Tải bản đầy đủ (.doc) (18 trang)

XÂY DỰNG CHỦ NGHĨA xã hội ở VIỆT NAM TRÊN nền TẢNG lý LUẬN HÌNH THÁI KINH tế xã hội

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (115.17 KB, 18 trang )

1

Xây dựng chủ nghĩa xã hội ở Việt Nam trên nền tảng
lý luận hình thái kinh tế-xã hội của
chủ nghĩa c.mác lênin
1. Mở đầu
Ngay từ khi vừa thành lập, Đảng ta đã khẳng định con đờng đi lên của
cách mạng Việt Nam là làm t sản dân quyền cách mạng và thổ địa chủ nghĩa
để đi tới xã hội cộng sản1 Đảng ta đã lấy việc xây dựng chủ nghĩa xã hội, chủ
nghĩa cộng sản làm mục tiêu phấn đấu và quyết tâm xây dựng thành công mục
tiêu đó. Sau khi xác định mục tiêu vấn đề quan trọng đặt ra là phải có học
thuyết, lý luận phù hợp với mục tiêu để làm cơ sở cho việc xác định con đờng,
hoạch định đờng lối chủ trơng để xây dựng đất nớc Việt Nam xã hội chủ
nghĩa. Đại hội đại biểu toàn quốc lần thứ IX của Đảng khẳng định: Đảng và
nhân dân ta quyết tâm xây dựng đất nớc Việt Nam theo con đờng xã hội chủ
nghĩa, trên nền tảng chủ nghĩa Mác-Lênin và t tởng Hồ Chí Minh.
Đi lên chủ nghĩa xã hội là một tất yếu khách quan theo đúng quy luật
tiến hoá của lịch sử. Tuy nhiên, xây dựng chủ nghĩa xã hội ở một nớc kinh tế
kém phát triển nh nớc ta là quá trình phấn đấu đầy khó khăn gian khổ, cha có
tiền lệ trong lịch sử, song Đảng cộng sản Việt Nam, nhân dân Việt Nam vẫn
kiên định con đờng đi lên chủ nghĩa xã hội trong suốt hơn 70 năm qua. Đảng
ta khẳng định rằng, để đi lên chủ nghĩa xã hội nhất định phải trải qua một thời
kỳ quá độ. Điều đó hoàn toàn đúng với nguyên lý của chủ nghĩa Mác- Lênin
và phù hợp với thực tiễn ở Việt Nam. Sự khẳng định này là hết sức cần thiết,
nhất là trong thời điểm hiện nay, khi mà đất nớc ta cùng với nhân loại bớc vào
thế kỷ XXI, trên thế giới có những diễn biến rất nhanh chóng và phức tạp,
trong nớc chúng ta cũng đang đứng trớc nhiều nguy cơ và thách thức mới.
Qua nghiên cứu các hình thái kinh tế-xã hội theo quan điểm chủ nghĩa
duy vật lịch sử của chủ nghĩa Mác-Lênin cho chúng ta thấy rằng việc lựa chọn
con đờng bớc đi của đất nớc do Đảng và nhân dân ta là con đờng duy nhất
đúng phù hợp với nguyên lý của học thuyết hình thái kinh tế-xã hội của chủ


nghĩa Mác-Lênin. Trong phạm vi nghiên cứu tác giả muốn làm rõ lý luận về
hình thái kinh tế và việc lựa chon con đờng xây dựng chủ nghĩa xã hội ở Việt
Nam là hợp quy luật phát triển của lịch sử.
2. Nội dung cơ bản

1

Đảng cộng sản Việt Nam.Văn kiện Đảng toàn tập, tập 2, Nxb CTQG, Hà Nội 1998, tr 2


2

Học thuyết hình thái kinh tế-xã hội của chủ nghĩa Mác-Lênin là một
trong những nội dung quan trọng trong chủ nghĩa duy vật lịch sử, mang tính
khái quát cao, làm cơ sở vận dụng vào việc xác định con đờng của mỗi đất nớc, mỗi dân tộc. Trong phạm vi nghiên cứu vấn đề này bản thân chỉ bàn về lý
luận học thuyết hình thái kinh tế-xã hội của chủ nghĩa Mác-Lênin với việc lựa
chon con đờng, hớng đi của đất nớc Việt Nam.
2.1. Lý luận về học thuyết hình thái kinh tế-xã hội của chủ nghĩa
Mác-Lênin
Sau khi chế độ xã hội chủ nghĩa ở Liên Xô và Đông âu sụp đổ học
thuyết của C.Mác về hình thái kinh tế-xã hội đã trở thành đối tợng của sự phê
phán và bác bỏ của nhiều thế lực, từ những nhà t tởng t sản và cả những ngời
trớc đây một thời đã từng đợc coi là Mat-xít. Từ việc bác bỏ học thuyết Mác,
những ngời này đi đến bác bỏ vai trò lãnh đạo của Đảng cộng sản, phủ nhận
học thuyết hình thái kinh tế-xã hội của C.Mác và Ph.Ăngghen.
Học thuyết của C.Mác về hình thái kinh tế-xã hội, có thể nói là hòn đá
tảng của quan niệm duy vật lịch sử, không thể có chủ nghĩa duy vật lịch sử
nếu không có có học thuyết hình thái kinh tế-xã hội. Học thuyết đó có ý nghĩa
to lớn và có giá trị bền vững cho đến ngày nay, nó vẫn là cách tiếp cận khoa
học chủ yếu với mọi thời đại mà không có cách tiếp cận nào có thể thay thế đợc.

Với sự ra đời của học thuyết về hình thái kinh tế- xã hội, chủ nghĩa duy
vật lịch sử đã vạch ra thực chất sự tồn tại và phát triển của các xã hội trong kết
cấu khách quan của chúng. Học thuyết của Mác về hình thái kinh tế- xã hội
không chỉ xác định các yếu tố, kết cấu của chúng, mà còn xem xét xã hội
trong quá trình vận động biến đổi, phát triển không ngừng. C.Mác viết: Tôi
coi sự phát triển của những hình thái kinh tế- xã hội là một quá trình lịch sử tự
nhiên2. Nh vậy, sự phát triển của các hình thái kinh tế- xã hội vừa mang tính
giai đoạn, vừa mang tính liên tục trong tổng thể quá trình phát triển lâu dài
của lịch sử xã hội, nó mang tính khách quan, vốn có, không ai có thể áp đặt đợc sự phát triển đó. C.Mác đi nghiên cứu xã hội bằng chính nội tại của xã hội
mà trớc hết từ nền sản xuất vật chất. Nh chúng ta đều biết sự tồn tại của xã hội
luôn phụ thuộc vào sự phát triển của nền sản xuất vật chất. Mác khẳng định:
Tiền đề đầu tiên của mọi sự tồn tại của con ngời, và do đó là tiền đề của mọi
lịch sử, đó là: ngời ta phải có khả năng sống đã rồi mới có thể làm ra lịch
2

C.Mác-Ph.Ăngghen, Toàn tập, Nxb Chính trị quốc gia, Hà Nội 1993, Tập 23, tr 21.


