Tải bản đầy đủ (.doc) (37 trang)

tieu luan các chuyên đề thông tin đối ngoại đối NGOẠI CÔNG CHÚNG của LIÊN BANG NGA dưới THỜI TỔNG THỐNG v PUTIN (2000 2008)

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (350.67 KB, 37 trang )

KHOA QUAN HỆ QUỐC TẾ

TIỂU LUẬN
MÔN: CÁC CHUYÊN ĐỀ THÔNG TIN ĐỐI NGOẠI

Đề tài:
ĐỐI NGOẠI CÔNG CHÚNG CỦA LIÊN BANG NGA DƯỚI
THỜI TỔNG THỐNG V. PUTIN (2000 - 2008)

HÀ NỘI – 07/1/2013

MỞ ĐẦU
1


1.

Tính cấp thiết của đề tài

Liên bang Nga vốn là một chủ thể kế thừa địa vị của Liên bang Xô Viết
trên trường quốc tế. Tuy nhiên sau thời gian Xô Viết sụp đổ, nước Nga lâm
vào tình trạng khủng hoảng, hỗn loạn về kinh tế và xã hội, bên cạnh đó tình
hình chính trị cũng rất phức tạp kể cả về đối nội và đối ngoại.
Trước tình hình như vậy, ngày 7 – 05 – 2000 ông Vladimir
Vladimirovich Putin lên nắm quyền tổng thống thay cho ông B. Yeltsin. Từ
đây nước Nga bắt đầu vào một giai đoạn khôi phục và phát triển ổn định. Các
chính sách đối nội và đối ngoại của tổng thống V. Putin được dựa trên cơ sở
đảm bảo các điều kiện thuận lợi để phát triển nước Nga nhưng cũng đồng thời
phù hợp với tình hình mới của thế giới.
Trong chính sách đối ngoại vào giai đoạn này, Nga hướng giữ vững quan
hệ của mình tới khối các nước SNG, sau đó là phương Tây, khu vực Châu Á –


Thái Bình Dương và các nước, khu vực khác trên thế giới. Bên cạnh các hoạt
động ngoại giao mang tính chính thức giữa chính phủ Nga với chính phủ các
nước, thì trong giai đoạn này Nga cũng đã bắt đầu đẩy mạnh triển khai và
phát huy hiệu quả của hoạt động đối ngoại công chúng. Điều đó đồng nghĩa
với việc, những hoạt động ngoại giao của Liên bang Nga không còn bó hẹp
trong phạm vi của các lĩnh vực như chính trị hay kinh tế mà đã mở rộng sang
văn hóa, giáo dục, truyền thông, ... cùng với một số lượng công chúng nước
ngoài đông đảo và đa dạng hơn. Nhằm mục đích thay đổi những quan điểm
tiêu cực về nước Nga trong mắt của những công dân nước ngoài trong đó đặc
biệt là các nước phương Tây, các hoạt động đối ngoại công chúng của Nga đã
phần nào làm khác đi những nhìn nhận không khách quan vốn cố định trong
tư tưởng của rất nhiều người.
Hiệu quả từ việc sử dụng hoạt động ngoại giao công chúng cũng như các
chính sách đối ngoại và đối nội hợp lý đã đưa Nga phát triển bền vững về
kinh tế, ổn định về chính trị đồng thời Nga đóng vai trò quan trọng trong việc
đảm bảo cho an ninh quốc tế và giải quyết các vấn đề toàn cầu.
Chính vì điều đó mà không ai có thể phủ nhận được tầm quan trọng của
ông Putin trong việc định hình nước Nga hiện đại. Ngày 7 – 05 – 2012, ông
2


V. Putin lại một lần nữa quay trở lại trong vai trò người lãnh đạo cao nhất của
Liên bang Nga với chiến thắng ngoạn mục trong cuộc bầu cử vừa mới đây, đó
là minh chứng cho sự tín nhiệm của người dân Nga đối với nhà lãnh đạo này.
Trong khuôn khổ của tiểu luận này, tác giả xin phép được tìm hiểu
những nội dung chính trong chính sách đối ngoại, trình bày về các hoạt động
đối ngoại của Liên bang Nga dưới thời tổng thống Nga V. Putin trong hai
nhiệm kỳ từ 2000 – 2008 và đưa ra đánh giá về những hoạt động đó.
2.


Tình hình nghiên cứu

Đề tài nghiên cứu dựa trên những tin tức, đánh giá, tổng hợp về chính
sách cũng như hoạt động đối ngoại công chúng của Liên bang Nga dưới thời
tổng thống Vladimir Vladimirovich Putin. Qua đó để thấy được những sự
thay đổi trong chính sách đối ngoại của tổng thống V. Putin đã mang lại
những kết quả như thế nào đối với nước Nga và tầm ảnh hưởng của nước Nga
với những quốc gia khác, và một số khu vực trên thế giới đồng thời là vị thế
của Nga trên trường quốc tế.
Ông Putin được Tổng thống Yeltsin bổ nhiệm làm Thủ tướng ngày
9/8/1999. Khi ông Yeltsin từ chức, ông Putin trở thành tổng thống lâm
thời.Trong cuộc bầu cử tháng 3/2000, ông Putin vượt qua 10 ứng cử viên để
trở thành tổng thống thứ hai của Liên bang Nga thời kỳ hậu Xô Viết.
Khi ông Putin nhậm chức Tổng thống Nga vào năm 2000, nước Nga khi
đó đang ở bên bờ vực của sự sụp đổ. Sau khi Liên Xô tan rã năm 1991, nước
Nga chìm trong những cuộc xung đột, những cú sốc tài chính và cảnh nghèo
đói xuất hiện khắp nước Nga. Cuộc khủng hoảng ở Nga đã leo đến đỉnh điểm
năm 1998 khi đồng rúp sụp đổ và nước Nga buộc phải chấp nhận sự cứu giúp
của Quỹ Tiền tệ quốc tế. Đó là cái nhìn bao quát về một nước Nga mà ông
Putin tiếp quản năm 2000.
Nhiệm vụ của tân Tổng thống Putin lúc đó là phải vực dậy nước Nga mà
phương Tây xem là sắp biến mất trên bản đồ thế giới. Nhờ hiểu rõ nước Nga,
khả năng lãnh đạo tài tình cùng tầm nhìn sắc sảo, Tổng thống Putin đã đưa
một nước Nga hỗn loạn trở về sự ổn định.
3


Để đạt được điều đó, Tổng thống Putin đã có 2 quyết sách mạnh tay
nhưng rất đúng đắn. Thứ nhất là việc chấm dứt đặc quyền đặc lợi và sự
lộng hành của các “lãnh chúa”, các nhà tài phiệt đã phất lên dưới thời

Tổng thống Boris Yelsin nhờ sự tư nhân hoá ồ ạt các ngành công nghiệp,
kinh tế. Thứ hai là, Tổng thống Putin đã áp dụng “bàn tay sắt”, không
nhân nhượng, đàm phán trong cuộc chiến chống lại bọn khủng bố và ly
khai. Kết quả là Nga đã giành chiến thắng trong cuộc chiến này, góp phần
vào sự thống nhất, ổn định của quốc gia.
Những thành tựu và công lao mà ông Putin mang lại cho nước Nga đó
chính là đưa nước Nga trở lại chính trường thế giới với vị thế của một cường
quốc mạnh, dám đối đầu với cả những nước như Mỹ, Anh... Nga đã tham gia
vào giải quyết các vấn đề lớn của toàn cầu với tiếng nói riêng rất có trọng
lượng. Bản thân Thủ tướng Tony Blair đã phải công nhận: "nước Nga dưới
thời Putin đã mạnh lên rất nhiều, khiến thế giới phải tính đến phản ứng của họ
trong mọi vấn đề, dù là vấn đề nhỏ nhất".
Sự tín nhiệm đối với người dân Nga đối với ông Putin một lần nữa được
hoàn toàn khẳng định khi mà trong cuộc bầu cử tổng thống của Liên bang
Nga năm 2012, ông Putin đã đắc cử, và một lần nữa trở lại điện Kremli với
cương vị tổng thống. Điều này đã cho thấy sức ảnh hưởng rất to lớn của V.
Putin đối với nước Nga, với những gì ông Putin đã làm được trong suốt hai
nhiệm kì tổng thống từ 2000 – 2008 là sự đảm bảo xứng đáng đối với niềm tin
của người dân Nga đối với ông.
Sự thay đổi đường lối đối ngoại linh hoạt, mở rộng nhưng cũng rất cứng
rắn và giữ vững lập trường trong nhiệm kỳ tổng thống từ 2000 – 2008 của ông
Putin đã đóng góp một phần cơ bản trong việc hồi phục lại và xây dựng một
nước nước Nga lớn mạnh trên trường quốc tế.

