Tải bản đầy đủ (.doc) (27 trang)

Những biểu hiện và giải pháp đấu tranh ngăn chặn tư tưởng cá nhân chủ nghĩa trong xây dựng Đảng hiện nay

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (244.92 KB, 27 trang )



TIỂU LUẬN

Đề tài:
Những biểu hiện và giải pháp đấu tranh ngăn chặn
tư tưởng cá nhân chủ nghĩa trong xây dựng Đảng hiện nay


TP.HCM – 2016
MỤC LỤC
I. Lý do chọn đề tài.............................................................................................3
II. Mục đích........................................................................................................3
III. Mục tiêu........................................................................................................4
B. NỘI DUNG.......................................................................................................5
I. Khái quát chung..............................................................................................5
I.1. Khái niệm về chủ nghĩa cá nhân................................................................................................5
I.2. Chủ nghĩa cá nhân và chủ nghĩa vị kỷ........................................................................................5
I.3. Chủ nghĩa cá nhân và mối quan hệ với các lĩnh vực..................................................................6
a) Chủ nghĩa cá nhân trong chính trị...........................................................................................6
b) Chủ nghĩa cá nhân và xã hội...................................................................................................8
c) Chủ nghĩa cá nhân trong kinh tế...........................................................................................10
I.4. Quan điểm của Đảng về chủ nghĩa cá nhân........................................................................11
a) Chủ nghĩa cá nhân là tiêu cực, cần bị lên án........................................................................11
b) Quá trình hình thành quan điểm của Đảng về chủ nghĩa cá nhân........................................11

II. Biểu hiện và tác hại của chủ nghĩa cá nhân trong quan niệm của Đảng......15
II.1. Biểu hiện của chủ nghĩa cá nhân............................................................................................15
II.2. Tác hại của chủ nghĩa cá nhân...............................................................................................18

III. Giải pháp đấu tranh ngăn chặn tư tưởng cá nhân chủ nghĩa trong xây dựng


Đảng hiện nay...................................................................................................20
C. KẾT LUẬN.....................................................................................................26
D. TÀI LIỆU THAM KHẢO..............................................................................27

2


A. LỜI MỞ ĐẦU
I. Lý do chọn đề tài
Xây dựng tổ chức Đảng là một nhiệm vụ hết sức quan trọng và có vai trò to
lớn đối với sự nghiệp xây dựng đất nước, đưa nước ta đi lên Chủ nghĩa xã hội.
Tuy nhiên xây dựng Đảng cũng là một nhiệm vụ gặp nhiều khó khăn. Bởi nó
không chỉ là một quá trình lâu dai, không chỉ là đấu tranh lại với các phần tử
chống đối mà nó còn là quá trình chống lại chính những “căn bệnh” phát sinh
bên trong nội bộ của tổ chức Đảng, đó chính là Chủ nghĩa cá nhân.
Theo Chủ tịch Hồ Chí Minh thì chủ nghĩa cá nhân nó không khác gì một căn
bệnh, nó là mẹ đẻ ra mọi căn bệnh nguy hiểm và nó dẫn tới việc hình thành
những thói hư tật xấu trong tổ chức Đảng. Nhắc đến chủ nghĩa cá nhân là nhắc
đến những tác động tiêu cực của nó. Nó là nguồn gốc của những “căn bệnh” làm
hư hỏng đạo đức cách mạng của Đảng viên và là tha hóa tổ chức Đảng. Bác coi
nó như là giặc “nội xâm”. Mà giặc ngoại xâm thì dễ chống còn giặc nội xâm thì
rất khó khăn để chống lại.
Chính vì những ảnh hưởng không tích cực của chủ nghĩa cá nhân đến xây
dựng tổ chức Đảng nên Hồ chủ tịch rất coi trọng “cuộc chiến chống lại nó”. Nó
cũng quan trọng không kém so với những cuộc đấu tranh chống giặc ngoại xâm.
Và Hồ chủ tịch cũng là một trong những tấm gưởng sáng trong việc chống lại
chủ nghĩa cá nhân.
Việc tìm hiểu chủ nghĩa cá nhân, những tác hại của nó trong xây dựng Đảng
là rất quan trọng để từ đó đưa ra những biện pháp hợp lý xóa bỏ căn bệnh này.
II. Mục đích

Nắm được chủ nghĩa cá nhân là gì? Những tác hại của nó trong xây dựng tổ
chức Đảng.

3


III. Mục tiêu
Đưa ra quan điểm của Chủ tịch Hồ Chí Minh về chủ nghĩa cá nhân. Lấy đó làm
kim chỉ nan cho hoạt động xây dựng Đảng hiện nay.
Tìm hiểu những tác hại, ảnh hưởng của chủ nghĩa cá nhân đến tổ chức Đảng ta
hiện nay.
Phát hiện kịp thời cũng như có cái nhìn đúng đắn về chủ nghĩa cá nhân. Qua đó,
có tư tưởng vững vàng, tránh bị mê hoặc, lôi cuốn theo lợi ích trước mắt mà rời
vào tình trạng suy thoái đạo đức, lối sống người cán bộ, đảng viên.
Khi có cái nhòn đúng đắn và kịp thời cần đưa ra những giải pháp thích hợp để
chống lại chủ nghĩa cá nhân.

4


B. NỘI DUNG
I. Khái quát chung
I.1. Khái niệm về chủ nghĩa cá nhân
Theo Wikipedia tiếng việt, Chủ nghĩa cá nhân hay còn gọi là cá nhân Chủ
nghĩa là một thuật ngữ được sử dụng để mô tả một cách nhìn nhận trên phương
diện xã hội, chính trị hoặc đạo đức trong đó nhấn mạnh đến lợi ích của mỗi cá
nhân, sự độc lập của con người và tầm quan trọng của tự do và tự lực của mỗi cá
nhân.
Những người theo chủ nghĩa cá nhân chủ trương không hạn chế mục đích và
ham muốn cá nhân. Họ phản đối sự can thiệp từ bên ngoài lên sự lựa chọn của

cá nhân - cho dù sự can thiệp đó là của xã hội, nhà nước, hoặc bất kỳ một nhóm
hay một thể chế nào khác.
Chủ nghĩa cá nhân do vậy đối lập với chủ nghĩa toàn luận, chủ nghĩa tập thể,
chủ nghĩa cộng đồng và chủ nghĩa công xã, tức là đối lập với những chủ thuyết
nhấn mạnh đến việc công xã, nhóm, xã hội, chủng tộc hoặc các mục đích quốc
gia cần được đặt ưu tiên cao hơn các mục đích của cá nhân. Chủ nghĩa cá nhân
cũng đối lập với quan điểm truyền thống, tôn giáo, tức đối lập với bất cứ quan
niệm nào cho rằng cần sử dụng các chuẩn mực đạo đức hay luân lý ở bên ngoài,
khách thể, để hạn chế sự lựa chọn hành động của cá nhân.
I.2. Chủ nghĩa cá nhân và chủ nghĩa vị kỷ
Chủ nghĩa cá nhân có mối quan hệ phức tạp với chủ nghĩa vị kỷ (hiểu đơn
giản là ích kỷ).
Mặc dù một số nhà cá nhân chủ nghĩa cũng là những người vị kỷ, các nhà cá
nhân chủ nghĩa thường không tranh luận rằng ích kỷ về bản chất là tốt vốn có
ngay từ khi sinh ra. Thay vào đó, họ tranh luận rằng các cá nhân không có trách
nhiệm ràng buộc nào đối với các áp đặt của xã hội (đạo đức). Họ còn quan niệm
5


