Tải bản đầy đủ (.doc) (36 trang)

Tuyên ngôn của đảng cộng sản

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (219.3 KB, 36 trang )

GIỚI THIỆU TÁC PHẨM “TUYÊN NGÔN CỦA ĐẢNG CỘNG SẢN”
(C.Mác và Ph.Ăngghen, Toàn tập, Nxb CTQG, HN, t. 4, 1995, tr. 591-646)
GS,TS. Trịnh Quốc Tuấn
Th.S. Trần Kim Cúc
Mở đầu
"Tuyên ngôn của Đảng cộng sản" gắn liền với tên tuổi và sự nghiệp của
C.Mác và Ph.Ăngghen. Tuyên ngôn là tác phẩm khoa học xuất sắc, đánh dấu
sự chín muồi về tư tưởng, quan điểm và phương pháp luận khoa học của Mác
và Ăngghen. 40 năm sau lần đầu tiên xuất bản tác phẩm bất hủ này, trong
“Lời tựa viết cho bản tiếng Anh xuất bản năm 1888”, Ph.Ăngghen có viết:
"Hiện nay, hiển nhiên đó là tác phẩm phổ biến hơn cả, có tính quốc tế hơn cả
trong tất cả các văn phẩm xã hội chủ nghĩa, đó là cương lĩnh được thừa nhận
bởi hàng triệu công nhân từ Xibia đến Caliphoócnia" 1. Và cho đến nay, có thể
nói rằng, trong kho tàng văn hoá nhân loại, có lẽ đối với giai cấp vô sản toàn
thế giới chưa có một tác phẩm nào có tính phổ biến như vậy.
Trong di sản lý luận của hai ông, “Tuyên ngôn của đảng cộng sản” giữ
một vị trí đặc biệt quan trọng. Đây có thể coi là một tác phẩm then chốt, nền tảng của
lý luận chính trị trong chủ nghĩa Mác. Lần đầu tiên, tác phẩm của hai ông đã hệ thống
hoá những nội dung cơ bản của chủ nghĩa Mác, thể hiện đầy đủ ba bộ phận cấu thành
chủ nghĩa Mác - kinh tế chính trị học, chủ nghĩa duy vật biện chứng và duy vật lịch sử,
chủ nghĩa xã hội khoa học dưới dạng cô đọng nhất.
Với vị trí quan trọng và nội dung phong phú như vậy, "Tuyên ngôn của
Đảng cộng sản" là một trong những tác phẩm mà mọi chuyên ngành lý luận
Mác Lênin không thể bỏ qua. Người ta có thể tiếp cận, khai thác nội dung, ý
nghĩa tác phẩm một cách khác nhau dưới giác độ chuyên ngành khác nhau.
Trong phạm vi chuyên đề này, chúng tôi giới thiệu tác phẩm dưới góc độ
chính trị học. Theo đó, "Tuyên ngôn của Đảng cộng sản" được coi là văn kiện
lý luận chính trị quan trọng bậc nhất vào giữa thế kỷ XIX, báo hiệu sự trưởng
1

C.Mác và Ph.Angghen, Toàn t?p, Nxb CTQG, HN, T. 21, 1995, tr. 522.




thành về tư tưởng, chính trị và tổ chức của phong trào vô sản, của đảng cộng
sản - đội tiên phong của giai cấp vô sản trong sự nghiệp đấu tranh nhằm tự
giải phóng mình và giải phóng toàn nhân loại khỏi ách thống trị tư bản chủ
nghĩa.
Giới thiệu tác phẩm "Tuyên ngôn của Đảng cộng sản" dưới góc độ
chính trị học nhằm giúp người đọc hiểu rõ những nội dung tư tưởng chính trị
chủ yếu, nắm vững tinh thần của Tuyên ngôn, để từ đó rút ra những bài học
chính trị và có sự vận dụng sáng tạo vào thực tiễn hiện nay, đó là mục tiêu mà
chuyên đề này hướng tới.
I - Hoàn cảnh ra đời của tác phẩm
"Tuyên ngôn của Đảng cộng sản" ra đời là kết tinh của những yếu tố
khách quan và chủ quan sau đây:
1 . Yếu tố khách quan
Yếu tố khách quan dẫn đến sự ra đời của "Tuyên ngôn" là những điều
kiện kinh tế, chính trị - xã hội đã chín muồi trong lịch sử.
Về kinh tế, giữa thế kỷ XIX phương thức sản xuất tư bản chủ nghĩa đã
đạt tới trình độ phát triển, đại công nghiệp ở một số nước châu Âu đã đạt
được những thành tựu đáng kể. Cùng với sự vận động của phương thức sản
xuất tư bản chủ nghĩa, mâu thuẫn giữa lực lượng sản xuất và xã hội hoá với
quan hệ sản xuất chật hẹp trong hình thức chế độ sở hữu tư nhân tư bản chủ
nghĩa ngày càng bộc lộ gay gắt.
Về chính trị - xã hội, có thể kể đến những điểm cơ bản như: sự ra đời
và phát triển của giai cấp vô sản hiện đại và mâu thuẫn đối kháng giữa giai
cấp vô sản và tư sản ngày càng tăng; phong trào đấu tranh của công nhân đã
có những bước phát triển đáng kể. Tiêu biểu cho bước phát triển mới đó của
phong trào vô sản là những cuộc khởi nghĩa của công nhân dệt ở thành phố
Li-ông (Pháp) năm 1831, cuộc nổi dậy của công nhân dệt vùng Xi-lê-di (Đức)
năm 1844 và phong trào Hiến chương có quy mô toàn quốc ở Anh kéo dài



suốt mười năm trời (1838-1848). Nhưng tất cả những cuộc khởi nghĩa của
giai cấp công nhân đều bị dìm trong biển máu. Từ những thất bại trong thực
tiễn đấu tranh, giai cấp công nhân buộc phải đi tới chỗ nhận thức về những
điều kiện thực sự của công cuộc giải phóng mình - phải có một chính đảng
lãnh đạo và hệ thống lý luận soi đường.
Một sự kiện chính trị quan trọng phải kể đến là sự ra đời của Liên đoàn
những người cộng sản - tổ chức tiền thân của Đảng cộng sản và yêu cầu bức
thiết phải có một cương lĩnh chính trị làm kim chỉ nam cho hành động cách
mạng, của phong trào vô sản. Vấn đề Cương lĩnh của Liên đoàn được đặt ra
từ Đại hội lần thứ nhất của Liên đoàn vào mùa hè năm 1847 và là vấn đề chủ
yếu trong chương trình nghị sự của Đại hội lần thứ hai của Liên đoàn ngày
29/11/1847. Sau một cuộc thảo luận dài về những dự thảo cương lĩnh trình lên
Đại hội, trong đó có dự thảo "cẩm nang về chủ nghĩa cộng sản" do Hát-xơ
biên soạn và "Những nguyên lý của chủ nghĩa cộng sản" do Ph.Ăngghen biên
soạn cuối cùng, C.Mác và Ph.Ăngghen được Đại hội uỷ thác biên soạn Cương
lĩnh dưới hình thức bản "Tuyên ngôn của Đảng Cộng sản".
Một điểm cần lưu ý khi nói đến điều kiện chính trị - xã hội ra đời của
tác phẩm, là yếu tố về tư tưởng chính trị. Tác phẩm ra đời vào thời điểm quyết
định trong quá trình chuyển biến của chủ nghĩa xã hội khoa học đấu tranh với
các trào lưu tư tưởng lỗi thời và phản động để thâm nhập phong trào công nhân.
Các tư tưởng xã hội chủ nghĩa không tưởng tồn tại và thống trị cho đến
lúc đó đã bộc lộ nhiều hạn chế: không giải thích đúng bản chất của ách bóc lột
tư bản chủ nghĩa, chưa phát hiện ra quy luật phát triển của xã hội đó, chưa
nhìn thấy vai trò, sứ mệnh của giai cấp công nhân trong việc cải tạo xã hội cũ,
xây dựng xã hội mới. Những nhà xã hội chủ nghĩa không tưởng muốn xây
dựng một xã hội mới tốt đẹp, nhưng bằng con đường thuyết phục, giáo dục,
nêu gương, chứ không phải bằng con đường đấu tranh cách mạng, cải biến cách mạng.