3.

Mục đích và nhiệm vụ nghiên cứu

3.1.


Mục đích
4


Trong phạm vi nghiên cứu nội dung đề tài này, tác giả mong muốn sẽ
đưa ra những nội dung chính trong chính sách đối ngoại của Liên bang Nga
dưới thời tổng thống Putin nói chung và những hoạt động đối ngoại công
chúng trong suốt khoảng thời gian 2 nhiệm kỳ tổng thống của ông Putin từ
2000 – 2008 nói riêng. Và từ đó là kết quả do những chính sách và hoạt động
đối ngoại đó góp phần mang lại đối với Liên bang Nga, quan hệ cũng như ảnh
hưởng của nước Nga với một số quốc gia và khu vực trên thế giới.
3.2.

Nhiệm vụ

Để thực hiện được mục đích đề ra, công tác nghiên cứu cần làm tốt
những nhiệm vụ:
- Tìm hiểu về chính sách đối ngoại nói chung và những hoạt động đối
ngoại công chúng của Liên bang Nga dưới thời tổng thống V. Putin trong
khoảng thời gian 2 nhiệm kỳ từ 2000 – 2008.
- Đánh giá về hiệu quả do chính sách đối ngoại của tổng thống Putin
mang lại.
- Những ảnh hưởng và tác động của chính sách đó mang lại cho Liên
bang Nga cũng như quan hệ ngoại giao của Nga với các nước khác trên thế
giới.
4.

Đối tượng và phạm vi nghiên cứu

Đối tượng và phạm vi nghiên cứu của đề tài là chính sách đối ngoại và

hoạt động đối ngoại công chúng trong khoảng thời gian từ 2000 – 2008.
5.

Phương pháp nghiên cứu

Tổng hợp, phân tích, so sánh, đối chiếu lý luận và thực tiễn được tổng
hợp, tra cứu, tìm kiếm từ các nguồn tài liệu: giáo trình, sách, báo, mạng
internet.

CHƯƠNG 1: NHỮNG VẤN ĐỀ LÝ LUẬN CHUNG VỀ ĐỀ TÀI
1.

Khái niệm đối ngoại công chúng
5


Đối ngoại công chúng là một khái niệm rộng, có những điểm chung và
khác biệt với một số khái niệm thường được dùng trong nghiên cứu về đối
ngoại và quan hệ quốc tế. Cách hiểu gần nhất và phổ biến nhất là đồng nhất
với khái niệm đối ngoại nhân dân hay ngoại giao nhân dân (people to people
diplomacy).Chủ thể của hoạt động đối ngoại này có thể là: Nhà nước, Chính
phủ, các tổ chức thuộc chính phủ, tổ chức phi chính phủ, ...
Tuy nhiên, đối tượng hướng tới của đối ngoại công chúng rất rộng lớn và
đa dạng, những thành phần đó bao gồm: các tổ chức nhân dân, các thành phần
của xã hội dân sự; các tổ chức phi chính phủ, các tổ chức quốc tế; các cá
nhân, đặc biệt là những người có vai trò quan trọng, có ảnh hưởng xã hội lớn
ở các nước, ...
Hơn nữa, lĩnh vực hoạt động của đối ngoại công chúng rộng khắp, bao
gồm tất cả các lĩnh vực: quan hệ chính trị, quan hệ kinh tế, quan hệ văn hóa.
Đối ngoại công chúng luôn được thực hiện đồng bộ, kết hợp chặt chẽ với đối

ngoại chính thức để tạo sức mạnh tổng hợp. Đối ngoại công chúng mang tính
đại chúng, rộng rãi, không bị gò bó vào các lễ nghi, quy định chặt chẽ. Do
vậy, đối ngoại công chúng vừa có tiếng nói chính thức vừa không chính thức,
có thể tiến hành mềm dẻo, linh hoạt và trong nhiều trường hợp đạt hiệu quả
nhanh hơn, tốt hơn so với các hình thức đối ngoại chính thức.
2.

Khái quát đặc điểm, tự nhiên, xã hội của Liên bang Nga

Liên bang Nga có tên gọi cũ là Liên Xô thuộc Trung Đông và Trung Á,
thủ đô là Matxcova (10 triệu dân), là một nước đông dân khoảng 141.927.279
(con số ước lượng đến năm 2010). Liên bang Nga là một xã hội đa sắc tộc đa
dạng, là nơi sinh sống của 160 nhóm sắc tộc và người bản xứ khác nhau. Do
Nga nằm cả ở hai châu lục, lại là một nước đông dân trên thế giới nên Nga
được chia ra thành nhiều cấp hành chính khác nhau, Nga là một nước Liên
bang, tính đến thời điểm tháng 1 năm 2008 Nga có 83 chủ thể. Tất cả các chủ
thể liên bang được hợp thành 7 vùng liên bang, mỗi vùng do một đặc phái
viên được Tổng thống Nga bổ nhiệm quản lý. Các chủ thể liên bang được coi
6


là đơn vị hành chính cấp thứ hai, dưới cấp thứ nhất là liên bang. Nga sử dụng
đơn vị tiền tệ là đồng Ruble, đặc biệt ở nước Nga tồn tại nhiều tôn giáo, điều
đó thể hiện tự do tín ngưỡng ở Nga rất được quan tâm và phát triển, tuy nhiên
tôn giáo chính là đạo Chính thống, ngoài ra còn có Thiên Chúa giá, Do thái,
đạo Hồi, Phật giáo, ...
2.1.

Địa lý


- Vị trí địa lý: Nằm trải dài trên phần phía Bắc của lục địa Á – Âu, tiếp
giáp với 2 đại dương là Bắc Băng Dương và Thái Bình Dương. Liên bang
Nga cso đường biên giới xấp xỉ chiều dài Xích đạo, trải dài trên 11 múi giờ,
giáp đất liền với 14 quốc gia (từ đông sang tây): Bắc Triều Tiên, Trung Quốc,
Mông Cổ, Kazakhstan, Azerbaijan, Gruzia, Ukraine, Belarus, Latvia, Estonia,
Phần Lan, Na Uy.
- Phần tách rời là tỉnh Kaliningrad, tình này có chung biên giới với Ba
Lan (phía nam tỉnh này), Litva (bắc và đông của tỉnh này)
- Diện tích: 17.075.400 km2, rộng lớn nhất thế giới.
- Địa hình: Liên bang Nga chủ yếu là bình nguyên chiếm một diện tích
lớn, có sự khác nhau giữa Đông và Tây, lấy sông Yenisei làm ranh gió. Lãnh
thổ Liên bang Nga gồm hai phần. Phần thuộc châu Âu là bộ phận trung tâm
đồng bằng Đông Âu, phần thuộc châu Á gồm 3 khu vực: Tây Siberia, cao
nguyên Trung Siberia và miền núi Đông Siberia.
Phía Tây nước Nga là: Bình nguyên Đông Âu, miền đất cổ, ổn định, có
nhiều khả năng phát triển nông nghiệp, vùng tập trung dân cư, kinh tế văn
hóa, khoa học; Bình nguyên Tây Siberia (Đông dãy Uran tới Tây Yenisei)
phía Nam có nhiều rặng núi cao.
Phía Đông: Đông Siberia chủ yếu là cao nguyên và núi, nhiều khoán sản
và rừng, nhưng địa hình phức tạp, khi khai thác cải tạo rất tốn kém.
Liên bang Nga có nhiều sông, có chiều dài vào loại lớn trên thế giới. Với
hơn 2 triệu dòng sông, các sông lớn có giá trị giao thông là: Obi, Yenisei,
Lena, Amur, Volga, ... hồ Baikal là hồ sâu và lâu đời nhất thế giới (độ sâu
7