3

sử. Nhng muốn sống đợc thì trớc hết cần phải có thức ăn, thức uống, nhà ở,
quần áo và một vài thứ khác nữa. Nh vậy, hành vi lịch sử đầu tiên là việc sản
xuất trong những t liệu để thoả mãn những nhu cầu ấy, việc sản xuất ra bản
thân đời sống vật chất. Hơn nữa, đó là một hành vi lịch sử, một điều kiện cơ
bản của mọi lịch sử mà hiện nay cũng nh hàng nghìn năm về trớc, ngời ta phải
thực hiện hàng ngày, hàng giờ, chỉ nhằm để duy trì đời sống con ngời3.
C.Mác đã chỉ ra rằng quan hệ sản xuất, phù hợp với một trình độ phát
triển nhất định của lực lợng sản xuất, là tiêu chuẩn quan trọng nhất, chỉ rõ tính
chất các kiểu xã hội khác nhau. Quan hệ sản xuất cũng là cái cơ bản quyết
định tất cả mọi quan hệ khác của xã hội. Lênin viết: Trong các lĩnh vực khác

nhau của đời sống xã hội, ông đã làm nổi bật riêng lĩnh vực kinh tế, bằng cách
là trong tất cả mọi quan hệ xã hội, ông đã đã làm nổi bật riêng nhng quan hệ
sản xuất, coi đó là những quan hệ cơ bản, ban đầu và quyết định tất cả mọi
quan hệ khác4
Mặt khác, từ điều kiện kinh tế- xã hội, C.Mác thấy rằng năng xuất lao
động đợc tạo ra cho xã hội trớc hết phải từ lực lợng sản xuất. Ông viết: Giai
cấp t sản, trong quá trình thống trị giai cấp cha đầy một thế kỷ, đã tạo ra
những lực lợng sản xuất nhiều hơn và đồ sộ hơn lực lợng sản xuất của tất cả
các thế hệ trớc kia gộp lại5. Có thể nói rằng điều kiện kinh tế- xã hội mà trực
tiếp là nền sản xuất vật chất xã hội và đấu tranh giai cấp là những yếu tố trực
tiếp chi phối đến sự phân công lao động xã hội. Khi lực lợng sản xuất phát
triển mạnh sẽ có sự phân công lao động xã hội, có ngời lao động chân tay, có
ngời lao động trí óc, tạo ra các quan hệ xã hội, mà trớc hết là quan hệ về kinh
tế. C.Mác viết: Trớc hết con ngời cần phải ăn, uống, ở và mặc, nghĩa là phải
lao động, trớc khi có thể đấu tranh để giành quyền thống trị, trớc khi có thể
hoạt động chính trị, tôn giáo, triết học v.v..6. Vì vậy, không có con đờng nào
khác muốn nghiên cứu, mổ xẻ một xã hội nào đó phải xuất phát từ nền sản
xuất vật chất, từ các quan hệ kinh tế. Ph.Ăngghen đã đa ra nguyên tắc phơng
pháp luận cơ bản cho việc nghiên cứu giới tự nhiên và lịch sử: Bằng chứng
phải đợc rút ra từ bản thân lịch sử...Bây giờ thì bất cứ ở đâu, vấn đề không còn
là tởng tợng ra những mối liên hệ từ trong đầu óc, mà là phát hiện ra chúng từ
những sự thực7.
C.Mác-Ph.Ăngghen: Toàn tập, Nxb Chính trị quốc gia, Sự Thật, Hà Nội, 1995, Tập 3, tr 39- tr 40.
V.I.Lênin, Toàn tập, Nxb Tiến bộ, Mát xcơva, 1974, Tập 1, tr 159
C.Mác-Ph.Ăngghen: Toàn tập, Nxb Chính trị quốc gia, Sự Thật, Hà Nội, 1995, Tập 4, tr 603.
6 C.Mác-Ph.Ăngghen: Toàn tập, Nxb Chính trị quốc gia, Sự Thật, Hà Nội, 1995, Tập 19, tr 166.
7 C. Mác và Ph. Ănghen, Toàn tập, Nxb Chính trị quốc gia, H.1995, t 21, tr 449.
3
4
5



4

Trong lý luận về hình thái kinh tế-xã hội C.Mác coi bên cạnh các quan
hệ sản xuất là tiêu chuẩn khách quan để phân biệt các hình thái kinh tế-xã hội
khác nhau. C.Mác còn vạch ra mối quan hệ có tính chất cơ bản để xác định
diện mạo của các hình thái kinh tế-xã hội; đó là mối quan hệ biện chứng giữa
cơ sở hạ tầng và kiến trúc thợng tầng.
C.Mác đã trình bày rõ cấu trúc của hình thái kinh tế-xã hội và cơ chế
vận động của nó trong lời tựa cuốn Góp phần phê phán khoa kinh tế chính trị
thì về sau Ph.Ăngghen đã tóm tắc lại một lần nữa quan niệm về hình thái kinh
tế-xã hội của C.Mác và nhấn mạnh rằng cái cơ sở để cắt nghĩa đợc lịch sử là
cả phơng thức sản xuất lẫn cơ cấu xã hội. Ph.Ăngghen viết: trong mỗi thời
đại lịch sử, phơng thức chủ yếu của sản xuất kinh tế và trao đổi, cùng với cơ
cấu xã hội do phơng thức đó quyết định, đã cấu thành cơ sở cho lịch sử chính
trị của thời đại, cái cơ sở mà chỉ có xuất phát từ đó mới cắt nghĩa đợc lịch sử
đó8.
Khi nghiên cứu các quy luật phát triển của xã hội nói chung và chủ
nghĩa t bản nói riêng, C.Mác đã dự báo và đa ra các kết luận khoa học là sẽ
xuất hiện một hình thái kinh tế xã hội mới- hình thái kinh tế cộng sản chủ
nghĩa; đó cũng là hệ quả tất yếu của tiến trình chung của lịch sử nhân loại.
Tới một giai đoạn phát triển nào đó của chúng, các lực lợng sản xuất vật chất
của xã hội mâu thuẫn với những quan hệ sản xuất hiện có, hay- đây chỉ là biểu
hiện pháp lý của những quan hệ sản xuất đó- mâu thuẫn với những quan hệ sở
hữu, trong đó từ trớc đến nay các lực lợng sản xuất vẫn phát triển. Từ chỗ là
những hình thức phát triển của các lực lợng sản xuất, những quan hệ ấy trở
thành xiềng xích của các lực lợng sản xuất. Khi đó bắt đầu thời đại, một cuộc
cách mạng xã hội9. Trong những thời kỳ cách mạng, khi cơ sở kinh tế thay
đổi, thì sớm hay muộn toàn bộ kiến trúc thợng tầng đồ sộ cũng phải thay đổi

theo. C.Mác kết luận rằng: hình thái kinh tế- xã hội t bản chủ nghĩa nhất định
sẽ đợc thay thế bằng hình thái kinh tế- xã hội cộng sản chủ nghĩa. Từ đó, các
nhà kinh điển của chủ nghĩa Mác- Lênin đi đến kết luận: hình thái kinh tế- xã
hội t bản chủ nghĩa nhất định sẽ đợc thay thế bằng hình thái kinh tế- xã hội
cộng sản chủ nghĩa, và sự thay thế này cũng là quá trình lịch sử tự nhiên. Sự
thay thế đó thông qua cách mạng xã hội chủ nghĩa mà hai tiền đề vật chất
quan trọng nhất của nó là sự phát triển của lực lợng sản xuất và sự trởng thành
của giai cấp vô sản, tác động vào quá trình đó, thúc đẩy quá trình đó sớm thu
8
9

C. Mác và Ph. Ănghen, Toàn tập, Nxb Chính trị quốc gia, H.1995, t 21, tr 523
C.Mác và Ph. Ăngghen, Toàn tập, tập 13, Nxb CTQG, H.1993, tr 15.


