MỞ ĐẦU
1.
Tính cấp thiết của đề tài
Trào lưu xã hội dân chủ có lịch sử hình thành từ hơn một thế kỷ nay và
phát triển qua các giai đoạn với những thăng trầm phức tạp. Từ đầu những
năm 80 đến giữa những năm 90 của thế kỷ XX, các đảng dân chủ xã hội ở
Tây Âu lâm vào cuộc khủng hoảng trầm trọng cả về lý luận và thực tiễn, lần
lượt mất chính quyền ở hàng loạt các quốc gia, đứng ở vị trí đảng đối lập
suốt một thời gian dài. Chủ nghĩa tự do mới nổi lên chiếm ưu thế và ngự trị
ở tất cả các nước tư bản phát triển. Cùng với việc Chiến tranh lạnh kết thúc,
chủ nghĩa xã hội hiện thực ở Đông Âu và Liên Xô sụp đổ, nhiều nhà nghiên
cứu phương Tây đã tuyên bố về sự cáo chung của tư tưởng xã hội chủ nghĩa
và sự toàn thẳng của chủ nghĩa tư bản tự do.
Đến giữa thập niên 90, tình hình lại thay đổi một cách căn bản. Các
đảng xã hội dân chủ ở hầu hết các nước Tây Âu (13/15 nước thuộc EU) lại
lần lượt thắng cử. Hiện nay, trào lưu xã hội dân chủ có ảnh hưởng mạnh mẽ
và các đảng dân chủ xã hội có vai trò rất quan trọng trong đời sống chính trị
ở châu Âu, đặc biệt là các nước Tây Âu. Trong số các đảng dân chủ xã hội
cầm quyền hoặc liên minh cầm quyền, có Công đảng Anh và Đảng Dân chủ
xã hội Đức là hai đảng đạt được những thành công nhất định. Hai đảng này
trong thực tiễn cầm quyền đã áp dụng tư tưởng của “con đường thứ ba” vào
việc hoạch định đường lối, chính sách phát triển đất nước và thu được
những thành tựu khá nổi bật. Trước những biến động mới của tình hình thế
giới và những khó khăn trong nội bộ các nước Tây Âu, nhiều vấn đề mới đã
xuất hiện và tác động vào trào lưu xã hội dân chủ.
Những quan điểm lý luận của trào lưu xã hội dân chủ ở các nước Tây
Âu và những thành công trong quá trình cầm quyền của nhiều đảng dân chủ
xã hội ở khu vực này đặt ra yêu cầu cấp thiết cần phải nghiên cứu về trào
lưu xã hội dân chủ hiện đại một cách toàn diện và hệ thống hơn. Hiện nay,
Việt Nam đang trong quá trình đổi mới toàn diện đất nước, mở rộng quan
hệ đối ngoại theo hướng “đa phương hóa, đa dạng hóa”, “ sẵn sàng là bạn,
là đối tác tin cậy của tất cả các nước trong cộng đồng quốc tế, phấn đấu vì
hòa bình, độc lập và phát triển”. Đảng và Nhà nước ta chủ trương không
những tăng cường quan hệ với các quốc gia, các đối tác kinh tế mà còn đẩy
mạnh quan hệ với các chính đảng, trong đó có đảng cầm quyền, đảng xã hội
dân chủ ở các nước trên thế giới. Do vậy, việc nghiên cứu về trào lưu xã hội
dân chủ quốc tế có ý nghĩa lý luận và thực tiễn cấp thiết vì nó liên quan chặt
chẽ với việc nghiên cứu về lý luận thế giới hiện đại, về những thay đổi lớn,
xu thế, động thái của chủ nghĩa tư bản, chủ nghĩa xã hội. Đồng thời chính
những vấn đề đó lại có ý nghĩa tham khảo trực tiếp cho việc nghiên cứu
nhiều vấn đề lý luận và thực tiễn đổi mới chủ nghĩa xã hội ở nước ta trong
giai đoạn hiện nay.