nhất là 1.673m) chiếm 80% trữ lượng nước của các hồ lớn nhỏ, các sông hệ
này là nguồn cung cấp nước cho các bể chứa của các nhà máy thủy điện
Bratsco, Vongagrat. Quibisep, Ximiliasco. Phần lớn sông hồ tập trung ở
Siberia, Viễn Đông, ít có nhu cầu sử dụng nước, vùng cần nhiều nước lại ít

sông như đồng bằng Đông Âu. Uran.
- Khí hậu: Mặc dù có nhiều biển và đại dương bao quanh, nhưng do vụ
trí địa lý, do lãnh thổ rộng lớn nên Nga chủ yếu có khí hậy ôn đới lục địa.
Phần phía bắc của Nga có khí hậu hàn đới và ven biển Đen có khí hậu cận
nhiệt đới.
Các thành phố ở miền Nam, miền Tây và miền Tây Nam nước Nga có
khí hậu dễ chịu, nền nhiệt độ trung bình +23.6 độ C, mùa đông -5.3 độ C.
Mùa đông ở Nga chỉ kéo dài từ 2 đến 4 tháng tùy theo vùng (không nói
đến vùng cực Bắc). Còn thời tiết vào mùa hè và mùa thu không quá nóng nực.
- Tài nguyên: Nga là nước giàu có về tài nguyên khoáng sản (trữ lượng
và số lượng: nhiên liệu, năng lượng thủy điện, quặng kim loại và phi kim loại,
ruộng, đất nông nghiệp, ...) – một trong những nước đứng đầu thế giới.
Năng lượng – nhiên liệu có một vai trò quan trọng hàng đầu gồm: than
đá (trữ lượng 7.000 tấn), dầu (trữ lượng 60 tỷ tấn), kim loại màu, kim loại
đen, vàng, kim cương, niken, bauxite trữ lượng lớn. Diện tích rừng
747.000.000ha, trữ lượng gỗ 80 tỷ m³. Tiềm năng thủy điện 400.000.000 kw
có khả năng sản xuất hàng ngàn tỷ kw điện hàng năm.
Tài nguyên đất nông nghiệp: quỹ đất 2,2 tỷ ha, 227.000.000 ha đất trồng
trọt, 373.500.000 ha đồng cỏ.
Tài nguyên dưới nước khá phong phú: cá và hải sản, riêng vùng biển
phía đông chiếm tới ¼ sản lượng, Nga có ngành công nghiệp đánh bắt, chế
biến hải sản phát triển mạnh.
Việc săn bắn thú có lông quý đóng vai trò quan trọng trong nền kinh tế.
Hàng năm có thể cung cấp từ hàng trăn bộ lông thú quý hiếm – một trong
những nước hàng đầu thế giới.
8


(Quảng trường Đỏ)


Phân bổ phần lớn tài nguyên khoán sản nằm ở vùng Đông Siberia: than,
sắt, nhôm, kim cương, rừng. Tây Siberia: dầu mỏ, khí tự nhiên. Dãy Uran:
than, sắt, kim loại màu. Vùng Đông Âu ít khoáng sản, nhưng có khả năng
phát triển nông nghiệp và các ngành công nghiệp nhẹ, công nghiệp đòi hỏi
hàm lượng khoa học cao.
Tất cả các nguồn tài nguyên trên là cơ sở thuận lợi để phát triển các ngành
công nghiệp năng lượng, luyện kim, hóa chất, chế tạo máy, chế biến gỗ.
2.2.

Thể chế chính trị

Liên bang Nga theo thể chế cộng hòa liên bang gồm 89 chủ thể Liên
bang – các tỉnh, vùng, thành phố trực thuộc Liên bang và các nước cộng hòa
tự trị. Liên bang Nga có 20 nước cộng hòa tự trị và vùng tự trị có quyền tự
quyết ở mức độ khác nhau theo các điều khoản của Hiệp ước Liên bang Nga.
Đứng đầu nhà nước là Tổng thống được bầu theo phổ thông đầu phiếu
với nhiệm kỳ sáu năm (được tham gia tranh cử nhiệm kỳ hai nhưng bị hiến
pháp cấm cầm quyền ba nhiệm kỳ liên tiếp). Điều hành trực tiếp công việc
của chính phủ là Thủ tướng và các Phó Thủ tướng do Tổng thống bổ nhiệm
được Đuma Quốc gia thông qua.
Cơ quan lập pháp của Nga gồm hai viện là Đuma Quốc gia và Hội đồng
Liên bang. Đuma Quốc gia gồm 450 đại biểu, một nửa số đại biểu được bầu
theo địa phương, một nửa còn lại được bầu theo danh sách các đảng được lựa
chọn thông qua bầu cử phổ thông đầu phiếu. Hội đồng Liên bang gồm 178
9


thành viên là người đứng đầu bộ máy hành pháp và lập pháp của cơ quan tư
pháp gồm Tòa án Hiến pháp, Tòa án Tối cao, Tòa án Trọng tài cấp cao. Các
thẩm phán của các Tòa án trên được Hồi đồng Liên bang bổ nhiệm suốt đời

dựa trên khuyến nghị của Tổng thống.
2.3.

Tiểu sử tổng thống Nga Vladimir Vladimirovich Putin

Vladimir Vladimirovich Putin sinh ngày 7 tháng 10 năm 1952 tại tại
thành phố Lêningrad (nay là Saint Peterburg), là một chính trị gia người
Nga và là cựu Thủ tướng của Liên bang Nga, là Tổng thống Nga từ 26 tháng
3 năm 2000 cho đến 7 tháng 5 năm 2008 và từ 8/5/2012. Ông đảm nhiệm
chức vụ này thể theo hiến pháp từ ngày 31 tháng 12 năm 1999 sau khi nguyên
tổng thống Boris Nikolayevich Yeltsin từ chức.

(Tổng thống Nga V. Putin)

1975: Tốt nghiệp Khoa Luật trường Đại học Tổng hợp Quốc gia
Leningrad. Sau đó theo sự phân công của tổ chức, ông vào làm việc tại cơ
quan an ninh quốc gia, thường được biết đến với tên gọi Ủy ban an ninh quốc
gia – tên viết tắt là KGB.
1985-1990: Làm việc tại Cộng hòa Dân chủ Đức.
1990: Trợ lý về các vấn đề quốc tế cho Hiệu trưởng trường Đại học
Tổng hợp Quốc gia Lêningrad Sovchak. Sau khi ông Sovchak trở thành Chủ
tịch Hội đồng Thành phố Lêningrad, Putin đã chuyển sang làm cố vấn cho
ông.
10


Từ tháng 6/1991: Chủ tịch Ủy ban Quan hệ đối ngoại của Thị trưởng
thành phố Saint Peterburg.
Từ tháng 8/1996: Phó phòng Điều hành công việc của Tổng thống Liên
bang Nga.