Bên cạnh ảnh hưởng của trào lưu tư tưởng xã hội chủ nghĩa không
tưởng, giữa thế kỷ XIX còn có những người xã hội chủ nghĩa tư sản kiểu Lui-Blăng, chủ trương điều hoà tư sản với vô sản, kiểu Pruđông chủ trương xoá
bỏ chế độ tư hữu lớn tư bản chủ nghĩa nhưng duy trì mãi mãi chế độ tư hữu
nhỏ của những người sản xuất. Ngoài ra, lúc này còn có cả những người cộng
sản không tưởng kiểu Vây-tơ-linh. Những người này đang có ảnh hưởng
mạnh trong phong trào vô sản. Tuy họ đã nhận thức được rằng chỉ làm cải
cách chính trị thì không đủ mà phải có một cuộc cải biến xã hội về căn bản,
nhưng thứ chủ nghĩa cộng sản này mới được phác hoạ ra một cách tự phát
theo bản năng chứ chưa có cơ sở khoa học, chưa xuất phát từ sự hiểu biết các
quy luật phát triển của xã hội, chưa thấy rõ nguyên nhân quyết định sự phát
triển của xã hội là phương thức sản xuất của cải vật chất và người đi đầu trong
quá trình sáng tạo ra xã hội mới là giai cấp công nhân.
Do không có cơ sở khoa học và thực tiễn, các trào lưu tư tưởng trên đây
đều trở nên lỗi thời và gây tác động tiêu cực, kìm hãm sự phát triển của phong
trào vô sản. Việc vạch trần những tư tưởng phản động và khẳng định những
quan điểm lý luận khoa học là một yếu tố để "Tuyên ngôn" ra đời.
2 . Yếu tố chủ quan
"Tuyên ngôn của Đảng cộng sản" là kết quả của quá trình trưởng thành
về lập trường, quan điểm, sự thành thục về phương pháp luận là kết quả của
quá trình hoạt động sáng tạo về lý luận và thực tiễn của C.Mác và
Ph.Ăngghen.
Hai ông đã phát huy cao độ vai trò của nhân tố chủ quan, nhờ đó cả hai
đã chuyển biến từ lập trường duy tâm sang lập trường duy vật, từ lập trường
dân chủ cách mạng sang lập trường xã hội chủ nghĩa. Nhân tố chủ quan phải
kể đến ở đây là: sự uyên bác về trí tuệ; lòng trung thành vô hạn với lợi ích của
giai cấp công nhân; sự kiên trì, bền bỉ và sáng tạo trong hoạt động lý luận và


hoạt động thực tiễn; tinh thần kế thừa một cách có phê phán những tri thức

của nhân loại.
Làm cơ sở cho "Tuyên ngôn" là chủ nghĩa duy vật biện chứng và chủ
nghĩa duy vật lịch sử do C.Mác và Ph.Ăngghen đề xướng ra. Đó là kết quả
của một quá trình nghiên cứu và quan sát khoa học hết sức tỉ mỉ và sâu sắc để
đi đến hệ thống hoá và phát triển các quan điểm lý luận đã được các ông đề
cập đến trong các tác phẩm viết trước "Tuyên ngôn" như: "Phê phán triết
học pháp quyền của Hêghen do C.Mác viết năm 1843; "Bản thảo kinh tế triết học" do C.Mác viết năm 1844; "Tình cảnh của giai cấp lao động ở Anh"
do Ph.Ăngghen viết năm 1845; "Gia đình thần thánh" do C.Mác và
Ph.Ăngghen viết chung năm 1845; "Hệ tư tưởng Đức" do hai ông viết năm
1846; "Sự khốn cùng của triết học" do C.Mác viết năm 1847 và "Những
nguyên lý của chủ nghĩa cộng sản" do Ph.Ăngghen viết năm 1847. ở thời
điểm viết Tuyên ngôn là lúc C.Mác và Ph.Ăngghen đã đạt đến trình độ phân
tích và khái quát lý luận cao, đã vận dụng nhuần nhuyễn phép biện chứng duy
vật vào việc xem xét bản chất các quan hệ kinh tế và xã hội, kinh tế và chính trị
của hiện thực xã hội tư sản đương thời, rút ra những kết luận mang tính quy luật
của sự phát triển lịch sử.
Sự thống nhất hữu cơ của tất cả các nhân tố đó và sự thể hiện nó thông
qua thiên tài sáng tạo của C.Mác và Ph.Ăngghen kết hợp với cảm quan nhân
đạo chủ nghĩa của các ông, hướng toàn bộ tư tưởng, tình cảm, niềm tin, ý chí
và hành động vào sự nghiệp giải phóng giai cấp vô sản, giải phóng con người
đã giúp các ông đạt đến đỉnh cao nhận thức khoa học ở thời đại mình.
Giữa tháng Chạp năm 1847, sau khi được Đại hội thứ hai của Liên
đoàn những người cộng sản giao nhiệm vụ biên soạn bản Tuyên ngôn, C.Mác
và Ph.Ăngghen đã đến Bruyxen để cùng viết. Nhưng đến cuối tháng chạp
1847 Ph.Ăngghen phải trở lại Pari dự họp, do đó toàn bộ công việc soạn thảo
bản Tuyên ngôn đều do Mác gánh vác. Cuối tháng giêng 1848, ông đã hoàn
thành việc biên soạn lần cuối tác phẩm này và gửi bản thảo sang Luân đôn


cho BCHTW Liên đoàn những người cộng sản. "US" được BCHTW hoàn

toàn tán thành và được in vào tháng 2 tại một nhà in nhỏ ở Luân đôn.
II - Một số nội dung tư tưởng chính trị chủ yếu
Như đã nói từ đầu, "Tuyên ngôn của Đảng cộng sản" là văn kiện lý
luận chính trị quan trọng nhất của Đảng cộng sản vào giữa thế kỷ XIX, do đó
những nội dung tư tưởng chính trị được thể hiện rõ nét trong tác phẩm này.
Có thể kể đến một số nội dung sau: chính trị, quyền lực chính trị, đấu tranh
chính trị; sứ mệnh lịch sử của giai cấp công nhân, đảng chính trị, vấn đề nhà
nước và nhà nước của giai cấp vô sản. Sau đây chúng ta sẽ lần lượt đề cập đến
từng nội dung nói trên.
1 - Chính trị
Trong lời tựa cho bản tiếng Anh xuất bản năm 1888 "Tuyên ngôn của
Đảng cộng sản", Ph.Ăngghen có viết: "Trong mỗi thời đại lịch sử, phương
thức chủ yếu của sản xuất kinh tế và trao đổi, cùng với cơ cấu xã hội do
phương thức đó quyết định, đã cấu thành cơ sở cho lịch sử chính trị của thời
đại"28. Luận điểm hạt nhân đó xuyên suốt " "Tuyên ngôn" giúp cho chúng ta
thấy rõ nhận thức nhất quán của C.Mác và Ph.Ăngghen về chính trị. Ở đây
chính trị như một thành tố của kiến trúc thượng tầng được quyết định bởi cơ
sở hạ tầng - phương thức sản xuất và cơ cấu xã hội của nó.
Theo quan điểm của C.Mác và Ph.Ăngghen, quan hệ chính trị xuất hiện
như một tất yếu lịch sử trong các xã hội đã phân chia thành giai cấp. Sự xuất
hiện của giai cấp và cùng với nó là sự xuất hiện của Nhà nước đã làm cho
chính trị ra đời. Quan điểm "chính trị gắn liền với giai cấp" ấy được thể hiện
rõ trong "Tuyên ngôn": "Mỗi bước phát triển của giai cấp tư sản đều có một
bước tiến bộ chính trị tương ứng"29. Bước tiến về chính trị ấy của giai cấp tư
sản được thể hiện ở chỗ, giai cấp tư sản từ khi đại công nghiệp và thị trường
thế giới được thiết lập, đã độc chiếm hẳn được quyền thống trị chính trị trong
28
29

C.Mác và Ph.Angghen, Toàn t?p, Nxb CTQG, HN, T. 21, 2002, tr. 523.