Để góp phần vào việc hoạch định đường lối chính trị cho sự phát triển
đất nước theo định hướng xã hội chủ nghĩa, một mặt, đòi hỏi chúng ta phải
bám sát, tổng kết thực tiễn trên cơ sở nhận thức lại đúng đắn bản chất cách
mạng và khoa học của Chủ nghĩa Mac – Lenin, tư tưởng Hồ Chí Minh, mặt
khác, cần nghiên cứu một cách thấu đáo, khách quan, khoa học những kinh
nghiệm thực tiễn và những học thuyết ngoài Chủ nghĩa Mac – Lenin. Việc
nghiên cứu về trào lưu xã hội dân chủ quốc tế là một đóng góp nhất định
trong nỗ lực chung đó. Đồng thời, điều này còn góp phần vào việc cung cấp
những luận cứ khoa học nhằm thúc đẩy quan hệ của Đảng và Nhà nước ta
với các đảng và nhà nước khác trên thế giới, tạo điều kiện thuận lợi cho sự
nghiệp đẩy mạnh công nghiệp hóa, hiện đại hóa và chủ động hội nhập quốc
tế của đất nước ta.
CHƯƠNG I
KHÁI QUÁT SỰ RA ĐỜI VÀ PHÁT TRIỂN CỦA TRÀO LƯU XÃ
HỘI -DÂN CHỦ QUỐC TẾ
I.
Sự ra đời của trào lưu xã hội dân chủ
Giữa thế kỷ XIX, chủ nghĩa tư bản phát triển ngày càng mạnh mẽ.
Qúa trình tích tụ tập trung sản xuất đưa đến sự ra đời các công ty tư bản
độc quyền làm gia tăng mâu thuẫn giữa lực lượng sản xuất và quan hệ
sản xuất, đồng thời sự bóc lột trắng trợn của giai cấp tư sản đã thúc đẩy
mạnh mẽ cuộc đấu tranh của giai cấp vô sản.
Năm 1848, “Tuyên ngôn của Đảng Cộng sản” ra đời cùng việc thành
lập “ Hội liên hiệp lao động quốc tế” (Quốc tế I) ngày 28/09/1864 đã
đánh dấu bước phát triển mới của phong trào công nhân. Từ đây, cuộc
đấu tranh giữa giai cấp vô sản và giai cấp tư sản có tác động to lớn đến
định hướng vận động và phát triển lịch sử thế giới.
Lúc bấy giờ, nội bộ phong trào công nhân luôn tồn tại sự pha tạp về
nguồn gốc và tư tưởng. Đặc biệt, khuynh hướng xã hội dân chủ luôn đối
lập về tư tưởng và chính trị với khuynh hướng cộng sản. Đây là một
trong những tiền đề làm nảy sinh trào lưu xã hội dân chủ quốc tế - một
trong ba trào lưu lý luận chính trị xã hội đương đại.
1. Sự ra đời của các Đảng xã hội - dân chủ
Khái niệm “Xã hội dân chủ” xuất hiện lần đầu tiên trong thời kỳ cao
trào cách mạng 1848-1849 tại Pháp và Đức, thể hiện tư tưởng xây dựng
một xã hội dân chủ cho mọi công dân. Trong đó, dân chủ về chính trị và
xã hội gắn liền với công bằng xã hội và nghĩa vụ đóng góp cho mọi
người dân.
Trong trào lưu xã hội dân chủ bấy giờ, sự ra đời của Đảng Công nhân
xã hội dân chủ Đức (1869) là sự kiện nổi bật nhất. Khái niệm “ xã hội
dân chủ” xuất hiện ở Đức trong phong trào đấu tranh chống giai cấp
phong kiến nhằm mục đích xác lập quyền thống trị của giai cấp tư sản.
“Cương lĩnh Aixonac” của Đảng Công nhân xã hội dân chủ Đức đã nêu
rõ mục tiêu đấu tranh là xóa bỏ chủ nghĩa tư bản, xây dựng nhà nước
nhân dân tự do. Cương lĩnh đã khẳng định: “Tự do chính trị là tiền đề
đầu tiên để giải phóng giai cấp công nhân về kinh tế”.