5

đợc kết quả. C.Mác viết: Các quan hệ sản xuất t sản là hình thức đối kháng
cuối cùng của quá trình sản xuất xã hội, đối kháng không phải với ý nghĩa là
đối kháng cá nhân, mà với ý nghĩa là đối kháng nảy sinh từ những điều kiện
sinh hoạt xã hội của các cá nhân; nhng những lực lợng sản xuất phát triển
trong lòng xã hội t sản đồng thời cũng tạo ra những điều kiện vật chất để giải
quyết đối kháng ấy. Cho nên với hình thái xã hội t sản, thời kỳ tiền sử của xã
hội loài ngời đang kết thúc10.
Nh vậy, hình thái kinh tế xã hội t bản chủ nghĩa là hình thái kinh tế- xã
hội cuối cùng trong lịch sử có quan hệ sản xuất với hình thức đối kháng trong
sản xuất xã hội; còn chiếm hữu t nhân, còn áp bức bóc lột, và chính sự phát
triển của lực lợng sản xuất trong lòng xã hội t bản sẽ tạo điều kiện vật chất để
xoá bỏ quan hệ sản xuất, thiết lập quan hệ sản xuất mới- quan hệ sản xuất
cộng sản chủ nghĩa. Nói cách khác, C.Mác đã dự báo rằng hình thái kinh tếxã hội t bản chủ nghĩa nhất định sẽ bị diệt vong do chính sự phát triển ngày

càng cao của lực lợng sản xuất ở ngay trong lòng xã hội đó và sự diệt vong là
không thể tránh khỏi. Mặt khác, chính giai cấp t sản đã tạo ra những cơ sở vật
chất để tự thủ tiêu mình. Đó là phát hiện thiên tài của C.Mác. Xã hội cũ cha
mất đi khi tiền đề vật chất của nó cha mất đi, xã hội mới cha ra đời khi tiền đề
vật chất của nó cha xuất hiện. C.Mác viết: Không một hình thái xã hội nào
diệt vong trớc khi tất cả những lực lợng sản xuất mà hình thái xã hội đó tạo
địa bàn đầy đủ cho phát triển, vẫn cha phát triển, và những quan hệ sản xuất
mới, cao hơn, cũng không bao giờ xuất hiện trớc khi những điều kiện tồn tại
vật chất của những quan hệ đó cha chín muồi trong lòng bản thân xã hội cũ11.
Từ cơ sở lý luận của C.Mác và Ph.Ăngghen và thực tiễn lịch sử loài ngời, chúng ta có thể xác định hình thái kinh tế-xã hội là một phạm trù của chủ
nghĩa duy vật lịch sử, dùng để chỉ xã hội ở từng giai đoạn lịch sử nhất định,
với một kiểu quan hệ sản xuất đặc trng cho xã hội đó phù hợp với một trình độ
nhất định của lực lợng sản xuất và với một kiến trúc thợng tầng tơng ứng đợc
xây dựng trên những quan hệ sản xuất ấy. Học thuyết hình thái kinh tế-xã hội
của C.Mác và Ph.Ăngghen đã cung cấp những tiêu chuẩn thực sự duy vật,
khoa học cho việc phân kỳ lịch sử, giúp cho con ngời hiểu đợc lôgíc khách
quan của quá trình tiến hoá xã hội và vạch ra sự thống nhất của lịch sử trong
cái muôn vẻ của các sự kiện ở các nớc khác nhau. Xã hội vận động theo quy
luật khách quan không phụ thuộc vào ý muốn con ngời. Mỗi hình thái kinh tế10
11

C.Mác và Ph. Ăngghen, Toàn tập, tập 13, Nxb CTQG, H.1993, tr 16.
C.Mác và Ph. Ăngghen, Toàn tập, tập 13, Nxb CTQG, H.1993, tr 15-16


6

xã hội đợc coi nh một cơ thể xã hội phát triển theo quy luật vốn có của nó. Sự
thay thế kế tiếp nhau của các hình thái kinh tế-xã hội là qua trình tiến hoá bao
hàm những bớc nhảy vọt đã tạo nên sự tiến bộ trong lịch sử loài ngời.

Sự thay thế một hình thái kinh tế-xã hội này bằng một hình thái kinh tếxã hội khác thờng đợc thực hiện thông qua cách mạng xã hội. Nguyên nhân
sâu xa là mâu thuẩn giữa lực lợng sản xuất với quan hệ sản xuất, khi quan hệ
sản xuất trở thành xiềng xích của lực lợng sản xuất. Qua nghiên cứu xã hội nói
chung và xã hội t bản nói riêng Mác đã đi đến kết luận khoa học rằng sẽ xuất
hiện một hình thái kinh tế-xã hội mới là hình thái kinh tế-xã hội cộng sản chủ
nghĩa và sự thay thế đó là quá trình lịch sử tự nhiên.
Thực tiễn lịch sử phát triển của xã hội loài ngời đã và đang trải qua năm
hình thái kinh tế- xã hội từ thấp đến cao, từ cộng sản nguyên thuỷ đến cộng
sản chủ nghĩa mà giai đoạn đầu là chủ nghĩa xã hội, đó là một quá trình lịch
sử tự nhiên lâu dài, điều đó không phải do ý muốn chủ quan của bất cứ một ai,
hay một lực lợng chính trị, một lực lợng siêu nhiên nào, mà nó là quy luật
khách quan của sự vận động, phát triển của xã hội loài ngời. Cho tới nay hình
thái kinh tế- xã hội phát triển cao nhất là hình thái kinh tế- xã hội cộng sản
chủ nghĩa, mở đầu bằng cuộc cách mạng tháng mời Nga, nó đã mở ra một thời
đại mới, thời đại quá độ từ chủ nghĩa t bản tiến lên chủ nghĩa xã hội và chủ
nghĩa cộng sản, xét đến cùng nó là một quá trình lịch sử tự nhiên, thể hiện tính
quy luật chung của sự phát triển của xã hội loài ngời từ thấp đến cao.
Nh vậy, nếu xem xét ở phạm vi lịch sử toàn nhân loại thì lịch sử xã hội
loài ngời đã phát triển qua một số hình thái kinh tế-xã hội nhất định. Song do
đặc điểm về lịch sử, về không gian và thời gian, không phải quốc gia nào cũng
phải trải qua tất cả các hình thái kinh tế-xã hội có tính tuần tự từ thấp đến cao
theo một sơ đồ chung. Thực tế lịch sử chứng tỏ có nhiều quốc gia trong những
điều kiện lịch sử nhất định đã phát triển tuần tự qua các hình thái kinh tế-xã
hội, đồng thời một số quốc gia khác lại phát triển theo con đờng bỏ qua một
hoặc vài hình thái kinh tế-xã hội. Trong điều kiện lịch sử nhất định Lênin đã
nêu lên khả năng không trải qua giai đoạn phát triển t bản chủ nghĩa để tiến
thẳng lên chủ nghĩa xã hội đối với các nớc lạc hậu. Trong những điều kiện
nhất định, con đờng phát triển của các dân tộc tiền t bản chủ nghĩa không nhất
thiết phải diễn ra một cách tuần tự nh lịch sử toàn nhân loại mà có thể bỏ qua
một hay vài hình thái kinh tế-xã hội với những điều kiện lịch sử cho phép.



7

Qua nghiên cứu học thuyết Mác-Lênin chỉ ra rằng: đối với nhân loại thì
con đờng lịch sử tự nhiên để đi lên chủ nghĩa xã hội là con đờng phát triển
tuần tự qua tất cả các giai đoạn của các hình thái kinh tế-xã hội đã có. Do coi
chủ nghĩa t bản ở thế kỷ XIX đang đạt tới đỉnh cao của sự phát triển của nó
nên C.Mác hy vọng từ các nớc Tây Âu sẽ đồng loạt ra đời các nớc xã hội chủ
nghĩa. Đến giai đoạn chủ nghĩa t bản chuyễn sang chủ nghĩa đế quốc Lênin
phát hiện ra sự phát triển không đều về kinh tế và chính trị của chủ nghĩa đế
quốc. Do đó khẳng định: chủ nghĩa xã hội có thể thắng trớc hết là trong một
số ít nớc t bản chủ nghĩa hoặc thậm chí chỉ trong một nớc t bản chủ nghĩa, lý
luật của Lênin đã đợc chứng minh qua thực tiễn của cách mạng Tháng Mời
Nga và một số nớc thuộc địa của chủ nghĩa đế quốc.
Nh vậy, quá trình lịch sử tự nhiên của sự phát triển xã hội chẳng những
diễn ra bằng con đờng phát triển tuần tự mà còn bao hàm cả sự bỏ qua trong
những điều kiện lịch sử nhất định, một hoặc một vài hình thái kinh tế-xã hội
nhất định. Thực tế lịch sử xã hội loài ngời đã chứng minh một số quốc gia
trong quá trình phát triển đã bỏ qua một vài hình thái kinh tế- xã hội để phát
triển đến hình thái kinh tế- xã hội cao hơn nh: Có quốc gia chuyển từ cộng
đồng nguyên thuỷ sang chế độ chiếm hữu nô lệ, nhng có quốc gia khác lại
chuyển ngay sang chế độ phong kiến. Chẳng hạn nh ngời thổ dân châu úc,
châu Mỹ đi từ xã hội nô lệ lên thẳng chủ nghĩa t bản; nớc Nga, Ba Lan, Đức từ
hình thái kinh tế- xã hội cộng sản nguyên thuỷ tiến lên hình thái kinh tế- xã
hội phong kiến bỏ qua hình thái kinh tế- xã hội chiếm hữu nô lệ; nhiều nớc
châu Âu chủ nghĩa t bản ra đời từ trong lòng của xã hội phong kiến, còn ở Mỹ
từ hình thái kinh tế- xã hội chiếm hữu nô lệ tiến lên hình thái kinh tế- xã hội t
bản chủ nghĩa không trải qua chế độ phong kiến. Việt Nam trong tiến trình
phát triển lịch sử đã bỏ qua hình thái kinh tế- xã hội chiếm hữu nô lệ tiến lên

