phải theo ý muốn chủ quan. Thực tế lịch sử đã chứng minh
điều đó, nhiều quốc gia trong những điều kiện khách quan, chủ quan, điều kiện bên
trong, bên ngoài cho phép đã phát triển theo con đường bỏ qua một vài HTKT-XH
nào đó để đi lên một HTKT-XH cao hơn. Chẳng hạn ở nước Nga, Ba Lan, Đức…
chế độ phong kiến ra đời không phải từ chế độ chiếm hữu nô lệ, còn ở Mỹ, chế độ
tư bản hình thành trong điều kiện xã hội không phải trải qua chế độ phong kiến…,
ngoài ra cùng một HTKT-XH nhưng ở các nước khác nhau thì hình thức và con
đường tiến lên cũng khác nhau.
Điều kiện để một đất nước có thể bỏ qua một HTKT-XH tiến thẳng tới một HTKTXH cao hơn là khi HTKT-XH cần bỏ qua đã bộc lộ những mặt hạn chế, lạc hậu,
HTKT-XH mới cần đạt được có những yếu tố đã khẳng định tính đúng đắn và sức
sống của nó. Ngoài ra cần phải có sự tác động của các nhân tố, các mâu thuẫn bên
trong, bên ngoài, mà trước hết là phải có lực lượng xã hội tiên tiến.
Xét cho cùng, nguồn gốc sâu xa của sự vận động, phát triển của các HTKT-XH là
từ sự phát triển của LLSX. Như chúng ta đã biết, xuất phát từ mối quan hệ giữa
LLSX với QHSX, khi LLSX phát triển đến một trình độ nhất định nào đó sẽ dẫn
đến sự thay đổi của QHSX, để tạo ra một QHSX mới phù hợp hơn. Đến lượt mình,
khi QHSX thay đổi làm cho KTTT thay đổi theo, vì QHSX thay đổi, dẫn tới CSHT
thay đổi, mà CSHT quyết định KTTT, do đó KTTT cũng sẽ thay đổi. Như vậy dẫn

đến sự vận động, phát triển của các HTKT-XH từ thấp đến cao, từ HTKT-XH này
lên HTKT-XH khác cao hơn.
Trong thời đại hiện nay, chủ trương phát triển rút ngắn để đi lên CNXH ở một số
quốc gia tiền tư bản chủ nghĩa hoàn toàn không mâu thuẫn với tư tưởng về sự phát
9


triển lịch sử tự nhiên của HTKT-XH, thể hiện tính phong phú, sinh động của quá
trình lịch sử tự nhiên. Chỉ khi nào con người chủ quan, tìm cách rút ngắn một cách
tuỳ tiện, duy ý chí, bất chấp quy luật khách quan thì lúc đó sự phát triển rút ngắn sẽ
trở nên đối lập với tư tưởng, lý luận về quá trình lịch sử tự nhiên, ắt sẽ dẫn đến thất
bại. Mác đã chỉ ra rằng đối với một xã hội, mặc dù đã phát hiện ra quy luật tự
nhiên của sự vận động, cũng không thể nào nhảy qua các giai đoạn phát triển tự
nhiên, hay dùng sức mạnh quyền lực để xoá bỏ những giai đoạn đó.
Học thuyết HTKT-XH của Mác lần đầu tiên đã đưa ra những tiêu chíthật sự duy
vật, khoa học cho việc xem xét phânkỳ lịch sử, giúp chúng ta nhận thức được cái
lôgic khách quancủa quá trình tiến hoá xã hội, cũng như bất kỳ một hiện tượng xã
hội nào, từ hiện tượng kinh tế đến hiện tượng chính trị, tinh thần đều có thể cắt
nghĩa một cách chính xác khi gắn nó với một HTKT-XH nhất định. Học thuyết
HTKT-XH là cơ sở phương pháp luận của các khoa học xã hội, là một trong những
nền tảng lý luận của chủ nghĩa xã hội khoa học, nó là cơ sở khoa học để tiếp cận
đúng đắn và vạch ra sự thống nhất của lịch sử trong cái muôn màu muôn vẻ của sự
kiện ở các nước khác nhau trong các thời kỳ khác nhau.
Vào những thập kỷ cuối của Thế kỷ XX, trước những thành tựu kỳ diệu của cuộc
cách mạng khoa học và công nghệ hiện đại, lợi dụng tình hình này, một số nhà xã
hội học phương Tây đã giải thích sự tiến hoá xã hội chỉ là sự chống chọi nhau, sự
thay thế nhau giữa các nền văn minh nhân loại, họ tiếp cận xã hội từ việc phân chia
xã hội thành các nền văn minh, như văn minh nông nghiệp, công nghiệp và hậu
công nghiệp (hay còn gọi là văn minh trí tuệ, văn minh tin học).
Có thể nói cách tiếp cận này tuy có những yếu tố hợp lý nhưng cơ bản là sai lầm,

