Tải bản đầy đủ (.doc) (10 trang)

tiểu luận cao học công tác biên tập sách lý luận, chính trị

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (113.71 KB, 10 trang )

PHẦN MỞ ĐẦU

Văn hóa tư tưởng và kinh tế là hai mặt tồn tại song hành, thống nhất
biện chứng tạo nên bản chất của Xuất bản. Xuất bản vì sự tiến bộ xã hội và
phục vụ cho mục đích đó, xuất bản phải hoạt động trên nguyên tắc kinh
doanh. Hơn nữa nhân loại bước vào một nền văn minh thông tin tri thức,
khoa học và công nghệ đã và đang trở thành lực lượng sản xuất trực tiếp
thì những tư tưởng, lý luận có thể chuyển hóa thành lực lượng vật chất khi
nó được thâm nhập vào quần chúng với tư cách là thế giới quan, nhân sinh
quan, phương pháp luận và những giá trị văn hóa. Vì vậy xuất bản tất yếu
sẽ phải mang cả hai thuộc tính đó. Trong cơ cấu sản phẩm của hoạt động
xuất bản, thì sản phẩm đầu tiên, sản phẩm xuất phát ngay từ buổi bình
minh của hoạt động xuất bản chính là sách phục vụ cho mục đích chính trị,
vì vậy có thể coi sách lý luận, chính trị là “trung tâm” trong tổng thể cơ
cấu sản phẩm của hoạt động xuất bản của bất cứ một quốc gia nào. Vì thế
có thể nói đặc trưng của hoạt động xuất bản nói chung và của mảng sách lý
luận, chính trị nói riêng đều hàm chứa, tóm lược trong tính hai mặt thuộc
tính: tính tư tưởng văn hóa-tính kinh tế; sản xuất tinh thần và sản xuất vật
chất; hay giá trị tinh thần và giá trị vật chất.

1


PHẦN NỘI DUNG

I. ĐẶC TRƯNG CỦA SÁCH LÝ LUẬN CHÍNH TRỊ
1. Khái niệm sách lý luận, chính trị.
Sách lý luận, chính trị là loại sách trực tiếp phản ánh, truyền bá hệ tư
tưởng của một giai cấp, đường lối, chính sách của nhà nước, các chính
đảng, các tổ chức chính trị nhằm thực hiện và bảo vệ những lợi ích chính
trị nhằm thực hiện và bảo vệ những lợi ích chính trị của một giai cấp, một


dân tộc. Vì vậy nội dung truyền tải của sách lý luận, chính trị là những
thông tin về lý luận, chính trị, tức là những tri thức khoa học về lý luận,
chính trị.
2. Đặc trưng của sách lý luận, chính trị
2.1. Đặc trưng về phương thức nhận thức, phản ánh
Sách lý luận, chính trị nhận thức và phản ánh hiện thực theo con
đường tư duy logic, tác động chủ yếu vào lý trí bạn đọc.
Trong quá trình nhận thức, tư duy logic thường bỏ qua những chi
tiết cụ thể cảm tính, ngẫu nhiên hướng tới những nét khái quát, những
thuộc tính bản chất của sự vật, hiện tượng. Tư duy hình tượng nắm bắt
thực tại một cách chỉnh thể, toàn khối, sinh động và cảm tính như nó vốn
đang tồn tại trong hiện thực nhưng được trừu tượng hóa, khái quát hóa,
đem chia cắt sự vật hiện tượng hoặc cố định lại để phân tích, tổng hợp và
khái quát lại để tìm ra bản chất, quy luật.
Tư duy logic phản ánh bản chất, quy luật của sự vật, hiện tượng
bằng hệ thống các khái niệm, phạm trù, những phân tích và phán đoán
chính luận. Tư duy logic đi từ cái cụ thể đến những khái quát trừu tượng,
lấy cái cụ thể để chứng minh cái trừu tượng
Tư duy logic tác động chủ yếu vào lý trí người đọc, đòi hỏi ở bạn
đọc phải có một trình độ tri thức nhất định mới tiếp thu được.
2


