PHẦN MỞ ĐẦU
1. Tính cấp thiết của đề tài
Đất đai là một tài nguyên thiên nhiên quý giá của mỗi quốc gia, là yếu tố
quyết định sự tồn tại và phát triển của con người và các sinh vật khác trên trái
đất. Các Mác đã chỉ ra rằng đất đai là tài sản mãi mãi với loài người, là điều
kiện để sinh tồn, là điều kiện không thể thiếu được để sản xuất, là tư liệu sản
xuất cơ bản trong nông, lâm nghiệp. Bởi vậy, nếu không có đất đai thì không
có bất kỳ một ngành sản xuất nào, con người không thể tiến hành sản xuất ra
của cải vật chất để duy trì cuộc sống đến ngày nay.
Trong nông nghiệp đất đai là tư liệu sản xuất không thể thay thế được.
Đặc biệt, Việt Nam có lợi thế rất lớn trong việc sản xuất hàng nông sản. Để đẩy
mạnh việc sản xuất mặt hàng này nhằm tranh thủ ngày càng tốt hơn lợi thế đó của
nước ta so với một số nước trong khu vực và trên thế giới thì việc nhận thức tiềm
năng đất đai, từ đó có phương hướng sử dụng đất hợp lí là một yêu cầu cấp thiết
của thực tiễn.
Phát triển nông nghiệp, nông thôn luôn là vấn đề được Đảng, Nhà nước
ta quan tâm hàng đầu. Nghị quyết 10 của Bộ Chính trị đưa ra chủ trương đổi
mới quản lý kinh tế nông nghiệp và Hội nghị Trung ương lần thứ sáu (khóa
VI) khẳng định hộ nông dân là đơn vị kinh tế tự chủ và nền kinh tế hàng hóa
được thừa nhận. Chính sách đất đai kể từ khi đổi mới đến nay do đó luôn thể
hiện sự tích cực điều chỉnh để phù hợp với tình hình mới, khuyến khích phát
triển nông sản hàng hóa, hướng tới xây dựng một nền nông nghiệp hàng hóa
lớn. Nghị quyết Hội nghị lần thứ bảy Ban Chấp hành Trung ương Đảng khóa
IX đã nêu bật chủ đề: Tiếp tục đổi mới chính sách, pháp luật về đất đai trong
thời kỳ đẩy mạnh công nghiệp hóa, hiện đại hóa đất nước. Vì vậy, đất đai với
tư cách là “tài sản quốc gia, thuộc sở hữu toàn dân và do Nhà nước thống
nhất quản lý” như Hiến pháp nước Cộng hòa xã hội chủ nghĩa Việt Nam đã
1
quy định, đang được sử dụng ngày một hiệu quả hơn; đem lại những thành
công nhất định trong việc sản xuất nông nghiệp nói riêng và việc phát triển
kinh tế - xã hội nói chung.
Việc sử dụng đất nông nghiệp trên địa bàn huyện Thủy Nguyên, thành
phố Hải Phòng cũng nằm trong xu thế chung của cả nước. Là một huyện nằm
ở phía Đông Bắc thành phố Hải Phòng, được hình thành chủ yếu do sự bồi
lắng phù sa ở các con sông, trước hết là sông Bạch Đằng, huyện Thủy Nguyên
có điều kiện hết sức thuận lợi để phát triển sản xuất nông nghiệp hàng hóa, đặc
biệt là lương thực và thủy sản.
Trong điều kiện nền kinh tế thị trường, cùng với những chính sách ưu
đãi đối với nông nghiệp của Đảng và Nhà nước, nhiều diện tích đất được khai
phá và sử dụng hiệu quả, góp phần quan trọng vào việc phát triển kinh tế xã
hội của địa phương cũng như sự nghiệp công nghiệp hóa, hiện đại hóa nông
nghiệp nông thôn của huyện nhà. Hiện nay, trên địa bàn huyện chỉ còn một
diện tích nhỏ thuộc nhóm đất chưa sử dụng.
Tuy nhiên, việc sử dụng đất nông nghiệp ở huyện Thủy Nguyên vẫn chưa
tương xứng với tiềm năng vốn có của nó. Việc sử dụng đất đai cho phát triển
nông nghiệp nhìn một cách tổng quát vẫn còn thiếu đồng bộ, mang tính tự phát,
đặt ra nhiều vấn đề cần phải giải quyết như: đảm bảo lợi ích của người sử dụng
đất để họ yên tâm canh tác trên mảnh đất của mình, là cơ sở có thể xác lập một
nền sản xuất hàng hóa; vấn đề tập trung ruộng đất để xây dựng một nền sản xuất
nông nghiệp hàng hóa lớn ; vấn đề thực thi chính sách pháp luật về đất đai…
Việc nhận thức được tiềm năng đất nông nghiệp của địa phương, đề ra
phương hướng sử dụng đất nông nghiệp một một cách hợp lý, hợp quy luật
không chỉ trên phương diện lý luận và ma còn cả trên thực tiễn nêu trên sẽ làm
cho việc sử dụng đất nông nghiệp trên địa huyện Thủy Nguyên ngày càng hiệu
quả hơn. Từ đó tạo tiền đề vững chắc cho việc xây dựng một nền nông nghiệp
2
hàng hóa, đem lại hiệu quả kinh tế, góp phần nâng cao đời sống cho người
dân; trước hết là những người nông dân. Với mong muốn đó, em chọn đề tài:
“Tiềm năng đất đai cho phát triển nông nghiệp ở huyện Thủy Nguyên, thành
phố Hải Phòng” để nghiên cứu làm khóa luận, chuyên ngành Kinh tế chính trị.
2. Tình hình nghiên cứu
Là “tài sản quốc gia” và là một nguồn lực hết sức quan trọng để phát triển
kinh tế - xã hội. Đất đai luôn là vấn đề mang tính thời sự. Việc khai thác và sử
dụng nguồn lực này là một trong những nội dung quan trọng của chiến lược
công nghiệp hóa, hiện đại hóa nông nghiệp, nông thôn. Vấn đề đất đai hiện nay
là vấn đề khá phức tạp, do tầm quan trọng và ý nghĩa thực tiễn của nó nên đã có
nhiều công trình nghiên cứu ở nhiều cấp độ và nhiều góc độ khác nhau như:
Công trình “Kinh tế tài nguyên đất” của Ngô Đức Cát, Nxb Nông
nghiệp, Hà Nội, 2000; “Một số vấn đề xã hội và nhân văn trong sử dụng hợp
lý tài nguyên và bảo vệ môi trường ở Việt Nam”, của Hà Huy Thành, Nxb
Chính trị quốc gia, Hà Nội, 2001; “Sản xuất và đời sống của các hộ nông dân
không có đất hoặc thiếu đất ở Đồng bằng sông Cửu Long. Thực trạng và giải
pháp” của tác giả Nguyễn Đình Hương, Nxb Chính trị quốc gia, Hà Nội, 1999.
Ở góc độ quản lý kinh tế và kinh tế học có các công trình như: Luận án tiến
sĩ: “Các giải pháp kinh tế chủ yếu để khai thác sử dụng hợp lý đất đồi núi trọc ở
các tỉnh trung du và miền núi phía Bắc Việt Nam”, năm 1996, của Dương Ngọc
Thí; Luận án tiến sĩ “Những giải pháp kinh tế tổng hợp nhằm khai thác và sử
dụng có hiệu quả vùng đất bãi bồi, mặt nước hoang hóa vùng ven biển Thái
Bình”, bảo vệ tại Viện kinh tế học, thuộc Trung tâm Khoa học Xã hội và Nhân
văn Quốc gia, năm 2002, của Phạm Ngọc Quân.