C.Mác và Ph.Angghen, Toàn t?p, Nxb CTQG, HN, T. 4, 1995, tr. 598.


nhà nước đại nghị hiện đại. Như vậy, ở đây có thể hiểu chính trị là quan hệ
của các giai cấp và các tầng lớp xã hội đối với nhà nước và chính phủ, là lĩnh
vực quan hệ giữa các giai cấp. Vấn đề chính trị là vấn đề động chạm đến
chính quyền, đến nhà nước.
Chính trị cũng có thể là một chế độ và một hình thức thực hiện quyền
lực của một giai cấp nhất định. Trong "Tuyên ngôn" C.Mác và Ph.Ăngghen
đã cho thấy giai cấp tư sản đập tan xiềng xích của chế độ phong kiến để thiết
lập chế độ xã hội và chính trị thích ứng với sự thống trị kinh tế và chính trị
của giai cấp tư sản**..
Chính trị trong Tuyên ngôn còn được hiểu là những trào lưu tư tưởng
của một giai cấp nhất định. Chẳng hạn, khi phê phán chủ nghĩa xã hội phong
kiến, C.Mác và Ph.Ăngghen có viết: "Trong hoạt động chính trị, họ tích cực
tham gia vào tất cả những biện pháp bạo lực chống giai cấp công nhân" 30.
Trào lưu tư tưởng này mà đại diện của nó là giai cấp quý tộc phong kiến đã
thể hiện thái độ và hành động chống lại giai cấp công nhân. Như vậy rõ ràng
đây là vấn đề quan hệ giữa các giai cấp và vì thế là vấn đề chính trị.
Với quan điểm duy vật biện chứng, C.Mác và Ph.Ăngghen đã nêu rõ
mối quan hệ giữa chính trị và kinh tế. kinh tế quyết định chính trị, vì chính trị
được hình thành trên cơ sở kinh tế: "sản xuất kinh tế và cơ cấu xã hội - cơ cấu
này tất yếu phải do sản xuất kinh tế mà ra, - cả hai cái đó cấu thành cơ sở của
lịch sử chính trị"31. Kinh tế quyết định chính trị còn được thể hiện ở chỗ kẻ
nào nắm được quyền lực kinh tế thì sẽ nắm được quyền lực chính trị. Hay nói
cách khác, kinh tế là biểu hiện tập trung về chính trị. Trong "Tuyên ngôn" có
đoạn: "Giai cấp tư sản ngày càng xoá bỏ tình trạng phân tán về tư liệu sản
xuất, về tài sản và dân sự. Nó tập trung dân cư, tập trung các tư liệu sản xuất,

**


Xem Sđd, tr. 603-604.
Sđd, tr. 631.
31 C.Mác và Ph.Angghen, Toàn t?p, Nxb CTQG, HN, T. 21, 2002, tr. 11.
30


và tích tụ tài sản vào trong tay một số ít người. Kết quả tất nhiên của những
thay đổi ấy là sự tập trung về chính trị"32.
C.Mác và Ph.Ăngghen chỉ rõ rằng, chính trị luôn luôn vận động và
phát triển cùng với sự vận động của kinh tế. Các ông viết: "Lịch sử tư tưởng
chứng minh cái gì nếu không phải là chứng minh rằng sản xuất tinh thần cũng
biến đổi theo sản xuất vật chất? Những tư tưởng thống trị của một thời đại
bao giờ cũng chỉ là những tư tưởng của giai cấp thống trị" 33. Cho nên, muốn
thay đổi về chính trị, thì trước hết phải thay đổi tận gốc về kinh tế.
Phân tích mối quan hệ giữa chính trị và kinh tế, C.Mác và Ph.Ăngghen
cũng chỉ rõ sự tác động của chính trị đối với kinh tế. Các ông cho rằng, chính
trị là phương thức để đoạt được lợi ích kinh tế. Nếu như giai cấp tư sản dùng
sự thống trị chính trị của nó trong nhà nước, dùng chính quyền nhà nước phục
vụ cho lợi ích của nó, từ hệ thống pháp luật đến chính sách thuế khoá tất thảy
đều là phương tiện để tước đoạt lợi ích kinh tế, thì đối với giai cấp vô sản,
chính trị cũng là phương thức để đoạt được lợi ích kinh tế. Tuyên ngôn nói rõ:
"Giai cấp vô sản sẽ dùng sự thống trị chính trị của mình để từng bước một
đoạt lấy toàn bộ tư bản trong tay giai cấp tư sản, để tập trung tất cả những
công cụ sản xuất vào trong tay nhà nước, tức là trong tay giai cấp vô sản đã
được tổ chức thành giai cấp thống trị, và để tăng thật nhanh số lượng những
lực lượng sản xuất"34.
Những luận điểm về chính trị mà C.Mác và Ph.Ăngghen đã đưa ra
trong Tuyên ngôn dựa trên quan điểm duy vật biện chứng và duy vật lịch sử,
cho đến nay vẫn rất có ý nghĩa, giúp chúng ta có cách nhìn nhận và phân tích

đúng đắn, xử lý hợp lý những vấn đề chính trị hiện nay như mối quan hệ giữa
các giai cấp, tầng lớp xã hội, mối quan hệ giữa chính trị và kinh tế, vấn đề
chính trị gắn với lợi ích, các vấn đề quản lý nhà nước v.v...
2 - Quyền lực chính trị
32

C.Mác và Ph.Angghen, Toàn t?p, Nxb CTQG, HN, T. 4, 1995, tr. 602-603.
Sđd, tr. 625
34 Sđd, tr. 626.
33


Như đã nêu ở trên, chính trị là vấn đề gắn với giai cấp và nhà nước.
Quyền lực chính trị do đó cũng là quyền lực của một giai cấp nhất định trong
việc giành, giữ và quản lý nhà nước. Tuyên ngôn cho thấy rằng, cùng với sự
thiết lập thị trường và nền đại công nghiệp, giai cấp tư sản đã nắm giữ quyền
lực chính trị trọn vẹn. Quyền lực chính trị ở đây được hiểu là quyền lực nhà
nước vì nhà nước đó hoàn toàn thuộc về quyền của giai cấp tư sản. C.Mác và
Ph.Ăngghen viết: "Chính quyền quốc gia hiện nay đó chỉ là uỷ ban điều hành
các công việc chung của toàn bộ giai cấp tư sản"35.
Khái niệm về quyền lực chính trị được C.Mác và Ph.Ăngghen nêu rõ
trong Tuyên ngôn: "Quyền lực chính trị theo đúng nghĩa của nó, là bạo lực
có tổ chức của một giai cấp để trấn áp một giai cấp khác" 36. Bạo lực có tổ
chức ấy được thể hiện ra là gì? Đó là một chính phủ thống nhất, một luật pháp
thống nhất, hàng rào thuế quan thống nhất v.v... Một giai cấp có được những
cái đó chỉ khi nó nắm được chính quyền. Đối với giai cấp tư sản cũng vậy, bất
cứ ở chỗ nào mà nó chiếm được chính quyền thì nó đạp đổ những quan hệ
phong kiến, gia trưởng và điền viên, nghĩa là nó đã thực thi quyền lực chính
trị.
Chính vì quyền lực chính trị gắn với việc nắm chính quyền, do đó

Tuyên ngôn cũng chỉ rõ rằng, muốn nắm được quyền lực chính trị thì giai cấp
vô sản phải giành được chính quyền. Cũng vì vậy, vấn đề giành chính quyền
được xác định là mục đích của Đảng cộng sản: "Mục đích trước mắt của
những người cộng sản cũng là mục đích trước mắt của tất cả các đảng vô sản
khác: tổ chức những người vô sản thành giai cấp, lật đổ sự thống trị của giai
cấp tư sản, giai cấp vô sản giành lấy chính quyền"37.
Tuy nhiên, sẽ không bền vững nếu quyền lực chính trị không gắn với
quyền lực kinh tế, vì quyền lực kinh tế quyết định quyền lực chính trị. kẻ nào
nắm được quyền lực kinh tế thì sẽ nắm được quyền lực chính trị. tư liệu sản
35