hình thái kinh tế- xã hội phong kiến.
Từ thực tiễn lịch sử đó, C.Mác đã nêu lên những t tởng và khả năng phát
triển rút ngắn trong những điều kiện lịch sử nhất định. Khi nghiên cứu tình
hình cách mạng ở một số nớc Phơng đông, C.Mác và Ph.Ăngghen đã thấy đợc
khả năng quá độ từ một nớc lạc hậu tiến lên chủ nghĩa xã hội. C.Mác khẳng
định cách mạng sẽ nổ ra ở Phơng đông mà nơi đó tập trung nhiều mâu thuẫn
nhất. Bằng sự phân tích những mâu thuẫn trong lòng xã hội t bản, đó là mâu
thuẫn giữa lực lợng sản xuất và quan hệ sản xuất thống trị, các ông đã đề cập
nhiều đến khả năng quá độ nổ ra cách mạng vô sản trớc tiên ở các nớc t bản


8

phát triển và nổ ra đồng loạt. Nhng do điều kiện hoàn cảnh thế giới có nhiều
thay đổi bởi quy luật phát triển không đều về kinh tế của chủ nghĩa t bản,
cùng với bản chất bóc lột nặng nề giai cấp vô sản, do đó phong trào đấu tranh
mạnh mẽ của giai cấp vô sản phát triển lên cao, nó sẽ tác động đến nhiều nớc,
C.Mác cũng dự báo rằng cách mạng xã hội chủ nghĩa có thể nổ ra ở các nớc t
bản có nền kinh tế kém phát triển. Tuy nhiên trong điều kiện bối cảnh đó
C.Mác và Ph.Ăngghen dự báo khả năng cách mạng vô sản nổ ra đồng loạt trên
phạm vi ở tất cả các nớc t bản phát triển.
Kế thừa, bổ sung và phát triển lý luận Mác trong điều kiện lịch sử mới,
khi chủ nghĩa t bản đã chuyển sang chủ nghĩa đế quốc. Bằng thiên tài của
mình Lênin đã khẳng định rằng chủ nghĩa xã hội có thể giành thắng lợi ở một
số nớc, thậm chí có thể giành thắng lợi ở một nớc thuộc mắt khâu yếu nhất
trong dây chuyền của chủ nghĩa đế quốc. Dự báo thiên tài này của Lênin
không mâu thuẫn với nhận định của C.Mác và Ph.Ăngghen trớc đây về khả
năng giành thắng lợi của giai cấp vô sản. Trên thực tế, nó đã trở thành hiện
thực, Lênin đã lãnh đạo giai cấp vô sản Nga làm cách mạng xã hội chủ nghĩa
tháng Mời giành thắng lợi, mở đầu một thời đại mới. Thời đại quá độ từ chủ

nghĩa t bản tiến lên chủ nghĩa cộng sản trên phạm vi toàn thế giới, mà giai
đoạn đầu là chủ nghĩa xã hội. Sau này, Chủ tịch Hồ Chí Minh tiếp tục bảo vệ
và phát triển lý luận của chủ nghĩa Mác- Lênin và cho rằng cách mạng xã hội
chủ nghĩa có thể nổ ra ở một vài, thậm chí ở một nớc thuộc địa mà ở đó tập
trung những mâu thuẫn chủ yếu của thời đại, điều đó cũng đợc chứng minh
bằng thực tiễn cách mạng Tháng Tám ở Việt Nam.
Cùng với việc khẳng định thắng lợi của cách mạng vô sản có thể nổ ra ở
các nớc lạc hậu chậm phát triển, Lênin còn chỉ ra tính đa dạng của các hình
thức quá độ với các nhịp điệu và mức độ khác nhau trong quá trình đi lên chủ
nghĩa xã hội và chủ nghĩa cộng sản. Ngời viết: Tất cả các dân tộc đều tiến tới
chủ nghĩa xã hội, song các dân tộc tiến lên chủ nghĩa xã hội không hoàn toàn
giống nhau. Mỗi dân tộc sẽ đa đặc điểm của mình vào hình thức này hay hình
thức khác của chế độ dân chủ vào loại này hay loại khác của chuyên chính vô
sản, vào nhịp độ này hay nhịp độ khác của xã hội với những mức độ khác
nhau12.
Tiến trình lịch sử của một dân tộc, một quốc gia cụ thể có thể có những
hình thức, bớc đi khác nhau, bởi vì mỗi quốc gia cụ thể thờng xuyên bị những
12

V.I.Lênin, Toàn tập, Nxb Tiến bộ, M.1981, tập 30, tr 159- tr 160


9

yếu tố bên trong, bên ngoài tác động chi phối cũng không giống nhau, nh
hoàn cảnh địa lý, truyền thống văn hoá, tâm lý dân tộc, quan hệ hợp tác giao lu với các dân tộc khác. Tất cả các yếu tố đó có thể góp phần kìm hãm, hoặc
thúc đẩy sự phát triển của mỗi dân tộc cũng khác nhau theo một hớng đi nhất
định. Có thể nói, tình trạng chiến tranh hay hoà bình của một dân tộc rất có
thể làm gián đoạn hoặc phá vỡ tiến trình phát triển tự nhiên, hoặc sẽ tạo điều
kiện để ổn định, phát triển của lịch sử mỗi dân tộc. Hơn nữa, các quá trình của

lịch sử của xã hội loài ngời diễn ra không đều, thờng xuất hiện những trung
tâm phát triển mạnh về sản xuất vật chất, kỹ thuật, về văn hoá, tiến bộ xã hội.
Chính những trung tâm ấy phát triển mạnh làm lan toả, quan hệ giao lu, đua
tranh phát triển giữa các dân tộc có trình độ phát triển khác nhau. Đó là cơ sở
thúc đẩy tiến bộ, làm xuất hiện khả năng một số nớc tận dụng đợc cơ hội
thuận lợi có thể bỏ qua một hình thái kinh tế- xã hội nào đó để rút ngắn mà
không phải lặp lại tuần tự các quá trình phát triển của lịch sử. Chính qua
nghiên cứu sâu sắc thực tiễn của lịch sử, Lênin đã đặt vấn đề khả năng đi lên
chủ nghĩa xã hội của các nớc lạc hậu, bỏ qua chế độ t bản chủ nghĩa cũng trở
lên hiện thực. Ngời viết: Không nghi ngờ gì nữa, ở một nớc trong đó những
ngời sản xuất tiểu nông chiếm tuyệt đại đa số dân c, chỉ có thể thực hiện cách
mạng xã hội chủ nghĩa bằng một loạt những biện pháp quá độ đặc biệt, hoàn
toàn không cần thiết ở những nớc t bản phát triển13.
Để thực hiện đợc nhiệm vụ xây dựng chủ nghĩa xã hội, Lênin chỉ ra giai
cấp vô sản ở các nớc đó phải biết áp dụng sách lợc và đờng lối chính trị và
những điều kiện tiền t bản chủ nghĩa, phải có sự giúp đỡ tích cực của các nớc
tiên tiến và giai cấp vô sản ở nớc đó. Với các điều kiện đó các nớc lạc hậu vẫn
có thể tiến tới chủ nghĩa xã hội bỏ qua chế độ t bản chủ nghĩa. Theo Lênin sự
bỏ qua ấy vẫn là hợp với quy luật tự nhiên trong tiến trình phát triển, chứ
không phải là sự áp đặt chủ quan hay là ý muốn, thích hay không thích của bất
cứ quốc gia nào, bởi vì, sự phát triển rút ngắn đã trở thành hiện thực trong
lịch sử. Vì vậy, sự rút ngắn chẳng những không mâu thuẫn với tinh thần của
sự phát triển mang tính tự nhiên lịch sử mà còn là biểu hiện sinh động của quá
trình lịch sử tự nhiên. Chỉ trừ khi ngời ta rút ngắn một cách duy ý chí, bất
chấp quy luật khách quan thì lúc đó sự phát triển rút ngắn mới trở lên đối lập
với quá trình lịch sử tự nhiên. Trong thực tiễn đã có một số quốc gia, dân tộc
đã bỏ qua nh Nga, Ba Lan, Mỹ,
13