Ở góc độ Kinh tế chính trị có các công trình đã được bảo vệ tại Học viện
Chính trị quốc gia Hồ Chí Minh như: Luận văn thạc sĩ: “Hệ thống các bảng
địa tô chênh lệch của Mác - Ăngghen và một số vấn đề nông nghiệp Quảng
3
Nam - Đà Nẵng”, năm 1995, của Nguyễn Văn Mân; Luận văn thạc sĩ “Khai
thác nguồn lực đất đai để phát triển nông nghiệp ở tỉnh Đồng Nai”, năm 2000,
của Bùi Thị Thuận; Luận văn thạc sĩ: “Khai thác tiềm năng đất đai nông
nghiệp để phát triển kinh tế hàng hóa trên địa bàn tỉnh Phú Thọ”, năm 2000, của
Nguyễn Tiến Khôi; Luận văn thạc sĩ: “Giao quyền sử dụng đất lâu dài cho nông
dân để phát triển kinh tế hàng hóa ở Quảng Bình”, năm 2002, của Lê Minh
Tuynh và Luận văn thạc sĩ: “Sử dụng đất nông nghiệp ở tỉnh Sơn La hiện nay”,
năm 2004, của Hà Công Nghĩa.
Bên cạnh đó, còn có một số bài viết đăng trên các tạp chí trong nước. Về
cơ bản, các công trình nói trên đã đi vào phân tích, đánh giá thực trạng và đề ra
những giải pháp để khai thác, sử dụng có hiệu quả nguồn lực đất đai nhằm đẩy
mạnh sản xuất nông nghiệp, phục vụ quá trình công nghiệp hóa, hiện đại hóa
nông thôn nhưng chủ yếu là ở tầm quốc gia và vùng kinh tế hoặc ở các địa
phương khác. Tuy nhiên, huyện Thủy Nguyên chưa có công trình khoa học nào
dưới góc độ Kinh tế chính trị nghiên cứu vấn đề này. Do đó, em mạnh dạn
nghiên cứu vấn đề này, với hy vọng góp phần công sức nhỏ bé của mình vào
việc tìm ra các giải pháp để khai thác tiềm năng đất nông nghiệp trong việc
phát triển nông nghiệp trên địa bàn huyện Thủy Nguyên.
3. Mục đích và nhiệm vụ của khóa luận
3.1. Mục đích nghiên cứu
Thông qua việc nghiên cứu, khóa luận chỉ ra những căn cứ đánh giá
đúng tiềm năng về lượng và chất đất theo khả năng thích hợp với từng mục
đích sử dụng nhằm định hướng cho việc sử dụng quỹ đất đai hợp lí, hiệu quả
và phù hợp với phát triển kinh tế- xã hội của địa phương.
3.2. Nhiệm vụ nghiên cứu
4
Tìm hiểu và hệ thống hóa cơ sở lí luận và kinh nghiệm thực tiễn ở địa
phương về vấn đề sử dụng đất đai để phát triển nông nghiệp ở huyện Thủy
Nguyên, thành phố Hải Phòng.
4. Đối tượng và phạm vi nghiên cứu
4.1. Đối tượng nghiên cứu
Đối tượng nghiên cứu của đề tài là quá trình đánh giá, phân bố nguồn lực
đất đai cho phát triển nông nghiệp ở huyện Thủy Nguyên, thành phố Hải Phòng.
4.2. Phạm vi nghiên cứu
Hiện trạng quỹ đất đang sử dụng và tiềm năng để khai thác quỹ đất để
phát triển lĩnh vực trồng trọt, chăn nuôi và lâm nghiệp của huyện Thủy
Nguyên ( Hải Phòng) trong giai đoạn từ 2005 đến nay.
5. Ý nghĩa của đề tài
Từ việc khảo sát tình hình đất đai ở địa phương, góp phần vào việc
triển khai và thực hiện tốt chủ trương, chính sách của Đảng, pháp luật của Nhà
nước về sử dụng đất đai vào phát triển nông nghiệp trên cơ sở khai thác và sử
dụng triệt để thế mạnh vốn có của địa phương, góp phần vào sự nghiệp công
nghiệp hóa, hiện đại hóa nông nghiệp nông thôn ở thành phố Hải Phòng nói
riêng và của đất nước nói chung.
Là một công trình có sự gắn kết giữa phân tích lý luận với tổng kết thực
tiễn địa phương, khóa luận có thể dùng làm tài liệu tham khảo trong việc hoạch
định các chủ trương, chính sách phát triển kinh tế - xã hội ở huyện Thủy
Nguyên trong những năm tới.
6. Phương pháp nghiên cứu
- Phương pháp duy vật biện chứng
- Phương pháp lôgíc kết hợp với lịch sử
- Phương pháp trừu tượng hóa khoa học
5
- Phương pháp khác: phân tích, tổng hợp, thống kê, khảo sát thực tế, so
sánh, khái quát vấn đề.....
7. Kết cấu khóa luận
Ngoài phần mở đầu, kết luận, danh mục tài liệu tham khảo và mục lục,
khóa luận được kết cấu thành 3 chương:
Chương I: Tiềm năng đất đai nông nghiệp và những vấn đề lí luận
Chương II: Thực trạng tiềm năng đất đai cho phát triển nông nghiệp ở
huyện Thủy Nguyên giai đoạn từ 2005 đến nay
Chương III: Phương hướng và giải pháp chủ yếu khai thác tiềm năng đất
đai cho phát triển nông nghiệp ở huyện Thủy Nguyên trong thời gian tới
6
PHẦN NỘI DUNG
Chương I
TIỀM NĂNG ĐẤT ĐAI NÔNG NGHIỆP VÀ NHỮNG VẤN ĐỀ LÝ LUẬN
1.1. Tiềm năng đất đai nông nghiệp và những tiêu chí đánh giá tiềm năng
đất nông nghiệp
1.1.1. Một số khái niệm
1.1.1.1. Đất đai nông nghiệp
Đất đai là một nguồn lực quan trọng đối với quá trình phát triển kinh tế xã hội, là một trong những thành phần chủ yếu của môi trường sống (đất,
nước, không khí...), đồng thời là địa bàn phân bố các khu dân cư, xây dựng các
cơ sở kinh tế, văn hóa, xã hội, an ninh quốc phòng... Hội nghị lần thứ bảy Ban
Chấp hành Trung ương khoá IX của Đảng cộng sản Việt Nam đã khẳng định:
“Đất đai là tài nguyên quốc gia vô cùng quý giá, là tư liệu sản xuất đặc biệt,
là nguồn nội lực và nguồn vốn to lớn của đất nước” [7, tr.61].
Phần lớn các quốc gia trên thế giới đều có nền sản xuất xã hội với điểm
xuất phát là sản xuất nông nghiệp, trong đó có Việt Nam - vốn là một quốc gia
có nền văn minh lúa nước đậm nét với hoạt động sản xuất nông nghiệp truyền
thống chủ yếu là canh tác lúa nước. Cũng do đặc điểm này mà theo quan niệm
thông thường, sản xuất nông nghiệp ở nước ta thường được hiểu theo nghĩa
hẹp, đó là việc trồng lúa hay trồng cây hàng năm... Đất nông nghiệp, vì vậy chỉ
hiểu được đơn thuần là ruộng đất, nương rẫy hoặc đất vườn. Tuy nhiên, ở góc
độ tiếp cận chính thống về mặt quản lý nhà nước và các chương trình phát triển
kinh tế, nông nghiệp thường được hiểu theo nghĩa rộng, khái niệm đất nông
nghiệp cũng vì thế mà được mở rộng hơn về thành phần.