Sau Công xã Pari (1871), các đảng xã hội dân chủ phát triển mạnh
mẽ, các nhà nước dân chủ được thành lập rộng khắp. Năm 1879, Đảng
Công nhân Pháp, Đảng Xã hội chủ nghĩa Bỉ ra đời. Năm 1894, Đảng Xã
hội - dân chủ Hà Lan được thành lập. Cũng trong năm 1889, ở hai quốc
gia Áo và Thụy Điển, Đảng Công nhân xã hội - dân chủ lần lượt ra đời.
Ngoài ra, các đảng xã hội dân chủ, đảng công nhân, đảng xã hội chủ
nghĩa cũng đã ra đời ở hàng loạt nước khác nhau trong thời gian đó như
ở Bồ Đào Nha, Na Uy, Thụy Sĩ, Đan Mạch, Bungari, Ba Lan, Nam Tư
…
Các đảng xã hội dân chủ này ra đời trong nửa cuối thế kỷ XIX, xuất
phát từ sự phản khảng chống lại ách áp bức bóc lột của giai cấp lao động
trong hầu hết các nước lớn ở châu Âu. Đến nay, cương lĩnh với những tư
tưởng chính trị, đường lối cải cách của các đảng dân chủ xã hội đã trở
thành đường lối chính trị chung ở hầu khắp các nước thuộc châu Âu, là
những nước đều đã thực thi các hiến pháp có tính chất dân chủ.
2. Nguồn gốc của trào lưu xã hội dân chủ
Trào lưu xã hội dân chủ được xây dựng bởi những đại diện của nhiều
trào lưu chính trị khác nhau. Ba cội nguồn chính của trào lưu này thuộc
về Triết học đạo đức của thời kỳ Khai sáng, đạo Thiên chúa thiên tả và
Chủ nghĩa Mác.
Trào lưu xã hội dân chủ là một trào lưu tư tưởng chính trị trong
phong trào công nhân. Ban đầu chịu ảnh hưởng tích cực của chủ nghĩa
Mác, song trong quá trình phát triển để thích nghi với những biến đổi,
trào lưu xã hội dân chủ đã xa dần mục tiêu đấu tranh của phong trào
công nhân, thực hiện những thỏa hiệp chính trị với giai cấp tư sản, rời xa
nguồn gốc ban đầu của nó.
Tuy được hình thành bởi học thuyết của các nhà lãnh đạo trào lưu
chính trị khác nhau, song xét về bản chất các đảng xã hội dân chủ đều có
chung mục tiêu, nội dung. Thứ nhất, kiên trì học thuyết, nhất là các giá
trị cơ bản, bao gồm : tự do, bình đẳng, đoàn kết, dân chủ … Trong đó,
dân chủ được xem như mục tiêu của chủ nghĩa xã hội dân chủ. Thứ hai,
các đảng xã hội dân chủ cần phải thích ứng một cách linh hoạt trước
những diễn biến của tình hình quốc tế cũng như trong nước, từng bước
thực hiện các giá trị của trào lưu. Thứ ba, thừa nhận sự đặc thù của mỗi
quốc gia, sự năng động của mỗi đảng trong việc hoạch định chính sách
riêng của mình. Trào lưu xã hội dân chủ thừa nhận trong trào lưu chung,
có nhiều con đường riêng, có nhiều mô hình xây dựng xã hội dân chủ.
II.
Sự phát triển của trào lưu xã hội dân chủ
Ra đời và phát triển trong thời kỳ lịch sử đầy biến động của thế giới,
khi các cuộc đấu tranh đòi quyền lợi cho giai cấp công nhân diễn ra
mạnh mẽ, trong nội bộ phong trào công nhân cũng nảy sinh những mâu
thuẫn đối lập về tư tưởng chính trị, trào lưu xã hội dân chủ đã đấu tranh
không khoan nhượng cùng với sự vận động và phát triển của lịch sử.
Mỗi bước đi, mỗi bước phát triển là những khó khăn, thách thức không
hề nhỏ để có những đóng góp to lớn mà lịch sử phải ghi nhận, để tồn tại
và phát triển mạnh mẽ tới tận ngày nay.
Có thể phân chia sự phát triển của trào lưu xã hội dân chủ thế giới
thành 4 giai đoạn chính. Ở mỗi giai đoạn, trào lưu xã hội dân chủ đều có
1.
sự vận động, phát triển khác nhau.