V.I.Lênin, Toàn tập, Nxb Tiến bộ, M.1978, tập 43, tr 68- tr 69



10

Trên con đờng đi lên chủ nghĩa xã hội, Việt Nam là một quốc gia cha
trải qua thời kỳ phát triển t bản chủ nghĩa. Sau cách mạng Tháng Tám thành
công Đảng ta và nhân dân ta đã chon con đờng bỏ qua chế độ t bản chủ nghĩa
tiến lên xây dựng chủ nghĩa xã hội. Chính nớc ta cũng là một quốc gia nằm
trong tiến trình lịch sử tự nhiên của xã hội loài ngời. Vừa mang tính quy luật
chung, mà ở Việt Nam còn mang tính quy luật đặc thù, đó là chúng ta đi lên
chủ nghĩa xã hội từ một nớc nông nghiệp lạc hậu, kinh tế kém phát triển, cha
trải qua thời kỳ phát triển t bản chủ nghĩa. Song, đó là con đờng hiện thực, phù
hợp với quy luật phát triển chung của tiến trình lịch sử nhân loại. Bởi vậy, sự
lựa chọn con đờng đi lên chủ nghĩa xã hội, bỏ qua chế độ t bản chủ nghĩa của
Đảng Cộng sản Việt Nam là đúng đắn và hợp quy luật khách quan.
2.2. Nhận thức về con đờng xây dựng chủ nghĩa xã hội ở Việt Nam
Trung thành với chủ nghĩa Mác-Lênin, Đảng, Bác Hồ và nhân dân ta
khẳng định: Chủ nghĩa xã hội là học thuyết khoa học và cách mạng của giai
cấp vô sản nhằm xoá bỏ ách thống trị của t bản chủ nghĩa, thực hiện lý tởng
giải phóng giai cấp và giải phóng toàn thể xã hội loài ngời. Do đó, chủ nghĩa
xã hội là một chủ nghĩa nhân đạo hiện thực. Chủ nghĩa xã hội là một chế độ
xã hội kiểu mới thuộc hình thái kinh tế-xã hội cộng sản chủ nghĩa mà việc xây
dựng và hoàn thiện nó sẽ là một quá trình lịch sử lâu dài, để từng bớc đạt tới
mục tiêu giải phóng con ngời toàn diện.
Văn kiện Đại hội đại biểu toàn quốc lần thứ IX của Đảng đã xác định:
Con đờng đi lên của nớc ta là sự phát triển quá độ lên chủ nghĩa xã hội bỏ
qua chế độ t bản chủ nghĩa14. Nh vậy, Đảng ta khẳng định đi lên chủ nghĩa xã
hội, nớc ta nhất định phải trải qua một thời kỳ quá độ, điều đó hoàn toàn đúng
với nguyên lý của chủ nghĩa Mác- Lênin và phù hợp với thực tiễn nớc ta. Theo
nguyên lý chung, quá độ đi lên chủ nghĩa xã hội thờng có hai dạng cơ bản, đó

là, từ chủ nghĩa t bản đi lên chủ nghĩa xã hội và quá độ đi lên chủ nghĩa xã hội
bỏ qua chế độ t bản chủ nghĩa. Nh vậy, nớc ta quá độ đi lên chủ nghĩa xã hội
thuộc hình thức thứ hai. Qua nghiên cứu chúng ta thấy rằng nớc ta tuy có
những nét chung của hình thức quá độ bỏ qua chế độ t bản chủ nghĩa, nhng nớc ta lại có những đặc điểm riêng do điều kiện đặc thù của lịch sử cách mạng
nớc ta. Đó là, nớc ta đi lên chủ nghĩa xã hội từ một nền kinh tế sản xuất nhỏ là
phổ biến, trình độ lực lợng sản xuất thấp, từ quan hệ sản xuất tiền t bản. Điều
đó chỉ ra cho chúng ta phải xây dựng một phơng thức sản xuất mới, có nền
14

ĐCSVN, Văn kiện Đại hội đại biểu toàn quốc lần thứ IX, Nxb CTQG, Hà Nội 2001, tr 84


11

công nghiệp hiện đại, nền nông nghiệp phát triển...đồng nghĩa là cả một quá
trình rất lâu dài và cực kỳ khó khăn. Cùng với kinh tế, thể chế chính trị còn rất
nhiều bất cập bởi vì chúng ta đi lên chủ nghĩa xã hội từ một nớc thuộc địa nửa
phong kiến, cha trải qua nền dân chủ t sản, lại chịu ảnh hởng nặng nề của chế
độ phong kiến, giai cấp công nhân còn ít về số lợng, chất lợng còn nhiều hạn
chế. Đất nớc ta trải qua chiến tranh hết sức tàn khốc, để lại nhiều hậu quả
nặng nề, các quan hệ xã hội còn nhiều bất cập, phức tạp. Trong khi đó, dân tộc
ta lại chịu ảnh hởng nặng nề của hệ t tởng phong kiến, t tởng tiểu nông, văn
minh nông nghiệp, những tàn d lạc hậu, của chế độ cũ để lại còn khá phổ biến,
đời sống hởng thụ văn hoá của nhân dân còn nhiều hạn chế. Cùng với những
khó khăn về chính trị, kinh tế, xã hội, đó là sự chống phá của kẻ thù bên trong
và bên ngoài, tình hình quốc tế diễn biến phức tạp, đây là thách thức đối với nớc ta.
Một đất nớc lạc hậu về kinh tế, một dân tộc vừa thoát khỏi 1000 năm
chế độ phong kiến và hơn 100 năm chế độ thực dân, muốn đi lên chủ nghĩa xã
hội, không thể không trải qua và thực hiện chế độ dân chủ nhân dân. khi
chúng ta cho rằng phải kinh qua chế độ dân chủ mới để tiến lên chủ nghĩa xã

hội Đảng ta đã vận dụng một cách sáng tạo những t tởng của Lênin về xây
dựng chủ nghĩa xã hội ở nớc Nga xô viết sau nội chiến nh chính sách kinh tế
NEP để đẩy lùi nạn đói, khôi phục nền kinh tế sau chiến tranh.
Con đờng mà chúng ta đã chọn là xây dựng chủ nghĩa xã hội là con đờng duy nhất đúng, có cơ sở khoa học của Đảng ta. T tởng ấy thể hiện sự nắm
vững và thái độ tôn trọng quy luật khách quan; đồng thời, thể hiện tính chủ
động, sáng tạo của con ngời trớc xu thế phát triển của thời đại, thông qua sự
định hớng chiến lợc phát triển xã hội chủ nghĩa. Trên thực tế, ngay sau khi
cách mạng tháng Tám thành công nớc ta đã xây dựng nền kinh tế trong thời
kỳ quá độ, đã khuyến khích mọi thành phần kinh tế phát triển vì lợi ích chung
và lâu dài. Chế độ kinh tế xã hội chủ nghĩa dựa trên cơ sở chế độ sở hữu xã
hội, điều kiện căn bản nhất để đảm bảo xoá bỏ ách áp bức nô dịch và bóc lột.
Chính những năm 1955-1957 là thời kỳ phát triển rực rỡ nhất của nền kinh tế
miền Bắc theo đờng lối dân chủ.
Nhiệm vụ chủ yếu của giai đoạn dân chủ nhân dân là tạo ra những điều
kiện đầy đủ cho bớc quá độ thực sự sang chủ nghĩa xã hội, có nh vậy mới đảm
bảo điều kiện từ một nớc kém phát triển có thể xây dựng thành công chủ nghĩa