Điều 42 Luật đất đai năm 1993 của Việt Nam quy định: “Đất nông
nghiệp là đất được xác định chủ yếu để sử dụng vào sản xuất nông nghiệp như
trồng trọt, chăn nuôi, nuôi trồng thủy sản hoặc nghiên cứu thí nghiệm về nông
nghiệp” [18, tr.30]. Trên cơ sở khái niệm đó các văn bản pháp luật ngày càng đi
7
vào xác định một cách cụ thể hơn các hình thức đất đai thuộc nội hàm đất nông
nghiệp. Theo quy định tại điều 13 Luật Đất đai năm 2003, nhóm đất nông
nghiệp bao gồm các loại đất:
- Đất trồng cây hàng năm gồm đất trồng lúa, đất đồng cỏ dùng vào chăn
nuôi, đất trồng cây hàng năm khác;
- Đất trồng cây lâu năm;
- Đất rừng sản xuất;
- Đất rừng phòng hộ;
- Đất rừng đặc dụng;
- Đất nuôi trồng thủy sản;
- Đất làm muối;
- Đất nông nghiệp khác theo quy định của Chính phủ [19, tr.20].
Như vậy, đất nông nghiệp là đất được sử dụng vào mục đích sản xuất
nông nghiệp. Nông nghiệp ở đây được hiểu theo nghĩa rộng bao gồm các
ngành nông, lâm, ngư nghiệp và diêm nghiệp. Nói cách khác, đây là nền nông
nghiệp toàn diện với trình độ sản xuất ngày càng được nâng lên theo sự phát
triển của lực lượng sản xuất. Nó là kết quả của một quá trình mang tính lịch sử.
Con người trong quá trình tiến hóa của mình đã biết tạo ra lương thực,
thực phẩm thông qua việc trồng trọt, chăn nuôi trên những thửa đất thích hợp,
biết khai thác rừng để lấy lâm sản phục vụ cuộc sống... Trình độ phát triển của
nhân loại ngày càng cao thì tính chất của các hoạt động ấy cũng biến đổi theo
và mang tính chủ động hơn, con người không chỉ khai thác mà còn biết tác
động trở lại tự nhiên nhằm tái tạo tự nhiên, không chỉ sử dụng đất trồng trọt
sẵn có mà còn mở rộng khai hoang để tăng diện tích; trồng thêm đồng cỏ để
chăn nuôi; trồng rừng để tái tạo nguồn động thực vật; khai thác sử dụng mặt
nước tự nhiên để nuôi trồng thủy sản. Trong nông nghiệp, đất đai là tư liệu sản
xuất chủ yếu đóng vai trò là môi trường sinh trưởng và phát triển không thể
8
thiếu được của cây trồng và vật nuôi. Đất đai nông nghiệp rất đa dạng về
chủng loại và chất lượng, tùy thuộc vào đặc điểm tự nhiên của từng vùng. Chất
lượng của đất nông nghiệp là yếu tố quan trọng ảnh hưởng đến năng suất của
ngành nông nghiệp. Theo C.Mác “Mặc dù tính chất phì nhiêu ấy là một thuộc
tính khách quan của đất, nhưng về mặt kinh tế thì bao giờ nó cũng bao hàm một
mối quan hệ nhất định, mối quan hệ với trình độ phát triển nhất định của hóa học
và của cơ khí trong nông nghiệp và vì vậy mà nó thay đổi theo trình độ phát triển
ấy” [20, tr.296].
Khi nói đất nông nghiệp, người ta nói đất được sử dụng chủ yếu vào sản
xuất của các ngành nông nghiệp, bởi vì trên thực tế có trường hợp đất đai được sử
dụng vào các mục đích khác nhau của các ngành. Trong trường hợp đó, đất đai
được sử dụng chủ yếu cho mục đích hoạt động sản xuất nông nghiệp mới được
coi là đất nông nghiệp nếu không là các loại đất khác (tùy vào việc sử dụng mục
đích nào là chính). Tuy nhiên để sử dụng đầy đủ, hợp lí ruộng đất, trên thực tế
người ta coi đất đai có thể tham gia vào hoạt động sản xuất nông nghiệp mà
không cần có sự đầu tư lớn nào cả là đất nông nghiệp dù nó đã được đưa vào sản
xuất nông nghiệp hay chưa.
Đất đai nông nghiệp là đất tươi xốp của vỏ Trái Đất có độ dày mỏng
khác nhau, có những đặc tính lí, hóa, sinh học khác nhau, từ đó có khả năng
sản xuất ra các sản phẩm nông nghiệp khác nhau. Nguồn gốc của đất là đá mẹ.
Dưới tác động của vòng đại tuần hoàn địa chất và tiểu tuần hoàn sinh vật, các
loại đất đá bị phá hủy và hình thành nên đất. Trải qua thời gian cùng với sự
tiến hóa và phát triển của giới sinh vật, chất hữu cơ của chúng đã tạo ra thành
phần hữu cơ cho đất quyết định sự khác biệt giữa đất và đá. Trên Trái đất các
vùng địa lí và sinh thái khác nhau hình thành nên các loại đất với độ phì nhiêu
khác nhau bởi các yếu tố hình thành và hoạt động của con người.
9
Trong lịch sử, các quan hệ về đất đai chuyển dần từ quan hệ khai thác,
chinh phục tự nhiên sang các quan hệ kinh tế - xã hội về sở hữu và sử dụng. Vị
thế quan trọng của đất đai làm cho quan hệ đất đai trở thành quan hệ phản ánh
lợi ích giai cấp một cách rõ nét.
1.1.1.2. Tiềm năng đất đai nông nghiệp
Tiềm năng là những nguồn lực tiềm tàng, là những thế mạnh còn chưa
được khai thác, chưa được biết đến.
Từ cách hiểu đó ta thấy tiềm năng đất đai nông nghiệp là nguồn lực đất
đai, thế mạnh của đất nông nghiệp chưa được khai thác, chưa được biết đến và
nếu có phương hướng sử dụng hợp lí sẽ mang lại hiệu quả cao hơn. Đối với đất
chưa sử dụng là khả năng áp dụng các biện pháp cải tạo và mức độ đầu tư để
biến tiềm năng đó vào mở rộng sản xuất nông sản hàng hóa.
1.1.2. Những tiêu chí cơ bản để đánh giá tiềm năng đất nông nghiệp
1.1.2.1. Những tiêu chí cơ bản để đánh giá tiềm năng đất nông nghiệp
Một là, khả năng thích hợp của đất đai với cây trồng, vật nuôi.
Đánh giá mức độ thích hợp đất cho (land sutability): là quá trìh xác
định mức độ thích hợp cao hay thấp của các kiểu sử dụng đất cho một đơn vị
đất đai và tổng hợp cho toàn khu vực dực trên so sánh yêu cầu sử dụng đất với
các đơn vị đất.
Thổ nhưỡng Việt Nam mang tính nội chí tuyến gió mùa, tính nhiệt đới
ẩm gió mùa thể hiện trong quá trình hình thành đất feralit đỏ vàng các loại. Thổ
nhưỡng nước ta không những đa dạng về loại hình, phức tạp về tính chất mà còn
có sự phân hóa không gian địa đới và phi địa đới. Tính chất của đất được thể
hiện ở các chỉ số như thành phần cấp hạt, tỷ lên mùn, độ PH, thành phần cơ giới,
10
lượng đam, lân, kali có trong đất, tính đẹm, mức độ phân giải CHC, khả năng
trao đổi cation, độ dày của lớp đất....và một số các chỉ tiêu khác.
Ở Việt Nam có 6 loại đất chính: nhóm đất cát biển, nhóm đất mặn, nhốm
đất phèn, nhóm đất phù sa, nhóm đất xám, nhóm đất đỏ. Mỗi loại đất có tính
chất không giống nhau, không có loại đất nào là hoàn toàn tốt và cần phải cải
tạo, đầu tư hợp lí. Mỗi loại đất sẽ phù hợp với tùng loại cây trồng nhất định,
cho năng suất và hiệu quả cao.