Từ tháng 3/1997: Phó Chánh văn phòng Văn phòng Tổng thống Liên
bang Nga, Cục trưởng Cục kiểm tra của Tổng thống Liên bang Nga.
Từ tháng 3/1998: Phó Chánh văn phòng thứ nhất Văn phòng Tổng thống
Liên bang Nga.
Từ tháng 7/1998: Giám đốc Cơ quan An ninh liên bang (FSB) của Nga.
Đồng thời từ tháng 3/1999 là Thư ký Hội đồng An ninh của Liên bang Nga.
Từ tháng 8/1999: Thủ tướng Chính phủ Liên bang Nga.
Ngày 31/12/1999: Quyền Tổng thống Liên bang Nga.
Ngày 26/3/2000: Tổng thống Liên bang Nga.
Lễ nhậm chức của Tổng thống Putin diễn ra vào ngày 7/5/2000.
Ngày 14/3/2004: Thắng cử Tổng thống Liên bang Nga nhiệm kỳ thứ hai.
Ngày 7/5/2012: Tuyên cử nhậm chức Tổng thống Liên bang Nga với
nhiệm kỳ kéo dài 6 năm
Trên cương vị Tổng thống Nga, ông Putin còn giữ các chức vụ và trọng
trách khác: Tổng Tham mưu Trưởng các lực lượng vũ trang, Chủ tịch Hội
Đồng Nhà nước.
Tổng thống Putin đạt học vị Phó tiến sĩ Kinh tế, sử dụng thành thạo tiếng
Đức và tiếng Anh.

CHƯƠNG 2: CHÍNH SÁCH ĐỐI NGOẠI VÀ HOẠT ĐỘNG ĐỐI
NGOẠI CÔNG CHÚNG CỦA LIÊN BANG NGA (2000 – 2008)
1.

Tình hình nước Nga từ khi Liên Xô tan ra đến trước khi

Vladimir Vladimirovich Putin nhậm chức tổng thống.
11


Tháng 12 – 1991, M. Gorbachev từ chức, Liên Xô tan rã, Liên bang Nga

thành một chủ thể độc lập kế thừa địa vị pháp lý của Liên Xô trên trường
quốc tế. Boris Yeltsin lên làm Tổng thống Nga trong bối cảnh hết sức khó
khăn, phức tạp cả về chính trị, kinh tế, xã hội, cũng như đối nội và đối ngoại.
Suốt 9 năm làm Tổng thống Nga, B. Yeltsin đã chuyển xã hội Nga từ mô
hình kinh tế - xã hội tập trung bao cấp sang mô hình kinh tế - xã hội thị
trường tự do. Yeltsin đã phải đối đầu với nhiều chấn động, khủng hoảng, hỗ
loạn cả kinh tế và xã hội.
Đây cũng là quá trình nước Nga chịu nhiều thử thách để hình thành một
chính sách đối ngoại mới: phải từ bỏ chính sách đối ngoại siêu cường của
Liên Xô để hình thành chính sách đối ngoại phù hợp với thực lực hiện tại của
Nga. Chính sách mới này cố gắng tối đa để giữ cho Nga có uy thế toàn cầu,
tranh thủ được nguồn lực và sự hợp tác quốc tế để phát triển kinh tế Nga, giữ
cho vùng ngoại biên láng giềng của Nga không đối đầu với Nga, không lệ
thuộc vào Mỹ.
2.

Chính sách đối ngoại Tổng thống V. Putin khi lên nắm quyền

2.1.

Về học thuyết đối ngoại mới của Tổng thống V. Putin

Sau khi nhậm chức tổng thống của Liên bang Nga, Putin đã bắt đầu đẩy
mạnh các cuộc gặp gỡ và thảo luận với hầu hết các nhà lãnh đạo cộng đồng
các quốc gia độc lập SNG. Điện Kremli tích cực chuẩn bị cho chuyến thăm
Matxcowva của tổng thống Mỹ Bill Clinton và chuyến công du dài ngày của
Tổng thống Nga tới các nước Tây Âu. Đồng thời với những công việc đó là
việc soạn thảo học thuyết đối ngoại mới của Liên bang Nga.
Nước Nga không đặt cho mình bất cứ một nhiệm vụ toàn cầu nào, lại
càng không phải là nhiệm vụ ý thức hệ của một siêu cường. Học thuyết mới

của Nga là học thuyết về một hệ thống quan hệ quốc tế đa cực phản ánh một
cách thực tế tính nhiều mặt của thế giới hiện đại và sự đa dạng quyền lợi của
nó. Vị trí của nước Nga trên thế giới được xác định không chỉ là một quốc gia
12


Châu Âu mà là một cường quốc Á – Âu vĩ đại, chịu trách nhiệm duy trì an
ninh trên thế giới cả ở qui mô toàn cầu và qui mô khu vực.
2.2.

Chính sách đối ngoại của Nga từ góc độ các văn bản đã được

công bố
Văn bản đầu tiên – “Chiến lược an ninh quốc gia Nga” (10-01-2000) đã
xác định rõ: chiến lược an ninh quốc gia Liên bang Nga là hệ thống các quan
điểm chính trị cơ bản trong chính sách của Nhà nước Liên bang Nga về đảm
bảo an ninh cho cá nhân, xã hội và nhà nước, bảo vệ đất nước trước những
mối đe dọa từ bên trong và bên ngoài trong mọi lĩnh vực của cuộc sống.
Chiến lược này bao gồm những đường hướng quan trọng nhất trong chính
sách của nhà nước Liên bang Nga.
Chiến lược này xác định vị trí của nước Nga trong cộng đồng thế giới,
các lợi ích quốc gia của Nga, các nguy cơ và những biện pháp cụ thể để đảm
bảo an ninh quốc gia Nga.
So với “Học thuyết an ninh quốc gia của Liên bang Nga” (1997), chiến
lược này có những thay đổi quan trọng. Nó nhấn mạnh các nguy cơ trong
nước đang đe dọa nước an ninh quốc Nga. Trong các nguy cơ đó, tình trạng
kinh tế sa sút , suy giảm nặng nề là nguy cơ hàng đầu đối với anh ninh quốc
gia. Ngoài ra, sự thiếu hoàn thiện của bộ máy chính quyền; sự phân hóa về
kinh tế, chính trị, xã hội; sự gia tăng tội phạm có tổ chức; chủ nghĩa dân tộc
và tôn giáo cực đoan cũng được coi là những nguy cơ lớn đối với an ninh

quốc gia Nga.
Từ việc xác định những nguy cơ bên trong và bên ngoài như vậy, Chiến
lược đề ra những nhiệm vụ chủ yếu nhằm bảo đảm an ninh quốc gia cho nước
Nga trước thềm thế kỷ XXI. Trong các nhiệm vụ đó, nhiệm vụ đối ngoại hàng
đầu là dự đoán và phát hiện kịp thời các mối đe dọa từ bên ngoài và bên trong
đối với an ninh quốc gia của Nga, trên cơ sở đó sẽ xem xét sử dụng có hiệu
quả các bện pháp cần thiết để ngăn chặn và vô hiệu hóa các mối đe dọa này.
13


Bảo đảm anh ninh quốc gia và lợi ích của Nga trong lĩnh vực kinh tế và đấu
tranh chống chủ nghĩa khủng bố được coi là ưu tiên hàng đầu.
Một trong những văn kiện có ý nghĩa quan trọng nhất và là bước tiến
đáng kể nhất trong lĩnh vực đối ngoại của Nga suốt mười năm qua là “Chiến
lược đối ngoại của Liên bang Nga” được công bố ngày 28 – 06- 2000. So với
“Những luận điểm cơ bản của chính sách đối ngoại” (4 – 1993), văn bản mới
này vừa có những điều chỉn quan trọng, vừa đưa ra một cách hệ thống và rõ
ràng các quan điểm điểm tạo thành nội dung và phương hướng cơ bản chỉ đạo
hoạt động đối ngoại của nước Nga. Với năm phần lớn, Chiến lược này đã
trình bày các luận điểm chung, khái quát tình hình thế giới và chính sách đối
ngoại của Nga sau chiến tranh lạnh, nêu rõ những ưu tiên của Nga trong việc
giải quyết các vấn đề toàn cầu cũng như các ưu tiên trong khu vực.
Về chính sách đối ngoại, Chiến lược khẳng định: “Liên bang Nga sẽ theo
đuổi chính sách đối ngoại độc lập và xây dựng. Chính sách đó dựa trên sự
nhất quán và chủ nghĩa thực dụng cùng có lợi. Chính sách đó phải hoàn toàn
rõ ràng, có tính đến lợi ích hợp pháp của các nước khác và nhằm tìm kiếm
những giải pháo chung”...
Như vây, việc thông qua Chiến lược này có ý nghĩa rất quan trọng trong
việc xá định đường hướng chiến lược đối ngoại của Nga trong thế kỷ XXI.
3.