rằng các cá nhân cần được tự do lựa chọn theo đuổi cách sống ích kỷ cũng như
bất kỳ cách sống nào khác phù hợp với mong muốn của họ.
Một số các nhà cá nhân chủ nghĩa khác lại tranh luận rằng vị kỷ là "tính
tương đối của đạo đức" và mô tả tính ích kỷ là một bản chất tốt.
I.3. Chủ nghĩa cá nhân và mối quan hệ với các lĩnh vực
a) Chủ nghĩa cá nhân trong chính trị
Trong triết học chính trị, học thuyết cá nhân về nhà nước quan niệm rằng,
nhà nước cần giữa vai trò bảo vệ sự tự do hành động của mỗi cá nhân theo đúng
mong muốn của cá nhân và chừng nào mà sự tự do đó không động chạm đến sự
tự do của các cá nhân khác. Điều này đối lập với các học thuyết tập thể về chính
trị, mà theo các học thuyết này thay vì để cá nhân theo đuổi mục đích của bản

thân họ thì nhà nước đảm bảo cá nhân phục vụ cho quyền lợi chung của xã hội.
Trên thực tế, các nhà cá nhân chủ nghĩa chủ yếu quan tâm tới việc bảo vệ sự
tự trị của mỗi cá nhân trước những ràng buộc của các thể chế xã hội (như nhà
nước) áp đặt lên. Nhiều nhà cá nhân chủ nghĩa đặc biết chú ý đến việc bảo vệ sự
tự do của thiểu số trước mong muốn của đa số và xem cá nhân là một thiểu số
nhỏ nhất.
Ví dụ: Các nhà cá nhân chủ nghĩa phản đối các hệ thống dân chủ trừ phi có
những bảo đảm hiến pháp bảo vệ sự tự do của cá nhân khỏi bị loại bỏ bởi quyền
lợi của đa số.
Một mối lo ngại chung điển hình của các nhà cá nhân chủ nghĩa là sự tập
trung các doanh nghiệp công nghiệp và thương mại trong tay nhà nước hay
chính quyền thành phố, địa phương.
Cơ sở của việc phản đối này là:

6


- Thứ nhất: Các đại diện do dân bầu không có đủ trình độ, hay không có đủ trách
nhiệm cần thiết để quản lý các doanh nghiệp đòi hỏi rất nhiều tháo vát, và cũng
còn phải tốn khống ít tiền công trong quản lý hành chính.
- Thứ hai: Tình trạng "sức khỏe của nhà nước" phụ thuộc vào việc cố gắng của
mỗi cá nhân để thực hiện lợi ích riêng của họ (những cá nhân cũng giống như
"tế bào" là nơi chứa sự sống của cơ thể). Chủ nghĩa cá nhân có thể có cách tiếp
cận cực đoan như chủ nghĩa vô chính phủ cá nhân.
Đối với một số nhà cá nhân chủ nghĩa chính trị, những người có quan điểm
được gọi là chủ nghĩa cá nhân phương pháp, thuật ngữ "xã hội" có thể không
bao giờ có một ý nghĩa nào khác ngoài nghĩa là tập hợp rất lớn của các cá nhân.
Xã hội không bao giờ tồn tại bên ngoài hay ở trên cá nhân, và do vậy không
thể được phép tiến hành bất cứ hành động nào vì hành động cần có chủ ý mà chủ
ý cần có chủ thể và toàn thể xã hội không phải là một chủ thể; chỉ có cá nhân

mới là chủ thể. Cũng quan điểm như vậy nhưng với nhà nước, họ quan niệm nhà
nước là tập hợp của các cá nhân. Mặc dù các nhà nước dân chủ được bầu bởi
phổ thông đầu phiếu, sự thật vẫn là tất cả các hoạt động của nhà nước vẫn được
tiến hành như là phương tiện có chủ ý và là hành động của một số cá nhân. Nói
thẳng ra là nhà nước không hề hành động.
Ví dụ: Đôi khi "chúng ta" cần phải ra quyết định ban hành một chính sách nào
đó, và đôi khi việc vận hành chính sách này cũng tức là thực thể gọi là "xã hội"
ủng hội chính sách đó, do vậy chính sách đó được xem là hợp lý.
Các nhà cá nhân chủ nghĩa phương pháp chỉ ra rằng "chúng ta" thực ra không
ban hành hay tiến hành chính sách nào cả; trong số những người đi bầu, một
nhóm bầu ủng hộ chính sách, tất cả những người này thực ra là cá nhân, và một
nhóm khác bầu chống lại. Quyết định được ban hành không phải bởi "nhân dân"
hoặc "nhà nước" mà chỉ bởi những người thắng trong cuộc bầu. Điều này là rất
quan trọng vì trong bất cứ một quyết định tập thể nào đều tồn tại các cá nhân
7


phản đối chính sách và do vậy mà nguyện vọng của họ bị phủ quyết hay nói
cách khác việc sử dụng từ "chúng ta" xem ra đã bỏ qua sự thật này. Các nhà cá
nhân chủ nghĩa muốn nhấn mạnh tầm quan trọng của cá nhân và tránh nhập các
quyết định cá nhân này thành cái gọi là tập thể.
Vì những lý do trên, các nhà cá nhân chủ nghĩa phương pháp không đồng ý
với lập luận như "chúng ta xứng đáng với nhà nước mà chúng ta có vì chúng ta
đang phục vụ chính chúng ta", vì lẽ các nhà cá nhân chủ nghĩa và có thể cả
nhiều người khác nữa không đồng ý với các hành động mà các cá nhân đang
nắm quyền lực nhà nước đưa ra. Tuy vậy nhiều cá nhân có thể đã quen dùng từ
"chúng ta" để chỉ nhà nước hoặc xã hội vì lý do dùng đã quen cũng không sao
nếu nhớ rằng những thực thể này gồm tập hợp các cá nhân.
b) Chủ nghĩa cá nhân và xã hội
Khế ước xã hội của Jean-Jacques Rousseau cho rằng mỗi cá nhân hàm chứa

một khế ước giao nộp ý chí nguyện vọng của bản thân cho cái gọi là "ý chí
nguyện vọng chung của quần chúng".
Quan điểm ủng hộ việc xem ý chí nguyện vọng của cá nhân thấp hơn ý chí
nguyện vọng tập thể này về cơ bản là đối lập với triết học cá nhân chủ nghĩa.
Một cá nhân tham gia xã hội để mở rộng hơn nữa quyền lợi của mình hay chí ít
cũng để đòi hỏi quyền phục vụ cho quyền lợi của mình, mà không quan tâm đến
quyền lợi của xã hội (ngay cả khi nhà cá nhân chủ nghĩa không phải là nhà vị
kỷ). Người cá nhân chủ nghĩa không tin vào bất cứ một học thuyết triết học nào
nếu những học thuyết này đòi hỏi họ phải hy sinh quyền lợi của cá nhân họ vì
những nguyên nhân xã hội nào đó cao cả hơn.
Rousseau có thể sẽ lập luận, dĩ nhiên, rằng quan niệm của ông về "ý chí
chung" không phải là một tập hợp giản đơn của các ý chí cá nhân và chính xác
ra thì sẽ mở rộng quyền lợi của các cá nhân (ràng buộc của bản thân luật pháp sẽ
làm lợi cho cá nhân, vì nếu thiếu sự tôn trọng pháp luật thì theo quan điểm của