Giai đoạn từ 1875 - 1923
Thời kỳ đầu, khi đứng trước những sự kiện chính trị nổi bật có sức
tác động mạnh mẽ tới lập trường, quan điểm và cuộc đấu tranh của giai
cấp công nhân như : sự ra đời của Công xã Pari (1871), Chiến tranh thế
giới I, cùng với sự phá sản Quốc tế II, các nhà lãnh đạo macxit vĩ đại là
Angghen, Lenin đã ra sức đấu tranh không khoan nhượng chống lại các
khuynh hướng cải lương, cơ hội, chống cộng của các phe phái đối lập.
Tham gia trong phong trào công nhân, phong trào xã hội dân chủ quốc
tế, Lenin đã tập trung phê phán các quan điểm, thái độ sai lầm của nhiều
đảng xã hội dân chủ. Ông vạch rõ ranh giới giữa những người cách
mạng chân chính và bọn cải lương cơ hội trong các đảng xã hội dân chủ
để từ đó loại bỏ ảnh hưởng của họ trong phong trào công nhân.
Từ cuộc đấu tranh lý luận và thực tiễn chống chủ nghĩa cơ hội, cải
lương của trào lưu xã hội dân chủ đã dẫn tới sự thành lập của Quốc tế
Công nhân xã hội chủ nghĩa (05/ 1923) - tổ chức quốc tế đầu tiên của
trào lưu xã hội dân chủ quốc tế. Sự kiện này đánh dấu một bước ngoặt
2.
mới trong lịch sử phát triển của trào lưu xã hội dân chủ.
Giai đoạn từ 1923 - 1970
Đứng trước thách thức của cuộc khủng hoảng kinh tế thế giới ( 19291933), trào lưu xã hội dân chủ lâm vào thoái trào. Lập trường tư tưởng,
con đường và phương pháp hoạt động không còn được kiên định, rõ rệt,
bước đầu đã có những thay đổi nhất định. Đ
iểm đặc biệt nổi bật của
trào lưu xã hội dân chủ giai đoạn này là thái độ đối đầu gay gắt với
phong trào cộng sản, chống Liên Xô và chủ nghĩa xã hội hiện thực. Suốt
thời kỳ thế chiến II, trào lưu xã hội dân chủ vẫn hoạt động, gây chia rẽ
lớn trong phong trào cộng sản.
Sau Chiến tranh thế giới II, Quốc tế Xã hội chủ nghĩa (SI) được thành
lập. Đó là một tổ chức quốc tế tập hợp các đảng xã hội dân chủ, các
đảng xã hội chủ nghĩa và các đảng công nhân đang hoạt động ở nhiều
nước tư bản chủ nghĩa và một số nước khác trên thế giới. Quốc tế Xã hội
chủ nghĩa là hiện thân của trào lưu xã hội dân chủ hiện đại, tự khẳng
định sự nghiệp phấn đấu cho những giá trị truyền thống và cố gắng đổi
mới để đáp ứng những đòi hỏi của thời đại.
Cũng trong Đại hội, các đảng xã hội dân chủ đã nhất trí thông qua
Cương lĩnh Phranphuoc (07/1951) - cương lĩnh mới của trào lưu xã hội
dân chủ, tuyên bố từ bỏ Chủ nghĩa Mác và đấu tranh giai cấp, trung lập
về thế giới quan, đề xuất con người được coi là giữa chủ nghĩa tư bản và
3.
chủ nghĩa xã hội.
Giai đoạn 1970 đến những năm đầu thập niên 1990
Sự sụp đổ chế độ xã hội chủ nghĩa ở Liên Xô và Đông Âu - hệ thống
chủ nghĩa xã hội thế giới tan rã đã khiến chủ nghĩa xã hội hiện thực và
phong trào cộng sản quốc tế lâm vào thoái trào. Trong khi đó, Chiến
tranh lạnh với cuộc đối đầu Đông - Tây cùng xu thế toàn cầu hóa quốc
tế, khoa học công nghệ nhân loại phát triển đã thúc đẩy trào lưu xã hội
dân chủ tiến hành đổi mới, điều chỉnh nhiều mặt, có bước phát triển
mạnh mẽ.