Hoạt động đối ngoại công chúng của Nga dưới thời tổng

thống V. Putin
3.1.

Sự đẩy mạnh hoạt động đối ngoại công chúng của Nga đối với

các nước phương Tây
Trong nửa cuối thế kỷ XX, khi cuộc chiến tranh lạnh xảy ra giữa các siêu
cường thì mỗi quốc gia đều có ít thông tin về nhau. Điều này càng đặc biệt
đúng với công dân của mỗi nước khi họ hầu như không có, hoặc có rất ít cơ
hội tiếp xúc với thông tin của quốc gia được coi là “đối thủ” với nước mình.
Do đó quan điểm cũng như thái độ của người dân mỗi nước đối với quốc gia
khác hầu như đều dựa trên thông tin mà chính phủ của họ cung cấp.
14


Hai mươi năm sau sự sụp đổ của bức tường Berlin tuy nhiên ý kiến của
người dân Mỹ về Nga và hình ảnh nước Nga trên thế giới vẫn mang màu sắc
tiêu cực. Nhận thức được thái độ và những quan điểm của người Mỹ đối với
mình, điện Kcremlin đã bắt đầu thực hiện đẩy mạnh các chiến lược ngoại giao
công chúng của mình trong thập kỷ vừa qua. Trong bối cảnh quốc tế, tình
hình chính trị nhiều biến động, sự phát triển của công nghệ thông tin đang
ngày càng gia tăng và mặc dù trong rất nhiều nỗ lực của chính phủ Nga, thì
các cuộc thăm dò dư luận do thấy, công chúng Mỹ vẫn chưa có cái nhìn tích
cực về chính phủ của tổng thống Putin.
Một cuộc khảo sát của chính phủ Nga vào năm 2003 đã cho thấy vấn đề
khi cuộc đặt câu hỏi cho người dân Mỹ rằng: họ sẽ nêu 10 điều liên quan khi
họ nghĩ đến nước Nga. 4 kết quả đứng đầu được đưa ra đó là: cộng sản, KGB,

tuyết và mafia, trong khi đó một nhân tố tích cực nhất là nghệ thuật là văn hóa
Nga lại xếp cuối cùng. Thậm chí trong một cuộc thăm dò vào tháng 8 năm
2005 về hình ảnh của nước Nga thì có nhiều người liên tưởng đến khẩu súng
trường Kalashnikov và ly cocktail Molotov.
Theo một cuộc thăm dò vào năm 2004 của BBC, thì 16 trong 33 quốc
gia được khảo sát cho thấy họ có thái độ “không thiện cảm” với nước Nga và
những ảnh hưởng của Nga trên thế giới.
Thái độ tiêu cực trên đã trở thành một cản trở của Nga trong quá trình
cải thiện mối quan hệ đối ngoại với Mỹ cũng như theo đuổi các chính sách
ngoại giao toàn cầu. Do đó ngoại giao công chúng đã trở thành một ưu tiên
trong các chương trình nghị sự về chính sách ngoại giao của Nga, và Nga
cũng sử dụng ngoại giao công chúng để giải quyết các nguyên nhân gây nên
ảnh hưởng tiêu cực của mình trong mắt công chúng Mỹ.

15


(Ngày 25/9/2003, Tổng thống Putin tới Trường Đại học Columbia ở thành phố New
York để cổ vũ cho một trận đấu bóng rổ giữa Nga và Mỹ)

Nỗ lực trong ngoại giao công chúng của Nga đối với các nước phương
Tây có thể kể đến như trong năm 2004, Nga đã thành lập Đài truyền hình
quốc tế đa ngôn ngữ - Nước Nga ngày nay (Russia Today TV – RT), ban đầu
phát bằng tiếng Anh và sau đó là tiếng Ả - rập và tiếng Tây Ban Nha. Đây
được coi như một phương tiện hữu hiệu trong việc góp phần thực hiện các
chính sách ngoại cũng như ngoại giao công chúng của điện Kcemli. Đài
truyền hình RT là một trong cách thức tiếp cận với công chúng dựa trên sự
tiếp nhận thông tin, nhằm từ đó có thể đưa thông tin và tiến tới thay đổi thái
độ của công chúng các nước phương Tây và Mỹ đối với Nga. Để từ đó mà
Nga có thể có được sự thuận lợi hơn trong quan hệ ngoại giao dựa trên hiệu

quả của các hoạt động ngoại giao công chúng mang lại.
Vào năm 2006, Nga đã quyết định thuê một công ty quan hệ công
chúng nổi tiếng của Mỹ là Ketchum Inc để góp phần xây dựng chiến lược
nhằm tạo dựng nên hình ảnh tốt đẹp về nước Nga qua các phương tiện
thông tin đại chúng, nhân sự kiện Hội nghị thượng đỉnh G8 diễn ra tại St
Petersburg. Trong kế hoạch của mình đối với Liên bang Nga, hãng
Ketchum cho biết mục đích chính của họ là thúc đẩy hình ảnh về vai trò
của Nga trong 3 vấn đề quan trọng tại Hội nghị thượng đỉnh G8 là: giáo
dục, sức khỏe và an ninh năng lượng.
16


Bên cạnh đó, Nga cũng sử dụng ngoại giao công chúng trong lĩnh vực
văn hóa và giáo dục. Trong các chương trình trao đổi văn hóa giáo dục của
học sinh thì số lượng sinh viên Nga tại Mỹ vào năm 2008 gấp gần 3 lần số
lượng học sinh, sinh viên của Mỹ tại Nga. Chính phủ Nga cũng đặc biệt
khuyến khích nhiều người Mỹ đến Nga hơn, và tại Nga họ sẽ có cơ hội được
trải nghiệm với nền văn hóa bản địa đa dạng cùng với người dân Nga. Tuy
nhiên, một điều quan trọng hơn trong các chương trình trao đổi văn hóa, giáo
dục đó là giúp cho người Mỹ và công dân các nước phương Tây có được cái
nhìn định hình về đất nước và con người Nga một cách tốt hơn, để có thể xóa
bỏ những nhận thức mang nặng tính định kiến về Nga bấy lâu.
Một trong những lĩnh vực chủ chốt và quan trọng trong chính sách đối
ngoại của Nga là lĩnh vực an ninh quân sự, sự thay đổi mối quan hệ giữa Nga
và nước phương Tây trong lĩnh vực này đã phần nào làm thay đổi sự nhìn
nhận của công chúng về Nga, khác với hình ảnh Nga là quốc gia đối lập với
Mỹ và các nước phương Tây như trong thời kỳ chiến tranh lạnh.