vì họ chỉ coi trình độ phát triển của khoa học công nghệ, của LLSX là yếu tố quyết
định duy nhất và trực tiếp đối với mọi thay đổi của đời sống xã hội con người, mà
bỏ qua, phủ nhận vai trò của các mối QHSX, của giai cấp, dân tộc, chế độ chính
trị… Thực chất của lý thuyết này là sự cố tình phủ nhận học thuyết về HTKT-XH
của Mác và cố tình chứng minh cho sự tồn tại vĩnh hằng của chế độ tư bản chủ
nghĩa, cũng như khẳng định việc xây dựng và tiến tới một thế giới đại đồng là hoàn
toàn có thể mà không cần phải trải qua các cuộc cách mạng xã hội, tránh được
thương vong, đổ máu. Do đó không thể đem phương pháp tiếp cận theo cách phân
chia xã hội thành các nền văn minh để thay thế cho học thuyết của Mác về HTKTXH. Dù khoa học công nghệ hiện đại có đạt được nhiều bước tiến rực rỡ hơn nữa
trong tương lai thì sự vận động phát triển của xã hội loài người cũng không nằm

10


ngoài nguyên lý mà Mác gọi là “sự thật hiển nhiên” đó. Nền sản xuất vật chất của
xã hội vẫn luôn giữ vai trò nền tảng cho sự tồn tại và phát triển xã hội.
Tại Đại hội đại biểu toàn quốc lần thứ X của Đảng, qua nghiên cứu lý luận, thực
tiễn và đúc kết kinh nghiệm, Đảng ta xác định phát triển, nâng cao hơn nữa trình
độ của LLSX nhằm đáp ứng được yêu cầu CNH-HĐH đất nước. Rõ ràng Đảng ta
đã thấy được nguồn gốc của sự vận động phát triển xã hội là xuất phát từ con
người. Từ lý luận trên, để phát triển LLSX, Đảng thực hiện bằng các chính sách
đối với từng đối tượng lao động trong xã hội, hay từng giai cấp, thành phần trí
thức, từ đó nâng cao chất lượng giáo dục và đào tạo, thực hiện chuẩn hoá, hiện đại
hoá, xã hội hoá giáo dục để tạo ra và xây dựng, phát triển nguồn nhân lực chất
lượng cao cho xã hội.
Song song với việc phát triển LLSX, Đảng cũng chú trọng đến việc thiết lập các
mối QHSX phù hợp để thúc đẩy LLSX phát triển, đó là trên cơ sở ba chế độ sở
hữu: sở hữu toàn dân, tập thể và sở hữu tư nhân, để hình thành nhiều hình thức sở
hữu, nhiều thành phần kinh tế, trong đó kinh tế nhà nước giữ vai trò chủ đạo, là lực
lượng vật chất quan trọng đế nhà nước định hướng và điều tiết nền kinh tế.

Ngày nay, thực tiễn lịch sử có những biến đổi sâu sắc, kiến thức lịch sử của nhân
loại đã có nhiều bổ sung so với khi học thuyết HTKT-XH ra đời. Nhưng những cơ
sở khoa học, mà quan niệm duy vật lịch sử đã đem lại cho khoa học xã hội vẫn còn
nguyên giá trị.
CHƯƠNG II
NHẬN THỨC VỀ CHỦ NGHĨA XÃ HỘI
VÀ CON ĐƯỜNG ĐI LÊN CHỦ NGHĨA XÃ HỘI Ở VIỆT NAM
2.1. Nhận thức về CNXH và mô hình HTKT-XH XHCN:
Thời đại ngày nay – thời đại quá độ từ CNTB lên CNXH trên phạm vi toàn thế
giới, mở đầu bằng cuộc cách mạng Tháng 10 Nga vĩ đại. Đây không là một nguyện
vọng ảo tưởng, chủ quan của giai cấp công nhân và các Đảng cộng sản (ĐCS), mà
là sự phản ánh một tiến trình phát triển khách quan của lịch sử nhân loại. Khi mà
CNTB đã phát triển đến giai đoạn cao – giai đoạn tột cùng của nó làm cho mâu
thuẫn vốn có trong lòng XHTB mà trước hết là mâu thuẫn giữa LLSX được xã hội
hoá rất cao với QHSX TBCN vẫn là quan hệ chiếm hữu tư nhân về TLSX đã phát
triển đến mức gay gắt, cực điểm thì cách mạng XHCN nổ ra là một điều tất yếu.
Cách mạng Tháng 10 Nga nổ ra và giành thắng lợi vừa là hồi chuông báo hiệu sự
11