12

xã hội, dới hình thức rút ngắn mà không vi phạm quy luật khách quan, không
phá vỡ quá trình phát triển lịch sử tự nhiên.
Trớc thực tiễn cụ thể của Việt Nam Đảng ta đã nhìn nhận một cách
khoa học trên nền tảng lý luận chủ nghĩa Mác-Lênin và xác định: bỏ qua chế
độ t bản chủ nghĩa để đi lên chủ nghĩa xã hội là con đờng duy nhất đúng, phù
hợp với tiến trình phát triển của lịch sử nhân loại, phù hợp với xu thế thời đại
ngày nay. Mặc dù đó là con đờng khó khăn phức tạp, lâu dài, phải trải qua
nhiều bớc trung gian quá độ, việc bỏ qua chế độ t bản chủ nghĩa là quyết định
đúng đắn, sáng tạo của Đảng ta. Bởi vì, nớc ta bỏ qua chế độ t bản chủ nghĩa,
thực chất là một kiểu phát triển rút ngắn, nhng vẫn tôn trọng quá trình phát

triển lịch sử tự nhiên, không đợc chủ quan, nóng vội, đốt cháy giai đoạn. Đó là
sự quá độ gián tiếp đi lên chủ nghĩa xã hội. Đó là việc rút ngắn những cơn
đau đẻ kéo dài nghĩa là rút ngắn giai đoạn và bớc đi của tiến trình lịch sử lên
chủ nghĩa xã hội. Cho nên, chúng ta phải biết sử dụng, thậm chí tạo điều kiện
cho một số nhân tố t bản đã có hoặc cha có ở nớc ta phát triển trong quỹ đạo
của chủ nghĩa xã hội, đó là sự bỏ qua có kế thừa, chọn lọc, đồng thời cũng là
tôn trọng quy luật vận động khách quan của xã hội nớc ta. Chúng ta bỏ qua
việc xác lập vị trí thống trị của quan hệ sản xuất t bản chủ nghĩa, bỏ qua chế
độ chính trị t bản chủ nghĩa. Mặt khác chúng ta lại tiếp thu, kế thừa những
thành tựu mà nhân loại đã đạt đợc dới chế độ t bản chủ nghĩa, đặc biệt là về
khoa học công nghệ để phát triển nhanh lực lợng sản xuất, thực hiện công
nghiệp hoá, hiện đại hoá đất nớc, xây dựng cơ sở vật chất kỹ thuật, đặt nền
móng cho chủ nghĩa xã hội. Để bỏ qua cần phải thiết lập chuyên chính vô sản,
xây dựng nhà nớc pháp quyền, nhng bản chất phải là nhà nớc của dân, do dân
và vì dân. Đồng thời phải mở rộng quan hệ giao lu, hợp tác quốc tế, nhất là
trao đổi về khoa học, kỹ thuật và công nghệ hiện đại, chống khép kín,... song
phải giữ đợc bản sắc của dân tộc, hoà nhập nhng không hoà tan. Đặc biệt là về
chính trị, phải giữ vững quyền lãnh đạo của Đảng cộng sản Việt Nam, chống
đa nguyên về chính trị, đa đảng đối lập. Trong quá trình thực hiện xây dựng
chủ nghĩa xã hội luôn nắm vững nguyên lý của chủ nghĩa Mác-Lênin, t tởng
Hồ Chí Minh coi đây là nguyên tắc cơ bản định hớng t tởng, quan điểm. Đổi
mới không phải là thay đổi mục tiêu xây dựng chủ nghĩa xã hội, thay đổi vai
trò lãnh đạo của Đảng cộng sản mà đổi mới để xây dựng chủ nghĩa xã hội,
củng cố vai trò lãnh đạo của Đảng cộng Việt Nam. Thế nhng quá trình đổi
mới, xây dựng phải sáng tạo và phát triển trên cơ sở thực tế của mỗi nớc, tránh


13

rơi vào bảo thủ, giáo điều Bởi lẽ những nguyên lý cơ bản đợc thể hiện trong

cuộc sống ở thời gian, không gian cụ thể và thực tế của mỗi nớc.
Nhận thức đúng đặc điểm về quá độ đi lên chủ nghĩa xã hội, bỏ qua chế
độ t bản chủ nghĩa là cơ sở trớc tiên để chúng ta hành động đúng trong quá
trình cải tạo, xây dựng phát triển đi lên chủ nghĩa xã hội. Nh Lênin nhận xét:
chủ nghĩa t bản nh là sản vật tự nhiên của nền sản xuất và tiểu trao đổi, bởi
vậy, chúng ta phải biết lợi dụng chủ nghĩa t bản để xây dựng chủ nghĩa xã hội.
Ông viết: Trong một nớc tiểu nông trớc hết các đồng chí phải bắc những
chiếc cầu nhỏ vững chắc, đi xuyên qua chủ nghĩa t bản nhà nớc tiến lên chủ
nghĩa xã hội15.
Hiện nay, Đảng Cộng sản Việt Nam không những đánh giá cao vai trò
lý luận của chủ nghĩa Mác- Lênin mà còn khẳng định chủ nghĩa Mác- Lênin,
t tởng Hồ Chí Minh là nền tảng t tởng, kim chỉ nam cho hành động của Đảng
và của toàn dân tộc Việt Nam và qua thực tiễn hơn 75 năm qua dới sự lãnh đạo
của Đảng cộng sản Việt Nam, dới sự lãnh đạo tài tình của Chủ tịch Hồ Chí
Minh đã đa cách mạng Việt Nam giành thắng lợi hoàn toàn chấm dứt ách đô
hộ hàng nghìn năm của chế độ phong kiến, hàng trăm năm của các thế lực
thực dân cũ và mới, đa đất nớc thống nhất, giang sơn thu về một mối, cả nớc
đi lên chủ nghĩa xã hội. Qua hơn 20 năm đổi mới,Việt Nam giữ vững chế độ
chủ nghĩa xã hội và đa đất nớc thoát khỏi khủng hoảng và phát triển đi lên.
Công cuộc đổi mới ở nớc ta đã đạt những thành tựu to lớn và có ý nghĩa lịch
sử. Đó đã góp thêm một bằng chứng hùng hồn về sức sống và giá trị thời đại
của chủ nghĩa Mác- Lênin khi mà Đảng Cộng sản Việt Nam đã bám sát thực
tiễn, không ngừng bổ sung lý luận phù hợp với thực tiễn đa sự nghiệp cách
mạng tiến lên, điều đó càng khẳng định bản chất cách mạng và khoa học của
chủ nghĩa Mác- Lênin có giá trị vĩnh hằng đối với nhân loại
Nh vậy, đây là cơ sở khoa học để khẳng định con đờng và tính tất yếu đi
lên chủ nghĩa xã hội, bỏ qua chế độ t bản chủ nghĩa ở nớc ta. Đi lên chủ nghĩa
xã hội, bỏ qua chế độ t bản chủ nghĩa ở nớc ta là hoàn toàn phù hợp với quy
luật khách quan và xu thế phát triển tất yếu của lịch sử. Việc bỏ qua chế độ t
bản chủ nghĩa ở nớc ta vẫn nằm trong tiến trình lịch sử tự nhiên, vẫn nằm

trong tiến trình phát triển chung của thế giới. Mặt khác, đi lên chủ nghĩa xã
hội, bỏ qua chế độ t bản chủ nghĩa ở nớc ta nó vẫn phù hợp với xu thế phát
triển tất yếu của thời đại ngày nay- thời đại ngày nay là thời đại qua độ đi lên
15