8


Rousseau, sẽ xuất hiện một dạng không biết và lệ thuộc vào dục vọng của một
cá nhân thay vì là vào lý trí độc lập).
Xã hội và các nhóm có thể khác nhau, trong chừng mực mà xã hội hay các
nhóm dựa trên những "bản thể" (cá nhân, và có thể hiểu, còn tranh cãi, là cả
quyền lợi của cá nhân) thay vì là những hành vi có tính "thực thể khác" (có định
hướng nhóm hay của nhóm, của xã hội). Còn có sự phân biệt liên quan đến ngữ
cảnh này, giữa xã hội "phường hội" (như thời Trung cổ Châu Âu) với "chuẩn
mực có liên kết nội tại", và các xã hội "hổ thẹn" (như ở Nhật Bản khi "mang lại
sự hổ thẹn cho tổ tiên của ai đó") với "chuẩn mực có liên kết bên ngoài", khi
người ta xem phản hồi của người khác lên hành động của mình xem có "chấp
nhận được" hay không (còn gọi là "ý nghĩ của cả nhóm").
Phạm vi mà xã hội, hoặc các nhóm là "cá nhân" có thể thay đổi theo thời gian

và giữa các quốc gia. Ví dụ: Xã hội Nhật Bản có tính định hướng nhóm hơn
( như các quyết định thường do đồng thuận cả nhóm thay vì là bởi các cá nhân),
và có lập luận rằng "tính cá nhân ít phát triển" (so với phương Tây). Ở Mỹ thì có
suy nghĩ thông thường rằng là con người là điểm kết cá nhân của hành vi, trong
khi ở các xã hội châu Âu lại có xu hướng tin vào "tinh thần công", chi tiêu "xã
hội" của nhà nước, và các hoạt động "công cộng".
John Kenneth Galbraith đưa ra một phân tách cổ điển giữa "ảnh hưởng tư
nhân và sự nghèo khổ công cộng" ở Mỹ, và sự nghèo khổ tư nhân và ảnh hưởng
công cộng tại châu Âu, và có tồn tại mối tương quan giữa chủ nghĩa cá nhân với
mức độ can thiệp công và việc đánh thuế.
Chủ nghĩa cá nhân thường là đối lập với chủ nghĩa cực quyền và chủ nghĩa
tập thể, nhưng trên thực tế có hàng loạt các hành vi trung gian trải từ mức độ xã
hội đến các xã hội có tính cá nhân cao (như tại Mỹ) thông qua các xã hội hỗn
hợp (thuật ngữ nước Anh sử dụng sau Thế chiến II) đến xã hội tập thể. Đồng
thời, nhiều nhà theo chủ nghĩa tập thể (đặc biệt những người ủng hội chủ nghĩa

9


vô chính phủ hoặc chủ nghĩa xã hội tự do) chỉ ra sự khác nhau khá lớn giữa chủ
nghĩa tập thể tự do và thực tiễn trong chủ nghĩa cực quyền.
Chủ nghĩa cá nhân, đôi khi cũng gần gũi với các biến thể của chủ nghĩa vô
chính phủ cá nhân, chủ nghĩa tự do hoặc chủ nghĩa tự do cổ điển, thông thường
quan niệm rằng cá nhân biết rõ nhất và sâu sắc nhất và các nhà chức trách đại
diện cho quyền lực công hoặc xã hội có quyền can thiệp vào quá trình ra quyết
định của cá nhân chỉ khi có nhu cầu cấp thiết xuất hiện (và đôi khi có thể không
trong những hoành cảnh như vậy). Kiểu tranh luận này thường thấy khi liên hệ
tới các tranh cãi về chính sách liên quan đến điều tiết nền công nghiệp.
c) Chủ nghĩa cá nhân trong kinh tế
Học thuyết chủ nghĩa cá nhân kinh tế xem mỗi cá nhân cần được tự quyết

trong các quyết định kinh tế của mình, đối lập với các quyết định do nhà nước,
hoặc cộng đồng đưa ra cho anh ta. Hơn thế, chủ nghĩa cá nhân kinh tế chủ
trương sở hữu tư nhân tài sản, đối lập với các cơ cấu tổ chức tập thể hay nhà
nước. Chủ nghĩa tư bản thường được nói đến như là một hệ thống kinh tế dựa
trên những quan điểm này. Dạng cấp tiến của chủ nghĩa tư bản thừa kế sâu sắc
tư tưởng cá nhân chủ nghĩa trong kinh tế và được gọi là chủ nghĩa tư bản
laissez-faire.
Các nhà phê bình chủ nghĩa tư bản hiện đại đôi khi lập luận rằng chủ nghĩa tư
bản không chỉ dựa trên các cá nhân mà chủ yếu dựa trên các hãng và các thể
chế, và vai trò của các cá nhân là phụ thuộc vào các thể chế này. Tuy nhiên, so
sánh với nhiều dạng khác nhau của chủ nghĩa tập thể trong chính trị, chủ nghĩa
tư bản thường vẫn được xem là cá nhân vì sự tham gia của các thể chế là tự
nguyện và là sự lựa chọn của cá nhân. Dĩ nhiên, chủ nghĩa tư bản có thể cũng
phát triển cả trong những xã hội tập thể với sự lựa chọn của cá nhân. Sự khác
biệt ở đây là sự lựa chọn này dựa trên cái gì: nhu cầu cá nhân hay nhu cầu tập
thể.

10


I.4. Quan điểm của Đảng về chủ nghĩa cá nhân
a) Chủ nghĩa cá nhân là tiêu cực, cần bị lên án
Có 2 quan điểm đối lập về chủ nghĩa cá nhân. Nhất là nước ta hiện nay đang
phát triển nền kinh tế thị trường và trong giai đoạn quá độ lên chủ nghĩa xã hội
thì chủ nghĩa cá nhân được hiểu theo nhiều hường khác nhau. Theo đó, có cả
tiêu cực lẫn tích cực; có quan điểm phản đối cũng có quan điểm ủng hộ….
Nhưng đối với Đảng ta, luôn xác định và xem chủ nghĩa cá nhân theo hướng
tiêu cực, cực đoan và cần phải đấu tranh loại bỏ. Quam điển này dựa trên nền
tảng lý luận cách mạng, lý luận chính trị mà Chủ tịch Hồ Chí Minh đã đưa ra
trong 2 cuộc kháng chiến chống Pháp và Mỹ.