Đất phù sa phù hợp với các loại cây trồng ngắn ngày chủ yếu là: lúa
nước.Trung du và miền núi chủ yếu tập trung đất badan và feralit, phù sa cổ phù
hợp với các loại cây công nghiệp như: chè, cà phê, cao su, hồ tiêu, điều…và sự
phân bố của các loại cây này còn phụ thuộc vào khí hậu mà chủ yếu là độ cao.
Ngoài diện tích đất bề mặt , nước ta còn có một bộ phận lớn đất ngập
nước: các đầm lầy, sông ngòi, kênh rạch, rừng ngâp mặn, các vũng, vịnh ven
biển, hồ nước nhân tạo…với nhiều vai trò quan trọng khác nhau. Đây là nơi
cung cấp nhiên liệu, thức ăn, giải trí, nuôi trồng thủy sản, lưu trữ các nguồn
gen quý hiếm…ngoài ra nó cũng đóng vai trò quan trọng trong việc lọc nước
thải, điều hoà dòng chảy (giảm lũ lụt và hạn hán), sản xuất nông nghiệp và
thủy sản, điều hòa khí hậu địa phương, chống xói lở ở bờ biển, ổn định mạch
nước ngầm cho nguồn sản xuất nông nghiệp, tích lũy nước ngầm, cứ trú của
chim, giải trí, du lịch,….Nhiều nơi đã tăng hiệu quả sử dụng đất ngập nước
trong nuôi trồng thủy hải sản: nuôi tôm quảng canh, quảng canh cải tiến, bán
thâm canh và thâm canh công nghiệp như đồng bằng sông Cửu Long, Cà Mau,
Bạc Liêu, Bến Tre, An Giang,…Như vậy đánh giá được đặc điểm và tính chất
của đất sẽ là cơ sở đề lựa chọn giống cây trồng vật nuôi phù hợp và cho năng
suất, sản lượng cao nhất.
Hai là, khả năng mang lại hiệu quả kinh tế, xã hội và môi trường cho
việc sử dụng nó.
11
Đó là so sánh lợi nhuận có được và mức đầu tư cần thiết cho từng kiểu
sử dụng đất đai khác nhau. Có những vùng đất chỉ thích hợp với chăn nuôi
gia sú, có những khu vực chỉ phù hợp cho trồng lúa. Có những vùng phù hợp
với cả trồng cây lương thực và trồng màu nhưng nếu trồng màu sẽ mang lại
hiệu quả kinh tế cao hơn rất nhiều với cùng một định mức đầu tư.
Có thể nói nắm bắt được đặc điểm này có ý nghĩa quan trọng trong phát triển
nông nghiệp nhất là nền nông nghiệp hàng hóa khi mà diện tích đất đai ngày càng
thu hẹp, sự cạnh tranh khốc liệt trên thị trường về chất lượng, giá cả, mẫu mã...
Ba là, nền tảng bền vững.
Phát triển kinh tế gắn với bảo vệ môi trường không chỉ còn là chủ
trương của Đảng, Nhà nước mà nó thực sự đã trở thành yêu cầu của bản thân
các chủ thể trong sản xuất nông nghiệp. Nền tảng của phát triển bền vững là
bảo vệ môi trường, môi trường đất, nước, không khí...., cũng chính là bảo vệ
cuộc sống của chính con người. Những hầm lượng chất kính thích, thuốc trừ
sâu, phân bón hóa học còn đọng lại trên đất làm cho đất ngày càng bi hoang
hóa, bạc màu. Dư lượng thuốc ấy còn theo thực phẩm vào con người gây
những hậu quả nghiêm trọng, những căn bệnh ung thư, bệnh lạ mà không thể
lường trước hết được.
Việt Nam còn khoảng 9 triệu ha đất bị hoang hóa( chiếm khoảng 28% tổng
diện tích đât đai trên toàn quốc) trong đó có 5.06 triệu ha chưa sử dụng( quyết
định 272/QD-Ttg ngày 27/2/2007) và 2 triệu ha đang sử dụng bị thoái hóa nặng.
Diện tích đất chưa sử dụng cả nước tập trung chủ yếu ở các vùng Đông
Bắc (1.392.508ha), Tây Bắc(1.343.826 ha), duyên hải Nam Trung Bộ
(1.010.101ha), Bắc Trung Bộ( 685.447 ha), Tây Nguyên( 519.579 ha). Tại 3 vùng
còn lại, diện tích đất chưa sử dụng chỉ chiếm 2,26% tổng diện tích chưa sử dụng.
Rõ ràng từ thực tế trên cho thấy nếu có thể cải tạo được diện tích đất
chưa sử dụng trên, đặc biệt là ở vùng Đông Bắc và Tây Bắc nước ta sẽ có thêm
12
diện tích để tiến hành trồng trọt, chăn nuôi, tạo điều kiện cho phát triển nông
nghiệp mà lại góp phần bảo vệ môi trường sống của chính mình.
Bốn là, vị trí của khu vực, vùng đất.
Vị trí của khu vực, vùng có diện tích đất chưa sử dụng cũng góp phần
đánh giá tiềm năng đất đai, trong đó có đất nông nghiệp.
Ông cho rằng “…khi khai phá đất hoang ở một nước, người ta cũng có thể
đi từ những đất tốt hơn đến những đất xấu hơn, hoặc ngược lại” [20, tr.295] là
bởi vì “Một khoảnh đất có thể ở vào một vị trí rất tốt nhưng đồng thời lại rất ít
màu mỡ và ngược lại” [20, tr.295]. Vị trí tốt của đất nông nghiệp được hiểu là gần
thị trường tiêu thụ hoặc ở nơi có hạ tầng giao thông phát triển, gần khu dân cư,
thuận tiện cho việc xây dựng hệ thống tưới tiêu, thậm chí có vị trí địa chính trị.
Do đó sẽ xác lập được ưu thế cho hoạt động sản xuất kinh doanh vì giảm được
chi phí lưu thông nông sản hàng hóa. Vị trí thuận lợi khác nhau của các mảnh đất
là một trong hai nguyên nhân chính hình thành nên địa tô chênh lệch I. Tuy nhiên,
vị trí của đất đai có thuận lợi hay không đối với sản xuất nông nghiệp hàng hóa
chỉ có tính chất tương đối và mang tính lịch sử do sự tiến bộ của nền sản xuất xã
hội có tác dụng san bằng các chênh lệch về hiệu quả. Sự phát triển của giao thông
vận tải có thể làm thay đổi trật tự thuận lợi ấy.
Năm là, khả năng áp dụng khoa học kĩ thuật.
Vị trí thuận lợi, diện tích lớn song nếu khu vực, vùng đất đó gặp khó
khăn cho việc áp dụng khoa học và công nghệ thì tiềm năng đất đai cũng
không cao.
Vùng Đông Bắc và Tây Bắc Việt Nam có diện tích đất chưa sử dụng vào
loại lớn nhất nước ta, đất đai phần lớn là đất feralit màu mỡ rất thuận lợi cho
trồng cây công nghiệp và một số rau màu ôn đới. Song do địa hình hiểm trở,
đối núi dốc, dễ xói mòn, giao thông vận tải khó khăn, dân cư thưa thớt nên khả
năng áp dụng khoa học không dễ dàng. Trong những năm qua, Nhà nước ta
13
cũng có chủ trương xây dựng vùng kinh tế mới song đó chưa thực sự thu hút
được người dân đi khai hoang, phát triển kinh tế.
Đồng bằng sông Cửu Long, diện tích đất chưa sử dụng không lớn nhưng
do có địa hình bằng phẳng, hệ thống tười tiêu thuận lợi nên những năm gần
đây nhờ sự quan tâm của các cấp chính quyền và nỗ lực của người dân địa
phương mà diện tích đất chua, đất phèn đã giảm mạnh nhờ việc áp dụng tổng
hợp các biện pháp thau chua rửa mặn kết hợp với bón phân, bón vôi..