V.I.Lênin, Toàn tập, Nxb Tiến bộ, M.1978, tập 44, tr 189


14

chủ nghĩa xã hội trên phạm vi toàn thế giới, mở đầu từ cách mạng tháng Mời
Nga.
Mặc khác, thông qua con đờng giao lu hợp tác đa phơng hoá, đa dạng
hoá để các nớc chậm phát triển có thể đi vào con đờng phát triển rút ngắn,
ngay cả khi chủ nghĩa t bản vẫn còn tồn tại và phát triển. Đây là một tính quy
luật về sự giao lu giữa các nền văn minh với nhau mà trớc hết là nền sản xuất
vật chất, mối quan hệ kinh tế, tạo ra các hình thức trao đổi sản phẩm do chính
mình làm ra và dẫn đến sự giao lu với các bộ phận của kiến trúc thợng tầng.
Nhà nớc là sản phẩm của cơ sở sản xuất, xã hội, bao gồm toàn bộ sự giao tiếp
vật chất của các cá nhân trong một giai đoạn phát triển nhất định của những
lực lợng sản xuất, bao gồm toàn bộ đời sống thơng nghiệp và công nghiệp của
một giai đoạn xã hội, trong bất cứ thời đại nào cũng là cơ sở của nhà nớc nó
quyết định đến lực lợng sản xuất và quan hệ sản xuất, nó giao lu với nhau
trong khu vực và ngoài khu vực.
Quá độ đi lên chủ nghĩa xã hội bỏ qua chế độ t bản chủ nghĩa, không
phải cho đến bây giờ mới xuất hiện, mà nó là mục đích ngay từ khi Đảng cộng
sản Việt Nam ra đời năm 1930. Trong chính cơng sách lợc vắn tắt cho đến
luận cơng chính trị năm 1930, Đảng ta đã khẳng định con đờng đi lên chủ
nghĩa xã hội bỏ qua chế độ t bản chủ nghĩa. Đó là sự vận dụng đúng đắn sáng
tạo nguyên lý chủ nghĩa Mác- Lênin vào điều kiện hoàn cảnh thực tiễn Việt

Nam.
Xuất phát từ đặc điểm của thời đại, sự phát triển rất cao của lực lợng
sản xuất, tính chất quốc tế hoá của lực lợng sản xuất đã tạo nên một xu thế
mới trong quan hệ giữa các quốc gia dân tộc. Nớc ta nằm trong quỹ đạo chung
của xu thế đó, với nhận thức nhạy bén, chủ động, Đảng ta đã nhanh chóng
nắm bắt thời cơ, khắc phục đợc những thách thức lớn của thời đại tác động
đến nớc ta.
Trong quá trình đổi mới xây dựng chủ nghĩa xã hội chúng ta đã đạt đợc
những kết quả rất khả quan: tốc độ phát triển kinh tế, tăng trởng tơng đối vững
chắc, đời sống của nhân dân đợc cải thiện đáng kể, một bộ phận nhân dân ta
đã trở lên giàu có, văn hoá, khoa học kỹ thuật đợc phát triển tốt, vị thế của nớc
ta trên trờng quốc tế đợc tăng cờng, chúng ta đã tham gia rất nhiều vào các tổ
chức quốc tế với một vai trò hết sức quan trọng, nh tổ chức Liên hợp quốc,
thành viên WTO và thành viên trong khu vực ASEAN, Trong quá trình hội
nhập chúng ta đã tận dụng đợc rất nhiều thành tựu của cuộc cách mạng khoa


15

học kỹ thuật và công nghệ hiện đại để củng cố, xây dựng, phát triển cơ sở vật
chất kỹ thuật của chủ nghĩa xã hội, xây dựng đợc các ngành công nghiệp mũi
nhọn, các công trình, cơ sở hạ tầng lớn quan trọng.
Thực tiễn cách mạng Việt Nam sau hai mơi năm đổi mới đã chứng
minh điều đó, những điều kiện khách quan, xu thế thời đại hiện nay đối với
dân tộc ta là cơ hội thuận lợi giúp đất nớc ta hoàn toàn có khả năng bỏ qua chế
độ t bản chủ nghĩa để quá độ đi lên chủ nghĩa xã hội, trong điều kiện các nớc
xã hội chủ nghĩa ở Liên xô và Đông âu sụp đổ, kẻ thù ra sức chống phá chế độ
xã hội chủ nghĩa ở Việt Nam. Tuy nhiên, điều kiện khách quan thuận lợi mà
muốn trở thành hiện thực, thì nó phụ thuộc rất lớn vào sự tiếp nhận, kết hợp,
chuyển hoá của những nhân tố chủ quan, đó là Đảng cộng sản Việt Nam và sự

đoàn kết của nhân dân ta, phát huy truyền thống yêu nớc, khắc phục khó khăn,
xây dựng cuộc sống ấm no cho dân tộc.
Trong công cuộc đổi mới xây dựng chủ nghĩa xã hội do Đảng cộng sản
Việt Nam khởi xớng và lãnh đạo từ Đại hội lần thứ VI, đến nay đã đạt đợc
những thành tựu có ý nghĩa lịch sử. Đúng nh Báo cáo Chính trị tại Đại hội đại
biểu toàn Quốc của Đảng lần thứ X đã khẳng định: Công cuộc đổi mới ở nớc
ta đã đạt những thành tựu to lớn và có ý nghĩa lịch sử 16, đã đa cách mạng nớc
ta bớc sang thời kỳ phát triển mới, đẩy mạnh công nghiệp hoá, hiện đại hoá
đất nớc. Có thể khẳng định rằng, vai trò to lớn của Đảng cộng sản Việt Nam
trong sự nghiệp đổi mới, trong nhận thức và nắm bắt điều kiện khách quan
thuận lợi để chuyển hoá, phù hợp với điều kiện thực tiễn phát triển của Việt
Nam, phù hợp với xu thế rõ rệt của thời đại, nó phù hợp với tâm t nguyện vọng
cháy bỏng của toàn dân tộc ta. Đó là nhân tố chủ quan, nhân tố chính trị hết
sức quan trọng có tính chất quyết định con đờng đi lên chủ nghĩa xã hội ở nớc
ta hiện nay.
Sự thành công trong công cuộc đổi mới xây dựng chủ nghĩa xã hội ở
Việt Nam, trớc hết phải nói vai trò của Đảng cộng sản, là một Đảng Mácxít
chân chính có bản lĩnh chính trị kiên định vững vàng và giàu kinh nghiệm
trong quá trình lãnh đạo sự nghiệp cách mạng; đây là một yếu tố chính trị có ý
nghĩa quyết định trong việc chuyển hoá nhân tố của thời đại thành sức mạnh
bên trong của dân tộc; nhân dân ta có truyền thống yêu nớc nồng nàn, luôn
gắn bó với chế độ, và tin tởng vào sự nghiệp cách mạng của Đảng, tạo ra
những động lực to lớn của cách mạng Việt Nam. Mặt khác, với nguồn nhân
Đảng cộng sản Việt Nam, Báo cáo chính trị của BCHTW Đảng khoá IX tại đại hội đại biểu toàn quốc lần
thứ X của Đảng, Hà Nội 2006, tr 10- tr 11
16