Đối với Liên minh Châu Âu (EU)


Như đã biết, tư tưởng chủ đạo trong chính sách đối ngoại của Liên bang
Nga dưới thời tổng thống Putin là quyết tâm và triệt để bảo vệ lợi ích dân tộc
xuất phát từ chủ nghĩa thực dụng, từ thực tế phức tạp của tình hình thế giới,
sự gia tăng của các mối đe dọa và bất ổn mới. Hoạt động đối ngoại đều nhằm
mục tiêu tạo điều kiện thuận lợi tối đa để bảo đảm an ninh và phát triển đất
nước, tránh đối đầu với phương Tây, tránh chạy đua vũ trang để có thể tập
trung sức người sức của cho công cuộc phục hưng đất nước. Nga coi lợi ích
dân tộc là trên hết. Chúng ta thấy cách xử sự của giới lãnh đạo Nga trong vấn
đề NATO là rất tỉnh táo, phù hợp với khả năng và điều kiện của Nga lúc bấy
giờ. Để thực hiện mục tiêu này, không còn con đường nào khác là phải hợp
tác với NATO, sẵn sàng nâng cấp quan hệ đại diện với NATO (cấp đại sứ),
đồng thời sẵn sàng tham gia mọi hoạt động bàn bạc ở Hội đồng NATO (mặc
dù không có quyền phủ quyết) và do đó Nga đã được các nước NATO nâng
17


công thức quan hệ từ 19 + 1 lên công thức 20. Rõ ràng theo cách làm này an
ninh của Nga vẫn được bảo đảm mà Nga cũng không phải chi phí tốn kém
cho chạy đua vũ trang với NATO. Nếu làm ngược lại, Nga trong khi đang
phải gánh chịu hậu quả nặng nề của việc Liên Xô tan rã, lại phải chi phí cho
một cuộc chạy đua vũ trang, thì có khác nào đẩy đất nước đến bờ vực của sự
đổ vỡ, và đương nhiên trong điều kiện đó nền an ninh quốc gia chắc chắn bị
phương hại thêm. Tương tự như vậy, lãnh đạo Nga đã có phản ứng vừa phải
trước việc Mỹ từ bỏ Hiệp ước chống tên lửa đạn đạo – ABM (ký năm 1972)
và việc Mỹ quyết định bắt đầu triển khai hệ thống tên lửa phòng thủ quốc gia
(NMD) ở Alasca.
Chính sách “cân bằng Đông – Tây” tỏ ra ưu việt hơn so với chính sách
“Định hướng Đại Tây Dương”. Điều này được thể hiện ở chỗ nước Nga có
thêm nhiều bè bạn hơn, trong số đó có những nước nặng ký như Trung Quốc,

Ấn Độ, và điều quan trọng hơn là lợi ích dân tộc của Nga được tăng cường và
bảo đảm hơn. Tổ chức Hợp tác Thượng Hải do Nga và Trung Quốc làm nòng
cốt về thực chất là sự cảnh báo đáp lại ý đồ mở rộng NATO có hại cho lợi ích
an ninh của Nga.
Thực tế cho thấy, về đối ngoại, Nga đã có những đóng góp tích cực cho
hòa bình, an ninh, phát triển của thế giới. Hiện nay không có bất cứ vấn đề
quốc tế lớn nào có thể được giải quyết nếu thiếu sự tham gia của Nga. Các cơ
quan chức năng của Nga đã đóng góp nhiều sáng kiến và tham gia giải quyết
các vấn đề quan trọng nhằm tăng cường sức mạnh, nâng cao uy tín và vai trò
thực tế của Liên hợp quốc; ở Tổ chức an ninh và Hợp tác châu Âu (OSCE),
trong quan hệ với EU, NATO cũng như trong quan hệ song phương với hàng
loạt quốc gia khác nhằm mục tiêu đấu tranh chống chủ nghĩa khủng bố quốc
tế, tội phạm có tổ chức, buôn bán, vận chuyển trái phép chất ma túy, vũ
khí, ... Chính những động thái tích cực này, đã tạo dựng nên một hình ảnh tốt
đẹp hơn về nước Nga mới đối với công chúng trên thế giới.
18


Vào tháng 5 – 2006 tại phiên họp chung của hai viện Quốc hội Nga, tổng
thống V. Putin đã đọc Thông điệp Liên bang về chính sách đối nội, đối ngoại
của Nhà nước Nga, khẳng định ưu tiên trong chính sách đối ngoại của Nga là
thắt chặt quan hệ với các nước SNG, hướng tới xây dựng một hệ thống kinh
tế hiệu quả, tiếp tục phát triển quan hệ với các nước EU. Nga coi quan hệ với
Mỹ, Trung Quốc, Ấn Độ, các nước đang phát triển nhanh ở Châu Á – Thái
Bình Dương, Mỹ Latinh có tầm quan trọng đặc biệt


Quan hệ với Mỹ

Trước khi xảy ra sự kiện ngày 11 – 09 – 2001, quan hệ Nga – Mỹ có

nhiều mâu thuẫn do những quan điểm và mục tiêu khác nhau giữa hai chính
phủ. Quan hệ Nga – Mỹ khá căng thẳng, đặc biệt xoay quanh vấn đề AMB,
NMD, mở rộng NATO, ...
Sự kiện ngày 11 – 09 đã tạo nên một bước ngoặt trong quan hệ hai nước.
Tổng thống Nga V. Putin là nhà lãnh đạo đầu tiên trên thế giới gọi điện chia
buồn tới Nhà Trắng. Chính phủ Nga và Mỹ gặp nhau trong chính sách thực
dùng vấn đề chống chủ nghĩa khủng bố để hợp tác phù hợp với lợi ích chiến
lược của mình. Nga không chỉ hợp tác với Mỹ chống khủng bố, mà còn “bật
đèn xanh” cho các nước vùng Trung Á mở cửa cho Mỹ mượn căn cứ hậu cần
để tấn công Apganixta, từ bỏ việc phản đối mở rộng NATO, chấp nhận sửa
đổi Hiệp ước ABM để tạo thuận lợi để Mỹ thiết lập hệ thống NMD ... Đổi lại,
Mỹ cũng bớt cứng rắng đối với hoạt động của Nga tại Tresnia và một số lợi
ích khác của Nga.
Cuối năm 2001, NATO và Nga tuyên bố thành lập Hội đông chung, tăng
cường hợp tác trong vấn đề an ninh. Đỉnh cao là chuyến thăm Nga (tháng 5 –
2002) của Tổng thống Bush, hai bên đã ký tuyên bố chung về quan hệ đối tác
chiến lược Nga – Mỹ trong thế kỷ XXI. Mỹ đã chấp nhận nhập dầu lửa của
Nga, công nhận Nga là nền kinh tế thị trường, cam kết ủng hộ Nga gia nhập
WTO, ủng hộ Nga về vấn đề chống khủng bố ở Tresnia. Việc thực hiện Hiệp
ước cắt giảm vũ khí tiến công chiến lược Nga – Mỹ mỗi bên giảm xuống còn
19


1/3 số đầu đạn hạt nhân vào năm 2012 đã được quốc hội cả hai nước phê
chuẩn, được Nga coi có tầm quan trọng sống còn đối với việc duy trì ổn định
chiến lược toàn cầu.
Do nhiều yếu tố khách quan và chủ quan chi phối, mối quan hệ Nga –
Mỹ sau chiến tranh lạnh không còn là duy nhất chi phối toàn bộ quan hệ quốc
tế như giai đoạn trước. Điểm nổi bật trong quan hệ Nga – Mỹ là sự hợp tác
chặt chẽ giữa hai bên trong cuộc đấu tranh chống khủng bố quốc tế và trong

nỗ lực ngăn chặn phổ biến vũ khí hủy diệt hàng loạt.
3.2.