2.2. Đặc trưng về tính chất chính trị trực tiếp
Sách lý luận, chính trị luôn mang tính chất chính trị trực tiếp. Nội
dung đề cập các quan điểm, các vấn đề, các giải pháp chính trị, phục vụ
trực tiếp cho cuộc đấu tranh chính trị tư tưởng. Tính chất chính trị trực tiếp
còn được thể hiện trong tất cả các khâu biên tập, xuất bản, và trong toàn bộ
nội dung, hình thức tổ chức quá trình biên tập, xuất bản. Mục đích loại
sách này nhằm giáo dục ý thức chính trị tự giác cho quần chúng cách

mạng. Nội dung của sách lý luận, chính trị là trực tiếp trình bày hệ tư
tưởng giai cấp, đường lối, chính sách của Đảng và Nhà nước, đồng thời
vận dụng những quan điểm chính trị chính thống để giải quyết các vấn đề
thực tiễn.
2.3. Đặc trưng về tính chất rộng lớn, đa dạng và phức tạp của đối
tượng phục vụ.
Sách lý luận, chính trị có đối tượng rộng, phục vụ mọi tầng lớp quần
chúng trong xã hội. Tuy nhiên đối tượng phục vụ càng đa dạng thì việc
phục vụ có hiệu quả càng khó khăn, phức tạp. Quần chúng không phải là
một khối đồng nhất về trình độ văn hóa, chính trị, tâm lý, tình cảm. Để
phục vụ cho mọi tầng lớp quần chúng, sách lý luận chính trị phải có nhiều
loại hình xuất bản phẩm, nhiều mảng sách thích hợp với nhu cầu của mỗi
đối tượng.
2.4. Đặc trưng về ngôn ngữ trong sách lý luận, chính trị
Đặc trưng ngôn ngữ của sách lý luận, chính trị biểu hiện trên nhiều
phương diện, nhiều cấp độ ngôn ngữ văn bản. Xét ở bình diện ngôn ngữ
chức năng, sách lý luận, chính trị sử dụng nhiều loại phong cách trong xây
dựng văn bản nhưng chủ yếu là phong cách chính luận, phong cách khoa
học, phong cách hành chính công vụ.
Phong cách khoa học thường được dùng trong mảng sách lý luận
Mác-Lênin như triết học, kinh tế chính trị học, chủ nghĩa xã hội khoa học,
các công trình nghiên cứu lý luận, chính trị học, sách giáo khoa lý luận

3


chính trị các cấp. Đặc điểm chủ yếu của phong cách khoa học trong sách lý
luận chính trị là tính trừu tượng, khái quát cao, tính logic nghiêm ngặt và
chính xác, khách quan.
Phong cách hành chính công vụ được dùng nhiều trong mảng sách

văn kiện của Đảng, Nhà nước và các tổ chức chính trị - xã hội khác. Đặc
điểm ngôn ngữ của phong cách này là tính chính xác, minh bạch, nghiêm
túc, khách quan, đồng thời lại mang tính khuôn mẫu, quy phạm, chặt chẽ,
một nghĩa.
Phong cách chính luận vừa mang các yếu tố chuẩn mực của phong
cách khoa học như lập luận, chứng minh chặt chẽ, lại vừa mang các yếu tố
của ngôn ngữ nghệ thuật là bộc lộ thái độ bình giá, cảm xúc của tác giả,
các sắc thái tu từ làm tăng sức biểu cảm của lời nói, cách so sánh hình ảnh.
Vì vậy nó được dùng trong các mảng sách lý luận chính trị để tuyên
truyền, cổ động như các bài bình luận, xã luận, lời kêu gọi, diễn văn, tuyên
ngôn, báo cáo chính trị…
II. ĐẶC TRƯNG XUẤT BẢN SÁCH LÝ LUẬN, CHÍNH TRỊ
1. Tính sự nghiệp thống nhất với tính dịch vụ
Xuất bản là một bộ phận thiết yếu của đời sống văn hóa. Xuất bản là
công cụ, là thiết chế để xây dựng đời sống văn hóa tinh thần, xây dựng nền
văn hóa dân tộc. Đó chính là tính sự nghiệp của xuất bản. Song song với
tính sự nghiệp xuất bản lại tạo ra những giá trị kinh tế nhất định, có tính
chất dịch vụ kinh tế, đặc biệt trong cơ chế thị trường hiện nay thì tính chất
này ngày càng được thể hiện rõ nét.
Tính chất sự nghiệp của công tác xuất bản là sản xuất các sản phẩm
có giá trị tinh thần phục vụ xã hội, còn tính chất dịch vụ kinh tế là bắt
nguồn từ khâu sản xuất vật chất và lưu thông hàng hóa của nó. Thông qua
việc nhân bản hàng loạt trong khâu sản xuất vật chất và tiêu thụ rộng rãi
trên thị trường có thể tạo ra giá trị kinh tế của xuất bản. Tính sự nghiệp