Hiện tại, trong quá trình xây dựng và phát triển đất nước, đặc biệt trong quá
trình xây dựng Đảng hiện nay luôn lấy quan niệm xem chủ nghĩa cá nhân là độc
hại, cần loại bỏ của Chủ tịch Hồ Chí Minh làm kim chỉ nam cho mọi hoạt động.
Như vậy, quan điểm về chủ nghĩa cá nhân được hiểu đơn giản như sau: Đó là
thói ích kỷ, trong mọi hoàn cảnh đặt lợi ích của mình lên trên hết, không cho ai
động đến “một sợi lông chân của mình”, có thể gọi tên nó là chủ nghĩa cá nhân
“đạo đức học”. Trong khẩu hiệu “Quét sạch chủ nghĩa cá nhân” Chủ tịch Hồ Chí
Minh đã đề cập đến chủ nghĩa cá nhân này. Trong mọi xã hội, mọi thời đại chủ
nghĩa cá nhân này đều bị lên án.
b) Quá trình hình thành quan điểm của Đảng về chủ nghĩa cá nhân
- Giai đoạn 1945 - 1954
Trong giai đoạn chống Pháp, giành độc lập (1945-1954) hầu như sách báo và
văn bản ở nước ta chưa xuất hiện nhóm từ “chủ nghĩa cá nhân”. Đó là nhờ tinh
thần xả thân vì lý tưởng, tác phong gương mẫu và phẩm chất liêm chính của lớp
cán bộ - đảng viên. Đồng thời nêu cao tinh thần tập thể, tất cả đều giành cho
mục tiêu chung là đánh đuổi giặc Pháp bảo đất nước.

11


- Giai đoạn từ 1954 - 1960
Khi đất nước tạm thời có hoà bình (1954-1960), tư tưởng “cầu an, hưởng
lạc”, “tự tư, tự lợi” bắt đầu xuất hiện. Điều đó đi ngược lại với tinh thần tập thể
của người công nhân nên đã bị phê phán, dần dần quy về chủ nghĩa cá nhân.
- Giai đoạn từ 1960 – 1991
Khi đưa miền Bắc tiến nhanh, tiến mạnh lên chủ nghĩa xã hội, đồng thời phát
động cuộc chiến tranh giải phóng miền Nam, Đảng đòi hỏi mọi người cống hiến,
hy sinh nhiều hơn nữa. Do vậy, cần lên án mọi biểu hiện của chủ nghĩa cá nhân.
Trong học tập chính trị, cũng như trong chỉnh huấn, chỉnh đảng, chỉnh quân,
bao giờ cũng có mục đề cao chủ nghĩa anh hùng cách mạng và lên án chủ nghĩa

cá nhân, để mỗi người tự liên hệ mà kiểm điểm bản thân. Đích thân Chủ tịch Hồ
Chí Minh, với cương vị lãnh tụ tối cao của đảng, đã kịp thời phát biểu, viết bài
trong mọi dịp cần thiết để lên án chủ nghĩa cá nhân.
* Những bài viết của Chủ tịch Hồ Chí Minh về chủ nghĩa cá nhân:
- Tháng 3-1960: Chủ nghĩa cá nhân như tự tư tự lợi, tự kiêu, tự mãn, chỉ tham
việc gì có danh tiếng, xem khinh những công việc bình thường.
- Tháng 3-1961: Chủ nghĩa cá nhân, lợi mình hại người, tự do vô tổ chức, vô kỷ
luật và những tính xấu khác, là kẻ địch nguy hiểm của chủ nghĩa xã hội.
- Tháng 1-1965: Chủ nghĩa cá nhân là kẻ thù nguy hiểm mà mỗi người chúng ta
phải luôn luôn tỉnh táo đề phòng và kiên quyết tiêu diệt.
- Tháng 7-1965: Tranh công đổ lỗi là biểu hiện của chủ nghĩa cá nhân.
- Tháng 2-1969: Chủ nghĩa cá nhân là việc gì cũng nghĩ đến lợi ích riêng của
mình trước hết. Họ không lo “mình vì mọi người” mà chỉ muốn “mọi người vì
mình”.

12


- Bài viết cuối cùng về chủ nghĩa cá nhân của Chủ tịch HCM đăng trên báo
Nhân Dân trong dịp 3-2-1969 với nhan đề: “Nâng cao đạo đức cách mạng, quét
sạch chủ nghĩa cá nhân”. Bài viết này đã có tác dụng tức thời là công nhân thêm
vững “tay búa, tay súng”, nông dân càng chắc “tay cày, tay súng”; đồng thời lớp
lớp thanh niên lại vượt Trường Sơn đi chiến đấu...
Nhất là trong thời kỳ bao cấp tư tưởng chống, phản đối chủ nghĩa cá nhân
được đề cao triệt để, bằng mọi biện pháp, mọi lĩnh vực….
- Giai đoạn từ 1991 – nay
Mặc dù đất nước bước vào thời kỳ mở cửa, hội nhập kinh tế quốc tế, thực
hiện công nghiệp hóa – hiện đại hóa, phát triển nên kinh tế thị trường nhưng
Đảng ta vẫn lấy quan điểm chống chủ nghĩa cân của Chủ tịch Hồ Chí Minh làm
kim chỉ nam cho mọi hoạt động.

Khi phát động học tập và làm theo tấm gương đạo đức Hồ Chí Minh, trong
dịp 3-2-2007 tổng bí thư đương nhiệm vẫn nhắc lại một số nội dung mà Chủ tịch
Hồ Chí Minh đã nêu:
- Tư tưởng không đúng thì có nhiều, nhưng có một tư tưởng mẹ: đó là chủ nghĩa
cá nhân.
- Chủ nghĩa cá nhân là việc gì cũng chỉ lo cho lợi ích riêng của mình, không
quan tâm đến lợi ích của tập thể.
- Miễn là mình béo, mặc thiên hạ gầy. Nó là mẹ đẻ ra tất cả mọi tính hư, nết xấu
như: lười biếng, suy bì, kiêu căng, kèn cựa, nhút nhát, lãng phí, tham ô...
- Chủ nghĩa cá nhân là vết tích xấu xa của xã hội cũ, “là một thứ rất gian giảo,
xảo quyệt; nó khéo dỗ dành người ta đi xuống dốc. Mà ai cũng biết rằng xuống
dốc thì dễ hơn lên dốc. Vì thế mà càng nguy hiểm”.

13


Ngày 31-8-2009, nhân kỷ niệm 40 năm Chủ tịch HCM viết di chúc, bài trên
trang mạng của đảng Cộng Sản Việt Nam cũng nhắc lại lời HCM: Chủ nghĩa cá
nhân là một thứ vi trùng rất độc, do đó mà nó sinh ra các thứ bệnh rất nguy hiểm
như: Bệnh tham lam; bệnh lười biếng; bệnh kiêu ngạo; bệnh hiếu danh; bệnh
thiếu kỷ luật; óc hẹp hòi; óc thực dụng; óc lãnh tụ. Và kết luận: Chủ nghĩa cá
nhân là một kẻ địch hung ác của chủ nghĩa xã hội.
Phát biểu của tổng bí thư Nguyễn Phú Trọng tại lễ kỷ niệm sinh nhật 125
năm ngày sinh Chủ tịch Hồ Chí Minh (19/5/1890-19/5/2015), có đoạn trích dẫn
các quan điểm Bác về xây dựng Đảng: "Kiên quyết đấu tranh chống chủ nghĩa
cá nhân, gột rửa chủ nghĩa cá nhân, bởi vì "chủ nghĩa cá nhân là kẻ thù hung
ác của đạo đức cách mạng, của chủ nghĩa xã hội"; "là thứ gian giảo, xảo
quyệt", "là mẹ đẻ ra tất cả mọi tính hư, nết xấu", nó "kéo người ta xuống dốc
không phanh...".
* Tại các đại hội Đảng, các hội nghị trung ương đều liên tục và mạnh mẽ nói