Nhiều đảng xã hội dân chủ nâng cao được uy tín. Các tổ chức quốc tế
xã hội ngày càng được củng cố và mở rộng ảnh hưởng khắp thế giới, trở
thành một tổ chức quốc tế của các đảng phái chính trị lớn nhất thế giới.
Mô hình xã hội dân chủ có sức hút đặc biệt, nhiều quốc gia đã chuyển
hóa lập trường theo chủ nghĩa này.
Như vậy, trong giai đoạn này, trào lưu xã hội dân chủ quốc tế có
những bước điều chỉnh đáng lưu ý : từ chỗ chống chủ nghĩa xã hội hiện
thực và chủ nghĩa cộng sản sang quan hệ thân thiện với các đảng cộng
sản, các nước xã hội chủ nghĩa. Về hoạt động thực tiễn, trào lưu xã hội
dân chủ có thái độ đóng góp tích cực vào cuộc đấu tranh giải quyết
những vấn đề toàn cầu, xúc tiến quan hệ Bắc – Nam. Với uy tín của
mình, nhiều đảng xã hội dân chủ đã trở thành đảng cầm quyền hoặc
tham gia chính phủ liên hiệp, hoặc là đảng đối lập lớn trong xã hội.
4.Giai đoạn 1990 đến nay
Sau sự kiện hệ thống các nước xã hội chủ nghĩa tan rã, phong trào
cộng sản quốc tế lâm vào thoái trào, nhiều đảng cộng sản ở khắp các
châu lục đã bị giải tán hoặc chuyển thành các đảng xã hội dân chủ. Cho
đến nay, trên thế giới đã có hơn 130 đảng xã hội dân chủ. Riêng ở châu
Âu, các đảng dân chủ xã hội tập hợp trong một số tổ chức có tên gọi
Đảng của những người xã hội châu Âu (PES) với 30 thành viên chính
thức.
Trong giai đoạn này, trào lưu xã hội dân chủ tiếp tục điều chỉnh quan
điểm chính trị trên nhiều mặt, củng cố tổ chức và ảnh hưởng trong đời
sống quốc tế. Các đảng xã hội dân chủ kiên định thực hiện “lý luận con
đường thứ ba”. Đây là một trong những điểm mới đặc biệt nổi bật của
trào lưu xã hội dân chủ hiện đại.
CHƯƠNG II
TRÀO LƯU XÃ HỘI DÂN CHỦ QUỐC TẾ HIỆN ĐẠI
I. Thực trạng và hạn chế
1. Thực trạng
Những năm đầu thế kỷ XXI, nhiều nước tư bản phát triển ở Tây Âu
đã liên tiếp thay đổi chính quyền. Đến năm 2010, các đảng xã hội dân
chủ vẫn đứng trước khó khăn, bất lợi trước sự gia tăng xu thế chính trị
thiên hữu trong chủ nghĩa tư bản đương đại. Vậy những nhân tố nào đã
tác động làm biến đổi tình hình các trào lưu xã hội dân chủ? Hiện tượng
-
đó xuất hiện trong hoàn cảnh lịch sử phức tạp nào?
Sự thay đổi cục diện thế giới sau Chiến tranh lạnh, khi chủ nghĩa xã hội
ở nhiều nước lâm vào khủng hoảng và đi đến sụp đổ, uy tín, lý tưởng xã
hội chủ nghĩa giảm sút nghiêm trọng, nhiều người đã nghĩ đến con
đường thứ ba – đến chủ nghĩa xã hội dân chủ. Chủ nghĩa tự do mới
thắng thế, các chính sách kinh tế - xã hội của phần lớn các nước Tây Âu
bộc lộ rõ nét chiều hướng thiên hữu, gây phương hại trực tiếp tới người
lao động. Trước tác động đó, các nước xã hội dân chủ đã thay đổi để
thích ứng với tình hình khách quan nhằm thoát khỏi khủng hoảng. Lúc
này, họ không ngừng cải tổ, sửa đổi các chính sách, mục tiêu, phương
thức hoạt động của mình, tin tưởng rằng các đảng dân chủ xã hội có thể
-
sẽ phục hồi trở lại.