4


phối hợp với tính dịch vụ, thống nhất ở trong chỉnh thể của công tác xuất
bản. Tính sự nghiệp không thể trực tiếp tạo ra giá trị nhưng tạo ra hạt nhân

tinh thần của giá trị sử dụng sản phẩm. Tính dịch vụ kinh tế chưa trực tiếp
tham gia vào hoạt động sáng tạo của sản phẩm tinh thần nhưng nó tạo điều
kiện thuận lợi để những sản phẩm tinh thần được phổ biến rộng rãi và trực
tiếp thực hiện mục đích chính trị xã hội cao cả. Tính chất dịch vụ bao gồm
cả dịch vụ kinh tế vì doanh thu và lợi nhuận và tính chất dịch vụ công, lợi
ích công cho công đồng xã hội.
2. Sự thống nhất giữa sản xuất hàng hóa và sản xuất phi hàng
hóa
Một sản phẩm được coi là hàng hóa khi nó đáp ứng điều kiện: sản
phẩm ra đời là lao động kết tinh, đáp ứng nhu cầu tiêu dùng và mang lại
hiệu quả cho người tiêu dùng (giá trị và giá trị sử dụng) và được trao đổi
trên thị trường. Điều đó chứng tỏ rằng sản phẩm của hoạt động xuất bản
cũng là một hàng hóa, bởi nó là lao động kết tinh của nhiều người, có ích
đối với người sử dụng, hơn nữa tính hữu ích được nhân lên nhiều lần trong
thời gian dài, có thể nói là vĩnh cửu cùng thời gian.
Ở Việt Nam để đi đến nhận thức sách là một hàng hóa là cả một quá
trình dài, nó gắn liền với đặc điểm, điều kiện kinh tế chính trị của xã hội
Việt Nam qua các thời kỳ. Trước cách mạng tháng 8, tồn tại song song hai
dòng xuất bản, một dòng xuất bản thuộc Pháp thì hoạt động xuất bản hoàn
toàn mang tính chất sản xuất kinh doanh, những nhà quản lý hiệu sách, nhà
in đều là những ông chủ, và ngay từ đầu sách đã được coi là một hàng hóa.
Nhưng đối với dòng xuất bản cách mạng, sách được xem là công cụ tham
gia vào hoạt động cách mạng, sách chưa được xem là hàng hóa, nhiệm vụ
cách mạng được đặt lên hàng đầu, việc phát hành và làm sách hoàn toàn do
kinh phí của Đảng bao cấp hoàn toàn và được phát hành rộng rãi trong
quần chúng, nhiệm vụ kinh tế lúc này chưa được đặt ra. Khi giành được