Duy trì và phát triển vị thế của Nga trong khu vực SNG

Chính sách đối ngoại từ chỗ tạo môi trường thuận lợi, ưu tiên cho phát
triển kinh tế thì nay đang trở thành một rong những công cụ quan trọng nhất
đảm bảo cho Nga tiếp tục phát triển và đủ khả năng cạnh tranh trong thế giới
toàn cầu hóa. Nga không chỉ ủng hộ xu thế đa cực trong quan hệ quốc tế mà
còn khẳng định vải trò của mình trong việc hình thành một cấu trúc quốc tế
mới mà trung tâm điều tiết của cấu trúc này là Liên Hợp Quốc. Nga nhận thức
rõ vai trò của mình là thành viên thường trực của Hội đồng Bảo an Liên Hợp
Quốc, thành viên nhóm G8 và nhiều tổ chức khu vực và quốc tế có uy tín và
quốc tế có uy tín, nhiều cơ chế đối thoại và hợp tác liên quốc gia, có nguồn
tiềm lực và tài nguyên đáng kể trong tất cả các lĩnh vực đang hội nhập triệt để
vào nên kinh tế và chính trị thế giới. Nhìn chung chính sách đối ngoại và
trong những năm vừa qua nhằm củng cố an ninh, tạo môi trường cho phát
triển cũng như cải thiện vị thế của Nga đã đạt được nhiều tiến bộ, tuy nhiên
vẫn còn tồn tại một số vấn đề trong đường lối đối ngoại và anh ninh quốc gia.
Vấn đề chính trị nổi bật trong hoạt động đối ngoại của Liên bang Nga là
mặc dù vị thế của Nga trên trường quốc tế được cải thiện mạnh mẽ, nhưng
ngay tại khu vực SNG, nơi được xem là ưu tiên số một, là vùng đệm chiến
lược, Nga vẫn chưa thực sự làm chủ được tình hình, chưa thể hiện được vai
trò thủ lĩnh, trung tâm liên kết, đưa các nước này vào Quỹ đạo của mình.
Trong bối cảnh vai trò của SNG ngày càng có ý nghĩa quan trọng về địa chính
20


trị cũng như địa kinh tế đối với các nước lớn như Mỹ, Eu, Trung Quốc, tình
hình càng trở nên phức tạp hơn.

Trong lĩnh vực kinh tế, khu vực SNG là cơ sở sản xuất nguyện vật liệu
quan trọng của Nga và là thị trường hàng hóa lớn của Nga. Sự phục hồi và
chấn hưng của nền kinh tế Nga không thể tách rời khỏi sự hợp tác với các
nước SNG. Trong những năm qua, thương mại giữa Nga và SNG liên tục
tăng, năm 2004 tăng lên khoảng 35,9%, trong đó xuất khẩu tăng 38,2% còn
nhập khẩu tăng 32,6%. Tốc độ tăng trưởng doanh số thương mại của Nga và
các nước SNG năm 2004 dương 8,5 tỉ USD. Các nước SNG là thị trường tiêu
thụ cơ bản các sản phẩm máy móc của Nga với tỉ lệ 21,1% (so với mức chung
là 5,3%).
Cơ cấu nhập khẩu của Nga từ các nước SNG cân bằng hơn (so với cơ
cấu nhập khẩu chung); năm 2005 nhập khẩu lương thực và nông sản là 20,7%
(trong cơ cấu chung là 17,5%), khoáng sản 16,6%, kim loại và các sản phẩm
kim loại 20,7%, xe ô tô và thiết bị vận tải là 21,7%.
Về đầu tư, mặc dù bản thân Nga là nước thiếu vốn nhưng các doanh
nghiệp nguyên nhiên liệu của Nga vẫn phải đầu tư vào sân sau SNG của
mình, cạnh tranh với các hãng dầu lửa tiềm lực hơn hẳn của Anh, Mỹ, nhằm
hình thành liên minh “dầu lửa” SNG mà Nga làm thủ lĩnh. Trong giai đoạn
2000 – 2005, tổng khối lượng đầu tư từ Nga và các nước SNG theo số liệu
chính thức (mặc dù chỉ phản ánh được một số phần số lượng thực tế) đã tăng
lên 4,7 lần . Tuy nhiên, trái ngược với quan hệ kinh tế thương mại quan hệ
anh ninh chính trị giữa các nước SNG với Nga trong những năm vừa qua rất
phức tạp , có sự chia rẽ sâu sắc giữa các thành viên kể từ khi diễn ra các cuộc
cách mạng sắc mầu, các chính thủ thân phương Tây.
Tháng 11/2003, tại Gruzia nổ ra cuộc “cách mạng hoa Hồng”, Mỹ ủng
hộ M. Saakashvili thay thế E. Shevardnadze. Một năm sau ở Ukrainan diễn ra
cuộc “cách mạng Cam”, Mỹ ủng hộ V. Yushchenko thay thế V. Yanukovich.
Tiếp đó, 3/2005, “cách mạng hoa Tupip” diễn ra ở Kyrgyxstan, quần chúng
21



bạo động tấn công phủ tổng thống, tổng thống A. Akayev phải chạy ra nước
ngoài và xin từ chức, cuộc bầu cử diễn ra vào tháng 7 với thắng lợi áp đảo của
thủ lĩnh đối lập thân Mỹ là K. Bakaiev. Những động thái này làm cho tình
hình SNG vốn đã phức tạp lại càng phức tạp hơn với việc hình thàng thêm các
tổ chức, các nhóm nước cạnh tranh, lôi kéo thậm chí chia rẽ lẫn nhau. Hiệp
ước An ninh tập thể gồm Nga, Belarus, Kazakhstan, Kyrgyzsta, Tajikistan,
Armenia năm 2003 đã tiến hành tổ chức lại chế độ cung cấp vũ khí kỹ thuật
quân sự của Nga với giá ưu đãi mà Nga đề xuất nhằm củng cố Tổ chức này.
Tại hội nghị cấp cao ngày 18/10/2004 ở Dusanbe, thủ đô Tajikistan, Nga đã
chính thức ra nhập Tổ chức Hợp tác Trung Á, một tổ chức chưa bao gồm
Kazakhstan, Kyrgyzsta, Tajikistan và Uzbekistan được thành lập vào năm
1994. Năm 2005, Nga cùng với ba nước SNG khách là Belarus, Kazakhstan
và Kygyzstan đã thành lập Cộng đồng kinh tế Á – Âu nhằm hướng tới xây
dựng một liên minh thuế quan. Ngược với những nỗ lực thống nhất SNG của
Nga, trong Khối luôn diễn ra quá trình hướng tới phương Tây của một loạt
các nước khác. Ngày 2/12/2005, bên cạnh Ba Lan và với sự có mặt của Mỹ,
nhóm GUAM (Gruzia, Ukraina, Azerbaijan và Moldova) đã tổ chức cuộc gặp
mang tên “Cộng đồng các nước lựa chọn dân chủ” tại Kiev.
Cuộc chiến giữa Nga và Gruzia diễn ra trong tháng 8/2008 và hàng loạt
các tranh chấp về khí đốt cho thấy khu vực này vẫn còn tồn tại nhiều nguy cơ
phân rã không có lợi cho sự phát triển của nước Nga.
3.3.

Sự quan hệ ngoại giao và hợp tác toàn diện trên các lĩnh vực

giữa Nga và Asean
Sự hiện diện của Nga tại Đông Nam Á trong suốt thời gian vừa quan trên
toàn diện các lĩnh vực như: an ninh chính trị, kinh tế thương mại, năng
lượng, ... là một tác động tích cực đến chính phủ cũng như công dân tại các
quốc gia Đông Nam Á.