sụp đổ của CNTB là không thể tránh khỏi, vừa là bằng chứng lịch sử để khẳng
định rằng loài người đang bước vào một HTKT-XH mới – HTKT-XH Cộng sản
chủ nghĩa (CSCN).
HTKT-XH CSCN là giai đoạn phát triển cao nhất trong tiến trình lịch sử của nhân
loại. Sự ra đời và thay thế của HTKT-XH CSCN đối với HTKT-XH TBCN là một
tất yếu lịch sử và được chia thành hai giai đoạn với những đặc điểm khác nhau.
Giai đoạn thấp là CNXH với nền sản xuất phát triển cân đối, có kế hoạch bởi một
LLSX phát triển đạt trình độ cao về cơ khí hoá, cùng với QHSX phù hợp dựa trên
hình thức công hữu XHCN dưới hai hình thức sở hữu toàn dân và tập thể, trong đó
nhân dân lao động làm chủ xã hội trên cơ sở phân phối theo lao động, bình đẳng,

đặt dưới sự lãnh đạo của ĐCS, thông qua nhà nước XHCN. Còn giai đoạn cao là
CNCS. Đây là giai đoạn phát triển cao nhất với một LLSX đạt đến trình độ cao
chưa từng có trong lịch sử, trên cơ sở máy móc hiện đại, được cơ khí hoá tự động
quy mô toàn xã hội, cùng với QHSX sở hữu toàn xã hội, cho phép làm ra của cải
vật chất hết sức dồi dào để thoả mãn nhu cầu của mọi thành viên trong xã hội. Xã
hội hoàn toàn không còn giai cấp, không còn nhà nước, con người được giải phóng
hoàn toàn.
Để đạt được mục tiêu cuối cùng là xây dựng thành công CNCS, các quốc gia phải
phát triển qua giai đoạn quá độ lên CNXH, đây là thời kỳ cải biến cách mạng sâu
sắc, triệt để trên tất cả các mặt của đời sống xã hội và diễn ra dưới hai hình thức:
Quá độ trực tiếp từ CNTB phát triển cao lên CNXH. Và quá độ gián tiếp là từ
CNTB chưa phát triển hay bỏ qua phát triển TBCN tiến thẳng lên CNXH – đây là
con đường lâu dài và nhiều khó khăn, gian khổ.
Nhận thức đầy đủ và đúng đắn về CNXH và thời kỳ quá độ lên CNXH là một
trong những yêu cầu đặt ra đối với các ĐCS. Do từ nhận thức không đúng về thời
kỳ quá độ và cả những sai lầm trong cải cách đổi mới đã làm cho Liên Xô và các
nước XHCN ở Đông Âu sụp đổ, hệ thống XHCN hùng mạnh một thời, là đối trọng
với hệ thống TBCN tan rã, phong trào cách mạng thế giới gặp nhiều khó khăn. Bên
cạnh đó, CNTB tận dụng những thành tựu của khoa học công nghệ hiện đại, kịp
thời điều chỉnh, thích nghi và đang có bước ổn định tương đối, đã chỉ trích mô hình
CNXH, phê phán lý luận của Chủ nghĩa Mác – Lênin về HTKT-XH là không đúng
đắn…. Nhưng không phải vì thế mà chúng ta đã vội vàng phủ nhận tính tất yếu,
hợp quy luật của HTKT-XH CSCN trong thời đại ngày nay. Cũng không phải vì
thế mà chúng ta nghi ngờ về tính khoa học, cách mạng của phương pháp tiếp cận
xã hội của chủ nghĩa Mác – Lênin, mà chúng ta phải nhìn nhận, đánh giá một cách
12


khách quan trên cơ sở phương pháp luận duy vật biện chứng. Tuy có bước thụt lùi
của CNXH, nhưng CNXH ra đời là một tất yếu lịch sử, một sự vận động phát triển