5



chính quyền cũng là thời gian mà Đảng và Nhà nước quan tâm thành lập
một loạt các nhà xuất bản như Nhà xuất bản Lao động, Nhà xuất bản Sự
thật, Nhà xuất bản Văn học kháng chiến…, lúc này đất nước vẫn còn bị
chia cắt, nhiệm vụ cách mạng vẫn được đặt lên hàng đầu (thống nhất đất
nước và phát triển hậu phương). Năm 1973 là thời kỳ Nhà nước có kế
hoạch chuyển đổi hình thức làm ăn của các nhà xuất bản: hạch toán kế
toán trong các nhà xuất bản, nhưng mới chỉ là hạch toán thu chi chứ chưa
phải là hạch toán kinh doanh. Tiếp đó chuyển sang cơ chế một giá, tự cân
đối thu chi, Nhà nước không bù lỗ, chỉ bù giá hỗ trợ đầu vào, đầu ra Nhà
nước khống chế khung giá. Năm 1993 thực hiện chủ trương tính đúng, tính
đủ vào giá thành xuất bản phẩm, nên thời kỳ này là thời kỳ rất khó khăn
của các nhà xuất bản, lúc này thì giá thị trường bắt đầu dần được thể hiện
rõ nét, và cho đến hiện nay thì hoạt động xuất bản phải hoạt động theo cơ
chế thị trường là một tất yếu khách quan, sản phẩm của hoạt động xuất bản
tất yếu là hàng hóa. Tuy nhiên hàng hóa xuất bản phẩm có giá trị và giá trị
sử dụng khác xa so với các hàng hóa thông thường khác, do đó nó được
cho là một sản phẩm kép, vừa là sản phẩm vật chất vừa là sản phẩm tinh
thần, hơn nữa tính chất hàng hóa ở mỗi loại sản phẩm không hoàn toàn
giống nhau, và giá trị, giá trị sử dụng sản phẩm của mỗi đối tượng sử dụng
cũng không giống nhau. Cũng chính tiêu chí đặc biệt này mà cho đến nay
vẫn có một số quan điểm của các nhà xuất bản và các nhà làm sách không
thống nhất khi cho rằng mảng sách lý luận, chính trị không phải là hàng
hóa, kinh doanh, đặc biệt là các loại sách văn kiện, sách lý luận kinh điển,
sách lãnh tụ…
Để trả lời cho quan điểm này trong cơ chế thị trường hiện nay có thể
xét trên điều kiện thực tế, so sánh phương thức sản xuất sản phẩm của hoạt
động xuất bản ở phương thức sản xuất tư bản chủ nghĩa, trong các nước
phương Tây với phương thức sản xuất xã hội chủ nghĩa, đặc biệt trong
điều kiện hoàn cảnh Việt Nam: có thể thấy rằng quy luật kinh tế chi phối


6


mạnh mẽ tới hoạt động xuất bản, tất cả mọi sản phẩm đều trở thành hàng
hóa và hoạt động xuất bản là hoạt động sản xuất hàng hóa, coi xuất bản là
một ngành kinh doanh đơn thuần, mục tiêu trọng tâm là lợi nhuận. Ngày
ngay công nghệ thông tin phát triển vượt bậc đã hỗ trợ rất lớn cho hoạt
động tìm kiếm lợi nhuận, gia tăng giá trị thương mại, giá trị thăng dư, tích
lũy tư bản chủ nghĩa. Còn đối với xuất bản Việt Nam, hoạt động xuất bản
vì sự tiến bộ xã hội và mục tiêu chính trị xã hội được đặt lên hàng đầu,
sách lý luận chính trị hiện nay một phần cũng được coi là hàng hóa, nhưng
nó có giá trị đặc biệt, phục vụ chính trị vẫn là trọng tâm, là lợi ích lâu dài.
3. Đặc trưng về mặt tổ chức và mô hình tổ chức hoạt động
Thị trường sách Việt Nam bắt đầu được hình thành từ khi chuyển
đổi cơ chế kinh tế sau năm 1986, với nhiều thành phần tham gia hoạt động
kinh doanh xuất bản phẩm. Trước đây, với đa số các nhà xuất bản Việt
Nam đều phát triển từ bối cảnh thị trường rất đặt thù của tình hình kinh tế
và chính trị Việt Nam, đi từ một thị trường kinh tế kế hoạch tập trung, nơi
mà hoạt động kinh tế của các nhà xuất bản được phân bổ theo kế hoạch từ
trên xuống chứ không theo nguyên tắc cung cầu, và thị trường được phân
chia rõ ràng chứ không có yếu tố cạnh tranh, từ chỗ chỉ tập trung sản xuất
ra sản phẩm tốt nhất, giá rẻ, giờ đây các nhà xuất bản đã phải dịch chuyển
sự chú tâm ra thị trường, bán những thứ mà khách hàng cần, chứ không
phải là bán cái mà mình có thể sản xuất như trước đây. Và để làm được
việc đó các nhà xuất bản cần phải hiểu nhu cầu của khách hàng tốt hơn,
làm sao để khách hàng tin dùng và lựa chọn mua sản phẩm của mình hơn
là của các đối thủ cạnh tranh; vì thế họ cần truyền thông tốt hơn về sản
phẩm của mình, và cần xây dựng quan hệ gắn bó lâu dài giữa thương hiệu
với nhóm đối tượng khách hàng mục tiêu.
Theo Báo cáo kết quả sản xuất kinh doanh của Ngành Xuất bản,