về nguy cơ, tác hại của chủ nghĩa cá nhân và sự bành trướng của nó:
- Hội nghị Trung ương lần thứ V khoá VI đã nghiêm khắc chỉ ra những biểu
hiện của chủ nghĩa cá nhân trong cán bộ, đảng viên khi đi vào đổi mới, đó là
bệnh quan liêu, bàn giấy, xa rời quần chúng, xa rời thực tế, hống hách với nhân
dân; sinh lòng thèm khát đồng tiền, sẵn sàng “chiếm công vi tư”, đục khoét của
cải của nhân dân; sống buông thả, sa đoạ, móc ngoặc và tiếp tay cho bọn làm ăn
bất chính ngoài xã hội; cơ hội chủ nghĩa, sống vô nguyên tắc, chỉ biết luồn lọt,
nịnh bợ để có danh lợi; không tự phê bình và phê bình trên tình đồng chí, hoặc
là xuê xoa, nể nang, hoặc là lợi dụng để đả kích nhau, tạo ra phe phái gây mất
đoàn kết nghiêm trọng.
- Trong nhiệm kỳ khoá VII, nhận diện của Đảng về chủ nghĩa cá nhân có sự phát
triển. Tại Hội nghị giữa nhiệm kỳ Đảng ta cho rằng tham nhũng, quan liêu trở
thành một trong bốn nguy cơ đối với chế độ mà Đảng, nhân dân ta đã lựa chọn

14


và là biểu hiện tập trung của chủ nghĩa cá nhân, suy thoái đạo đức lối sống trong
cán bộ, đảng viên.
- Đến Đại hội VIII, chủ nghĩa cá nhân với rất nhiêu biểu hiện, đặt Đảng trước
thách thức lớn hơn. Đại hội nhận định: một bộ phận không nhỏ cán bộ, đảng
viên thiếu tu dưỡng bản thân, phai nhạt lý tưởng, mất cảnh giác, giảm sút ý chí,
kém ý thức tổ chức kỷ luật, sa đoạ về đạo đức lối sống. Bệnh quan liêu, độc
đoán, cục bộ địa phương, kèn cựa, địa vị rất nặng. Số thoái hoá về chính trị tuy
ít, nhưng hoạt động của họ gây hậu quả rất xấu.
- Những năm đầu của thế kỷ XXI, chủ nghĩa cá nhân với biểu hiện tập trung của
nó là tham nhũng, tiêu cực diễn biến càng phức tạp hơn. Đại hội lần thứ IX, lần
thư X của Đảng đều đã đề cập đến chủ nghĩa cá nhân và các biểu hiện chính của
nó. Đảng chủ trương mỗi cấp uỷ, mỗi chi bộ có kế hoạch định kỳ kiểm điểm và
thực hiện Di chúc của Chủ tịch Hồ Chí Minh về nâng cao đạo đức cách mạng,

chống chủ nghĩa cá nhân, chống tư tưởng cơ hội thực dụng.
II. Biểu hiện và tác hại của chủ nghĩa cá nhân trong quan niệm của Đảng
II.1. Biểu hiện của chủ nghĩa cá nhân
Chủ tịch Hồ Chí Minh coi “chủ nghĩa cá nhân là một loại giá trị và nguyên
tắc đạo đức, là hệ thống lý luận chính trị, kinh tế và đạo đức của giai cấp tư
sản”. Chủ nghĩa cá nhân là sản phẩm của xã hội người bóc lột người, dựa trên
chế độ tư hữu; là sự đối lập giữa lợi ích cá nhân với lợi ích xã hội, đặt quyền lợi
của cá nhân lên trên quyền lợi tập thể.
Trong tác phẩm “Nâng cao đạo đức cách mạng, quét sạch chủ nghĩa cá
nhân”, Hồ Chí Minh chỉ ra các loại bệnh nảy sinh từ chủ nghĩa cá nhân là: bệnh
quan liêu; bệnh tham lam; bệnh lười biếng; bệnh kiêu ngạo, bệnh hiếu danh;
bệnh “hữu danh vô thực (loại bệnh có biểu hiện là làm được ít nhưng báo cáo,
khoe khoang thì nhiều); bệnh cận thị (loại bệnh có biểu hiện là chỉ để ý đến cái

15


nhỏ, vụn vặt, không thấy cái lớn, cái quan trọng); bệnh tỵ nạnh; bệnh xu nịnh, a
dua và bệnh kéo bè, kéo cánh.
Cụ thể:
- Bệnh nể nang: Đồng chí mình mắc khuyết điểm, lẽ ra phải kỷ luật với một
hình thức tương xứng, nhưng vì cảm tình nên chỉ phê bình qua loa cho xong
chuyện. Thậm chí có nơi còn che đậy cho nhau, lừa dối cấp trên, giấu diếm đoàn
thể.
Chủ tịch Hồ Chí Minh cho rằng: “Nếu vì lòng yêu ghét, vì thân thích, vì nể
nang, nhất định không ai phục, mà gây nên mối lôi thôi trong Đảng. Như thế là
có tội với Đảng, có tội với đồng bào”.
- Bệnh kéo bè, kéo cánh, cục bộ, bản vị: Hồ Chí Minh dùng từ “cánh hẩu”
trong một bộ phận cán bộ có chức, có quyền. Bè cánh được lôi kéo từ những
người có họ hàng, là bà con, cháu, chắt, thân tín, thậm chí mở rộng ra là người

cùng xóm, cùng quê; rồi “chén chú chén anh”, tung hô nhau, ủng hộ nhau, dùng
số đông, lợi dụng và bóp méo nguyên tắc tập trung dân chủ, dồn những người dù
có tốt, có tài nhưng không “hẩu” xuống để “tiêu diệt”, để cát cứ, thao túng.
Người nhấn mạnh: “Ai hợp với mình thì dù người xấu cũng cho là tốt, việc
dở cũng cho là hay, rồi che đậy cho nhau, ủng hộ lẫn nhau. Ai không hợp với
mình thì người tốt cũng cho là xấu, việc hay cũng cho là dở, rồi tìm cách gièm
pha, nói xấu, tìm cách dìm người đó xuống”.
- Bệnh cá nhân: Đây là loại bệnh mà người mắc bệnh có khi được đánh giá là
có “đức”, “hiền lành”, luôn luôn biết “đoàn kết”… Những người này thông
thường trong cuộc họp, hội nghị, thấy đúng không bảo vệ, thấy sai không đấu
tranh, được lòng hết cả mọi người. Đây có thể được gọi là người ba phải, a dù,
gió chiều nào theo chiều ấy…