hợp quy luật khách quan, nó được quy định bởi tính lôgic nội tại của nền sản xuất
TBCN. Tuy không còn là một hệ thống nữa, nhưng những tính ưu việt của CNXH
mang lại cho nhân loại trên nhiều phương diện đã từng là chỗ dựa đáng tin cậy, là
thành trì vững chắc cho cuộc đấu tranh của nhân dân lao động và các lực lượng
tiến bộ trên thế giới vì hoà bình, độc lập dân tộc, dân chủ và tiến bộ xã hội. Tuy hệ
thống CNXH không còn nhưng các nước XHCN còn lại do vận dụng đúng đắn
nguyên tắc, nguyên lý của chủ nghĩa Mác – Lênin trong quá trình đổi mới đã thu
được nhiều thắng lợi, CNXH ở những nước này không những không sụp đổ mà
còn phát triển ngày càng vững chắc.
Việc hình thành những quan niệm về CNXH và con đường tiến lên CNXH
là công việc rất khó khăn. Mô hình HTKT-XH XHCN, hay cụ thể là chế độ XHCN
chưa từng có trong lịch sử nhân loại cho đến khi cách mạng Tháng 10 Nga thành
công, mô hình CNXH mà Liên Xô trước đây xây dựng cũng là quá trình mày mò
từng bước vì đây là một chế độ hoàn toàn mới mẻ, được xây dựng trên cơ sở công
hữu về tư liệu sản xuất, không như HTKT-XH TBCN, chỉ thay đổi về mặt xã hội
nhưng bản chất vẫn là chế độ tư hữu tư liệu sản xuất nhưng ở một trình độ bóc lột
cao hơn, tinh vi hơn bởi áp dung khoa học công nghệ vào sản xuất.
Từ mục tiêu xây dựng một chế độ tiên tiến, cách mạng hơn CNTB và qua
thực tiễn xây dựng CNXH ở Liên Xô trước đây, có thể hình thành mô hình xã hội
XHCN với những đặc trưng;
- Dựa trên chế độ công hữu về tư liệu sản xuất chủ yếu dưới hai hình thức
toàn dân và tập thể.
- Nhà nước điều tiết về hình thức, nội dung, mục đích sản xuất, cũng như
quá trình phân phối sản phấm.
- Phân phối mang tính chất bình quân và trực tiếp bằng sản phẩm, xem nhẹ
các quan hệ hàng hoá, tiền tệ.
- Nhà nước quản lý bằng mệnh lệnh hành chính là chủ yếu, xem nhẹ các
biện pháp kinh tế.
Bác Hồ đã chỉ rõ: "CNXH là gì? Là mọi người được ăn no, mặc ấm, sung
sướng và tự do. Nhưng nếu tách riêng một mình mà ngồi ăn no, mặc ấm, người

khác thì mặc kệ, thế là không tốt… CNXH là làm cho dân giàu, nước mạnh… Ai
làm nhiều thì ăn nhiều, ai làm ít thì ăn ít, ai không làm không ăn, tất nhiên là trừ
những người già cả, đau yếu và trẻ con. Thế ta đã đến đấy chưa? Chưa đến, CNXH
13


không thể làm mau được mà phải làm dần dần" CNXH là "một xã hội không có
chế độ người bóc lột người, một xã hội bình đẳng, nghĩa là ai cũng phải lao động
và có quyền lao động, ai làm nhiều hưởng nhiều, ai làm ít hưởng ít, không làm
không hưởng…".
Từ thực tiễn xây dựng CNXH ở nước ta sau khi thống nhất đất nước cho đến
trước thềm Đại hội VI của Đảng, với nhiều sai lầm trong nhận thức, nóng vội trong
hành động, chủ quan duy ý chí trong tư duy, suy nghĩ dẫn đến tình trạng đất nước
ngày càng khó khăn, nền kinh tế suy giảm. Trên cơ sở nhận thức về thời đại, nhận
thức về dân tộc và sức mạnh dân tộc, từ thực tiễn của bài học kinh nghiệm trong
xây dựng đất nước, dựa trên nền tảng của chủ nghĩa Mác – Lênin và tư tưởng Hồ
Chí Minh, Đảng ta đã tìm ra con đường mới để tiến lên CNXH cho dân tộc. Con
đường đó chưa có trong tiền lệ, nhưng không trái với nguyên lý cơ bản của chủ
nghĩa Mác – Lênin và rất phù hợp với Việt Nam, mang đậm dấu ấn của tư tưởng
Hồ Chí Minh, thể hiện tư duy lý luận của Đảng ta về CNXH không ngừng vận
động và phát triển. Nhận thức ấy được thể hiện qua các kỳ Đại hội của Đảng, mà
đánh dấu bước đổi mới về tư duy, lý luận bắt đầu từ Đại hội VI : “Phải kiểm kê lại
toàn bộ tư duy của chúng ta, chúng ta đã suy nghĩ như thế nào về CNXH, về công
tác của chúng ta, từ đó cái gì đúng thì giữ lại, cái gì sai cần phải sửa, phải bổ sung”
Đến Đại hội Đảng lần thứ VII đã thông qua “Cương lĩnh xây dựng đất nước
trong thời kỳ quá độ lên CNXH”. Cương lĩnh thể hiện sự đổi mới tư duy, đổi mới
nhận thức về CNXH, là sự kế thừa và vận dụng một cách sáng tạo Chính cương
vắn tắt (3/2/1930) và Luận cương (10/1930) cũng như Chính cương (năm 1951)
của Đảng, đồng thời cũng là bước phát triển cao hơn so với Đại hội VI.
Cương lĩnh đã phác thảo ra mô hình CNXH ở nước ta với sáu đặc trưng:

- Do nhân dân lao động làm chủ.
- Có một nền kinh tế phát triển cao, dựa trên LLSX hiện đại và chế độ công
hữu về các tư liệu sản xuất chủ yếu.
- Có nền văn hoá tiên tiến, đậm đà bản sắc dân tộc.
- Con người được giải phóng khỏi áp bức, bóc lột, bất công, làm theo năng
lực, hưởng theo lao động, có cuộc sống ấm no, tự do, hạnh phúc, có điều kiện phát
triển toàn diện mỗi cá nhân.
- Các dân tộc trong nước bình đẳng, đoàn kết và giúp đỡ lẫn nhau cùng tiến bộ.
- Có quan hệ hữu nghị và hợp tác với nhân dân tất cả các nước trên thế giới.
Sáu đặc trưng nêu trên bao quát trên tất cả các lĩnh vực, gắn bó mật thiết với
nhau trong một chỉnh thể thống nhất, vừa làm tiền đề, điều kiện, vừa tác động lẫn
14


nhau trong quá trình phát triển. Nó thể hiện bản chất tốt đẹp của chế độ XHCN mà
nhân dân ta sẽ xây dựng, một xã hội tiến bộ nhất so với các chế độ xã hội đã xuất
hiện trước đây. Trong xã hội đó, nhân dân lao động là người chủ chân chính và
thực sự của xã hội. Nó chi phối và thể hiện trong toàn bộ thể chế của xã hội, đều
hướng vào việc đảm bảo và phát huy quyền làm chủ của nhân dân. Đó là sự khác
nhau về chất giữa CNXH với các chế độ xã hội trước đó. CNXH mà chúng ta xây
dựng có một nền kinh tế phát triển cao dựa trên chế độ công hữu về TLSX chủ yếu
và LLSX hiện đại, là cơ sở kinh tế để xóa bỏ nguồn gốc của chế độ người bóc lột
người, con người được giải phóng có điều kiện phát triển toàn diện, tạo ra sự bình
đẳng trong xã hội và đoàn kết giữa các dân tộc, có quan hệ hữu nghị hợp tác với
nhân dân các nước trên thế giới. CNXH mà chúng ta xây dựng không chỉ có nền
kinh tế phát triển cao mà còn phải xây dựng một nền văn hóa tương ứng, nền văn
hóa tiên tiến, đậm đà bản sắc dân tộc. Điều đó đảm bảo sự phát triển hài hòa, lành
mạnh của CNXH.
Cho đến Đại hội X của Đảng, nhận thức về CNXH và con đường đi lên
CNXH ở nước ta ngày càng rõ ràng hơn. Cụ thể xã hội XHCN mà nhân dân ta xây

dựng là một xã hội:
- Dân giàu, nước mạnh, công bằng, dân chủ, văn minh;
- Do nhân dân làm chủ;
- Có nền kinh tế phát triển cao, dựa trên LLSX hiện đại và QHSX phù hợp
với trình độ phát triển của LLSX.
- Có nền văn hoá tiên tiến, đậm đà bản sắc dân tộc;
- Con người được giải phóng khỏi áp bức, bất công, có cuộc sống ấm no, tự
do, hạnh phúc, phát triển toàn diện;
- Các dân tộc trong cộng đồng Việt Nam bình đẳng, đoàn kết, tương trợ,
giúp đỡ nhau cùng tiến bộ;
- Có Nhà nước pháp quyền CNXH của nhân dân, do nhân dân, vì nhân dân
dưới sự lãnh đạo của ĐCS;
- Có quan hệ hữu nghị và hợp tác với nhân dân các nước trên thế giới.
Việc bổ sung và phát triển mô hình CNXH trong Đại hội X đã thể hiện việc
quy tụ sức mạnh của toàn dân tộc, không phân biệt các dân tộc trong nước hay kiều
bào ở nước ngoài để thực hiện mục tiêu công nghiệp hoá, hiện đại hoá đất nước,
cùng nhau xây dựng một nhà nước pháp quyền XHCN, của dân, do dân, vì dân,
tiến tới một xã hội “dân giàu, nước mạnh, công bằng, dân chủ, văn minh”. Đây
chính là điểm tương đồng để kết nối cộng đồng dân tộc Việt nam theo tinh thần
15


khép lại quá khứ, cùng nhau hướng về tương lai một nước Việt Nam “dân giàu,
nước mạnh”, “dân cường, nước thịnh” theo đúng tư tưởng Hồ Chí Minh.
2.2. Con đường đi lên CNXH ở Việt Nam trong thời đại ngày nay:
Cùng với quan niệm đúng đắn về CNXH, vấn đề có ý nghĩa quan trọng là
phải xác định được con đường đi lên CNXH ở nước ta.
Từ lý luận của chủ nghĩa Mác – Lênin về quá trình xây dựng CNXH và nhận
thức của Đảng về thời kỳ quá độ lên CNXH, trải qua các kỳ Đại hội, Đảng ta đã
khẳng định: “Con đường đi lên CNXH ở nước ta ngày càng được xác định rõ hơn”.