16


lực dồi dào, tài nguyên đất nớc phong phú là những điều kiện thuận lợi để
chúng ta xây dựng chủ nghĩa xã hội. Những thành tựu to lớn của công cuộc
đổi mới đất nớc đã tạo ra cho chúng ta có thế và lực mới trong quá trình xây
dựng chủ nghĩa xã hội.
Bên cạnh những thành tựu đạt đợc chúng ta còn gặp phải những khó
khăn thách thức, cản trở quá trình đi lên chủ nghĩa xã hội đó là: Do có sự tác
động của điều kiện quốc tế đa đến nh sự khủng hoảng của chủ nghĩa xã hội
hiện thực, chủ nghĩa đế quốc tập trung chống phá toàn diện trên tất cả các lĩnh
vực, xu hớng toàn cầu hoá tạo ra sự cạnh tranh gay gắt; hậu quả của chế độ đô
hộ phong kiến hàng nghìn năm, chiến tranh tàn khốc kéo dài ròng rã, tàn d t tởng, tâm lý, tập quán cũ, Mặt khác, trong quá trình đổi mới đất nớc còn nảy
sinh các nguy cơ nh chệch hớng xã hội chủ nghĩa, tụt hậu về kinh tế, diễn biến
hoà bình, tệ quan liêu tham nhũng...Từ những khó khăn trên đây chúng ta thấy
thời kỳ quá độ đi lên chủ nghĩa xã hội là thời kỳ cải biến cách mạng hết sức
khó khăn và phức tạp. Nhận thức đúng những khó khăn, thuận lợi của đất nớc,
thấy đợc nhân tố chủ quan, khách quan tác động đến quá trình xây dựng chủ
nghĩa xã hội ở Việt Nam. Trên cơ sở lý luận hình thái kinh tế-xã hội của chủ
nghĩa Mác-Lênin chúng ta khẳng định: trong điều kiện hiện nay Việt Nam có
đủ điều kiện và khả năng đi lên chủ nghĩa xã hội, bỏ qua chế độ t bản chủ
nghĩa và xây dựng thành công chủ nghĩa xã hội trên đất nớc ta, đó là con đờng
hợp quy luật khách quan.
Với những thành tựu trong xây dựng chủ nghĩa xã hội Đảng ta không
bao giờ coi công lao ấy, sự nhiệp ấy là tự mình làm ra, mà Đảng rất coi trọng
các nhân tố khác, biết phát huy nội lực và ngoại lực, tiềm năng của đất nớc về
kinh tế, mà Đảng rất coi trọng đến lực lợng quần chúng nhân dân, coi đó là sự
nghiệp của quần chúng. Bởi vì, dân tộc ta có truyền thống cực kỳ quý báu, đó
là truyền thống anh hùng trong chiến đấu chống giặc ngoại xâm, cần cù, sáng
tạo, chịu khó thông minh trong lao động sản xuất và tinh thần tự lực, tự cờng
xây dựng đất nớc, phòng chống thiên tai...truyền thống ấy tạo nên bản sắc văn
hoá Việt Nam, tạo thành động lực quan trọng trong phát triển đất nớc. Bằng
việc phát huy sức mạnh đại đoàn kết toàn dân tộc, trong sự nghiệp xây dựng

đất nớc, lại một lần nữa khẳng định tính đúng đắn sáng tạo của Đảng trớc tình
hình mới.
Qua nghiên cứu lý luận chủ nghĩa Mác-Lênin và vận dụng thực tiễn
cách mạng Việt Nam với những điều kiện khách quan, nhân tố chủ quan trong


17

nớc và quốc tế, xu thế thời đại...chúng ta một lần nữa khẳng định con đờng đi
lên chủ nghĩa xã hội, bỏ qua chế độ t bản chủ nghĩa là hợp với quy luật vận
động khách quan của tiến trình lịch sử, là cơ sở khoa học và cách mạng, đó là
con đờng hợp quy luật và ngày càng trở thành hiện thực. Sự nhận thức đúng
đắn và nhất quán trong suốt quá trình cách mạng Việt Nam đi lên chủ nghĩa
xã hội, bỏ qua chế độ t bản chủ nghĩa là sự lựa chọn duy nhất đúng. đây là t tởng xuyên suốt của cách mạng Việt Nam nhằm đem lại cho nhân dân ta có đợc cuộc sống tự do, ấm no, hạnh phúc. Xây dựng đất nớc theo mục tiêu: dân
giàu, nớc mạnh, xã hội công bằng, dân chủ văn minh.
3. Kết luận
Trong sự nghiệp xây dựng chủ nghĩa xã hội ở nớc ta hiện nay Đảng ta
xác định: lấy chủ nghĩa Mác-Lênin, t tởng Hồ Chí Minh làm nền tảng. Trong
đó lý luận về hình thái kinh tế-xã hội là cơ sở nền tảng để Đảng ta lựa chọn
con đờng, bớc đi của cách mạng Việt Nam. Quan điểm này mang một giá trị
bền vững, đầy sức sống, là sợi chỉ đỏ xuyên suốt quá trình cách mạng Việt
Nam.
Đảng ta đã vận dụng sáng tạo những t tởng cơ bản lý luận của chủ nghĩa
Mác- Lênin để đề ra đờng lối đối với sự nghiệp xây dựng và đổi mới đất nớc.
Chúng ta khẳng định rằng: học thuyết hình thái kinh tế- xã hội là cơ sở khoa
học để Đảng ta đa ra đờng lối đổi mới toàn diện đất nớc và giải quyết thành
công những vấn đề đặt ra trong quá trình xây dựng chủ nghĩa xã hội, là cơ sở
khoa học để nhận thức đặc trng đi lên chủ nghĩa xã hội ở nớc ta. Nớc ta đi lên
chủ nghĩa xã hội bỏ qua việc xác lập quan hệ sản xuất thống trị và kiến trúc
thợng tầng chính trị t bản chủ nghĩa. Chế độ chính trị của chúng ta là chế độ

chính trị xã hội chủ nghĩa, chúng ta chỉ bỏ qua chế độ t bản chủ nghĩa, còn
thành quả cơ sở vật chất kỹ thuật, khoa học công nghệ, trình độ quản lý,
chúng ta phải tiếp thu, kế thừa cho phù hợp với điều kiện đất nớc.
Hiện nay, các thế lực thù địch đã và đang chống phá cách mạng nớc ta
hết sức tinh vi và quyết liệt, nhất là trên mặt trận lý luận t tởng. Chúng sử
dụng chiến lợc diễn biến hoà bình chống phá ta về Đờng lối chủ trơng chính
sách của Đảng, tiến tới phủ nhận chủ nghĩa Mác- Lênin. Vì vậy cuộc đấu
tranh chống chiến lợc diễn biến hoà bình diễn ra rất quyết liệt, phức tạp và
lâu dài, đòi hỏi phải linh hoạt, khôn khéo...lấy cái tích cực đẩy lùi cái tiêu cực
trong đời sống xã hội, đẩy mạnh sự nghiệp công nghiệp hoá, hiện đại hoá đất
nớc, phát triển kinh tế- xã hội, giữ vững ổn định chính trị. Thực hiện mục tiêu


18

dân giàu, nớc mạnh, xã hội công bằng, dân chủ, văn minh; quốc phòng, an
ninh đợc giữ vững. Vì vậy, đội ngũ các nhà khoa học đặc biệt là khoa học xã
hội và nhân văn phải tiến hành nghiên cứu, bổ sung và phát triển lý luận trong
đó có học thuyết hình thái kinh tế- xã hội của Mác.
Bản thân là một đảng viên, cán bộ trong lực lợng vũ trang nhân dân, qua
nghiên cứu vấn đề trên, bản thân có niềm tin tởng sâu sắc vào sự nghiệp cách
mạng do Đảng cộng sản Việt Nam lãnh đạo. Tin tởng vào sự nghiệp đổi mới,
sự nghiệp công nghiệp hoá, hiện đại hoá đất nớc. Chính điều đó, giúp cho bản
thân xác định tốt hơn trách nhiệm của mình trong việc nâng cao tinh thần học
tập lý luận của chủ nghĩa Mác- Lênin, t tởng Hồ Chí Minh, hiểu, nhận thức
một cách đúng đắn, khoa học. Đồng thời biết vận dụng một cách sáng tạo
trong hoạt động thực tiễn. Tích cực trong học tập và nghiên cứu khoa học,
giáo dục cán bộ chiến sỹ làm tốt nhiệm vụ của mình trong sự nghiệp bảo vệ
Tổ quốc, bảo vệ Đảng, bảo vệ nhân dân, bảo vệ thành quả của cách mạng, bảo
vệ chế độ xã hội chủ nghĩa mà nhân dân ta đã xây dựng hơn 70 năm qua. Góp

một phần nhỏ bé của mình vào thành công của sự nghiệp đổi mới đất nớc.
Thực hiện tốt nhiệm vụ bảo vệ Đảng, bảo vệ chế độ, bảo vệ nhân dân và bảo
vệ trọn vẹn Tổ quốc Việt Nam xã hội chủ nghĩa./.



×