1.1.2.2. Tiềm năng đất nông nghiệp ở Việt Nam
Về các nhóm đất chính ở Việt Nam
Ở Việt Nam, đất đai có thể chia thành nhiều nhóm đất. Mỗi loại đất, tùy
vào nguồn gốc hình thành, cấu tạo hữu cơ, đặc điểm riêng mà phù hợp với cây
trồng, vật nuôi khác nhau. Việc đánh giá đúng đặc điểm cũng như tiềm năng
đất đai có ý nghĩa quan trọng đối với phát triển kinh tế mà trước hết là trong
lĩnh vực nông nghiệp.
* Nhóm đất cát biển (533.44ha)
Được hình thành dọc ven biển, phần lớn là ven biển miền Trung. Có thể
chia thành 3 loại:
- Đất cồn cát trắng, vàng (Luvic Arenosols): 222.043ha
- Đất cồn cát đỏ (Rhodic Arenosols): 76.886ha
- Đất cát biển(Haplic Arenosols): 243.505ha
Hình thành trên các giồng cát biển, có địa hình cao nghiêng thoải vào trong
đất liền, thành phần chủ yếu là cát mịn có lẫn thân lá cây mục trên mặt, có thành
phần cơ giới nhẹ, khả năng giữ nước kém, địa hình dốc nhẹ, dễ thoát nước. Hàm
lượng các chất dinh dưỡng đều nghèo, không bị nhiễm mặn, phèn. Phù hợp đối
với việc trồng các loại cây trồng cạn, rau màu và cây ăn quả có giá trị nếu có khả
năng đầu tư tốt.
* Nhóm đất mặn (971.356ha)
Đất mặn sú, vẹt, đước (Gleyic Salic Fluvisols): 105.318ha
-
Đất mặn nhiều (Hapli Salic Fluvisols): 133.288ha
Đất mặn trung bình và ít (Molli Salic Fluvisols): 732.584ha
14
Đất mặn được hình thành và phát triển trên các trầm tích biển, sông biển
hỗn hợp và trầm tích biển đầm lầy, tuổi Holocence. Đất chịu ảnh hưởng mặn
của nước biển do thủy triều hoặc mặn ngầm mao dẫn. Đất có phản ứng trung
tính đến kiềm yếu, hàm lượng Cl- và tổng số muối tan cao, đất bị nhiễm mặn từ
dưới sâu lên đến tầng mặt. Hàm lượng chất hữu cơ tầng mặt khá và giảm theo
độ sâu tầng đất.
*Nhóm đất phèn (1.863.128ha)
Gồm đất phèn tiềm tàng (Proto Thionic Gleysols):652.244ha và đất
phèn họat động (Orthi thionic Fluvisols):1.210.884ha
Đất phèn hình thành phát triển trên các trầm tích đầm lầy- biển và sông biển hỗn hợp, có đặc điểm bồi tụ chậm, vật liệu trầm tích chứa nhiều hữu cơ và
chất sinh phèn. Đất có độ phì tiềm tàng khá cao, đất bị nhiễm mặn không nặng,
tính chất vật lý của đất tương đối thuần thục và phát triển xuống sâu, nền đất
khá ổn định nên thuận lợi cho việc thực hiện các biện pháp canh tác trong sử
dụng đất cho mục đích trồng trọt nông nghiệp. Hướng sử dụng thích hợp là canh
tác các loại cây trồng nông nghiệp (đặc biệt là lúa vụ mùa mưa), hoặc nuôi trồng
thủy sản nước lợ.
*Nhóm đất phù sa (3.400.059ha)
Đất phù sa trung tính ít chua (Eutric Fluvisols): 225.987ha
- Đất phù sa chua ( Distric Fluvisols): 1.665.892ha
- Đất phù sa glây (Gleyic fluvisols): 1.011.180ha
- Đất phù sa có tầng đốm gỉ (Cambic Fluvisols): 500.000ha
Đất được hình thành từ các trầm tích trẻ Aluviven của sông rạch lớn, có
nguồn gốc sông - đầm lầy không chứa vật liệu sinh phèn. Độ phì khá cao,
thành phần cơ giới nặng. Một phần diện tích đất phù sa đã được cung cấp nước
ngọt ổn định rất thích hợp cho việc trồng lúa cao sản, thâm canh tăng vụ và
trồng xen các loại hoa màu, cây ăn quả khác.
*Nhóm đất xám (19.970.642ha) chiếm đến gần 2/3 diện tích cả nước
- Đất xám bạc màu ( Haplic Acrisols): 1.791.021ha
15
- Đất xám có tầng loang lổ ( Plinthic Acrisols): 221.369ha
- Đất xám glây ( Gleyic Acrisols): 101.471ha
- Đất xám Feralit (Ferralic Acrisols) 14.789.500ha
- Đất xám mùn trên núi (Humic Acrisols): 3.139.285ha
*Nhóm đất đỏ (3.014.549ha)
- Đất nâu đỏ ( Rhodic Ferralsols): 2.425.288ha
Phát triển trên bazan, thường có tầng phong hóa dày, cấu trúc đoàn lạp
viên rõ, độ xốp cao, dung trong thấp. Có TPCG nặng, hàm lượng limon thấp,
sét cao, phản ứng của đất chua, độ no bazơ thấp, nhưng có nhiều đặc điểm tốt
như đất dày, tơi xốp, nhiều mùn.
- Đất nâu vàng ( Xanthic Ferralsols): 429.059 ha
Đất có phản ứng chua, độ no bazơ thấp, nghèo mùn, đạm và kali tổng số
hơi nghèo, lân tổng số trung bình, riêng đất nâu vàng phát triển trên đá vôi thì
kém tơi xốp hơn, rất chua (pH = 4,0 – 4,5) và có tầng đất không dày.
- Đất mùn vàng đỏ trên núi ( Humic Ferralsols):118.247ha
Đất có phản ứng chua vừa đến ít chua, hàm lượng lân nghèo đến trung
bình, kali tổng số trung bình khá, khả năng trao đổi cation thấp, CEC <16
me/100g sét, nghèo cation kiềm trao đổi, tỉ lệ limon/sét < 0,2: Mức độ Feralit
yếu hơn đất nâu vàng và không điển hình.
* Nhóm đất nhân tác
Đất nhân tác là đất có ảnh hưởng tác động của con người, bị xáo trộn do
quá trình lập liếp phục vụ canh tác các loại cây trồng hoặc sử dụng cho các
mục đích khác, phân bố tập trung dọc theo các kênh rạch, các trục lộ giao
thông lớn và các khu dân cư tập trung. Đất nhân tác thường được sử dụng để
đào ao nuôi trồng thủy sản. Đất có lớp phủ thổ nhưỡng dày hơn 150 cm.
Dựa theo phương pháp “Đánh giá khả năng thích nghi đất đai” (Land
suitability evaluation) của tổ chức Lương nông thế giới (FAO) vào các năm
1976, 1983, 1996, khả năng thích nghi đất đai của nước ta có thể được phân
chia theo 4 mức thuộc 2 nhóm: thích nghi và không thích nghi thông qua việc
16
đánh giá yêu cầu đất đai của các loại sử dụng đất (land use type - LUT), có
nghĩa là đánh giá mức độ đòi hỏi về các điều kiện tự nhiên của các loại sử
dụng đất. Do điều kiện sinh thái tự nhiên khác biệt nhau , yêu cầu đất đai của
các loại sử dụng đất được phân lập riêng theo từng vùng. Có 12 loại sử dụng
đất có triển vọng đã được lựa chọn để phân tích. Trong đó bao gồm:
Loại sử dụng đất trồng cây nông nghiệp, có 8 LUT:
Lúa 3 vụ có tưới (hoặc 2 vụ lúa + 1 vụ màu);
Lúa 2 vụ có tưới (hoặc 1 vụ lúa + 1 vụ màu);
Lúa 2 vụ có tưới + Cá đồng;
Lúa 1 - 2 vụ cao sản nhờ mưa;
Lúa 1 - 2 vụ nhờ mưa (hoặc 1 vụ lúa + 1 vụ màu);
Lúa 1 vụ nhờ mưa + Nuôi thủy sản nước lợ;
Khóm + Tôm sú;
Cây ăn quả, chuyên rau màu.