Nước ta chưa trải qua thời kỳ phát triển TBCN, cho nên quá độ trực tiếp lên
CNXH là không có khả năng, bởi vậy quá độ gián tiếp lên CNXH, bỏ qua giai
đoạn phát triển TBCN là con đường đúng đắn, phù hợp với quy luật khách quan
trong tiến trình lịch sử của xã hội loài người trong thời đại ngày nay, vừa đáp ứng
được nguyện vọng của cả dân tộc và phù hợp với điều kiện lịch sử Việt Nam, mặc
dù sẽ có nhiều khó khăn, vất vả, con đường tiến lên XHCN sẽ lắm chông gai.
Từ nội hàm của luận điểm “Bỏ qua chế độ TBCN” ở đây không thể hiểu là
sự bỏ qua tất cả những yếu tố cấu thành HTKT-XH TBCN, mà là bỏ qua chế độ
TBCN với tư cách là một chế độ chính trị, tức là bỏ qua việc xác lập vị trí thống trị
của QHSX TBCN trong CSHT, từ đó bỏ qua việc hình thành KTTT, nhưng tiếp
thu, kế thừa những thành tựu mà nhân loại đã đạt được dưới chế độ TBCN, đặc
biệt về khoa học và công nghệ, để phát triển nhanh LLSX, lập nên một QHSX
thống trị mới, phù hợp với trình độ của LLSX trong CSHT, đó là QHSX XHCN,
nhằm xây dựng nền kinh tế hiện đại, cùng với nó là xây dựng một chế độ chính trị
do giai cấp công nhân lãnh đạo, nhằm xoá bỏ áp bức, bất công trong xã hội.
Quá độ lên CNXH ở nước ta không phải là một sự du nhập, hay “nhập
ngoại” một cách giáo điều, máy móc mà đó chính là sự lựa chọn của chính lịch sử
Việt Nam. Tuy trong quá trình nhận thức và vận dụng những nguyên lý của CN
Mác – Lênin vào xây dựng CNXH, Đảng đã có một số sai lầm, khuyết điểm như trì
trệ, chủ quan, nhận thức các quy luật kinh tế trong thời kỳ quá độ còn đơn giản
phiến diện, duy trì cơ chế kinh tế tập trung quan liêu kéo dài đã làm cho nền kinh
tế nước ta trì trệ, kém phát triển và tụt hậu so với các nước trong khu vực, nhưng
do nhất quán với mục tiêu độc lập dân tộc và CNXH ngay từ đầu, do đứng vững
trên lập trường CN Mác – Lênin, Đảng ta đã thận thức được những sai lầm, khuyết
điểm của mình và chủ trương đối mới, xác định đúng đắn con đường đi lên CNXH.
Con đường đi lên CNXH ở nước ta, không thể vạch ra một cách cụ thể, chi
tiết và cũng không thể chỉ một lần là xong. Đảng ta xác định con đường đi lên
16



CNXH không phải là con đường bằng phẳng mà phải trải qua nhiều giai đoạn,
nhiều chặng đường, nhiều khâu trung gian, nhiều bước quá độ, chấp nhận nhiều
hình thức sở hữu về tư liệu sản xuất, thực hiện nhiều thành phần kinh tế, nhiều giai
cấp, tầng lớp xã hội khác nhau. Cho nên quá độ lên CNXH ở nước ta xét về mặt
kinh tế, tất yếu bao hàm trong đó một yếu tố có tính chiến lược bao trùm là sử dụng
CNTB nhà nước. Kinh tế tư bản nhà nước có thời bị gạt khỏi kết cấu các thành phần
kinh tế. Nhưng thực tế hiện nay đã và đang tồn tại một khu vực kinh tế tư bản nhà
nước trong cơ cấu kinh tế Việt Nam. Đấy là một tất yếu kinh tế phổ biến đối với các
nước kém phát triển tiến lên CNXH. Cùng với sự vận động và biến đổi nhanh
chóng của thế giới hiện nay, của thực tiễn xây dựng CNXH, sẽ cung cấp thêm
những cứ liệu mới để bổ sung cho nhận thức của Đảng về mô hình CNXH, và con
đường để thực hiện mô hình đó.
Chúng ta đi lên CNXH trong một điều kiện quốc tế mới cực kỳ quan trọng,
đó là cuộc cách mạng KH&CN hiện đại đang phát triển mạnh mẽ, vừa tạo ra
những thách thức không nhỏ đối với các nước chậm phát triển như nước ta, song
nó cũng tạo ra những thời cơ mới thuận lợi cho sự phát triển của đất nước. Nếu kế
thừa và tận dụng nó một cách hợp lý, phù hợp với hoàn cảnh đất nước và điều kiện
quốc tế thì cho phép chúng ta “rút ngắn” được quá trình phát triển, tạo điều kiện
cho đất nước tham gia hội nhập, giao lưu, hợp tác khu vực và quốc tế để phát triển.
Chúng ta phải xác định hội nhập toàn cầu, vào WTO tự nó không là mục
đích mà chỉ là phương tiện, điều kiện, con đường để kết hợp sức mạnh dân tộc, với
sức mạnh thời đại, nhất là cốt để tranh thủ LLSX và công nghệ hiện đại, những
thành tựu mới của kinh tế tri thức nhằm thúc đẩy nhanh hơn quá trình xây dựng cơ
sở vật chất – kỹ thuật của CNXH. Do đó, để đi lên CNXH chúng ta phải mở cửa,
thực hiện kinh tế thị trường định hướng XHCN, chủ động và tích cực hội nhập
kinh tế quốc tế, thực hiện đẩy mạnh công nghiệp hoá, hiện đại hoá đất nước, gắn
với kinh tế tri thức, trong đó xác định công nghiệp hoá, hiện đại hoá là nhiệm vụ
trung tâm của cả thời kỳ quá độ lên CNXH. Đây là yếu tố có ý nghĩa quyết định
nhằm đảm bảo không bị tụt hậu xa hơn về kinh tế so với nhiều nước trong khu vực
và trên thế giới cũng như thực hiện thắng lợi sự nghiệp xây dựng CNXH ở nước ta.