tính đến thời điểm hiện tại, toàn ngành hiện có 60 nhà xuất bản, trong đó

7


có 38 đơn vị hoạt động sự nghiệp, 15 đơn vị hoạt động theo hình thức
doanh nghiệp, 01 đơn vị là Công ty mẹ- công ty con, 06 đơn vị là Công ty
TNHH một thành viên- 100% vốn Nhà nước. Theo kế hoạch, đến năm
2010, tất cả các NXB sẽ phải chuyển đổi sang mô hình công ty TNHH NN
một thành viên theo Luật Doanh nghiệp.
Các đơn vị hoạt động theo hình thức kinh doanh có điều kiện là các
đơn vị sự nghiệp có thu, bao gồm loại hình sự nghiệp tự bảo đảm một phần
chi phí, và loại hình hoạt động theo loại hình sự nghiệp tự trang trải 100%
chi phí thường xuyên.
Loại hình kinh doanh có điều kiện và loại hình hoạt động của Công
ty TNHH một thành viên- 100% vốn Nhà nước, đều có những nguồn thu
giống nhau như: thu từ hoạt động sản xuất và dịch vụ, thu từ dự án các loại
đề tài được Nhà nước đầu tư, nguồn tài trợ từ các tổ chức nước ngoài, các
tổ chức phi chính phủ, thu từ nguồn huy động vốn từ các tổ chức xã
hội….Riêng đối với loại hình sự nghiệp tự bảo đảm một phần chi phí thì có
nguồn thu thêm từ ngân sách của Nhà nước được cấp một phần.
Trước tình hình chuyển đổi mô hình kinh doanh trong thời kỳ mới là
một thách thức không nhỏ với các nhà xuất bản, khi mà số vốn hoạt động
nhỏ, kinh doanh kém hiệu quả, vẫn phải chịu các loại thuế suất như các
doanh nghiệp kinh doanh đơn thuần. Thực tế đó sẽ dẫn đến tình trạng
thương mại hóa, thị trường hóa, các nhà xuất bản sẽ phải gồng mình đặt
mục tiêu lợi nhuận lên trên hiệu quả chính trị, xã hội, và sách lý luận chính
trị sẽ ít được quan tâm vì mảng sách này lợi nhuận không cao, vòng quay
vốn chậm. Vì vậy mảng sách này trong cơ chế thị trường hiện nay vẫn rất
cần có sự quan tâm hỗ trợ của Nhà nước để đảm bảo cho sự ổn định bền

vững chính trị, nâng cao trình độ dân trí và ý thức tự giác chính trị, niềm
tin chính trị cho quần chúng nhân dân.