16


Hơn nữa, nếu có nói ra thì tỏ vẻ “khiêm tốn” nói bên ngoài, nói ở quán nước
hoặc nơi nhậu nhẹt, chơi bời, thậm chí chờ bên nào có xu hướng “thắng” thì giơ
tay ủng hộ. Rồi lùi cúi, đi “cửa sau”, thưa bẩm, vâng, dạ, xun xoe, nịn bợ.
Những người này khi đã đạt mục đích “leo lên” rồi bắt đầu nịnh trên, nạt dưới,
kéo bè, kéo cánh…
- Bệnh hữu danh vô thực: “Làm việc không thiết thực, không tự chỗ gốc, chỗ
chính, không từ dưới làm lên. Làm cho có chuyện, làm lấy rồi. Làm được ít suýt
ra nhiều, để làm một bản báo cáo cho oai, nhưng xét kỹ lại thì rỗng tuếch”.
- Bệnh tham lam: Hồ Chí Minh cho rằng: “Những người mắc phải bệnh này thì
đặt lợi ích của mình lên trên lợi ích của Đảng, của dân tộc, do đó chỉ “tự tư tự
lợi.
Dùng của công làm việc tư. Dựa vào thế lực của Đảng để theo đuổi mục đích
riêng của mình. Sinh hoạt xa hoa tiêu xài bừa bãi. Tiền bạc đó ở đâu ra? Không
xoay của Đảng thì xoay của đồng bào. Thậm chí làm chợ đen buôn lậu. Không

sợ mất thanh danh của Đảng, không sợ mất danh giá của mình”.
- Bệnh lười biếng: Thực chất của bệnh lười biếng là đối lập với đức “cần”. Lười
biếng biểu hiện ở sự thỏa mãn với sự học, kiến thức vốn có của mình, “Làm
biếng học hỏi, làm biếng suy nghĩ. Việc dễ thì tranh lấy cho mình. Việc khó thì
đùn cho người khác. Gặp việc nguy hiểm thì tìm cách để trốn tránh”.
- Bệnh tham ô: “Đứng về phía cán bộ mà nói, tham ô là: Ăn cắp của công làm
của tư. Đục khoét của nhân dân. Ăn bớt của bộ đội. Tiêu ít mà khai nhiều, lợi
dụng của chung của Chính phủ để làm quỹ riêng cho địa phương mình, đơn vị
mình, cũng là tham ô…
Đứng về phía nhân dân mà nói, tham ô là: Ăn cắp của công, khai gian, lậu
thuế”. Nó có hại đến công việc cải thiện đời sống nhân dân, có hại đến đạo đức
cách mạng…

17


II.2. Tác hại của chủ nghĩa cá nhân
Hồ Chí minh cho rằng, chừng nào còn chủ nghĩa cá nhân nó sẽ “ngăn trở”
người cán bộ, đảng viên phấn đấu vì mục tiêu, lý tưởng của Đảng, của dân tộc,
làm mất lòng tin cậy của dân đối với Đảng. Người nhấn mạnh: “Một dân tộc,
một Đảng và mỗi con người, ngày hôm qua là vĩ đại, có sức hấp dẫn lớn, không
nhất định là hôm nay và ngày mai vẫn được mọi người yêu mến và ca ngợi, nếu
lòng dạ không trong sáng nữa, nếu sa vào chủ nghĩa cá nhân”.
“Do cá nhân chủ nghĩa mà ngại gian khổ, khó khăn, sa vào tham ô, hủ hóa,
lãng phí, xa hoa. Họ tham danh trục lợi, thích địa vị quyền hành. Họ tự cao tự
đại, coi thường tập thể, xem khinh quần chúng, độc đoán, chuyên quyền. Họ xa
rời quần chúng, xa rời thực tế, mắc bệnh quan liêu mệnh lệnh. Họ không có tinh
thần cố gắng vươn lên, không chịu học tập để tiến bộ”.
Vì thiếu đạo đức cách mạng, vì cá nhân chủ nghĩa mà sinh tham ô. Chủ nghĩa
cá nhân đẻ ra trăm thứ bệnh nguy hiểm: quan liêu, mệnh lệnh, bè phái, chủ quan,

tham ô, lãng phí… Nó trói buộc, nó bịt mắt những nạn nhân của nó, những
người này bất kỳ việc gì cũng xuất phát từ lòng tham muốn danh lợi, địa vị cho
cá nhân mình, chứ không nghĩ đến lợi ích của giai cấp, của nhân dân”.
Do chủ nghĩa cá nhân mà phạm phải nhiều sai lầm, làm mất nhân cách con
người, uy tín của cán bộ, đảng viên; chủ nghĩa cá nhân là một trong ba nguy cơ
đối với Đảng cầm quyền.
Chủ nghĩa cá nhân là một thứ vi trùng rất độc, do đó mà sinh ra các thứ bệnh
rất nguy hiểm, đẻ ra hàng trăm căn bệnh khác nhau như tham ô, lãng phí, quan
liêu, lười biếng, kiêu ngạo, hiếu danh, thiếu kỷ luật, óc hẹp hòi, óc lãnh tụ, bệnh
“hữu danh vô thực”, kéo bè kéo cánh, tị nạnh, xu nịnh a dua, ham chuộng hình
thức... Hiện nay, sự suy thoái về đạo đức, lối sống là đặc biệt nghiêm trọng như
Nghị quyết Trung ương 4 khóa XI chỉ ra, trong đó những biểu hiện mà nhân dân

18


và dư luận xã hội quan tâm nhiều nhất, bức xúc nhất là tình trạng tham nhũng,
bè phái cục bộ, lợi ích nhóm ở một bộ phận đảng viên có chức có quyền.
Chủ nghĩa cá nhân gây tác hại ghê gớm. Nó là kẻ thù nguy hiểm vì nó không
mang gươm mang súng, mà nó nằm trong các tổ chức của ta, để làm hỏng công
việc của ta. Chủ nghĩa cá nhân, dù cố ý hay không, cũng là bạn đồng minh của
thực dân và phong kiến. Vì nó làm chậm trễ công cuộc kháng chiến và kiến
quốc của ta. Cụ thể:
+ Làm hỏng tinh thần trong sạch và ý chí của cán bộ ta.
+ Phá hoại đạo đức cách mạng của ta là cần, kiệm, liêm, chính.
+ Phí phạm sức lực, tiêu hao của cải của Chính phủ và của nhân dân. Tội lỗi ấy
cũng nặng như tội lỗi Việt gian, mật thám.
+ Do cá nhân chủ nghĩa mà phạm nhiều sai lầm: ngại gian khổ, khó khăn, sa vào
tham ô, hủ hóa, lãng phí, xa hoa. Họ tham danh trục lợi, thích địa vị quyền hành.
Họ tự cao tự đại, coi thường tập thể, xem khinh quần chúng, độc đoán, chuyên

quyền. Họ xa rời quần chúng, xa rời thực tế, mắc bệnh quan liêu mệnh lệnh. Họ
không có tinh thần cố gắng vươn lên, không chịu học tập để tiến bộ.
Hiện nước ta vẫn còn là nước đang phát triển, nền kinh tế đang trong quá
trình hội nhập rất cần những cán bộ, những cá nhân phát huy được tính sáng tạo,
tinh thần ham học hỏi và phải thực tế biết nhìn xa trông rộng. Nếu có những cá
nhân mắc phải những biểu hiện của chủ nghĩa cá nhân trên thì đất nước không
thể cũng hội nhập và phát triển, không thể sánh cùng bạn bè năm châu như Chủ
tịch Hồ Chí Minh đã dạy.
Do cá nhân chủ nghĩa mà mất đoàn kết, thiếu tính tổ chức, tính kỷ luật, kém
tinh thần trách nhiệm, không chấp hành đúng đường lối, chính sách của Đảng và
của Nhà nước, làm hại đến lợi ích của cách mạng, của nhân dân. Do chủ nghĩa