Song song với việc đẩy mạnh sự nghiệp công nghiệp hoá, hiện đại hoá, Đảng ta
cũng xác định thực hiện đồng bộ giữa phát triển LLSX với xây dựng QHSX phù
hợp từ thấp đến cao, đa dạng về hình thức sở hữu. Văn kiện Ðại hội X đã chỉ rõ
phải phát triển nền kinh tế thị trường định hướng XHCN, đây là một đột phá lý

17


luận rất sáng tạo của Ðảng ta, xác định là mô hình kinh tế tổng quát trong suốt thời
kỳ quá độ lên CNXH ở Việt Nam.
Phát triển nền kinh tế thị trường định hướng XHCN là phát triển nền kinh tế hàng
hóa nhiều thành phần theo định hướng XHCN, vận hành theo cơ chế thị trường có
sự quản lý của Nhà nước. Kinh tế Nhà nước cùng với kinh tế tập thể ngày càng trở
thành nền tảng vững chắc của nền kinh tế quốc dân. Thực hiện nhiều hình thức
phân phối, lấy phân phối theo kết quả lao động và hiệu quả kinh tế là chủ yếu.
Thực hiện mục tiêu "dân giàu, nước mạnh, xã hội công bằng, dân chủ, văn minh";
giải phóng mạnh mẽ tiềm lực lao động và không ngừng phát triển sức sản xuất,
nâng cao đời sống nhân dân, đẩy mạnh xóa đói, giảm nghèo, khuyến khích mọi
người vươn lên làm giàu chính đáng.
Xuất phát từ mối quan hệ giữa CSHT với KTTT, tức là giữa kinh tế với chính trị,
cho nên phải tiến hành đồng bộ giữa phát triển kinh tế với không ngừng đổi mới hệ
thống chính trị và các mặt khác của đời sống xã hội, nâng cao vai trò lãnh đạo và
sức chiến đấu của Đảng, xây dựng Đảng trong sạch, vững mạnh. Xây dựng Nhà
nước pháp quyền XHCN của nhân dân, do nhân dân, vì nhân dân, phát huy quyền
làm chủ xã hội của nhân dân. Bảo đảm vai trò quản lý, điều tiết nền kinh tế của
Nhà nước dưới sự lãnh đạo của Ðảng. Xây dựng nền dân chủ XHCN, thực hiện đại
đoàn kết toàn dân tộc. Thực hiện tiến bộ và công bằng xã hội ngay trong từng bước
và từng chính sách phát triển; tăng trưởng kinh tế đi đôi với phát triển văn hóa, y
tế, giáo dục. Xây dựng nền văn hoá tiên tiến, đậm đà bản sắc dân tộc làm nền tảng
tinh thần của xã hội, nhằm không ngừng nâng cao đời sống tinh thần của nhân dân.

Thành tựu lý luận mà Đảng và nhân dân ta đạt được qua thực tiễn 20 năm đổi mới
tập trung nổi bật ở quan điểm về nền kinh tế thị trường định hướng XHCN, Nhà
nước pháp quyền XHCN của dân, do dân, vì dân, đảm bảo dân chủ và phát huy
quyền làm chủ của nhân dân, xây dựng ĐCS cầm quyền trong sạch, vững mạnh,
coi đó là khâu then chốt, đại đoàn kết dân tộc là động lực mạnh mẽ và quyết định
thành bại của công cuộc đổi mới và xây dựng CNXH ở nước ta.
Đi lên CNXH từ một nền kinh tế kém phát triển, lại bỏ qua giai đoạn phát triển
TBCN, cho nên việc nhận thức và vận dụng các quy luật khách quan mà trước hết
là các quy luật kinh tế phải hết sức thận trong và sáng tạo. Chúng ta bỏ qua chế độ
chính trị TBCN song phải hết sức tôn trọng quá trình lịch sử tự nhiên của sự phát
triển kinh tế. Việc thừa nhận và thực hiện nhất quán chính sách kinh tế nhiều thành
phần theo định hướng XHCN và việc sử dụng các hình thức kinh tế quá độ trung
gian nhằm “bắc những chiếc cầu nhỏ” nối tiếp trên con đường quá độ chính là sự
18