Loại sử dụng đất nuôi trồng thủy sản, có 1 LUT:
Chuyên nuôi tôm (ở các dạng: quảng canh cải tiến, bán thâm canh và thâm canh).
Loại sử dụng đất lâm nghiệp, có 2 LUT:
Rừng ngập mặn;
Rừng ngập mặn (+ Nuôi tôm quảng canh cải tiến).
Loại sử dụng đất chuyên dùng, có 1 LUT:
Làm muối (+ Nuôi tôm quảng canh cải tiến).
Về vùng đất chuyên canh
Quy hoạch nông nghiệp là quy hoạch tổng thể, nó bao gồm tổng hợp
nhiều nội dung hoạt động trong các lĩnh vực kinh tế, văn hoá xã hội và môi
trường có liên quan đến vấn đề phát triển con người trong các lĩnh vực hoạt
động ở khu vực nông nghiệp và nông thôn.
17
Quy hoạch vùng chuyên canh là việc bố trí về mặt không gian và thời
gian cho vùng trên cơ sở các nguồn lực thực tế của vùng để có thể hướng tới
các mục tiêu, nhiệm vụ cụ thể của vùng.
Để triển khai chương trình thực hành sản xuất nông nghiệp tốt
(VietGAP) cho các sản phẩm nông nghiệp, Thủ tướng Chính phủ đã ban hành
một số chính sách hỗ trợ sản xuất, chế biến sản phẩm nông nghiệp cho các
vùng chuyên canh sản xuất rau, quả, trà an toàn của 16 tỉnh, thành phố (giai
đoạn 2009 - 2015).
Với nội dung này, các tỉnh thành trong cả nước đã triển khai chương
trình lập dự án nông nghiệp về quy hoạch vùng sản xuất nông nghiệp an toàn.
Theo đó, khi các vùng chuyên canh sản xuất rau, quả, trà an toàn được hình
thành, nhà nước sẽ hỗ trợ giống và cơ sở hạ tầng cho các vùng chuyên canh
này. Để đảm bảo đầu ra cho sản phẩm, Cục Trồng trọt cũng liên kết với doanh
nghiệp và nông dân để bao tiêu sản phẩm.
Hiện nay cả nước đã hình thành các vùng chuyên canh nông nghiệp an
toàn như: vùng trà an toàn tại Lâm Đồng, Thái Nguyên, Phú Thọ, Sơn La;
vùng chuyên canh rau an toàn tại Hà Nội, Hồ Chí Minh, Đà Lạt, Vĩnh Phúc…
Về diện tích đất cho sản xuất nông nghiệp
Cho đến nay nước ta vẫn là nước nông nghiệp. Sản xuất và xuất khẩu
nông sản, trong đó có xuất khẩu gạo vẫn là một thế mạnh. Nhưng tốc độ đô thị
hóa nhanh như hiện nay không ai dám đảm bảo thế mạnh ấy sẽ được bảo tồn.
Cùng với nguy cơ về biến đổi khí hậu, việc thu hẹp đất nông nghiệp do đô thị
hóa vô tổ chức đã trở thành một nguy cơ nhãn tiền, không chỉ là mất an ninh
lương thực mà còn đe dọa đến cuộc sống hàng chục triệu nông dân, sẽ gây
những bất ổn xã hội khó lường.
Nghị quyết 26 của Ban Chấp hành Trung ương khóa X về nông nghiệp
nông dân và nông thôn đặt “tam nông” là vấn đề chiến lược hệ trọng của đất
nước và là nhiệm vụ trọng tâm của cả hệ thống chính trị. Quyết tâm chính trị
18
này phải được đi vào cuộc sống, trong đó có một việc không thể không làm là
quy hoạch lại việc sử dụng đất một cách khoa học.
Theo báo cáo kết quả thực hiện quy hoạch, kế hoạch sử dụng đất thời kỳ
2001-2010 của Tổng cục Quản lý đất đai (Bộ Tài nguyên và Môi trường): Năm
2010 đất nông nghiệp của cả nước có 26.226.000 ha, trong đó đất sản xuất
nông nghiệp là 10.126.000 ha, tăng 556.000 ha so với năm 2000. Diện tích đất
sản xuất nông nghiệp không những không giảm mà còn cao hơn chỉ tiêu được
giao. Đây là cố gắng lớn của các địa phương trong việc duy trì, bảo vệ và phát
triển quỹ đất.
Riêng đất trồng lúa nước thời kỳ 2001-2010, chỉ tiêu Quốc hội duyệt
cho phép giảm 407.000 ha, kết quả thực hiện trong 10 năm chỉ giảm 270.000
ha. Như vậy, nhìn chung diện tích lúa nước của cả nước vẫn đáp ứng yêu cầu
an ninh lương thực. Song tại một số địa phương tốc độ giảm diện tích đất trồng
lúa tương đối nhanh, như các tỉnh vùng Đồng bằng sông Hồng, Đông Nam Bộ,
Đồng bằng sông Cửu Long do chuyển sang xây dựng các khu công nghiệp và
đô thị, hoặc chuyển sang nuôi trồng thủy sản, trồng cây ăn quả...
Đất trồng lúa nước tuy có giảm nhưng năng suất lúa của Việt Nam vẫn
tiếp tục tăng. Như vậy, công tác quản lý đất đai theo quy hoạch, kế hoạch sử
dụng đất trong 10 năm vừa qua ngày càng đi vào thực chất, góp phần tích cực
vào việc sử dụng đất nói chung và đất sản xuất nông nghiệp nói riêng hợp lý
và có hiệu quả rõ nét. Tuy vậy, chất lượng dự báo nhu cầu quỹ đất cho phát
triển các ngành, các lĩnh vực khi lập quy hoạch, kế hoạch sử dụng đất chưa sát
thực tế, dẫn tới tình trạng vừa thiếu lại vừa thừa quỹ đất.
Một số địa phương chưa thực hiện đúng chủ trương sử dụng tiết kiệm
đất nông nghiệp, nhất là đất trồng lúa nước, nên vẫn còn tình trạng quy hoạch
sử dụng đất phi nông nghiệp trên đất sản xuất nông nghiệp có năng suất cao,
thậm chí trên đất chuyên thâm canh lúa nước, trong khi ở địa phương vẫn còn
nhiều quỹ đất khác. Việc quy hoạch và phát triển các khu công nghiệp, khu đô
19
thị nhiều nơi còn dàn trải, có không ít địa phương tỷ lệ lấp đầy còn dưới 60%
song vẫn đề nghị mở thêm nhiều khu, cụm công nghiệp khác.
Vì vậy, trong giai đoạn tới Nhà nước cần phải có các giải pháp đầu tư về
thủy lợi để có thể khai thác 250-300 nghìn ha đất chưa sử dụng cho mục đích
trồng lúa, để bổ sung diện tích đất lúa phải chuyển sang các mục đích phi nông
nghiệp; đồng thời đẩy mạnh đầu tư thâm canh chuyển đổi cơ cấu giống lúa,
nâng cao hệ số sử dụng đất trồng lúa từ 1,82 lên 1,92 lần và đưa năng suất lúa
đạt 62 tạ/ha. Phấn đấu đến năm 2030, sản lượng lương thực của nước ta có thể
đạt 46-49 triệu tấn, trong đó có 43-44 triệu tấn lúa, bảo đảm đủ lương thực cho
110-115 triệu dân với mức bình quân trên 350kg/người/năm.