Sđd, tr. 599.
Sđd, tr. 628.
37 Sđd, tr. 615.
36


xuất và tài sản tập trung vào tay ai thì quyền lực chính trị cũng tập trung vào
đấy. Luận điểm này trong Tuyên ngôn thể hiện rất rõ và thực tế hiện nay ở
các nước tư bản chủ nghĩa cũng chứng minh điều đó. Đồng thời, Tuyên ngôn
cũng cho thấy rằng quyền lực chính trị tác động, chi phối quyền lực kinh tế.
Giai cấp thống trị dùng công cụ quyền lực của mình để phục vụ cho lợi ích
kinh tế, củng cố quyền lực kinh tế của giai cấp mình. C.Mác và Ph.Ăngghen
viết: "Giai cấp vô sản sẽ dùng sự thống trị chính trị của mình để từng bước
một đoạt lấy toàn bộ tư bản trong tay giai cấp tư sản, để tập trung tất cả những
công cụ sản xuất vào trong tay nhà nước... và để tăng thật nhanh số lượng
những lực lượng sản xuất"38.
Các quan sát về hệ thống chính trị ở các nước tư bản chủ nghĩa hiện
nay cho thấy, dù đảng nào chi phối chính phủ, các chính sách của nó đều nhất
quán trong việc bảo vệ các lợi ích kinh tế của giới tư bản. Trong các giai đoạn

khủng hoảng kinh tế, nhà nước sẵn sàng gạt bỏ các xem xét về việc làm và
phúc lợi xã hội, sẵn sàng hy sinh quyền lợi của người lao động với chiêu bài
phục hưng nền kinh tế quốc dân vì lợi ích "quốc gia".
Nhiều nhà nghiên cứu cho rằng, nền chính trị Mỹ bị chi phối một cách
căn bản bởi khoảng 7000 nhân vật. Đó là các chủ nhà băng, chủ các công ty
lớn, những người nắm giữ các tổ hợp công nghiệp, các tổ hợp truyền thông
đại chúng khổng lồ.
Còn trên thế giới như một tổng thể thì có thể nói rằng, có một hệ thống
tinh vi và hùng mạnh được dựng lên để kiểm soát nền kinh tế thế giới. Các
nước trong nhóm G7 (Mỹ, Nhật, Đức, Pháp, Italia, Anh, Canada) gặp nhau
hàng năm để phối hợp các chính sách kinh tế và đặt ra mục tiêu phát triển.
Thông qua tổng số phiếu bầu của mình, 7 nước này kiểm soát các tổ chức
quốc tế quan trọng nhất về kinh tế: Ngân hàng thế giới (WB), Quỹ tiền tệ
quốc tế (IMF), Uỷ ban tài trợ phát triển (DAC thuộc OECD), và Tổ chức
thương mại thế giới (WTO). Các nước này thiết lập và điều hành một hệ
38

Sđd, tr. 626.


thống tổ chức không phải để các nước chậm phát triển trở thành phát triển, mà
là để bảo vệ vị trí thống trị cũng như các đầu tư của mình trên thế giới.
Như vậy, những luận điểm của C.Mác và Ph.Ăngghen về quyền lực
chính trị và nhất là về mối quan hệ giữa quyền lực chính trị và quyền lực kinh
tế thể hiện trong Tuyên ngôn, cho đến nay vẫn còn đúng và không thể phủ
nhận được. Mặc dầu, so với trước đây, những hình thức thể hiện của nó có vẻ
phong phú hơn, tinh vi hơn, song về bản chất không thể khác được.
Khi nghiên cứu về quyền lực chính trị, cũng cần lưu ý đến một luận
điểm nữa trong Tuyên ngôn. Đó là luận điểm nói về sự mất đi tính chất chính
trị của quyền lực công cộng khi đối kháng giai cấp không còn nữa. C.Mác và

Ph.Ăngghen viết: "Khi những đối kháng giai cấp đã mất đi trong tiến trình
của sự phát triển và toàn bộ sản xuất đã tập trung trong tay những cá nhân đã
liên hợp lại với nhau thì quyền lực công cộng cũng mất tính chất chính trị của
nó"39. Dĩ nhiên, luận điểm đó hoàn toàn mang tính nguyên tắc và phù hợp với
lôgích của khái niệm quyền lực chính trị mà C.Mác và Ph.Ăngghen đã nêu ở
trên: quyền lực chính trị là bạo lực có tổ chức của một giai cấp để trấn áp một
giai cấp khác. Do đó khi đối kháng giai cấp không còn nữa thì bạo lực ấy
cũng không cần thiết nữa.
3 - Đấu tranh chính trị
Khái niệm về đấu tranh chính trị đã được C.Mác và Ph.Ăngghen nêu rõ
trong Tuyên ngôn: "Bất cứ cuộc đấu tranh giai cấp nào cũng là một cuộc đấu
tranh chính trị"40.
Như vậy, về thực chất, đấu tranh chính trị là đấu tranh giai cấp. Điều
này đã được Ph.Ăngghen khẳng định trong một tác phẩm khác mà ông đã viết
về sau: "Tất cả cuộc đấu tranh chính trị đều là đấu tranh giai cấp"41.

39

Sđd, tr. 628.
Sđd, tr. 608.
41 C.Mác và Ph.Angghen, Toàn t?p, Nxb CTQG, HN, T. 21, 2002, tr. 441.
40


Đấu tranh giai cấp, hay đấu tranh chính trị là một chủ đề lớn xuyên suốt
tác phẩm Tuyên ngôn. Với chủ đề này trong Tuyên ngôn, C.Mác và
Ph.Ăngghen không chỉ phân tích cuộc đấu tranh giữa giai cấp vô sản và giai
cấp tư sản, mà ở mức độ cao hơn, các ông đã khái quát nâng lên thành lý luận
về đấu tranh chính trị, nêu rõ khái niệm và những đặc điểm của nó. Theo các
ông, đấu tranh chính trị có những đặc điểm sau đây:

Đặc điểm thứ nhất: đấu tranh chính trị xuyên suốt lịch sử xã hội có
giai cấp và là một trong những động lực thúc đẩy sự phát triển của xã hội.
C.Mác và Ph.Ăngghen khẳng định: "Lịch sử tất cả các xã hội từ trước đến nay
chỉ là lịch sử đấu tranh giai cấp" 42. Với nhận định đó, Tuyên ngôn đã đưa ra
nguyên lý về đấu tranh giai cấp như là một nguyên lý phổ biến, là đặc trưng
và là động lực thúc đẩy những biến đổi xã hội trong các xã hội đã phân chia
thành giai cấp.
Đặc điểm thứ hai: đấu tranh chính trị là cuộc đấu tranh mang tính chất
quyết liệt giữa hai giai cấp đối kháng và "bao giờ cũng kết thúc hoặc bằng
một cuộc cải tạo cách mạng toàn bộ xã hội, hoặc bằng sự diệt vong của hai
giai cấp đấu tranh với nhau" 43. Luận giải cho điều đó, Tuyên ngôn đã phân
tích quá trình phát triển của cuộc đấu tranh chính trị giữa giai cấp vô sản và tư
sản, tính chất triệt để của nó, đồng thời khẳng định niềm tin chắc chắn rằng sự
sụp đổ của giai cấp tư sản và thắng lợi của giai cấp vô sản là tất yếu như nhau.
Đặc điểm thứ ba: đấu tranh chính trị giữa giai cấp vô sản và tư sản là
cuộc đấu tranh có tổ chức, có sự lãnh đạo của Đảng. Trong Tuyên ngôn
C.Mác và Ph.Ăngghen đã chỉ rõ rằng, từ thực tiễn đấu tranh, những người vô
sản bắt đầu liên hiệp lại và đi đến thành lập các đoàn thể chuẩn bị trước cho
những cuộc đấu tranh. Sự tổ chức ấy của những người vô sản tạo điều kiện
cho sự ra đời của chính đảng vô sản. Tuyên ngôn có đoạn: "Sự tổ chức như
vậy của những người vô sản thành giai cấp và do đó thành chính đảng, luôn
42
43

C.Mác và Ph.Angghen, Toàn t?p, Nxb CTQG, HN, T. 4, 1995, tr. 596.
Sđd, tr. 596.


luôn bị sự cạnh tranh giữa công nhân với nhau phá vỡ. Nhưng nó luôn luôn
được tái lập và luôn luôn mạnh mẽ hơn, vững chắc hơn, hùng mạnh hơn" 44

.Như vậy, sự lãnh đạo của chính đảng vô sản là cần thiết khách quan. Nó đánh
dấu bước trưởng thành của phong trào vô sản từ tự phát đến tự giác, hướng
cuộc đấu tranh theo lý tưởng chính trị nhất định, là điều kiện để bảo đảm cho
thắng lợi của giai cấp vô sản.
Đặc điểm thứ tư: đấu tranh chính trị là đấu tranh có mục đích rõ ràng:
giành, giữ chính quyền. Chính vì vậy, Tuyên ngôn đã xác định rõ mục đích
trước mắt của những người cộng sản trong cuộc đấu tranh chống giai cấp tư
sản là giành lấy chính quyền.
Đặc điểm thứ năm: đấu tranh chính trị về thực chất là nhằm giải
phóng về kinh tế. Tuyên ngôn cho thấy rằng, việc giai cấp tư sản lật đổ sự
thống trị của giai cấp phong kiến là nhằm thiết lập quan hệ sản xuất tư bản
chủ nghĩa, tạo ra lực lượng sản xuất mới. Cũng như vậy, nếu giai cấp vô sản
thông qua con đường cách mạng mà trở thành giai cấp thống trị, thì nó sẽ
dùng bạo lực tiêu diệt những quan hệ sản xuất cũ, xây dựng quan hệ sản xuất
mới, tạo điều kiện cho lực lượng sản xuất phát triển. Quan điểm này về sau
được Ph.Ăngghen khái quát lại: "Bất cứ cuộc đấu tranh giai cấp nào cũng đều
là đấu tranh chính trị,- xét đến cùng, đều xoay quanh vấn đề giải phóng về
kinh tế"45.
Đặc điểm thứ sáu: đấu tranh chính trị còn là đấu tranh giữa các ý thức
hệ, được tiến hành thường xuyên và liên tục. Vì chính trị là vấn đề quan hệ
giữa các giai cấp, do đó đấu tranh chính trị còn được diễn ra trên lĩnh vực tư
tưởng, giữa các hệ tư tưởng của các giai cấp đối kháng. C.Mác và
Ph.Ăngghen cũng xác định rõ nhiệm vụ đấu tranh tư tưởng đối với Đảng cộng
sản: "Không một phút nào Đảng cộng sản lại quên giáo dục cho công nhân
một ý thức hết sức sáng rõ về sự đối kháng kịch liệt giữa giai cấp tư sản và
44
45