Tại các nước tư bản, do cơ chế cạnh tranh đã khuyến khích nắm bắt,
làm chủ và ứng dụng thành công các tiến bộ của cuộc cách mạng khoa
học – công nghệ, nền kinh tế và nhiều lĩnh vực khác đã có sự phát triển
mạnh mẽ, nâng cao đời sống của đông đảo nhân dân lao động. Trong
khi đó, ở các nước tư bản, tình thế cách mạng chưa xuất hiện. Nhu cầu
trực tiếp trong xã hội tư bản hiện nay là dân chủ, tiến bộ, hòa bình, bảo
vệ môi trường sinh thái chứ chưa đòi hỏi về một cuộc cách mạng xã hội
để lật đổ chủ nghĩa tư bản. Trước tình hình ấy, những khuynh hướng cải
-
lương, ôn hòa trở nên thực tế và dễ được chấp nhận.
Tại nhiều nước mà các đảng xã hội, đảng xã hội dân chủ cầm quyền
hoặc liên minh nắm quyền đã khá thành công trong các mặt đời sống
kinh tế - chính trị - xã hội. Điều này đã tạo nên sức hút đối với các nhà
lãnh đạo, một bộ phận khá đông những người lao động, nhất là trong
bối cánh chủ nghĩa xã hội hiện thực đang gặp khó khăn. Trong sự vận
động đa chiều và sôi động của đời sống chính trị, kinh tế - xã hội châu
Âu, quá trình nhất thể hóa châu Âu có vị trí đặc biệt quan trọng, ảnh
hưởng trực tiếp đến tất cả các lực lượng chính trị, đảng phái và các tầng
-
lớp dân cư.
Trong phong trào cộng sản quốc tế những năm gần đây, quan hệ giữa
những người cộng sản và những người xã hội dân chủ đã có bước cải
thiện đáng kể. Hai bên đều đã thừa nhận là cần tiếp xúc, đối thoại và
phối hợp với nhau trên nhiều phương diện nhằm giải quyết những vấn
đề mà đời sống quốc tế đặt ra. Sự đối lập hoặc bất hợp tác với nhau sẽ
không có bên nào được lợi. Sự điều chỉnh mạnh mẽ về quan điểm lý
luận, chiến lược, sách lược của các đảng xã hội dân chủ cũng làm cho
2.
Quốc tế xã hội chủ nghĩa giành lại quyền chủ động chính trị.
Hạn chế
Bên cạnh những giá trị tích cực được ghi nhận thì trào lưu xã hội
dân chủ cũng bộc lội những nhược điểm và hạn chế đáng kể, thể hiện ở
những khía cạnh cơ bản sau:
Trong quá trình tìm tòi, sáng tạo mô hình xây dựng thích hợp, một
số người lãnh đạo, một số đảng cộng sản đã xa rời và coi thường những
-
nguyên lý cơ bản của chủ nghĩa Mác – Lenin, như :
Phủ nhận những giá trị xã hội bao gồm chủ nghĩa xã hội hiện thực và
-
những di sản của chủ nghĩa Mác – Lenin.
- Từ bỏ chuyên chính vô sản, từ bỏ vai trò lãnh đạo của đảng cộng sản
Mở rộng dân chủ và các nguyên tắc không có giới hạn đi đến thừa nhận
-
đa nguyên chính trị, đa đảng lãnh đạo.
Phủ nhận nguyên tắc tập trung dân chủ trong sinh hoạt đảng – một
nguyên tắc hết sức cơ bản trong xây dựng đảng của các đảng cộng sản.
Thực tiễn diễn ra ở Liên Xô và Đông Âu cho thấy hướng tới chủ nghĩa
xã hội – dân chủ không phải là lối thoát tốt nhất để khắc phục những
khủng hoảng của chủ nghĩa xã hội.