1.1.3.Những đặc điểm của tiềm năng đất đai nông nghiệp
1.1.3.1. Đất nông nghiệp là sản phẩm của tự nhiên.
Là một dạng tài nguyên thiên nhiên, đất nông nghiệp cũng như đất đai nói
chung được hình thành do quá trình phong hóa các loại đá dưới sự tác động của
các yếu tố tự nhiên như ánh sáng, nhiệt độ, độ ẩm, sinh vật,… phổ biến là quá
trình phong hóa hóa học, quá trình phong hóa vật lý chỉ diễn ra ở những vùng khô
hạn kéo dài. Ở Việt Nam, điều kiện khí hậu nhiệt đới ẩm gió mùa kết hợp với địa
hình có mạng lưới sông suối dày đặc chia cắt đã thúc đẩy quá trình phong hóa
hóa học diễn ra mạnh mẽ. Nhìn chung các loại đá gốc tham gia quá trình phong
hóa ở nước ta có độ tuổi khác nhau, thuộc cả nguyên đại Cổ sinh (kỷ đệ nhất) và
Trung sinh (kỷ đệ nhị). Do đó sản phẩm phong hóa của chúng tức là đất đai cũng
có sự khác nhau về tính chất và cơ bản đuợc hình thành trong nguyên đại Tân
sinh (kỷ đệ tam và đệ tứ).
Tuy nhiên, lực lượng tự nhiên dù có chứa đựng khả năng phục vụ cuộc
sống tốt đến đâu đi nữa cũng chỉ phát huy hiệu quả khi có sự tác động của hoạt
động có mục đích của con người. Tác động lâu dài của con người biểu hiện
dưới hàng loạt các hoạt động sản xuất đã biến hệ thống tự nhiên thuần túy
thành một hệ thống tự nhiên - kỹ thuật. Đất đai được sử dụng vào mục đích
phát triển nông nghiệp, ngoài những đặc tính tự nhiên của nó thuận lợi cho
20
việc canh tác thì nhất thiết phải có hoạt động khai khẩn của con người để biến
những mảnh đất hoang thành đất trồng trọt. Quá trình khai khẩn có thể diễn ra
ở các mức độ thuận lợi hay khó khăn khác nhau tùy theo các điều kiện tự nhiên
của khu vực đó quy định nhưng đều có sự kết tinh lao động của con người. Vì
vậy C.Mác khẳng định rằng: “Tuy có những thuộc tính như nhau nhưng một
đám đất được canh tác có giá trị hơn là một đám đất bỏ hoang” [20, tr.248].
Trong giai đoạn tiền kỹ thuật của xã hội loài người, sự chinh phục tự
nhiên không phải dễ dàng. Nếu trong giai đoạn hiện nay với tầm hiểu biết sâu
rộng về thế giới tự nhiên, với sự hỗ trợ của nhiều phương tiện kỹ thuật hiện
đại, con người vẫn rất vất vả khi đối mặt với những thách thức của thiên nhiên,
thì trước đây bám trụ được với thiên nhiên để sinh tồn còn khó khăn gấp bội.
Điều đó cho thấy xã hội loài người phát triển cho đến ngày nay là kết quả của
rất nhiều công sức đổ vào công cuộc chinh phục tự nhiên mà điển hình là sức
lao động kết tinh vào đất đai để nó trở thành đất nông nghiệp tạo ra lương thực
thực phẩm nuôi sống con người.
Thậm chí, đất đai của một đất nước, một dân tộc có thể phải trải qua các
cuộc chiến chống ngoại xâm còn chứa đựng cả xương máu của nhiều thế hệ.
Như vậy đất đai không chỉ đơn thuần là sản phẩm của tự nhiên, mang những
tính chất tự nhiên mà đất đai, theo đúng nghĩa của nó, tức là có thể phục vụ được
cho cuộc sống của con người, còn in đậm những dấu ấn của con người trong suốt
chiều dài lịch sử khai thác và sử dụng.
Ở Việt Nam hiện nay, những hoạt động mở rộng diện tích đất nông nghiệp
thông qua các chương trình khai hoang, phục hóa đi đôi với cải tạo đất đai, thực
hiện thâm canh ruộng đất nhằm nâng cao năng lực sản xuất của đất nông nghiệp
tiếp tục phản ánh sự kết tinh lao động của con người vào đất đai nhưng với hàm
lượng ngày càng cao theo trình độ phát triển của khoa học kỹ thuật. Nếu chỉ là
sản phẩm tự nhiên thuần túy, thì đất đai không có giá trị. C.Mác khẳng định:
21
“Thác nước, cũng như đất đai nói chung, cũng như mọi lực lượng tự nhiên,
không có giá trị nào cả, vì không có một lao động nào được vật hóa ở trong nó;
do đó, nó cũng không có giá cả” [20, tr.290]. Ông cho rằng cái giá cả mà chủ đất
sẽ thu được khi bán thác nước chẳng qua chỉ là địa tô đã tư bản hóa.
Đất đai là thành phần quan trọng của môi trường sống, nó vừa là sản
phẩm của tự nhiên vừa là sản phẩm của lao động. Đất đai vốn là sản phẩm tự
nhiên, không ai làm ra đất đai và không ai có quyền chiếm hữu đất đai cho
riêng mình, vì như C.Mác đã nói người ta chỉ có thể chiếm hữu cái người ta
làm ra mà thôi. Nhưng đất canh tác còn là sản phẩm của lao động, vì chính con
người khai phá đất đai và trải qua nhiều thế hệ canh tác mà làm cho đất đai
ngày một tốt hơn, do đó nó trở thành đối tượng sở hữu. Đất đai là sự kết tinh
sức lao động và các yếu tố tự nhiên để nuôi dưỡng cây trồng, vật nuôi.
Đất nông nghiệp không giống với những lực lượng tự nhiên khác ở chỗ nó
có sự kết tinh sức lao động của con người, do đó đất nông nghiệp có giá trị. Giá
đất về thực chất chính là địa tô do đất đai mang lại trong một số năm nhất định.
Vì vậy, đất đai là một dạng hàng hóa đặc biệt - hàng hóa về quyền sử dụng đất.
Ở Việt Nam, đất đai thuộc sở hữu toàn dân do Nhà nước đại diện chủ sở
hữu. Như vậy về mặt chiếm hữu, đất đai thuộc sở hữu của toàn dân vì đất đai là
tài sản của cả dân tộc, để có được tài sản này đã biết bao thế hệ người Việt Nam
phải đổ mồ hôi và xương máu để cải tạo và gìn giữ. Việc tư hữu hoá đất đai sẽ
cản trở những chương trình, mục tiêu quy hoạch lớn phục vụ cho quốc kế dân
sinh và dẫn đến phân hoá giai cấp. Do đó việc không chấp nhận chế độ tư hữu
đất đai chính là xuất phát từ lợi ích chung của toàn dân tộc. Tuy nhiên để
khuyến khích việc đầu tư thâm canh ruộng đất, nâng cao năng suất nông nghiệp,
quyền sử dụng được trao cho các chủ thể sản xuất kinh doanh trong nền kinh tế.
22
Điều 5 Luật đất đai năm 2003 quy định: “Nhà nước trao quyền sử dụng
đất cho người sử dụng đất thông qua hình thức giao đất, cho thuê đất, công
nhận quyền sử dụng đất đối với người đang sử dụng đất ổn định” [19, tr.13].