Sđd, tr. 609.
C.Mác và Ph.Angghen, Toàn t?p, Nxb CTQG, HN, T. 21, 2002, tr. 441.



giai cấp vô sản, để khi có thời cơ thì công nhân Đức biết sử dụng những điều
kiện chính trị và xã hội do sự thống trị của giai cấp tư sản tạo ra, như là vũ khí
chống lại giai cấp tư sản"46. Luận điểm này trong Tuyên ngôn cho đến nay
vẫn còn rất có ý nghĩa. Thực tiễn cho thấy rằng cuộc đấu tranh trên mặt trận
tư tưởng vẫn diễn ra hằng ngày hằng giờ ở bất cứ nơi nào trên thế giới. Cuộc
đấu tranh chống "diễn biến hoà bình" ở nước ta là một bằng chứng cho thấy
tính chất phức tạp của cuộc đấu tranh này. Cho nên, trong các văn kiện nghị
quyết, Đảng Cộng sản Việt Nam đều coi công tác tư tưởng - lý luận là một
nhiệm vụ quan trọng của Đảng.
Khi nghiên cứu vấn đề đấu tranh chính trị trong tác phẩm Tuyên ngôn
của Đảng cộng sản, cũng cần lưu ý một luận điểm nữa về cuộc đấu tranh giữa
giai cấp vô sản và giai cấp tư sản. C.Mác và Ph.Ăngghen cho rằng, cuộc đấu
tranh này sẽ dẫn tới giải phóng giai cấp, giải phóng con người. Trong cuộc
đấu tranh này, giai cấp vô sản sẽ trở thành giai cấp thống trị, tiêu diệt những
quan hệ sản xuất tư bản chủ nghĩa, đồng thời nó cũng tiêu diệt luôn cả những
điều kiện tồn tại của sự đối kháng giai cấp, tiêu diệt các giai cấp nói chung và
cũng do đấy, tiêu diệt cả sự thống trị của chính nó với tư cách là một giai cấp.
4 - Sứ mệnh lịch sử của giai cấp công nhân
Việc phát hiện ra sứ mệnh lịch sử của giai cấp công nhân là một bước
tiến quan trọng trong lý luận chính trị thời bấy giờ và đây là một luận thuyết
quan trọng của chủ nghĩa xã hội khoa học mà C.Mác và Ph.Ăngghen đã đưa
ra. Trong khi các trào lưu tư tưởng chính trị khác không nhìn thấy vai trò của
giai cấp công nhân, "không nhận thấy ở giai cấp vô sản một tính chủ động
lịch sử nào, một cuộc vận động chính trị nào của bản thân giai cấp vô sản cả"
thì lần đầu tiên, trong "Tuyên ngôn của Đảng cộng sản" C.Mác và
Ph.Ăngghen đã luận chứng một cách khoa học về sứ mệnh lịch sử của giai
cấp công nhân và tuyên bố đây là lực lượng đào huyệt chôn giai cấp tư sản,
xoá bỏ xã hội cũ, xây dựng một xã hội mới, xã hội cộng sản chủ nghĩa. Mặc

46

Sđd, t.4, tr. 645.


dầu ý kiến cho rằng việc giải phóng giai cấp công nhân phải là sự nghiệp của
bản thân giai cấp công nhân đã được C.Mác và Ph.Ăngghen nêu lên trong một
loạt tác phẩm của hai ông, bắt đầu từ những năm 40 của thế kỷ XIX song ở
"Tuyên ngôn", tư tưởng này được thể hiện ở dạng cô đúc, mang tầm khái quát
lý luận cao. Trong Lời tựa cho bản tiếng Anh xuất bản năm 1888,
Ph.Ăngghen đã nhận định rằng, tư tưởng đó ắt phải đánh dấu một bước tiến
trong khoa học lịch sử, giống như học thuyết của Đác-uyn trong sinh vật học.
Nội dung sứ mệnh lịch sử của giai cấp công nhân bao gồm:
Một là, lật đổ giai cấp tư sản, tổ chức thành giai cấp thống trị: "Giai
cấp vô sản thiết lập sự thống trị của mình bằng cách dùng bạo lực lật đổ giai
cấp tư sản"47 .
Hai là, xoá bỏ xã hội cũ, xây dựng xã hội mới: "Những người vô sản
chẳng có gì là của mình để bảo vệ cả, họ phải phá huỷ hết thảy những cái gì,
từ trước đến nay, vẫn bảo đảm và bảo vệ chế độ tư hữu" và "làm nổ tung toàn
bộ cái thượng tầng kiến trúc bao gồm những tầng lớp cấu thành xã hội quan
phương"48.
Ba là, giải phóng toàn xã hội khỏi ách áp bức, bóc lột. "Giai cấp vô sản
không còn có thể tự giải phóng khỏi ách của giai cấp bóc lột và áp bức mình,
tức là giai cấp tư sản, nếu không đồng thời và vĩnh viễn giải phóng toàn xã
hội khỏi ách bóc lột, áp bức khỏi tình trạng phân chia giai cấp và đấu tranh
giai cấp"49.
Trong "Tuyên ngôn" cũng nêu rõ rằng, con đường để thực hiện sứ
mệnh lịch sử đó là bạo lực cách mạng.
Tuyên ngôn cũng lý giải những đặc điểm quy định sứ mệnh lịch sử của
giai cấp công nhân. Sở dĩ giai cấp công nhân có được sứ mệnh lịch sử đó là

do địa vị xã hội, điều kiện sinh hoạt và bản chất cách mạng của nó quy định.
47

Sđd, t.4, tr. 612.
Sđd, tr. 611.
49 Sđd, t.21, tr. 523
48


Về địa vị, giai cấp công nhân là những người công nhân làm thuê hiện
đại (không có tư liệu sản xuất và phải bán sức lao động của mình để sống) và
chiếm số đông trong xã hội. về điều kiện sinh hoạt, vì là những người bị bóc
lột, bị áp bức, do đó điều kiện sinh hoạt của giai cấp công nhân hết sức thấp
kém. Về bản chất giai cấp, đây là giai cấp tiên tiến, đại biểu cho xu hướng
tiến lên của đại công nghiệp. Hơn ai hết, họ là những người được rèn luyện về
tính kỷ luật, có tri thức nhất định, có ý thức chính trị và vì thế "trong tất cả
các giai cấp hiện đang đối lập với giai cấp tư sản thì chỉ có giai cấp vô sản là
giai cấp thực sự cách mạng"50.
Để làm nổi rõ bản chất cách mạng của giai cấp công nhân, C.Mác và
Ph.Ăngghen đã đưa các giai cấp khác ra so sánh. Chẳng hạn: Các tầng lớp
trung đẳng là những nhà tiểu công nghiệp, tiểu thương, thợ thủ công và nông
dân, tất cả đều đấu tranh chống giai cấp tư sản để cứu lấy sự sống còn của họ
với tính cách là những tầng lớp trung đẳng. Do địa vị xã hội của mình nên họ
không có tính cách mạng mà có tính bảo thủ. Đôi khi họ lại còn trở thành
phản động: họ tìm cách làm cho bánh xe lịch sử quay ngược trở lại; còn tầng
lớp vô sản lưu manh, cái sản phẩm tiêu cực ấy của sự thối rữa của những tầng
lớp bên dưới nhất trong xã hội cũ, thì đây đó, có thể được cách mạng vô sản
lôi cuốn vào phong trào, nhưng điều kiện sinh hoạt của họ lại khiến họ sẵn
sàng bán mình cho những mưu đồ của phe phản động.
Trong khi đó, những người vô sản chẳng có gì là của mình để bảo vệ

cả, họ phải phá huỷ hết thảy những cái gì, từ trước đến nay, vẫn bảo đảm và
bảo vệ chế độ tư hữu. Trong cuộc đấu tranh với giai cấp tư sản, họ chẳng có
gì để mất, ngoài xiềng xích áp bức bóc lột của giai cấp tư sản.
Tuyên ngôn khẳng định rằng sứ mệnh lịch sử của giai cấp công nhân tất
yếu sẽ được hoàn thành và điều kiện để nó hoàn thành sứ mệnh đó là có Đảng
lãnh đạo.
50

Sđd, t.4, tr. 605.