Sức hấp dẫn do chính sách cải lương mị dân và thỏa hiệp với giai
cấp tư sản của trào lưu dân chủ xã hội vẫn không thể khắc phục được
những hạn chế hết sức cơ bản. Điều này được thể hiện ở những điểm
-
sau :
Các nhà lý luận của chủ nghĩa xã hội - dân chủ thường khẳng định trên
lý thuyết rằng họ hướng tới xây dựng một chế độ xã hội dân chủ, trong
đó có đảm bảo công bằng, tự do, bác ái, phồn vinh và nhân đạo. Nhưng
thực tiễn cho thấy họ vẫn chủ trương duy trì chủ nghĩa tư bản, không
xóa bỏ nó. Những gì chủ nghĩa xã hội dân chủ đã làm chỉ là sự cải cách
-
một cách chắp vá trong khuôn khổ trật tự của chủ nghĩa tư bản.
Ở các nước mà các đảng xã hội dân chủ nắm quyền hoặc tham gia chính
quyền, mặc dù có thực hiện được một số cải cách trong đời sống kinh tế
- chính trị - xã hội, nhưng chỗ dựa vật chất của những cải cách đó đều
nhờ vào sự thỏa hiệp với các nhà tư bản. Vậy nên, những cải cách đó
không có cơ sở để thực hiện một cách lâu dài và triệt để. Trên thực tế,
những người xã hội dân chủ vẫn sống “cộng sinh” với chủ nghĩa tư bản.
-
Cơ sở vật chất vẫn nằm trong tay của chủ nghĩa tư bản.
Những người xã hội dân chủ muốn cải biến chủ nghĩa tư bản, nhưng sự
cải cách này đe dọa trực tiếp tới sự tồn vong của chủ nghĩa tư bản. Họ
cũng không biết các giải pháp thực tiễn, vì họ lệ thuộc vào trật tự kinh
tế xã hội của chủ nghĩa tư bản. Thực tế đã có hàng loạt các quốc gia mà
các đảng xã hội dân chủ nắm chính quyền rồi lại rơi vào tình trạng
khủng hoảng mất ổn định chính trị liên tục. Trong khi chủ nghĩa Mác
khẳng định con đường để đạt được một xã hội công bằng, không có bóc
lột là thông qua con đường đấu tranh giai cấp, làm cách mạng xã hội
chủ nghĩa, thiết lập chuyên chính vô sản để xây dựng xã hội thì những
người xã hội dân chủ chủ trương phương hướng hoạt động của mình
vào việc tiến hành những biện pháp cải cách chế độ tư bản thành chủ
nghĩa xã hội. Đường lối chính trị của họ dựa trên quan điểm phi giai
cấp, phi hệ tư tưởng, chấp nhận đa nguyên chính trị.
Như vậy, những người cộng sản cần giữ thái độ đúng đắn, bình tĩnh
nghiêm túc nghiên cứu, xem xét chủ nghĩa xã hội dân chủ với tinh thần
khách quan, khoa học, đồng thời tăng cường trao đổi, quan hệ hợp tác
có nguyên tắc với các đảng xã hội dân chủ. Trong tình hình hiện nay,
điều đó lại càng cần thiết, có lợi cho sự nghiệp đổi mới, phù hợp với
chủ trương đa dang hóa, đa phương hóa trong quan hệ quốc tế của Đảng
II.
và Nhà nước ta.
Lý luận “Con đường thứ ba”
Những năm 50 của thế kỷ XX, Tuyên ngôn Phranphuoc được xác
định như là cương lĩnh của phong trào xã hội dân chủ với nội dung là
chủ trương thông qua đấu tranh nghị trường, tiến hành cải cách xã hội
để xây dựng chủ nghĩa xã hội trong khuôn khổ chủ nghĩa tư bản. Đó là
chủ nghĩa xã hội dân chủ, là lý luận “con đường thứ ba” – con đường
không cộng sản dẫn dắt các dân tộc tới hòa bình, tự do, dân chủ, công
bằng và nhân đạo.
Về đường lối chính trị, con đường thứ ba của chủ nghĩa xã hội dân
chủ được xây dựng trên nguyên tắc : thực hiện những cải biến trong xã
hội tư bản nhưng không động chạm tới sở hữu tư nhân, tức là vẫn giữ
ổn định cho chế độ đó từ nền tảng quan trọng nhất là nền tảng kinh tế,
tức quan hệ sở hữu tư bản chủ nghĩa.