nhận thức và vận dụng sáng tạo tư tưởng của Lênin về phát triển kinh tế trong thời
kỳ quá độ chứ không phải là sự chệch hướng XHCN sang CNTB như một số nhà
tư tưởng phương Tây và bọn cơ hội xét lại đã rêu rao, xuyên tạc.
KẾT LUẬN
Chủ nghĩa duy vật lịch sử – một trong hai phát kiến vĩ đại của C.Mác là cơ
sở thế giới quan và phương pháp luận khoa học của hoạt động nhận thức và cải tạo
xã hội hiện đại, trong đó học thuyết về HTKT-XH là “Hòn đá tảng” của chủ nghĩa
duy vật lịch sử, là bước ngoặt vĩ đại trong lịch sử nhận thức nhân loại về xã hội, là
cơ sở thế giới quan và phương pháp luận cho các môn khoa học về lịch sử. Chỉ có
dựa trên cơ sở của học thuyết mới có căn cứ khoa học để giải thích một cách đúng
đắn các hiện tượng xã hội và xem xét sự vận động phát triển của xã hội loài người
như một quá trình lịch sử tự nhiên.
Từ những thập niên cuối thế kỷ XX đến những năm đầu thế kỷ XXI, thế giới
đã có những biến đổi to lớn và đáng “kinh ngạc”: sức sống “dai dẳng” của CNTB

hiện đại với những thành tựu to lớn của nó; sự sụp đổ của chế độ XHCN ở Liên Xô
và Đông Âu; sự ra đời của kinh tế tri thức đánh dấu bước chuyển từ nền văn minh
công nghiệp sang nền văn minh trí tuệ; sự kiên trì con đường XHCN ở một số
nước và thành công vượt bậc của sự nghiệp đổi mới ở Việt Nam; vai trò ngày càng
tăng với tốc độ liên tục của khoa học và công nghệ; các cuộc khủng hoảng kinh tế
khu vực; chủ nghĩa khủng bố, xung đột sắc tộc, tôn giáo và chiến tranh khu vực…
Tất cả những sự biến đổi đó không mâu thuẫn và “xung đột” với những nguyên lý
và quy luật của chủ nghĩa duy vật lịch sử với tư cách cơ sở thế giới quan và
phương pháp luận của nhận thức và cải tạo xã hội.
Nghiên cứu nắm chắc tinh thần khoa học của học thuyết cho phép chúng ta
đi vào xem xét sự phân chia các giai đoạn trong tiến trình lịch sử nhân loại và mơi
quan hệ giữa các yếu tố trong HTKT-XH và sự vận động của các quy luật khách
quan, cho phép chúng ta hiểu được và vận dụng để “rút ngắn” quá trính phát triển
tiến lên CNXH trong những điều kiện lịch sử cụ thể nhất định, cũng như khẳng
định giá trị bền vững của nó trong thời đại ngày nay.
Học thuyết HTKT-XH là cơ sở lý luận, phương pháp luận khoa học cho
Đảng ta vận dụng trong chỉ đạo thực tiễn cách mạng Việt Nam, từ nhận thức về
CNXH, mô hình HTKT-XH XHCN cần phải xây dựng, cho đến xác định con
đường đi lên CNXH – thời kỳ quá độ với nhiều chông gai, với nhiều giai đoạn
phức tạp và lâu dài – ở nước ta trong thời đại ngày nay. Lý luận đó được Đảng ta
vận dụng một cách sáng tạo vào thực tiễn cách mạng Việt Nam, trong điều kiện cụ
19


thể, vạch ra con đường phát triển tất yếu của cách mạng Việt Nam – con đường đi
lên CNXH bỏ qua giai đoạn phát triển TBCN – là con đường hợp quy luật khách
quan, là tiến trình lịch sử tự nhiên, phản ánh sự kết hợp đúng đắn giữa quy luật
khách quan với nhân tố chủ quan trong hoạch định sách lược để phát triển đất
nước, chỉ khi “rút ngắn” một cách duy ý chí, bất chấp quy luật lúc đó mới trở nên
đối lập với quá trình lịch sử tự nhiên.

Chúng ta tin tưởng rằng dưới sự lãnh đạo sáng suốt và tài tình của ĐCS Việt
Nam, với tinh thần đoàn kết toàn dân tộc, ý chí vươn lên kết hợp tính cần cù, thông
minh vốn có của người Việt Nam, chúng ta sẽ xây dựng thành công CNXH trên
đất nước ta./.

20



×