5 - Đảng chính trị
Những luận điểm về đảng đã được C.Mác và Ph.Ăngghen trình bày rải
rác ở nhiều tác phẩm, chẳng hạn như "Vấn đề nông dân ở Pháp và Đức", "Chủ
nghĩa xã hội ở Đức", "Bàn về quyền uy" v.v...Nhưng với Tuyên ngôn, thì đây
là lần đầu tiên những luận điểm ấy được các ông khái quát thành lý luận.
Khái niệm về đảng trong Tuyên ngôn được hiểu như sau: Đảng là đội
tiên phong, là bộ phận giác ngộ nhất của giai cấp vô sản. C.Mác và
Ph.Ăngghen nêu rõ: "Về mặt thực tiễn, những người cộng sản là bộ phận kiên
quyết nhất trong các đảng công nhân ở tất cả các nước, là bộ phận luôn thúc
đẩy phong trào tiến lên, về mặt lý luận, họ hơn bộ phận còn lại của giai cấp vô
sản ở chỗ là họ hiểu rõ những điều kiện, tiến trình và kết quả chung của
phong trào vô sản"51.
Sự hình thành của Đảng bắt nguồn từ sự liên hiệp của những người vô
sản thành các đoàn thể, chuẩn bị cho những cuộc đấu tranh. Sự tổ chức ấy của
những người vô sản tạo điều kiện cho sự ra đời của chính đảng vô sản. Tuyên
ngôn cho rằng, sự ra đời của chính Đảng vô sản là một tất yếu khách quan
phù hợp với quy luật đấu tranh giai cấp giữa vô sản và tư sản: "Sự tổ chức
như vậy của những người vô sản thành giai cấp và do đó thành chính đảng,
luôn luôn bị sự cạnh tranh giữa công nhân với nhau phá vỡ. Nhưng nó luôn

luôn được tái lập và luôn luôn mạnh mẽ hơn, vững chắc hơn, hùng mạnh
hơn"52.
Nghiên cứu về đảng, cũng cần nắm vững những đặc điểm của nó mà
C.Mác và Ph.Ăngghen đã đúc kết lại trong Tuyên ngôn. Có thể kể đến những
đặc điểm sau:
- Đảng mang tính giai cấp, đại diện cho lợi ích của giai cấp: "Những
người cộng sản không phải là một đảng riêng biệt, đối lập với các đảng công

51
52

Sđd, t.4, tr. 614.
Sđd, t.4, tr. 609


nhân khác. Họ tuyệt nhiên không có một lợi ích nào khác tách khỏi lợi ích của
toàn thể giai cấp vô sản"53.
- Đảng là tổ chức có mục đích, nhiệm vụ rõ ràng. Tuyên ngôn tuyên bố
rằng, mục đích trước mắt của tất cả các đảng vô sản là lật đổ sự thống trị của
giai cấp tư sản, và giành lấy chính quyền.
- Đảng có lý luận soi đường cho hoạt động của mình. Lý luận đó không
phải là giáo điều mà là những nguyên lý được khái quát từ kinh nghiệm thực
tiễn. C.Mác và Ph.Ăngghen viết: "Những người cộng sản có thể tóm tắt lý
luận của mình thành một luận điểm duy nhất này là: xoá bỏ chế độ tư hữu"54.
- Đảng có cương lĩnh chính trị, có chiến lược, sách lược cách mạng.
Tuyên ngôn tuyên bố rằng, đã đến lúc những người cộng sản phải công khai
trình bày trước toàn thế giới những quan điểm, mục đích, ý đồ của mình và
phải có một Tuyên ngôn của đảng của mình. "Tuyên ngôn của Đảng cộng
sản" chính là cương lĩnh chính trị của đảng vô sản, trong đó trình bày quan
điểm, mục đích, nhiệm vụ, chiến lược và sách lược của Đảng.

Lý luận về đảng trong Tuyên ngôn còn bao gồm những nguyên tắc xây
dựng đảng.
Tuyên ngôn thể hiện rõ nguyên tắc tổ chức Đảng là: Đảng cộng sản
được xây dựng từ đội ngũ đảng viên là những người vô sản cách mạng nhất cả
trong hành động và trong nhận thức. Tuân thủ nguyên tắc này mới đảm bảo
cho Đảng trở thành đội tiên phong của giai cấp công nhân. Trong sinh hoạt
đảng, đảng tuân thủ các nguyên tắc phê bình và tự phê bình, nguyên tắc công
khai. C.Mác và Ph.Ăngghen cho rằng, cần phê phán những lời nói suông và
những ảo tưởng trong nhận thức. Đồng thời, các ông quan niệm rằng "những
người cộng sản coi là điều đáng khinh bỉ nếu giấu giếm những quan điểm và
ý định của mình"55.
53

Sđd, t.4, tr. 614.
Sđd, t.4, tr. 616.
55 Sđd, t.4, tr. 646.
54


Đoàn kết quốc tế vô sản cũng là một nguyên tắc trong xây dựng Đảng.
Tuyên ngôn tuyên bố rằng, những người cộng sản ở mọi nơi đều phấn đấu
cho sự đoàn kết và liên hợp của các đảng dân chủ ở tất cả các nước. Nguyên
tắc này được C.Mác và Ph.Ăngghen cô đúc lại thành khẩu hiệu "vô sản tất cả
các nước đoàn kết lại".
6 - Vấn đề nhà nước và nhà nước của giai cấp vô sản
Vấn đề nhà nước đã được C.Mác và Ph.Ăngghen đề cập đến trong
nhiều tác phẩm như "Hệ tư tưởng Đức" (viết trước Tuyên ngôn) và "Nguồn
gốc của gia đình của chế độ tư hữu và của Nhà nước" (do Ph.Ăngghen viết
năm 1884). Theo C.Mác và Ph.Ăngghen, nhà nước nảy sinh ra từ nhu cầu
kiềm chế những sự đối kháng giai cấp và đồng thời cũng nảy sinh ra giữa

cuộc xung đột của các giai cấp ấy, cho nên nhà nước là của giai cấp có thế lực
nhất, của giai cấp thống trị. Khái niệm nhà nước như là tổ chức quyền lực
chính trị đặc biệt của giai cấp thống trị đã được thể hiện ở ngay từ tác phẩm
"Hệ tư tưởng Đức", đó là "hình thức mà các cá nhân thuộc một giai cấp thống
trị dùng để thực hiện lợi ích chung của họ"56. Đến "Tuyên ngôn của Đảng
cộng sản", vấn đề nguồn gốc, bản chất, chức năng của nhà nước lại được
C.Mác và Ph.Ăngghen làm sáng rõ trên cơ sở thế giới quan duy vật biện
chứng và duy vật lịch sử.
Nhà nước tư sản ra đời cũng là sản phẩm của mâu thuẫn đối kháng giữa
giai cấp tư sản và phong kiến. Bản chất giai cấp của nhà nước tư sản được
C.Mác và Ph.Ăngghen chỉ rõ: "Chính quyền nhà nước hiện đại chỉ là một uỷ
ban quản lý những công việc chung của toàn thể giai cấp tư sản" 57. Giai cấp tư
sản sử dụng nhà nước của mình làm công cụ đạp đổ các quan hệ phong kiến,
gia trưởng. Nó thay chế độ bóc lột thời nô lệ và phong kiến được che đậy
bằng tôn giáo và chính trị bằng chế độ bóc lột "công nhiên, vô sỉ, trực tiếp tàn
nhẫn". Như vậy, về thực chất, Nhà tư sản làm chức năng là công cụ thống trị
56
57

Sđd, t.3, CTQG, 1995, tr. 90.
Sđd, t.4, tr. 599.


xã hội và là cơ quan trấn áp của riêng giai cấp tư sản. Ngoài ra, khi bàn đến
chức năng của nhà nước nói chung, cũng cần lưu ý đến chức năng xã hội của
nó. C.Mác và Ph.Ăngghen cho rằng, muốn áp bức một giai cấp nào đó thì cần
phải bảo đảm cho giai cấp ấy những điều kiện sinh sống khiến cho họ, chí ít,
cũng có thể sống được trong vòng nô lệ. Cho nên giai cấp thống trị chỉ bảo vệ
được địa vị thống trị của mình chừng nào nó biết thực hiện các chức năng xã
hội. Luận điểm này thể hiện rõ ở cuối chương I của Tuyên ngôn.