Thứ nhất, quan hệ Nga – Asean từng bước được mở rộng và là cơ hội
cho Nga tham gia vào tiến trình Đông Á. Quan hệ giữa Nga và Asean được
22


chính thức thiết lập khi Phó thủ trướng Liên Xô tham dự khai mạc Hội nghị
Bộ trưởng Ngoại gia (AMM) các nước Asean lần thứ 24 vào tháng 7, 1991.
Trở thành một bên đối thoại đầy đủ của Asean tại AMM lần thứ 29 (1996).
Tham gia tích cực vào diễn đàn An ninh Khu vực Asean (ARF) và các Hội
nghị cấp Bộ trưởng Asean. Có thể nói, hợp tác chính trị an ninh giữa Nga Asean nhằm đảm bảo khu vực Asean nói riêng và Châu Á – Thái Bình Dương
nói chung thành một khu vực hòa bình, phát triển kinh tế chống lại sự đe dọa
của chủ nghĩa khủng bố và tội phạm xuyên quốc gia. Ngoài ra, Nga – Asean
cũng ký tuyên bố chung về hòa bình, an ninh, thịnh vượng và phát triển trong
khu vực Châu Á – Thái Bình Dương tại Hội nghị Asean+1 với Nga ngày
19/06/2003 tại Phnom Pênh, Campuchia. Đặc biệt, quan hệ Nga – Asean đạt
được bước tiến mới khi Nga ký vào Hiệp ước Hợp tác và Thân thiện (ATC)
tại Hội nghị bộ trưởng Asean – Nga vào ngày 29/11/2004, tại Viên Chăn ,
Lào và là thành viên của Hội đồng bảo an Liên hiệp quốc thứ hai sau Trung
Quốc ký TAC với các nước Asean. Việc Nga tham gia Hiệp ước TAC đã đặt
nền tảng quan trọng trong hợp tác giữa Nga – Asean trong bối cảnh mới của
khu vực và quốc tế. Việc tăng cường hợp tác Nga – Asean trong bối cảnh
hình thành Cộng đồng Đông Á, đặc biệt việc Nga được mời tham dự Hội nghị
Thượng đỉnh Đông Á cho phép Nga có nhiều cơ hội để phát triển quan hệ hợp
tác với cả khối này.
Bước ngoặt trong quan hệ giữa Nga – Asean khi hai bên tổ chức được
Hội nghị Thượng đỉnh Asean – Nga tại Malayxia vào ngày 13/12/2005 bên lề
Hội nghị Thượng đỉnh Đông Á. Hai bên đã ký kết các văn kiện quan trọng
như: tuyên bố chung về quan hệ đối tác toàn diện và năng động; chương trình
thúc đẩy hợp tác toàn diện và năng động; chương trình thúc đẩy hợp tác toàn
diện giữa Asean – Nga đã xác định các lĩnh vực hợp tác ưu tiên về các lĩnh

vực: an ninh và chính trị, chống khủng bố và tội phạm xuyên quốc gia; kinh tế
như thương mại và dầu tư, công nghiệp, năng lượng, giao thông vận tải, tài
chính doanh nghiệp; khoa học công nghệ, y tế, công nghệ thông tin, quản lý
23


và bảo vệ môi trường, phát triển nhân lực, văn hóa, du lịch, thể thao, thực
phẩm, nông nghiệp và lâm nghiệp.
Thứ hai, tăng cường hợp tác về an ninh - chính trị nhằm đảm bảo an
ninh khu vực. trong những năm tới, khu vực Châu Á – Thái Bình Dương tiếp
tục phải đối mặt với các thách thức như vấn đề khủng bố, cướp biển, buôn
bán ma túy, rửa tiền, vấn đề hạt nhân trên bán đảo Triều Tiên vẫn là những
thách thức không nhỏ đối với các nước trong khu vực. Chính vì vậy, tăng
cường hợp tác giữa Nga – Asean nhằm giải quyết các vấn đề trên tuân theo
các nguyên tắc của luật pháp quốc tế. Hai bên hỗ trợ thúc đẩy đối thoại trên
cơ sở các diễn đàn hiện có như Diễn đàn An ninh Khu vực (ARF), Diễn đàn
hợp tác Kinh tế Châu Á – Thái Bình Dương (APEC), Diễn đàn đối thoại Châu
Á (ACD). Đặc biệt hai bên tăng cường hợp tác trong khuôn khổ giữa Asean
và Tổ chức hợp tác Thượng Hải (SCO). Rõ ràng, tăng cường hợp tác giữa
Nga – Asean là nhân tố thúc đẩy hòa bình, ổn định trong khu vực, đồng thời
cũng là cơ hội cho Nga tham gia sâu hơn trong tiến trình liên kết Đông Á. Sự
tham gia của Nga vào đối thoại về an ninh chính trị với Asean, với các nước
Đông Á là nhân tố đảm bảo an ninh đồng thời thúc đẩy phát triển kinh tế - xã
hội đối với vùng Xiberi và Viễn Đông của Nga..
Thứ ba, tiếp tục mở rộng hợp tác kinh tế thương mại giữa Nga – Asean.
Hiện nay các nước trong Cộng đồng Đông Á đang triển khai nghiên cứu Hiệp
định đối tác Kinh tế toàn diện đã đề cập trong Hội nghị thượng đỉnh Đông Á
làn thứ hai (15/01/2007, Cebu, Phillippine). Rõ ràng những động thái này sẽ
tác động không nhỏ tới quan hệ giữa Nga – Asean vì mục tiêu của các nước
Asean đến năm 2015 trở thành Cộng đồng Asean dựa trên ba trụ cột chính về

kinh tế; chính trị; văn hóa và xã hội. Để mối quan hệ Nga – Asean hợp tác
toàn diện trong bối cảnh hình thành Cộng đồng Đông Á, Nga và các nước
Asean cũng tính đến việc xây dựng một hiệp định thương mại song phương
giữa hai bên. Mô hình hiệp định FTA tương tự như Asean đã ký kết và đàm
phán với các nước Trung Quốc, Hàn Quốc và Nhật Bản như trong Chương
24


trình hợp tác toàn diện giữa hai bên giai đoạn 2005 – 2015. Như vậy, mở rộng
hợp tác với các nước Asean là đảm bảo sự liên kết hội nhập của Nga ở khu
vực Asean nói riêng và Cộng đồng Đông Á nói chung.
Thứ tư, mở rộng hợp tác trong lĩnh vực năng lượng. Nước Nga có một
thế mạnh trong quan hệ với các nước Đông Á nói chung và các nước Asean
nói riêng, đó là hợp tác về an ninh năng lượng. Nước Nga mặc dù không phải
là nước thành viên của Tổ chức Các nước xuất khẩu Dầu lửa (OPEC), nhưng
nước Nga chiếm một vị trí quan trọng trong cung cấp dầu mỏ và khí gas lớn
trên thế giới. Theo dự đoán, mức tiêu thụ ở khu vực Châu Á – Thái Bình
Dương là tăng nhất thế giới trong giai đoạn 2006 – 2012 với mức tăng trung
bình là 2,8%. Như vậy, trong tương lai khi Nga trở thành thành viên của Cộng
đồng Đông Á, hợp tác giữa hai bên trong việc thực hiện chiến lược An ninh
năng lượng Đông Á là một trong những thế mạnh của Nga. Nước Nga là đối
tác quan trọng trong việc cung cấp và đảm bảo một phần năng lượng cho khu
vực Đông Á nói chung và Asean nói riêng, trong những năm đầu thế kỷ XXI.
Đặc biệt, trong hợp tác song phương giữa Nga – Asean, Nga tiếp tục hợp tác
với các nước Asean dựa trên các cơ chế năng lượng của Asean, trong đó Nga
sẽ xây dựng có sở hạ tầng, sử dụng năng lượng có hiệu quả và mở rộng các
nguồn năng lượng thay thế và tái chế, nghiên cứu và chuyển đổi, ...
Ngoài ra, quan hệ Nga – Asean cần tiếp tục hợp tác trong các lĩnh vực
chuyên ngành khác như: giao thông vận tải, công nghiệp, nông nghiệp, khoa
học kỹ thuật, bao gồm công nghệ thông tin và viễn thông, phát triển nguồn

nhân lực và các lĩnh vực về văn hóa – xã hội, thể thao, ...
Sau gần 10 năm trở thành đối tác đối thoại chính thức của các nước
Asean, với chính sách ngoại giao “cân bằng Đông – Tây”, nước Nga ngày
càng khẳng định vai trò của mình ở khu vực nói riêng và tại khu vực Châu Á
– Thái Bình Dương nói chung.

25


×