Vê mặt xã hội, con đường thứ ba chủ trương mở rộng hệ thống
bảo hiểm xã hội nhằm thu hẹp khoảng cách giàu nghèo, bảo đảm đời
sống tối hiểu cho người về hưu, thất nghiệp, đồng thời mở rộng hệ
thống giáo dục, y tế công cộng. Tất cả được giải quyết bởi một nhà
nước hoàn hảo, có vai trò “cứu tinh” cho con người và xã hội.
Từ những năm 90, “con đường thứ ba” đã mang đậm bản sắc của
thời đại mới. Nó khiến cho “con đường thứ ba” truyền thống có những
biến đổi mới.
“ Con đường thứ ba” thực chất là vừa dựa vào nhà nước, vừa dựa
vào kinh tế thị trường và chủ nghĩa tự do mới về kinh tế. Nó chủ trương
thay đổi chính sách phúc lợi nhà nước nhằm giảm gánh nặng ngân sách,
chú trọng tạo ra nhiều việc làm chứ không quá tập trung vào trợ cấp thất
nghiệp.
Tuy nhiên, “con đường thứ ba” hiện đại không phải là một lý
thuyết hoàn chỉnh mà chủ yếu mang tính khuyến nghị, thiếu một hệ
thống các giải pháp cụ thể để thực hiện. Xét về thực chất, đây là sự kết
hợp giữa những giá trị của chủ nghĩa xã hội dân chủ truyền thống với
chủ nghĩa tự do mới. Đồng thời, việc thực hiện nó báo hiệu một thời kỳ
khó khăn mới đối với trào lưu xã hội dân chủ.
“Con đường thứ ba” với ý định vượt lên trên chủ nghĩa xã hội và
chủ nghĩa tư bản là điều viển vông, mơ hồ. Thực chất, nó chỉ có thể trở
về điểm xuất phát ban đầu là chủ nghĩa tư bản chứ không thể dẫn tới
chủ nghĩa xã hội như những người xã hội dân chủ đã xác định.
Thời đại ngày nay đang tiếp tục đặt ra trước các dân tộc những lựa
chọn : hoặc chủ nghĩa tư bản, hoặc chủ nghĩa xã hội. Không có con
đường thứ ba ưu việt và hợp lý hơn vượt lên trên cả hai chế độ xã hội
đó. Thế giới quan và hệ tư tưởng cũng vậy. Do đó, mọi sự hi vọng về
một khả năng trung lập thế giới, mọi nỗ lực để xây dựng một chính
đảng, một phong trào, một chế độ xã hội không cần dựa trên một hệ tư
tưởng nào, có thể giải thế hệ tư tưởng mà vẫn đưa phong trào tới đích
chỉ là hi vọng hão huyền và nỗ lực không tưởng. Lý luận khoa học hiện
đại về chủ nghĩa xã hội không có chỗ cho sự dung nạp những biểu hiện
trung dung, chiết trung như vậy về quan niệm và tư tưởng.
DANH MỤC TÀI LIỆU THAM KHẢO
1. Phạm Minh Sơn (2012),“Các phong trào chính trị xã hội quốc tế”, Khoa
Quan hệ quốc tế, Học viện Báo chí Tuyên Truyền
2. , Hoàng Chí Bảo, Nguyễn Thanh Tuấn, Nguyễn Lam Sơn,“CNXH dân
chủ: Huyền thoại và bị kịch”
3. Hồ Châu, "Con đường thứ Ba" hiện tượng chính trị mới ở cácnước
phương Tây những năm 90, Tạp chí Nghiên cứu châu Âu
4. Thái Văn Long, “Trào lưu xã hội dân chủ hiện nay và ảnh hưởng của nó
đối với CNXH hiện thực”, Tạp chí Lý luận chính trị
5. Trần Nhâm (1991), “Về trào lưu xã hội dân chủ hiện đại", NXB Sự Thật.
6. Tống Đức Thảo, Bùi Việt Hương ( 2011) “Trào lưu xã hội dân chủ ở một
số nước phương Tây hiện nay”, NXB Chính trị quốc gia
7. Trình Mưu, Nguyễn Xuân Sơn, Nguyễn Thế Lực, Nguyễn Hoàng Giáp
(2006), “ Tập bài giảng Quan hệ quốc tế”, NXB Lý luận chính trị