Việc tiếp cận vấn đề nhà nước từ cơ sở kinh tế và đưa nội dung giai cấp
vào khái niệm nhà nước và pháp quyền trong Tuyên ngôn đã làm cho vấn đề
nhà nước trở nên hiện thực hơn. Nhà nước không phải là một quyền lực từ
bên ngoài áp đặt vào xã hội, nó càng không phải là cái hiện thực của ý niệm
đạo đức, hay hình ảnh và hiện thực của lý tính như quan điểm của Hê ghen.
Tính hiện thực của nhà nước chỉ có thể bảo đảm trước hết bằng nội dung kinh
tế. Điều dó được thể hiện rõ qua phân tích của C.Mác và Ph.Ăngghen rằng
giai cấp tư sản ngày càng xoá bỏ tình trạng phân tán về tư liệu sản xuất, về tài
sản và dân cư. Nó tụ tập dân cư, tập trung các tư liệu sản xuất, và tích tụ tài
sản vào trong tay một số ít người. Kết quả tất nhiên của những thay đổi ấy là
sự tập trung về chính trị. Nội dung kinh tế và tính chất giai cấp đã quy định
những đặc trưng của nhà nước tư sản: "một dân tộc thống nhất, có một chính
phủ thống nhất, một luật pháp thống nhất, một lợi ích dân tộc thống nhất
mang tính giai cấp và một hàng rào thuế quan thống nhất"58
Một trong những đặc trưng của nhà nước là pháp luật. Khi nói về pháp
quyền tư sản, C.Mác và Ph.Ăngghen viết: "pháp quyền của các ông chỉ là ý
chí của các ông được đề lên thành luật pháp, cái ý chí mà nội dung là do
những điều kiện sinh hoạt vật chất của giai cấp các ông quyết định"59.
Như vậy, Tuyên ngôn cho thấy rằng nhà nước và pháp luật là những
hiện tượng xã hội đồng thời xuất hiện, đều có bản chất giai cấp và cho điều
58
59

Sđd, t.4, tr. 603.
Sđd, t.4, tr. 619.


kiện sinh hoạt vật chất quyết định, đều là công cụ thực hiện quyền lực chính
trị của giai cấp thống trị. Quan điểm duy vật lịch sử ấy về vấn đề nhà nước và
pháp luật luôn nhất quán và nổi rõ trong Tuyên ngôn.

Nếu như vấn đề nhà nước đã được C.Mác và Ph.Ăngghen đề cập đến từ
những tác phẩm trước Tuyên ngôn và được các ông phát triển lên ở Tuyên
ngôn, thì vấn đề nhà nước của giai cấp vô sản lại là một vấn đề mới. Có thể
nói, vấn đề này được đặt ra như là một kết quả tất yếu của cuộc đấu tranh giai
cấp giữa vô sản và tư sản, vì mục đích của cuộc đấu tranh này là giành chính
quyền. Chỉ có nắm được chính quyền thì giai cấp vô sản mới tổ chức thực thi
quyền lực chính trị của mình được. Khi bàn về khái niệm nhà nước của giai
cấp vô sản, V.I.Lênin cho rằng một trong những định nghĩa rất hay về nó là ở
tác phẩm ""Tuyên ngôn của Đảng cộng sản". Trong tác phẩm này, nhà nước
của giai cấp vô sản có thể được hiểu là nhà nước trong đó giai cấp vô sản đã
được tổ chức thành giai cấp thống trị và đại diện cho lợi ích của đa số những
người lao động. Tuyên ngôn chỉ rõ: "Giai cấp vô sản sẽ dùng sự thống trị
chính trị của mình để từng bước một đoạt lấy toàn bộ tư bản trong tay giai cấp
tư sản, để tập trung tất cả những công cụ sản xuất vào trong tay nhà nước, tức
là trong tay giai cấp vô sản đã được tổ chức thành giai cấp thống trị..." 60. ở
đây, khi nói đén "dùng sự thống trị chính trị của mình" tức là nói đến việc giai
cấp vô sản cầm quyền đứng ra thành lập bộ máy nhà nước đại diện cho lợi ích
của giai cấp mình, chứ không phải chỉ đơn thuần là sử dụng bộ máy nhà nước
sẵn có và bắt nó hoạt động phục vụ mình. Điều này đã được Ph.Ăngghen nói
rõ trong "Lời tựa cho bản tiếng Anh xuất bản năm 1888 "Tuyên ngôn của
Đảng cộng sản": "giai cấp công nhân không thể chỉ nắm lấy bộ máy nhà nước
sẵn có và bắt nó hoạt động phục vụ mình" 61. Giai cấp vô sản sẽ điều hành nhà
nước trong mọi lĩnh vực kinh tế - xã hội, văn hoá - giáo dục để phục vụ cho
lợi ích của mình. Tuyên ngôn cũng nêu 10 biện pháp mà nhà nước của giai
cấp vô sản ở những nước tiên tiến có thể áp dụng.
60
61

Sđd, t.4, tr. 626.
Sđd, t.21, tr. 524-525.



Dù mới chỉ là những nét phác thảo, nhưng Tuyên ngôn cũng cho thấy
rõ tính ưu việt của nhà nước của giai cấp vô sản là ở tính nhân văn của nó,
một nhà nước vì con người "sự phát triển tự do của mỗi người là điều kiện
cho sự phát triển tự do của tất cả mọi người"62
III – Ý nghĩa của tác phẩm.
Với tính chất là cương lĩnh chính trị của Đảng, "Tuyên ngôn của Đảng
cộng sản" có một ý nghĩa hết sức to lớn cả về mặt lý luận và trong việc chỉ
đạo thực tiễn đối với các Đảng cộng sản và phong trào cách mạng của giai
cấp vô sản trên toàn thế giới. Đánh giá về tác phẩm này, V.I.Lênin viết:
"Cuốn sách nhỏ ấy có giá trị bằng hàng bộ sách: tinh thần của nó, đến bây
giờ, vẫn cổ vũ và thúc đẩy toàn thể giai cấp vô sản có tổ chức và đang chiến
đấu của thế giới văn minh"63.
Với ý nghĩa là cương lĩnh chính trị của giai cấp vô sản, "Tuyên ngôn" đã
nêu rõ quan điểm, mục đích, chiến lược và sách lược của Đảng cộng sản chỉ
ra tiến trình cách mạng của giai cấp vô sản, những nhiệm vụ, biện pháp mà
giai cấp vô sản cần áp dụng để đạt được mục đích cuối cùng - giải phóng vĩnh
viễn xã hội khỏi ách áp bức, bóc lột, khỏi sự phân chia giai cấp và đấu tranh
giai cấp, đem lại tự do vĩnh viễn cho con người. "Tuyên ngôn" đã trang bị về
lý luận cách mạng cho giai cấp vô sản, trang bị thế giới quan cách mạng,
phương pháp tư duy biện chứng duy vật cho giai cấp vô sản, giúp cho giai cấp
vô sản tránh được tình trạng mò mẫm và tính chất tự phát trong tiến trình cách
mạng của giai cấp mình.
Ý nghĩa chỉ đạo thực tiễn của "Tuyên ngôn" với tính chất là cương lĩnh
chính trị của giai cấp vô sản được thể hiện ở chỗ, sau khi "Tuyên ngôn" ra
đời, nó đã được dịch và in ra nhiều thứ tiếng, tái bản nhiều lần và phổ biến
rộng rãi trong công nhân tất cả các nước. Nó đã cổ vũ tinh thần đoàn kết quốc
tế của giai cấp vô sản trên toàn thế giới trong công cuộc đấu tranh giải phóng
giai cấp.

62
63

Sđd, t.4, tr. 628.
V.I.Lênin, Toàn t?p, Nxb TB, M., T.2, 1974, tr. 10.