8


4. Sự thống nhất giữa lợi ích chính trị tư tưởng và lợi ích kinh tế
Với tất cả những tiêu chí đặc trưng trên đã có thể khẳng định hoạt
động xuất bản là sự thống nhất giữa lợi ích chính trị tư tưởng và lợi ích
kinh tế. Xuất bản phẩm vừa là sản phẩm tinh thần, vừa là sản phẩm vật
chất. Đặc điểm sản phẩm tinh thần của xuất bản phẩm quyết định tính văn
hóa của hoạt động xuất bản, đặc điểm hàng hóa quyết định tính kinh tế của
hoạt động xuất bản. Trong nền kinh tế thị trường, các quy luật kinh tế đặc
thù như quy luật giá trị, quy luật cung - cầu, quy luật cạnh tranh… ngày
càng phát huy tác dụng mạnh mẽ đối với mọi chủ thể tham gia vào đời
sống kinh tế và hoạt động sản xuất kinh doanh, lĩnh vực xuất bản cũng
không nằm ngoài sự vận động đó.. muốn quản lý có hiệu quả cao, các nhà
xuất bản cũng phải nắm được các quy luật có liên quan đến hoạt động của
hệ thống, biết vận dụng các quy luật vào điều kiện cụ thể của hệ thống.
Quy luật là mối liên hệ bản chất, tất nhiên phổ biến, bền vững, lặp đi lặp
lại của các hiện tượng và sự vật trong những điều kiện nhất định. Vì vậy
nắm vững được sự tác động của các quy luật, phân tích được đâu là điểm
thuận lợi và cơ hội, đâu là những yếu điểm, khó khăn để có được định
hướng tốt nhất đem lại thành công cho các đơn vị xuất bản trong nền kinh
tế thị trường hiện nay.
Hoạt động xuất bản mang tính chất kinh tế, tuy nhiên thì lợi ích kinh
tế không phải là mục đích tối cao của hoạt động xuất bản nước ta, lợi ích
kinh tế chỉ là phương tiện, là công cụ, là đòn bẩy để cho hoạt động xuất
bản đạt được mục tiêu cao nhất cho sự tiến bộ của xã hội và thực hiện mục
tiêu chính trị xã hội. Điều đó đã chứng tỏ tính chính trị tư tưởng và tính

kinh tế không thể tách rời, nó tồn tại song hành, thống nhất biện chứng
trong hoạt động xuất bản.

9


PHẦN KẾT LUẬN

Hoạt động sách lý luận, chính trị là tâm điểm, là nhiệm vụ trọng tâm
trong mục tiêu cao cả của hoạt động xuất bản sách Việt Nam hiện nay.
Thị trường sách Việt Nam bắt đầu được hình thành từ khi chuyển
đổi cớ chế kinh tế sau năm 1986. Hiện nay trong điều kiện mới, một thị
trường cạnh tranh ngày càng khốc liệt, sách trở thành hàng hóa đặc biệt,
lượng cung thường lớn hơn so với lượng cầu hàng hóa. Thị trường là điều
kiện tất yếu của sản xuất kinh doanh xuất bản phẩm, thị trường là khâu
trung gian, là cầu nối giữa nhà sản xuất và người sử dụng xuất bản phẩm,
và góp phần tích cực vào việc tái sản xuất mở rộng hàng hóa. Quá trình
hoạt động của thị trường là quá trình phản ánh những thông tin chính xác
nhất và khách quan nhất về sản xuất kinh doanh cũng như nhu cầu xuất
bản phẩm. Nói cách khác, thị trường luôn luôn phản ánh khách quan
những thông tin về tổng cung và tổng cầu, về cơ cấu của cung –cầu, giá cả
và đối thủ cạnh tranh, những tác động cũng như xu hướng phát triển của
nó. Sách chính trị là mảng sách đặc biệt trong tổng thể cơ cấu sách của
hoạt động xuất bản Việt Nam, trước sự vận động của thị trường, loại sách
này cũng không nằm ngoài sự vận động chung đó, song nó vẫn có vị trí
đặc biệt hơn các loại mảng sách khác. Vì vậy mảng sách này là biểu hiện
đặc trưng nhất, rõ nét nhất để xuất bản thuộc lĩnh vực văn hóa tư tưởng.
Do đó lợi ích kinh tế không phải là mục đích tối cao của hoạt động xuất
bản nước ta, lợi ích kinh tế chỉ là phương tiện, là công cụ, là đòn bẩy để
hoạt động xuất bản đạt tới mục tiêu cao nhất cho sự tiến bộ của xã hội và

thực hiện mục tiêu chính trị xã hội. Chính vì thế hoạt động xuất bản sách lý
luận chính trị không chạy theo mọi nhu cầu của khách hàng mà phải có
trách nhiệm định hướng nhu cầu và thị hiếu hưởng thụ các giá trị tinh thần
của công chúng, kích cầu theo hướng lành mạnh hóa, tiến bộ.

10



×