19


cá nhân mà sinh ra đòi hỏi hưởng thụ, đãi ngộ. Người ta ai cũng muốn ăn ngon
mặc đẹp, nhưng muốn phải cho đúng thời, đúng hoàn cảnh.
Nếu trong một tổ chức mà tồn tại chủ nghĩa cá nhân thì tổ chức đố sẽ không
thể phát triển. Bởi ai cũng chăm chăm để mang lại quyền lợi cho mình không
chịu cống hiến, sợ bị thiệt thời, sợ phải làm nhiều mà không được hưởng. Điều
này rất nguy hiểm, nếu nó lại tồn tại ở một tổ chức cầm quyền thì còn nguy hại
hơn. Đó là chưa kể đến việc có những cán bộ Đảng viên thực sự trong sạch
nhưng do một số cá nhân bôi nhọ, kéo bè phái để trù dập làm ảnh hưởng tới
những cán bộ khác và ảnh hưởng tới việc xây dựng tính kỷ luật trong công tác
xây dựng Đảng.
Trong tổ chức Đảng mà có những cán bộ mắc chứng bệnh cá nhân thì sẽ ảnh
hưởng đến sự tín nhiệm của nhân dân với Đảng và những đường lối chính sách
của Đảng. Nếu đã đánh mất niềm tin của người dân thì vận mệnh của đất nước
sẽ không vững chắc, tạo điều kiện cho các thế lực thù địch nhòm ngó và lợi
dụng.

III. Giải pháp đấu tranh ngăn chặn tư tưởng cá nhân chủ nghĩa trong xây
dựng Đảng hiện nay
Chủ nghĩa cá nhân là một trong những “căn bệnh” rất nguy hiểm trong công
tác xây dựng đảng. Nó không những làm suy thoái sự phát triển mà còn là ổ dịch
cho những bệnh khác bùng phát. Chính vì vậy cần phải có nhiều biện pháp tích
cực xóa bỏ chủ nghĩa cá nhân trong xây dựng Đảng. Hồ Chí Minh khẳng định,
đối lập với đạo đức cách mạng là chủ nghĩa cá nhân, do đó, nâng cao đạo đức
cách mạng không thể tách rời với chống chủ nghĩa cá nhân, luôn luôn gắn xây
với chống. Xây là để nâng cao đạo đức cáchmạng, chống là hướng tới mục tiêu
quét sạch chủ nghĩa cá nhân.
Hồ Chí Minh chủ trương, “Phải quét sạch chủ nghĩa cá nhân, nâng cao đạo
đức cách mạng” và nâng cao đạo đức cách mạng để tăng sức mạnh chống chủ
20


nghĩa cá nhân. Để đấu tranh loại bỏ chủ nghĩa cá nhân ra khỏi mỗi người, khỏi
tập thể và xã hội cần phải thực hiện nhiều giải pháp và trên nhiều lĩnh vực.
* Trước hết, dùng cách phê bình và tự phê bình để rửa sạch đầu óc ngôi thứ, địa
vị, và chủ nghĩa cá nhân.Thực hiện chế độ sinh hoạt và kỷ luật đảng phải
nghiêm minh.Tự phê bình và phê bình là quy luật phát triển của Đảng, là vũ khí
sắc bén trong công tác xây dựng, chỉnh đốn Đảng. Đó là phương thuốc hay nhất,
giúp cho toàn Đảng và mỗi đảng viên sửa chữa khuyết điểm, phát huy ưu điểm,
tiến bộ không ngừng, ngày một mạnh thêm. Phải thực hành phê bình và tự phê
bình nghiêm chỉnh trong Đảng.
Phải hoan nghênh và khuyến khích quần chúng thật thà phê bình cán bộ,
đảng viên. Chủ nghĩa cá nhân thì ngược lại, không dám tự phê bình và không
muốn người khác phê bình mình, không kiên quyết sửa chữa. Chế độ sinh hoạt
chi bộ phải nghiêm túc. Kỷ luật của Đảng phải nghiêm minh. Công tác kiểm tra
của Đảng phải chặt chẽ.
Trong Di chúc trước lúc đi xa, Bác căn dặn: Mỗi đảng viên và cán bộ phải

thật sự thấm nhuần đạo đức cách mạng, thật sự cần kiệm liêm chính, chí công vô
tư. Phải giữ gìn Đảng ta trong sạch, phải xứng đáng là người lãnh đạo, là người
đầy tớ thật trung thành của nhân dân.
Đồng thời, “Thực hành tự phê bình và phê bình đồng sự mình. Phê bình một
cách thiết thực mà thân ái”. Phê bình từ cấp trên xuống và từ cấp dưới lên. Phê
bình nhau và giúp nhau sửa chữa. Phải vào sâu dân chúng, vào sâu bộ đội. Hỏi ý
kiến và hỏi sáng kiến của quần chúng. Gom góp kinh nghiệm của quần chúng để
giải quyết các vấn đề, và trao đổi những kinh nghiệm mới cho cơ quan khác, địa
phương khác.
Chống chủ nghĩa cá nhân không phải chống lại một lần mà hết được, ví như
rửa mặt thì phải rửa hàng ngày. Vì vậy, phải tiếp tục luôn luôn phê bình, tự phê
bình, kiểm tra trong mọi việc. Cùng với việc mở mở rộng dân chủ: thật thà tự
21


phê bình và thành khẩn phê bình. Đòi hỏi chúng ta phải chống lại thái độ rụt rè,
nể nả giữa cấp dưới và cấp trên, giữa công nông và trí thức, giữa cán bộ ngoài
Đảng và trong Đảng. Để thực hiện công tác phê bình và tự phê bình Bộ Chính trị
đã đưa ra những quy định cụ thể về vấn đề này trong Nghị quyết Trung ương 4
khóa XI yêu cầu các tổ chức đảng khi tiến hành tự phê bình và phê bình phải
nhìn thẳng vào sự thật, đánh giá đúng sự thật, nhất là những mặt còn yếu kém,
không nể nang, né tránh; đề ra các biện pháp khắc phục, sửa chữa thiết thực, khả
thi; kết hợp “chống và xây”, “xây và chống”, nói đi đôi với làm, tập trung giải
quyết những vấn đề bức xúc, trì trệ nhất hiện nay.
Quá trình tiến hành kiểm điểm phải bảo đảm thật sự dân chủ, nghiêm túc,
thẳng thắn với tinh thần xây dựng, đúng yêu cầu, nội dung, cách làm, thời gian
mà Trung ương, Bộ Chính trị đã đề ra. Cấp trên phải làm gương tự phê bình
trước, cấp dưới làm sau; tập thể làm trước, cá nhân làm sau; các đồng chí trong
thường vụ, cấp ủy viên cấp trên gương mẫu, nghiêm túc tự phê bình và phê bình,
làm gương cho cấp dưới.