Những nguyên lý trình bày trong "Tuyên ngôn" đã được vận dụng và
kiểm nghiệm trong thực tiễn qua Công xã Pari, Cách mạng tháng Mười và các
phong trào cách mạng của giai cấp vô sản trên toàn thế giới.
157 năm đã trôi qua kể từ khi Tuyên ngôn của đảng cộng sản ra đời.
Trong khoảng thời gian ấy rất nhiều biến đổi to lớn đã diễn ra trên thế giới.
Thực tiễn thời đại ngày nay khẳng định sự đúng đắn của các nguyên lý cơ bản
mà Mác, Ăngghen đã nêu trong Tuyên ngôn đồng thời đòi hỏi vận dụng các
nguyên lý đó với tinh thần sáng tạo phù hợp với hoàn cảnh mới.
1. Về chủ nghĩa tư bản.
- Trải qua thêm một thế kỷ rưỡi phát triển của chủ nghĩa tư bản kể từ khi
Tuyên ngôn ra đời đến nay người ta vẫn thấy sự phân tích về sự phát sinh, phát
triển và dự báo về vận mệnh của giai cấp tư sản và của chủ nghĩa tư bản mà
Mác và Ăngghen nêu ra trong Tuyên ngôn là đúng đắn. Theo đó, giai cấp tư
sản đã ra đời từ những tầng lớp dân cư thành thị, thể hiện nhu cầu phát triển
của lực lượng sản xuất đòi được giải phóng khỏi sự kìm hãm của quan hệ sản
xuất phong kiến. Chính vì thế, giai cấp tư sản đã từng đóng vai trò là giai cấp
tiến bộ, cách mạng và trong thời kỳ đầu mà nó thống trị đã “tạo ra những lực
lượng sản xuất nhiều hơn và đồ sộ hơn lực lượng sản xuất của tất cả các thế hệ
trước kia gộp lại”64. Chủ nghĩa tư bản đã được nhìn nhận trên quan điểm tiến
hoá lịch sử như là nấc thang tất yếu mà những thành tựu do nó tạo ra sẽ là
những tiền đề không thể thiếu cho các nấc thang tiếp theo của sự phát triển xã
hội.
Nhưng cũng lại chính ở mức độ mà lực lượng sản xuất đạt tới trong thời

đại thống trị của giai cấp tư sản, quan hệ sản xuất dựa trên chế độ chiếm hữu
tư nhân tư bản chủ nghĩa trở nên không còn thích hợp nữa. Lực lượng sản
xuất “trở thành quá mạnh đối với quan hệ sở hữu…, các quan hệ sở hữu lúc
đó đang cản trở sự phát triển của nó”.65

64
65

Mác -Ăngghen: Toan t?p, NXB Chính tr? qu?c gia, H., 1995. Tr 603.
Sđd. Tr 604.


Khủng hoảng sản xuất thừa, thất nghiệp, kéo theo hàng loạt hiện tượng
suy thoái là những dấu hiệu đầu tiên và sẽ trở thành cố hữu chứng tỏ sự lỗi
thời của quan hệ sản xuất tư bản, sự bất lực của giai cấp tư sản…
Giống như các xã hội trước nó, chủ nghĩa tư bản tạo nên những nhân tố
phủ định bản thân nó. Bước chuyển tiếp sang một giai đoạn lịch sử mới được
chuẩn bị tiền đề ngay trong lòng chủ nghĩa tư bản. Chính sự tiến bộ xã hội
làm xuất hiện nhu cầu khách quan chuyển giao vai trò quản lý xã hội từ giai
cấp tư sản sang một giai cấp mới - giai cấp vô sản.
Chủ nghĩa tư bản hiện đại vẫn là chủ nghĩa tư bản nên mâu thuẫn cơ bản
của nó vẫn là mâu thuẫn chung cho chủ nghĩa tư bản: mâu thuẫn giữa tính
chất xã hội của lực lượng sản xuất và chế độ chiếm hữu tư nhân tư bản chủ
nghĩa. Cũng vẫn như trước đây, ngày nay mâu thuẫn giữa tính chất xã hội của
lực lượng sản xuất với chế độ chiếm hữu tư nhân tư bản chủ nghĩa luôn biểu
hiện thành mâu thuẫn xã hội - mâu thuẫn giữa giai cấp vô sản với giai cấp tư
sản. Ngày nay, cơ cấu xã hội - giai cấp của xã hội tư bản hiện đại phức tạp
hơn trước đây nhiều, sự phân công lao động trong xã hội tư bản hiện đại tạo
ra rất nhiều ngành nghề mới với sự phân tầng xã hội phức tạp, các ngành nghề
đó không hoàn toàn biệt lập với nhau mà lại đan xen chằng chịt vào nhau.

Tuy thế, các trục cơ bản của sự vận động giai cấp - xã hội của xã hội tư bản
vẫn là mối quan hệ giữa lao động và tư bản. Đại bộ phận dân cư của xã hội
hiện đại là lao động làm thuê hoặc là cho các hãng tư bản hoặc là cho nhà nước tư sản. Đối diện với khối nhân dân lao động trí óc và chân tay đông đảo
là giai cấp các nhà tư sản, giai cấp này cũng phân tầng theo một cách mới, có
thể không hoàn toàn giống với hồi đầu thế kỷ. Tuy nhiên, họ vẫn là một giai
cấp thống trị, là giới chủ trong xã hội, có vai trò chi phối nhà nước phục vụ
chủ yếu cho lợi ích của mình.
Mối quan hệ giữa lao động và tư bản về bản chất mang tính chất đối
kháng. Giai cấp tư sản cầm quyền hiểu rất rõ điều này và một trong những
hướng chủ yếu trong chính sách xã hội của các đảng và nhà nước tư sản là xả


van an toàn, tháo ngòi nổ cho các đối kháng xã hội, không để các mâu thuẫn
dẫn đến xung đột xã hội, tạo ra một sự ổn định xã hội tương đối cho trật tự tư
bản chủ nghĩa. Tận dụng được cuộc cách mạng khoa học và công nghệ hiện
đại và do những nguyên nhân khác nữa, chủ nghĩa tư bản đã có những thành
tựu đáng kể trong sự phát triển kinh tế - xã hội, đã giải quyết được ở mức độ
nhất định vấn đề việc làm và thu nhập cho người lao động. Người lao động
dưới chủ nghĩa tư bản vẫn bị bóc lột, và nếu xét theo tỷ xuất giá trị thặng dư
thì còn nặng nề hơn trước, nhưng đời sống vật chất và tinh thần của họ cũng
đã được cải thiện đáng kể so với trước đây; sự tha hoá lao động là điều đau
khổ nhất đối với người lao động mà Mác đã chỉ ra và phân tích ngay cả trong
các tác phẩm trước Tuyên ngôn của Đảng cộng sản đặc biệt trong tác phẩm
"Bản thảo kinh tế - Triết học 1844" thì nay đã bớt đi phần nào những biểu
hiện tàn bạo, phi nhân tính, phản nhân đạo của nó, nhưng về căn bản không
hề mất đi trong chế độ tư bản chủ nghĩa.
Trong chế độ tư bản hiện đại vẫn diễn ra các cuộc khủng hoảng kinh tế
chu kỳ. Hơn nữa, so với các cuộc đại khủng hoảng rất điển hình trong các
năm 1929 - 1933, các cuộc khủng hoảng trong nửa sau thế kỷ XX có chu kỳ
rút ngằn hơn. Từ những năm 70 trở lại đây, chủ nghĩa tư bản đã trải qua 5 lần

khủng hoảng kinh tế thế giới 1957 - 1958; 1965 - 1967; 1973 -1974; 1979
-1982; 1990 -1991;
Ngoài khủng hoảng kinh tế chu kỳ, trong chủ nghĩa tư bản hiện đại còn
tồn tại song song loại khủng hoảng kinh tế cơ cấu. Khủng hoảng kinh tế cơ
cấu là những sự mất cân đối nghiêm trọng của nền kinh tế do các nhân tố
không có tính chất chu kỳ tạo ra như khủng hoảng năng lượng, nguyên liệu
(giá tăng vọt) khủng hoảng tài chính, tiền tệ thế giới, khủng hoảng tín dụng,
nợ nần quốc tế, lạm phát mang tính thế giới…
Như vậy, mặc dù có những thay đổi so với giai đoạn trước đây, chủ
nghĩa tư bản vẫn giữ nguyên bản chất của nó. Mọi mâu thuẫn cơ bản vẫn tồn
tại nguyên vẹn trong xã hội tư bản và mỗi bước phát triển của chủ nghĩa tư


×