Việc giao quyền sử dụng đất ổn định lâu dài cùng với việc mở rộng các
quyền chuyển đổi, chuyển nhượng, cho thuê, thừa kế, thế chấp và góp vốn
bằng giá trị quyền sử dụng đất để sản xuất kinh doanh đã phát huy tác dụng to
lớn trong việc khuyến khích các chủ thể sử dụng đất nông nghiệp tập trung đầu
tư vào đất đai, bảo vệ, khai thác và sử dụng đất một cách hợp lý, có hiệu quả.
Nói cách khác, sự kết tinh sức lao động vào đất đai nông nghiệp ngày càng
tăng dẫn đến việc tạo ra ngày càng nhiều sản phẩm cho xã hội.
1.1.3.2. Đất nông nghiệp có vị trí cố định và gắn liền với điều kiện thổ
nhưỡng, khí hậu, thời tiết, thủy văn từng vùng nhất định và do đó mỗi vùng đất
chỉ thích hợp với từng loại cây, con nhất định
Đất nông nghiệp cũng như đất đai nói chung cấu thành nên bề mặt của trái
đất, chúng có vị trí cố định, không thể di chuyển được theo ý muốn của con
người. Con người muốn sử dụng đất sản xuất lương thực, thực phẩm phục vụ cho
cuộc sống thì phải định cư tại những vùng đất thuận lợi cho việc phát triển nông
nghiệp, có nghĩa là sức lao động và tư liệu sản xuất phải di chuyển theo đất đai.
Điều này giải thích tại sao các nền văn minh cổ xưa trên thế giới thường được
hình thành ở những vùng hạ lưu các con sông lớn, là những nơi có điều kiện
thuận lợi cho việc phát triển nông nghiệp, tiêu biểu như các nền văn minh sông
Nil ở Ai Cập, sông Ấn, sông Hằng ở Ấn Độ, sông Hoàng Hà ở Trung Quốc... Ở
các vùng đất trù phú dễ canh tác, ít bị thiên tai sẽ hình thành nên những điểm
quần cư và ngày càng được mở rộng dần ra các khu vực xung quanh.
Ở các khu vực khác nhau trên thế giới, các điều kiện tự nhiên có sự
khác biệt. Đặc điểm này cũng quy định tính đa dạng của nguồn động thực vật
và năng suất cây trồng, vật nuôi của các châu lục, các quốc gia hay các vùng
23
khác nhau trong mỗi quốc gia. Trong nền sản xuất hàng hóa những điều kiện
này rất quan trọng vì nó là cơ sở để hình thành các vùng nông nghiệp chuyên
môn hóa, thúc đẩy sản xuất đi vào chiều sâu mang tính chất chuyên canh.
Ngoài ra , địa hình của đất nông nghiệp còn là những nhân tố kinh tế quan
trọng. Theo C.Mác thì vị trí của các khoảnh đất “… có ý nghĩa quyết định
trong trường hợp các đất di dân khai khẩn và nói chung có ý nghĩa quyết định
đối với trình tự theo đó các khoảnh đất có thể lần lượt được canh tác” [20,
tr.295]. Vì vậy, muốn khai thác tiềm năng đất đai nông nghiệp nhằm đem lại
hiệu quả kinh tế cao phải nghiên cứu, nắm được điều kiện tự nhiên của từng
vùng, từ đó bố trí cây trồng, vật nuôi phù hợp.
1.1.3.3. Đất nông nghiệp có giới hạn về mặt số lượng và không đồng
nhất về mặt chất lượng
Về mặt số lượng, đất nông nghiệp là nguồn tài nguyên thiên nhiên có
giới hạn vì nó chỉ là một bộ phận của đất đai cấu thành vỏ trái đất. Trong một
quốc gia thì nó là một bộ phận của đất đai bị giới hạn bởi ranh giới lãnh thổ
của quốc gia đó. Đất đai là sản phẩm của tự nhiên, tồn tại một cách khách
quan, con người chỉ có thể sử dụng đất phục vụ cho những mục đích khác nhau
của mình chứ không thể tạo ra nó. Trái đất mặc dù có diện tích rất lớn nhưng
diện tích đó cũng chỉ là một con số hữu hạn.
Theo V.I.Lênin, có hai loại độc quyền trong nông nghiệp đó là độc
quyền kinh doanh ruộng đất và độc quyền sở hữu ruộng đất. Sự giới hạn về
mặt số lượng của đất nông nghiệp gắn với độc quyền kinh doanh ruộng đất
trong nền sản xuất tư bản chủ nghĩa. Ông viết: “Kết luận duy nhất rút ra một
cách logic từ tình trạng ruộng đất có hạn là toàn bộ ruộng đất sẽ bị bọn phéc mi - ê chiếm giữ” [16, tr.141]. Điều này hoàn toàn tương tự việc độc quyền
kinh doanh những lực lượng tự nhiên có hạn khác như C.Mác đã nhận thấy:
“Số chủ xưởng đã chiếm hữu được những thác nước gạt số chủ xưởng không
24
chiếm hữu được thác nước ra ngoài, không để cho họ lợi dụng lực lượng tự
nhiên ấy, vì đất đai - đặc biệt là đất đai có sẵn sức nước - là có hạn” [20, tr.
287]. Trong chủ nghĩa xã hội, sự giới hạn đó cũng đặt ra những đòi hỏi về giải
pháp sử dụng đất đai phải đảm bảo sự phát triển bền vững và giải quyết hài
hòa các mối quan hệ xã hội nảy sinh trên cơ sở lợi ích do đất đai mang lại.
Sự giới hạn của đất nông nghiệp ngoài những tính chất khách quan do tự
nhiên quy định đóng vai trò chủ yếu, còn có sự ảnh hưởng nhất định bởi mặt
xã hội, biểu hiện ở các chính sách phát triển nông nghiệp, ở định hướng
chuyển dịch cơ cấu kinh tế của các khu vực, quốc gia hay vùng lãnh thổ.
Khoảng trên 30% diện tích lãnh thổ Việt Nam được sử dụng trực tiếp
cho sản xuất nông nghiệp theo nghĩa rộng, tính bình quân theo đầu người vào
loại thấp của thế giới. Ở Việt Nam, trong lĩnh vực nông nghiệp luôn diễn ra hai
quá trình trái ngược nhau. Một mặt, có những cố gắng rất lớn để mở rộng diện
tích khai hoang, làm tăng thêm quỹ đất. Mặt khác, xảy ra quá trình ngược lại:
đất trồng lúa và cây lương thực không ngừng giảm, đặt biệt là ở những đồng
bằng châu thổ có đất phì nhiêu. Ở những vùng ven biển có độ cao thấp, đặc
biệt là ở đồng bằng sông Cửu Long, lưu lượng vào mùa khô rất thấp cùng với
việc tàn phá rừng đã làm mặn xâm nhập sâu vào đất liền, giảm diện tích trồng
trọt và hạn chế năng suất cây trồng. Ở các vùng ven biển miền Trung đang
diễn ra hiện tượng cát bay, cát lấn đất rất rõ rệt. Cát lấn dần vào đất liền, lấp đi
nhiều diện tích đất trồng trọt, tại một số vùng ven biển đang xảy ra hiện tượng
sạt lở đất. Có rất nhiều nguyên nhân gây hại môi trường đất và làm thoái hóa
chất lượng (độ phì nhiêu) của đất nhưng các nguyên nhân chính về mặt tự
nhiên là địa hình dốc, lượng mưa lớn tập trung. Địa hình đồi núi chiếm khoảng
hơn 3/4 diện tích tự nhiên của toàn lãnh thổ Việt Nam. Các dãy núi đồ sộ nhất
và các đỉnh núi cao nhất đều phân bố ở phía Tây và Tây Bắc, núi thấp dần về
phía Đông và thường kết thúc bằng một dải đất thấp ven biển. Các thung lũng
25