* Thứ hai, tăng cường giáo dục trong toàn Đảng về lý tưởng cộng sản chủ
nghĩa, về đường lối, chính sách của Đảng,về nhiệm vụ và đạo đức của người
đảng viên. Thực chất đây là giải pháp nhằm thiết lập nền tảng tư tưởng, lý luận,
kim chỉ nan cho hành động, tạo dựng cái nền, cái gốc của toàn Đảng và với mỗi
cán bộ, đảng viên.
+ Hồ Chí Minh nhấn mạnh, để làm tròn sứ mệnh của mình, mỗi đảng viên phải
ra sức học tập chủ nghĩa Mác – Lênin, củng cố lập trường giai cấp vô sản, cố
gắng nắm vững những quy luật của cách mạng Việt Nam, phải luôn luôn nâng
cao đạo đức cách mạng, kiên quyết đấu tranh chống chủ nghĩa cá nhân.
+ Bồi dưỡng chủ nghĩa tập thể của giai cấp vô sản, cần kiệm xây dựng nước nhà.
+ Một lòng, một dạ phấn đấu vì lợi ích tối cao của cách mạng và Tổ quốc. Hồ
Chí Minh đã chỉ rõ: "Ra sức học tập chủ nghĩa Mác - Lênin, luôn luôn dùng tự
22


phê bình và phê bình để nâng cao tư tưởng và cải tiến công tác của mình và cùng
đồng chí mình tiến bộ".
Bên cạnh việc tăng cường giáo giục về lý tưởng cộng sản cho Đảng viên mà
còn phải không ngừng giáo dục nhân dân, nâng cao dân trí, phát huy vai trò của
các cơ quan dân cử, của mặt trận Tổ quốc, các đoàn thể nhân dân, các phương
tiện thông tin đại chúng trong việc giám sát cán bộ, công chức, có cơ chế để
nhân dân tham gia vào công tác xây dựng Đảng, kịp thời khen thưởng những cá
nhân, cơ quan báo chí đã tích cực đấu tranh, phê phán những hành động sai trái,
góp phần phát hiện, đấu tranh chống tham nhũng, lãng phí, phòng chống những
biểu hiện của chủ nghĩa cá nhân.
* Thứ ba, bồi dưỡng chủ nghĩa tập thể, đặt lợi ích chung lên trên hết, trước hết.
Xét mối quan hệ giữa cá nhân với tập thể, chúng ta cần nhận thức thống nhất
giữa lợi ích chung và lợi riêng. Cần phân biệt đúng đắn giữa chủ nghĩa cá nhân
và lợi ích cá nhân.
Hồ Chí Minh khẳng định: Đạo đức cách mạng là vô luận trong hoàn cảnh

nào, người đảng viên cũng phải đặt lợi ích của Đảng lên trên hết. Nếu khi lợi ích
của Đảng và lợi ích của cá nhân mâu thuẫn với nhau, thì lợi ích cá nhân phải
tuyệt đối phục tùnglợi ích của Đảng. Nhưng đấu tranh chống chủ nghĩa cá nhân
không phải là gây xéo lên lợi ích cá nhân. Vì mỗi người đều có đời sống, tính
cách, sở trường riêng. Mỗi người đều có quyền làm giàu cho bản thân và gia
đình mình; nhưng những lợi ích đó không trái với lợi ích của tập thể, lợi ích của
Đảng, của tổ quốc, dân tộc.
Tóm lại, mỗi cán bộ, đảng viên phải đặt lợi ích của cách mạng, của Đảng, của
nhân dân lên trên hết, trước hết. Phải nâng cao đạo đức cách mạng,quét sạch chủ
nghĩa cá nhân,bồi dưỡng tư tưởng tập thể, tinh thần đoàn kết, tính tổ chức và
tính kỷ luật. Phải đi sâu đi sát thực tế, gần gũi quần chúng, thật sự tôn trọng và

23


phát huy quyền làm chủ tập thể của nhân dân. Phải cố gắng học tập, rèn luyện,
nâng cao trình độ hiểu biết để làm tốt mọi nhiệm vụ.
* Bốn là, xây dựng quy chế làm việc, xác định rõ quyền hạn, trách nhiệm của
từng cá nhân, tổ chức, làm tốt công tác kiểm tra, thanh tra, giám sát, sơ tổng kết,
rút kinh nghiệm gắn với thực hiệnnhiệm vụ chính trị. Chủ tịch Hồ Chí Minh cho
rằng: “kiểm tra có tác dụng thúc đẩy và giáo dục đảng viên và cán bộ làm trọn
nhiệm vụ đối với Đảng, đối với Nhà nước, làm gương mẫu tốt cho nhân dân. Do
đó mà góp phần vào việc củng cố Đảng về tư tưởng và tổ chức”. “Kiểm soát
khéo, bao nhiêu khuyết điểm lòi ra hết, hơn nữa kiểm tra khéo về sau khuyết
điểm nhất định ít đi”. Vì vậy, các cấp ủy đảng cần có nghị quyết lãnh đạo thực
hiện công tác kiểm tra, giám sát, góp phần quản lý chặt chẽ cán bộ, đảng viên ở
nơi công tác, nơi cư trú và khi công tác xa đơn vị.
* Năm là, xử lý kịp thời, nghiêm minh, công khai những cán bộ, đảng viên dù ở
cương vị nào vi phạm tư cách, thoái hóa biến chất về đạo đức, lối sống, những
phần tử cơ hội, bất mãn, gây mất đoàn kết nội bộ trong Đảng, vi phạm các

nguyên tắc tổ chức, sinh hoạt đảng
Đặc biệt là trong thời kỳ kinhh tế hội nhập, cùng với đó, quá trình chuyển đổi
cơ chế kinh tế, xây dựng nền kinh tế thị trường định hướng xã hội chủ nghĩa,
chủ động, tích cực hội nhập kinh tế quốc tế, nó không chỉ tạo ra cho chúng ta cơ
hội để phát triển, mà cả những tác động tiêu cực vào đạo đức, lối sống. Biểu
hiện cụ thể là sự suy thoái về tư tưởng chính trị, đạo đức, lối sống của một bộ
phận không nhỏ cán bộ, đảng viên đã trở nên nghiêm trọng hơn, xuất hiện trong
tất cả các bộ phận cấu thành của bộ phận chính trị, trên tất cả các lĩnh vực, từ
trung ương đến địa phương và cơ sở.
Chính vì sự phức tạp ấy nên các biện pháp chống chủ nghĩa cá nhân càng
phải quyết liệt hơn và mạnh mẽ hơn. Mỗi cán bộ Đảng viên và cả những người
dân phải rèn luyện, tu dưỡng và thấm nhuần sâu sắcđạo đức cách mạng. Có đạo

24


đức cách mạng thì khi gặp khó khăn gian khổ, thất bại, cũng không sợ sệt, rụt rè,
lùi bước. Có đạo đức cách mạng thì khi gặp thuận lợi và thành công cũng vẫn
giữvững tinh thần gian khổ, chất phác, khiêm tốn,"lo trước thiên hạ, vui sau
thiên hạ". Không được tham ô, quan liêu, lãng phí. Đó là tội ác, là kẻ thù nguy
hiểm của nhân dân, là thứ “giặc nội xâm, giặc ở trong lòng”.

25


×